Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chọn lọc hay nhất (25 bài mẫu)

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lớp 12 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 25 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Mục lục

Dàn ý Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chi tiết

Dàn ý Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 1

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.

– Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích và trích dẫn đoạn thơ trên.

II. Thân bài

1. Khái quát chung

– Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết nên bài thơ Tây Tiến.

– Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả.

– Vị trí đoạn thơ: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Đoạn thơ đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến với sự hy sinh bi tráng của họ.

2. Những nội dung cần phân tích

– Chân dung: Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không hề né tránh hiện thực, và điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt của người lính Tây Tiến.

– Tâm hồn hào hoa, lãng mạn, và kiêu hùng: Qua các ngôn từ thơ “dữ oai hùm”, “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” ta thấy được khí thế và quyết tâm của người lính Tây Tiến.

– Lí tưởng cao đẹp: Không trốn tránh hiện thực “Áo bào thay chiếu anh về đất”, tác giả đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên.

3. Nghệ thuật

– Bút pháp tả thực khắc họa chân dung người lính với hiện thực gian khổ nơi chiến trường; dùng từ Hán – Việt cổ kính để tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người đã khuất; nói giảm để thể hiện lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ trong chiến đấu, khắc họa sự hi sinh, nhấn mạnh sự mất mát nơi chiến trường

– Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, đôi lúc lắng xuống, cảm xúc dạt dào, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng đài bất tử về người lính không thể nào quên.

III. Kết bài

  • Khẳng định, đánh giá về những câu thơ trên.
  • Nêu suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về hình ảnh người lính Tây Tiến được thể hiện qua đoạn thơ trên.

Dàn ý Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 2

I. Mở bài

Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến: Quang Dũng là một nhà thơ đa tài. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Tây Tiến.

Dẫn dắt giới thiệu đến nội dung cần phân tích: Đến với khổ thơ thứ ba, người đọc đã thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy dũng cảm nhưng cũng thật thơ mộng.

II. Thân bài

1. Khái quát chung về khổ thơ

– Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết bài thơ này.

– Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả.

– Vị trí đoạn thơ: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Đoạn thơ đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến với sự hy sinh bi tráng của họ.

2. Cảm nhận về khổ 3

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

– Khổ ba đã khắc họa cho người đọc thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.

– Họ đã sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.

– Những người lính hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.

– Đặc biệt nhất là tinh thần bi tráng thấy được qua sự hy sinh của người lính:

  • Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.
  • Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
  • Họ coi cái chết tựa lông hồng. sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.
  • “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”: Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.
  • Hàng loạt từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành…” gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.

=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.

III. Kết bài

Khái quát lại về hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến, cảm nhận chung của người viết về khổ thơ thứ ba.

25 bài mẫu Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 1

“Tây Tiến” của Quang Dũng là một trong số những bài thơ hay viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đến với khổ thơ thứ ba của bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh chân dung người lính vô cùng chân thực:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Ở bốn câu thơ đầu, hình ảnh người lính được nhà thơ xây dựng với nét đẹp vừa hiên ngang mà cũng vừa thơ mộng. Chân dung của họ được nhà thơ Quang Dũng khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lạ là “không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Thế mới thấy tâm thế luôn sẵn sàng chiến đấu của họ cao đến nhường nào.

Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu. Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn ấy mà các anh mất đi tinh thần lạc quan. Các anh đã lựa chọn chủ động đối mặt với khó khăn, coi đó giống như là sức mạnh để tiếp tục cuộc hành quân của mình. Tuy trong gian khổ mà vẫn hiên ngang, bất khuất.

Nhưng họ không phải chỉ là những con người khô khan mà cũng rất đỗi mơ mộng. Những người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi – vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến. Quả là cái nhìn phiến diện một thời.

Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả sự hy sinh anh dũng của những người lính. Biện pháp tu từ đảo ngữ “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ”. Cùng với từ láy “rải rác” kết hợp các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” khiến cho giọng thơ trở nên trang trọng hơn. Phải hiểu rằng đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Những người lính hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ đã lên đường chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập của dân tộc. Cho dù có phải đối mặt với cái chết, các anh vẫn nguyện dâng hiến hết tuổi thanh xuân cho tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ giống như một lời thề nguyện: “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” – đêm hết tuổi xuân thậm chí là tính mạng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi khi họ ra đi “áo bào thay chiếu anh về đất” – hình ảnh “áo bào” có thể được hiểu là tấm áo khoác bên ngoài của những người lính. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng – đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Hình ảnh “áo báo” đã bất tử hóa cái chết của người lính. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.

Quả là Quang Dũng đã xây dựng được một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa chân thực vừa lãng mạn.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 2

Đến với Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng mà thơ mộng. Đặc biệt hình ảnh người lính hiện lên qua khổ thơ thứ ba đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bài thơ được sáng tác khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết bài thơ này. Nhà thơ đã khắc họa người lính với hiện thực đầy khốc liệt:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Người lính sống nơi chiến trường khốc liệt – thiếu thốn mọi điều. Nhưng họ vẫn chủ động đối mặt với những khó khăn đó. “Không mọc tóc” cho thấy một sự kiên quyết – người lính chủ động cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt. Nhưng hình ảnh này còn có thể được hiểu khi gắn với thực tế cuộc sống của người lính tại rừng Trường Sơn lúc bấy giờ. Hóa chất của kẻ thù đã khiến tóc của họ bị rụng dần. Thế mới thấy, Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Tiếp đến là hình ảnh “Quân xanh màu lá dữ oai hùng” – có thể hiểu đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang giúp người lính hành quân trong rừng. Nhưng nếu hiểu đó là màu xanh xao trên khuôn mặt của người lính bởi cơn sốt rét rừng thì mới thấy được sự khó khăn của họ. Không chỉ riêng Quang Dũng, mà Tố Hữu cũng đã từng khắc họa hình ảnh đó:

“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”

Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về

“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Nhưng khác là ở đây, người lính Tây Tiến nhớ đang nhớ về quê hương của mình.

Nhà thơ Quang Dũng cũng không né tránh sự hy sinh của người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Nếu ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, thì người lính Tây Tiến lại l “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.

Có thể khẳng định rằng, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” là một khổ thơ hay. Hình ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, giúp bạn đọc hiểu hơn về cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc, cũng như tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 3

Quang Dũng là một nhà thơ đa tài với nhiều tác phẩm nổi bật. Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, đặc biệt là khi đọc khổ thơ thứ ba:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đoàn quân Tây Tiến trước hết hiện lên qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Cụm từ “không mọc tóc” cho thấy sự chủ động của người lính. Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Họ chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống nơi chiến trường. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh đoàn binh không mọc tóc còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù được hiểu theo cách nào, chúng ta vẫn thấy được sự khó khăn, gian khổ mà người lính Tây Tiến đã trải qua.

Nhưng không chỉ dũng cảm, Quang Dũng còn cho thấy họ là những lính lãng mạn, hào hoa. Xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản, người lính Tây Tiến xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Với hình ảnh này, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.

Nhà thơ tiếp tục khắc họa hình ảnh đoàn quân Tây Tiến qua sự hy sinh. Việc sử dụng biện pháp đảo ngữ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và các từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Ở đây không còn chỉ là một cái chết, mà là rất nhiều cái chết. Chiến trường là nấm mồ chung của biết bao con người. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được. Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng họ nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng – đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Đặc biệt nhất là câu thơ cuối cùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã – con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt. Quả là khi đọc đến những câu thơ này, mỗi người đều sẽ cảm thấy thật xúc động.

Khổ thơ thứ ba đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng chân thực. Người đọc qua đây hiểu thêm về sự khốc liệt nơi chiến trường, cũng như tinh thần lạc quan của người lính.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 4

“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Đến với khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đầu tiên, chân dung của người lính Tây Tiến được khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” – một hình ảnh rất thật. Bởi trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ở nơi chiến trường đầy những bom đạn, hóa chất của kẻ thù đã khiến cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Kỳ lạ là cách nói “không mọc tóc” đã thể hiện được tâm thế chủ động của người lính. Họ đã lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Một hình ảnh rất độc đáo nữa đó là “Quân xanh màu lá dữ oai hùng”. Màu xanh ở đây có thể hiểu là của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Nhưng cũng có thể đó là khuôn mặt xanh xao của người lính trước những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Dù trong chiến tranh, khó khăn là vật nhưng vẫn không làm mất đi tinh thần lạc quan của người lính.

Tiếp đến, Quang Dũng đã cho thấy một tầm hồn mơ mộng của người lính Tây Tiến. Những người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi – vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gửi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Khi đọc câu thơ này của Quang Dũng, nhiều nhà nghiên cứu văn học đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhận xét như vậy có phần còn phiến diện, một chiều.

Bất kì một trận chiến nào cũng đều có mất mát, hy sinh. Nhưng sự hy sinh của họ lại được Quang Dũng khắc họa thật hào hùng. Từ láy “rải rác” kết hợp với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng hơn. Câu thơ giúp người đọc hình dung được đó không chỉ là một cái chết mà rất nhiều cái chết. Với lời khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, chúng ta đã thấy được tinh thần của một thế hệ trẻ Việt Nam bấy giờ. Dù tuổi đời còn trẻ, nhưng vẫn quyết ra đi để bảo vệ tổ quốc – “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Tiếp đến là hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh. Những người đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn cất. Cách nói “về đất” là nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh. Sự hy sinh của người lính Tây Tiến đã khiến cho thiên nhiên vạn vật cũng phải khóc thương

Như vậy, Quang Dũng đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về hình ảnh người lính Tây Tiến với những nét đẹp tiêu biểu. Khổ thơ thứ ba đã đem đến cho người đọc ấn tượng sâu sắc.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 5

Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc… Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…

Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Lúc bấy giờ, ngoài Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, đại đội trưởng – nhạc sĩ Như Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những chàng trai Hà Thành còn rất trẻ. Binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Nội (các trường: Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang…). Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm tận máu, tận hồn, là một chàng trai đa tài (làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc…), lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại..

Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc.

Rồi “Đồng chí” của Chính Hữu, “Cá nước của Tố Hữu, đều miêu tả người lính “chân quê”:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.

(Đồng chí, Chính Hữu)

Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến.

Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh “đoàn binh không tóc” và “dữ oai hùm” là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo” mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

“Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá – đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.

Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”. Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).

Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay.

Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng” thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt“, “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!

Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ” gợi cảm giác buồn thầm lặng – sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”.

Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.

Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.

Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán – Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.

Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 6

“Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường.

Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ “Tây Tiến” này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ 3 trong bài “Tây Tiến” đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

(…) Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng học vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù. Nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may”?.. Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “Dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

“Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”

Viết về “mộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bỗ trợ, tô đậm chân dung người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo về độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thưở ấy:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác nước sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên nhưng câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

“Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!”

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 7

Nhắc tới thơ văn trong kháng chiến, chúng ta không thể không nhắc tới những nhà văn nhà thơ như Tố Hữu, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, … và có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc tới nhà thơ Quang Dũng. Ông là một người thi sĩ đa tài, vừa viết thơ, vừa vẽ tranh, lại có thể sáng tác kịch. Trong sự nghiệp thơ văn của mình, tác phẩm ông để lại không ít nhưng nổi tiếng nhất có lẽ chính là tác phẩm Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng với miền Tây Bắc thân thương, với đồng đội của mình. Bài thơ đã làm nổi bật lên một hồn thơ lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt đoạn thơ khắc họa hình tượng người lính vô cùng đặc sắc:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ đơn vị, đồng đội của mình. Chính trong nỗi nhớ dạt dào ấy, ông đã khắc họa hình ảnh những người lính Tây Tiến với những nét vẽ thật đẹp vừa hào hùng lại vừa lãng mạn.

Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc là hình tượng người lính oai hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Đoàn binh Tây Tiến là đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, đánh chặn các đợt tiến công biên giới Việt – Lào và Quang Dũng chính là đội trưởng của đoàn quân ấy. Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ của núi rừng, vẻ đẹp của người lính cụ Hồ hiện lên thật bi tráng. Không phải những đoàn quân với những người lính khỏe mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh của tuổi trẻ, đoàn quân của Quang Dũng hiện lên thật kì dị lạ thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ măng nhưng ai cũng “không mọc tóc”. Vì đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến vậy? Phải chăng đây là kết quả của những cơn đói, cơn khát, của những trận sốt rét khủng khiếp đã biến những người lính trẻ tuổi thành cả một “đoàn binh không mọc tóc” như vậy? Ngoại hình tiều tụy, ốm yếu, đầu trọc, da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự bi thương. Hình ảnh ấy tuy có gân guốc thế nhưng đó lại là cái hiện thực – một hiện thực thật trần trụi. Các chiến sĩ Tây Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, nơi rừng thiêng nước độc, nơi ấy có những trận sốt rét đến kinh người, và cả những ngày hành quân đói rét vất vả nữa. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính với những trận sốt rét mà vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thơ của Chính Hữu:

“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”

Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn ở một phần nào đó. Phải chăng là những mái tóc còn xanh chẳng còn nữa, những người lính trở thành cả “đoàn binh không mọc tóc”? Đoàn quân đang trải qua những gian khổ, khó khăn, cản bước những bước tiến hành quân của họ?

Nhưng nếu như ở câu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì ngay ở câu thơ sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lĩnh thật oai phong:

“Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

“Quân xanh” ở đây phải chăng là những tán lá ngụy trang, là màu áo xanh người lính hay chính là làn da xanh tái vì bệnh tật và đói rét của những chiến sĩ giải phóng quân? Một hình ảnh hiện thực trần trụi được Quang Dũng đưa trực tiếp vào trong thơ. Chẳng hề có một sự phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó là hiện thực, là thực tại của những người lính đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng, tuy có xanh xao, mệt mỏi, vất vả là thế, nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần “giữ oai hùm”. Dù là nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh hùng giải phóng quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.

Hai câu đầu, hình tượng người lính của đoàn quân Tây Tiến hiện lên thật sống động biết bao. Đoàn quân ấy đang đi giữa rừng xanh, đi giữa những núi rừng âm u hiểm trở và gặp biết bao gian lao, vất vả, bệnh tật đói rét. Thế nhưng, các anh dù có thế nào vẫn giữ được một tư thế hiên ngang, “oai hùm” giữa chốn rừng thiêng. Có thể nói, Quang Dũng đã đưa vào đây chất liệu hiện thực – một hiện thực trần trụi và gửi vào đó một chút lãng mạn của thi ca.

Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những chiến sĩ ấy. Một vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Tây Tiến là đoàn binh với thành phần chủ yếu là những người con đất Hà Thành, là những học sinh, sinh viên đang còn tuổi chứa chan xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình xanh xao ấy là cả một bầu trời tâm hồn lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng hòa bình. Họ nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc mà lên đường tìm lại độc lập cho dân tộc bởi giặc ngoại xâm đã giày xéo quê hương đến tiêu điều. Vậy nên, “mắt trừng” kia phải chăng chính là đôi mắt đang mở to, dõi theo kẻ thù, quyết tâm thề sống chết với kẻ ngoại bang xâm lược? Đôi mắt trừng ấy cũng là sự căm hận quân thù, sục sôi ý chí chiến đấu. Không chỉ vậy toát lên ý chí chiến đấu, đôi mắt ấy còn “gửi mộng qua biên giới” đến với những nơi xa xôi, đến với Hà Nội thân yêu – nơi có người thân, gia đình của những chàng trai Tây Tiến. “Mộng biên giới” – có chăng chính là giấc mộng hòa bình, giấc mộng được chiến thắng trở về với quê hương, với gia đình, với người thương của mình. Và đôi mắt ấy cũng không chỉ ánh lên khát vọng mà còn ánh lên cả cái tình, cái cảm xúc yêu thương trong đó nữa.

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường, với gia đình với cả “một dáng kiều thơm” trong trí nhớ. Là những người trí thức buông bỏ bút mực nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, thế nên những người lính Tây Tiến luôn giữ trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của người trí thức ấy. Họ không như những anh lính mộc mạc trong thơ Chính Hữu:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Chính “dáng kiều thơm” ấy là động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.

Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê, nhớ người thương lại là động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực cho các anh để các anh bằng tuổi trẻ, bằng khát vọng của mình đem hòa bình lại cho những “dáng kiều thơm” kia? Quang Dũng cũng thật tinh tế, bởi chỉ bằng hai câu thơ ngắn mà vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến hiện lên thật hào hoa, thật lãng mạn biết chừng nào. Và bốn câu thơ đầu của khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc thật rõ ràng hình tượng người lính trong đoàn binh của mình. Những người lính ấy vừa oai phong, vừa đẹp vẻ đẹp của khát vọng lại vừa tinh tế, lãng mạn trong vẻ đẹp tâm hồn.

Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại chẳng trở về. Người ta thường nói, chiến tranh vô thường, làm sao tránh được hi sinh, mất mát:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc câu thơ của Quang Dũng, người đọc chúng ta không khỏi xót xa trước những sự mất mát, hy sinh ấy. Âm điệu của bốn câu trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, không khí ấy chợt chùng xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường đi, những người lính lại lần lượt nằm xuống. Những ngôi mộ của họ vô danh, nằm rải rác giữa biên cương, chốn rừng thiêng nước độc. Ở đây, Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt “mồ viễn xứ” để diễn tả những cái chết của những người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách quê người. Từ Hán Việt “mồ viễn xứ”, “biên cương” tạo nên không khí thật trang trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những người lính. Họ ngã xuống nơi đây, trở thành những người lính vô danh góp một phần vào nền độc lập của đất nước:

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước”

Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì những người lính Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì khát vọng hòa bình. Vì khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho Tổ quốc cả tuổi thanh xuân, cả tính mạng của mình:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Một vẻ đẹp bi tráng đến thật lãng mạn! “Đời xanh” tức là tuổi thanh xuân của các anh, là tuổi trẻ với bao khát vọng. Thế nhưng, vâng lời kêu gọi của Tổ quốc ra chiến trường diệt quân thù, các anh quyết chí, đồng lòng ra đi, “chẳng tiếc” bất cứ điều gì cả. “Chẳng tiếc” – từ ấy vang lên như một câu trả lời dứt khoát cho tiếng gọi của Tổ quốc vừa ngạo nghễ vừa bình thản. Họ đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trong tim họ, chỉ có khát vọng hòa bình là đang cháy bỏng. Đau thương nhưng lại chẳng hề bi lụy trước số phận của cuộc đời.

Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng được cống hiến của Tổ quốc của những người lính đoàn quân Tây Tiền:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Họ là những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước mơ, khát vọng đời thường “dáng kiều thơm”, thế nhưng được chết cho lý tưởng của đất nước thì cũng thật là thiêng liêng, thật là cao đẹp. Người lính hy sinh, trên người đâu còn lại gì. Thế nhưng, ở đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa thành “áo bào”. Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho vua chúa quý tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời vinh danh dành cho người lính vô danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. “Áo bào thay chiếu” là lời nói bi tráng hóa, mỹ lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ “anh về đất” nghe sao có vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho những người lính hy sinh mà thôi. Với Quang Dũng, họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi chúng ta sinh ra từ đất thì sẽ lại trở về với đất mẹ.

Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ, nhưng sự hy sinh ấy không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hòa bình cho đất nước, làm nên vinh quang cho lịch sử nước nhà. Với những người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông lịch sử. Bởi nó là chứng nhân của thời gian, là người bạn đồng hành của những người lính. Và giờ đây, khi họ ngã xuống, nó “gầm” lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào cõi bất tử.

Hai câu cuối của khổ ba, Quang Dũng liên tiếp sử dụng các từ ngữ Hán Việt. Nó vừa tạo nên không khí trang trọng, hào hùng, tôn nghiêm khi nói về sự hy sinh của những người lính, vừa tạo nên được vẻ đẹp bi tráng,lãng mạn, lẫm liệt của những người anh hùng xưa. Có thể nói, hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ, thế nhưng sự mỹ lệ ấy hoàn toàn vừa đủ để tôn lên sự hy sinh cao cả của các chàng trai tuổi mười tám ấy.

Đoạn thơ trên, Quang Dũng đã thể hiện vô cùng thành công nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc hòa quyện cùng nỗi nhớ đơn vị của mình. Ông cũng sử dụng liên tiếp rất nhiều hình ảnh đặc sắc vừa nhạc vừa họa, những sự so sánh cường điệu tinh tế đồng thời xen lẫn với cảm hứng lãng mạn để nói về đoàn quân của mình. Có thể nói, khổ thơ này là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất, kết tinh cho cả bài thơ Tây Tiến.

Tóm lại, khổ thơ thứ ba trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến. Người lính ấy không chỉ là những chàng trai trẻ tuổi hào hoa mà còn là những người anh hùng kiêu hãnh của đất nước. Họ mang trong mình tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, khát vọng hòa bình và lời thề quyết tâm hiến dâng cho Tổ quốc. Đó là một lý tưởng thật cao đẹp, kiên trung, mỹ lệ. Và Quang Dũng đã khắc họa thật thành công hình tượng người lính đó!

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 8

Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thê quên được hình ảnh đoàn quân ấy:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành!

Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùng

Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.

Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

“Mộng” và “mơ” cùa người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu – mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.

Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.

Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.

Áo bào thay chiếu anh về đất.

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi” … nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.

Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là niềm kiêu hãnh anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 9

Cả bài thơ là nỗi nhớ dạt dào về Tây Tiến, với những kỉ niệm một thời. những khó khăn trong cuộc sống và chiến đấu. Cũng như những giờ phút thanh bình bên người dân Tây Bắc. Bài thơ còn miêu tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về tinh thần và những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Môt đoạn thơ khắc họa rõ về những chàng trai Tây Tiến và hình ảnh tả thực gợi lên trong lòng người đọc nhiều niềm thương cảm và cả ngưỡng mộ.

Đoạn được mở đầu bằng lời miêu tả thẳng không chút tránh né sự thật.

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Cuộc sống chốn rừng núi Tây Bắc thiếu thốn vô cùng. Quân chiến đấu không đủ ăn, mặc không đủ ấm. Để chiến đấu họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn “vệ trọc” “vệ đỏ” để kẻ thù không thể nắm được họ. Nhưng nguyên nhân khác là những cơn sốt rét rừng cực kỳ nguy hiểm, cứ đe dọa, rình rập, sẵn sàng lấy đi tính mạng của họ bất cứ lúc nào.

Trong bài “đồng chí” chính hữu cũng đã có đề cập tới những khó khăn và căn bệnh này

Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá, chân không dày

….

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Căn bệnh này thì bất cứ người lính nào cũng gặp nhưng đến với bài Tây Tiến ta những người chưa chứng kiến mới có thể hiểu được một cách chân thực nhất. Đó là sự thật không phải là nói quá hay là nói để tạo ấn tượng. thật thú vị vì nhà thơ lấy chính cái hiện thực khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự tốn cho mình. Đó là cái tên khác của Tây Tiến: “đoàn quân không mọc tóc.” Cũng như Phạm Tiến Duật gọi đoàn xe không kính của mình. Đó là một cách gọi dí dỏm thể hiện sự lạc quan và chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế quân xanh màu lá/ dữ oai hùm. Màu xanh là màu xanh của lá ngụy trang hay chính là màu xanh da thịt của người lính cho quá vất vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt không sức sống.

Như Tố Hữu cũng nói:

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày qua.

Cả đoàn quân sao mà yếu ớt nhưng bên cạnh đó là cả một khí thế oai phong. Cái bi đặt bên cái tráng làm nổi bật cái oai phong của đoàn quân. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của đoàn quân ra trận, dù yếu nhưng đã đánh cho Pháp phải khiếp sợ.

Dù cuộc sống có khó khăn nhưng những người lính Tây Tiến vẫn mang trong mình lắm mộng mơ, và khát vọng hòai bão.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Hai câu mang hai chữ “mộng” và “mơ”. Từ trừng được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao tâm nguyện, khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều gửi cả ở ánh mắt. “Mắt trừng” không phải chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng dữ dằn, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những mong ước đến khắc khoải, mong ước về một ngày chiến thắng kẻ thù. Chữ “mộng” khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng khiến ta nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nhớ “người yêu” hay nhớ “dáng kiều thơm” làm hình ảnh người lính trở nên gần gũi hơn rất nhiều. Vì nỗi nhớ rất đỗi bình thường của những chàng thanh niên, nhưng trong lúc khó khăn cũng thật cao quý. Nỗi nhớ và những mộng mơ giúp tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để vượt lên hoàn cảnh. Để vượt qua thiếu thốn vật chất, những con đau dằn xé. Để không gục bởi hoàn cảnh trứơc khi gục trước kẻ thù. Quang Dũng đã viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong thái hùng dũng cũng có một tâm hồn trẻ và tài hoa.

Hai câu thơ tiếp theo là sự tiếp nối của sự chiến đấu giành độc lập tự do. Đó là sự hy sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì không thể không xúc động trước cái hiện thực quá đỗi bi thương. Cả một đoàn quân đang đi trên con đường dài thì thỉnh thoảng có một người ở lại sau lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. Giữa rừng núi, không một nén hương, không nước mắt người thân. Những cái chết cô độc giữa rừng lạnh lẽo, bi thảm, nhưng câu thơ sau như một lực kéo vô hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thảm thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai chính là câu hát đầu thách thức ngạo nghễ của các chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một khi đã đi thì không quay đầu trở lại. Dù có hy sinh cũng là sự hy sinh xứng đáng. Nói không tiếc thì cũng không thể vì họ là thanh niên còn nhiều cái chưa làm đưọc, nhưng đây là hiến dâng phần còn lại của cuộc đời cho tổ quốc nên không tiếc nữa. Như anh lính trong dáng đứng Việt Nam

Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Những sự hy sinh vĩ đại. dù ta không thể biết ai đã hy sinh nhưng Nguyễn Khoa Điềm của từng khẳng định “không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước.”

Một khi xác định được lý tưởng những người lính xem cái chết mình nhẹ tựa lông hồng.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cuộc sống thiếu thốn đến nỗi không có mảnh chiếu che thân nhưng với Quang Dũng mảnh áo kia chính là “áo bào” như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào hùng và sang trọng vì là chết cho đất nước. Đất đã sinh ra anh và lại đón nhận anh trở về khi đã làm xong nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi không mang theo tiếng khóc của đồng đội nhưng tiếng gầm của sông Mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất nước như đang tiếc thương đưa anh về đất. Vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng, không bi lụy mà bi tráng. Đây là điểm nhấn xuyến suốt bài thơ. Là cái đặc sắc của Quang Dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhiều người không hiểu được. Họ coi việc nói thực là cái chết là kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu tư sản. nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng sau cái chết là cái hào hùng. Cái chết chỉ là cái nên cho sự vinh quang.

Ở đây sông Mã một lần nữa được nhắc lại khi nói đến Tây Tiến. Điều đó khẳng định sự hy sinh và ra đi của các anh đã đi vào bất tử khi thân xác hòa vào cỏ cây và vào đất mẹ thiêng liêng.

Đoạn thơ đã tạo nên được khí thế của đoàn quân. Những người lính với ý chí kiên cường, nghị lực và những ước mơ. Họ đã ra đi, chiến đấu và hy sinh. Họ đã bảo vệ tổ quốc không tiếc đời mình. Quang Dũng là thể hiện được điều đó bằng bút pháp tả thực và cả lãng mạn. Nhà thơ bộc lộ được tinh thần của một chiến sĩ Cụ Hồ thời chống Pháp.

“Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi

Nào có xá chi đâu ngày trở về.”

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 10

Năm tháng trôi qua, chiến tranh đã trở thành những điều cũ thuộc về hồi ức, song có những thứ vẫn in hằn trong tâm trí những người đang sống. Hình tượng người lính chính là điều đặc biệt đó. Có rất nhiều tác phẩm viết về người lính nhưng “Tây Tiến” – Quang Dũng là tác phẩm tiêu biểu ấn tượng nhất. Trong dòng hồi ức và nỗi nhớ da diết, nhà thơ đã tái hiện hình tượng người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng, gợi lên nhiều xúc cảm trong lòng người đọc:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rài rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nếu như mở đầu bài thơ, tác giả tái hiện khung cảnh thiên nhiên rừng núi hoang vu, hiểm trở – những khó khăn trên đường hành quân thì đến đây, ông lại hoài niệm về hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Câu thơ mở đầu dường như chỉ mang chút ngang tàng tinh nghịch chất lính song ẩn sâu trong đó lại là hiện thực đầy khắc nghiệt của điều kiện sống. Nơi rừng thiêng, nước độc, người lính phải đối mặt biết bao gian khổ. Không mọc tóc chính là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, bệnh tật hành hạ khiến họ trở nên xanh xao, màu da giống như hòa cùng màu quân phục. Hai câu thơ đã tái hiện sinh động hình ảnh thực về người lính khi vừa chiến đấu với quân thù vừa chiến đấu với bệnh tật.

Tuy nhiên, những khó khăn khắc nghiệt vẫn không thể khiến họ trở nên yếu đuối, mất đi vẻ oai phong dữ dội:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương, để “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Binh đoàn Tây Tiến hầu hết là những chàng trai hào hoa chốn hà thành, khoác áo lính lên đường bảo vệ biên cương nhưng dấn thân vào gian khổ, họ vẫn giữ trong mình tâm hồn lãng mạn đầy thơ mộng. Rời xa quê nhà, họ luôn lưu giữ trong lòng mình bóng dáng thanh lịch, thướt tha của người con gái thân thương. Đó không phải tư tưởng tiểu tư sản mộng rớt như nhiều người đánh giá mà là tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang một ý nghĩa nhân văn chân chính gửi gắm ước mơ tươi đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc. Nó trở thành động lực để người lính ra đi chiến đấu.

Đoạn thơ là sự kết hợp tinh tế ngòi bút tả thực và tinh thần lãng mạn, thể hiện phong cách tài hoa của hồn thơ Quang Dũng. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, bi tráng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và nhạy cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ chính là những người anh hùng vĩnh cửu của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất…”

Chiến tranh vốn là những mất mát, những đau thương, hiện thực khắc nghiệt và hiểm nguy đã khiến rất nhiều người phải ngã xuống. Những người lính Tây Tiến h sinh mà không nuối tiếc tuổi thanh xuân, họ ra đi mà vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng. Nơi biên cương viễn xứ họ về với đất mẹ mà không manh chiếu niệm thân, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”. Hai chữ “áo bào” trong đoạn thơ đã thể hiện niềm trân trọng và tiếc thương, nâng cao hình tượng người lính, làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. “Anh về đất” nhẹ tựa lông hồng, hi sinh cho tổ quốc và sống mãi trong lòng quê hương để sông Mã cất lên khúc tráng ca thương tiếc tiễn biệt: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Một tiếng “gầm” như găm chặt nỗi đau đớn dồn nén, quặn thắt, lặng lẽ chảy ngược vào tim. Hiện thực chiến tranh vốn dĩ là đau thương như thế.

Có thể nói, với tám câu thơ ngắn mà chứa chan niềm thương nỗi nhớ, bút pháp hiện thực kết hợp yếu tố hiện thực, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với bao bi tráng. Đặc biệt, khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến rất hào hùng mà cũng hào hoa, bi tráng mà lãng mạn. Đoạn thơ từ đó đã góp phần thể hiện phong cách tài hoa độc đáo của Quang Dũng, góp phần đưa “Tây Tiến” trở thành một tác phẩm văn học đầy giá trị thời kỳ kháng chiến. Để rồi đến tận hôm nay người ta vẫn luôn nhớ về “Tây Tiến” với tấm lòng ngợi ca, trân trọng.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 11

Theo dòng kí ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy. Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm hưởng đặc sắc. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh mà lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo dài thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm không thể nào quên của Quang Dũng. Tây Tiến là một tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với nỗi nhớ Tây Tiến da diết với những năm tháng mưa bom bao đạn không thể nào quên, ông chắp bút cho ra bài thơ đặc sắc Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô năm 1986. Bài thơ là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu ở hai đoạn thơ trước, thiên nhiên là nhân vật chính thì ở khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất xúc tác cảm xúc cho bài thơ lên đến cao trào.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên hà thành mới từ giã mái trường, gia đình lên đường chiến đấu còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lùng với những thứ xa lạ, ngây ngô nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó là sự oai hùng của tuổi trẻ, của sự nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng “không mọc tóc” để miêu tả đoàn binh. Đó là hình ảnh chiến sĩ rất khác lạ. Bên cạnh việc chọn ngày đêm phải chống trọi với kẻ thù tàn nhẫn, họ còn phải gồng mình vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống và chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn đến trọc đầu. Chính nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến bệnh này:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến cho họ trở nên một cách kì lạ. Đó cũng là một sự thật trần trụi đến khắc khổ của binh đoàn Tây Tiến. Họ có làn da xanh xao vì đói rét nhưng họ vẫn “oai hum” khiến kẻ địch khiếp sợ. Đó mới chính là nét đẹp đáng khâm phục của đoàn binh Tây Tiến.

Mặc dù quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn còn tỏa ra chất lãng mạn vốn có của người lính. Họ không cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây họ giành cho người thân gia đình. Họ nhớ về quê hương nơi mà người thân họ vẫn ngày đêm trông mong. Họ nhớ về những bóng dáng thân yêu. Hình ảnh “mắt trừng” là mắt quắc lên vẻ dữ tợn nhưng họ gửi mộng đánh thắng quân thù qua biên giới. họ nghĩ đến một viễn cảnh tươi sáng hơn cho gia đình họ.

Có thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng thấm đượm nỗi lòng thầm kín của nhà thơ.

Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau xót. Họ cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ nằm lại nơi đất khách quê người, không một vòng hoa, không một nén hương tưởng nhớ. Lạnh lẽo, bi thương nhưng trước khi lên đường cầm súng chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết với cái sống là quá mong manh. Họ chấp nhận điều đó.

Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất, nhiều ước mơ hòai bão lớn lao đầy hứa hẹn nhưng họ chẳng tiếc mà nhiệt tình dâng hiến cả sức trẻ cho Tổ quốc. Đó là một sự hi sinh vĩ đại, thầm lặng đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.

Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc “áo bào” thay “chiếu” khiến ta thấm thía biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khéo léo dùng từ Hán việt để giảm bớt sự bi thương cho cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như dang những cách tay dài đón họ vào lòng như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm của người mẹ. Quang Dũng đã mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như là khúc ca kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông Mã gầm lên ai oán. Câu thơ ấy mang âm hưởng dữ dội như cào vào lòng người những vết xước sâu không thể nào quên đi được nhưng nó cũng mang âm hưởng bi tráng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy chút nào. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn vang mãi trong lòng mỗi người.

Tóm lại, đoạn thơ thứ ba đặc sắc nhất của bài thơ có giọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm của nhà thơ một cách sâu sắc. Đặc biệt với những hình ảnh thơ thấm đẫm kỉ niệm mà nhà thơ hồi tưởng lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng. Nhà thơ khéo léo sử dụng từ Hán Việt khiến đoạn thơ trang nghiêm lên nhiều hơn. Qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đoàn binh Tây Tiến. Họ oai nghiêm, lẫm liệt yêu nước nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn. Đây là đoạn thơ sâu sắc đúc kết cả cái tình, cái thần cho toàn bài, là điểm nhấn nổi bật mà ta không thể nào quên.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 12

Quang Dũng (1921 – 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.

Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.

Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.

Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, nhữnh cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.

Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.

Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che giấu theo cách riêng của ông:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” kết hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.

Hai câu thơ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 13

Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng mà thơ mộng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ thứ ba của bài thơ:

Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những “đoàn binh không mọc tóc”:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.

Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hy sinh, nhưng hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hy sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao

Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.

Như vậy, qua phân tích trên, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” là một khổ thơ hay. Hình ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 14

Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt. Hình tượng người lính cụ Hồ còn thể hiện rõ hơn trong khổ thứ 3.

Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành.

Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.

Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang.

Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.

Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 15

Có người từng nói “Thơ chỉ tràn ra khi trong ta cuộc sống đã tràn đầy”. Thật đúng là như vậy! Chiến tranh đã đi qua, hòa bình lặp lại vậy mà ở vùng Tây Bắc ấy lại khơi gợi cho Quang Dũng một nỗi nhớ da diết khôn nguôi, phải chăng nơi đây đã đọng lại trong tác giả nhiều kỷ niệm? Chính vì nỗi nhớ ấy đã thổi hồn cho ông viết nên bài thơ Tây Tiến. Người lính Tây Tiến qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên thật nhiều khó khăn, gian nan, ta có thể thấy được qua khổ thơ cuối:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài vừa viết văn vừa làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Thơ ông phóng khoáng, lãng mạn-tài hoa. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác ở Phù Lưu Chanh năm 1948 khi ông chuyển sang hoạt động ở đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ. Tuy đã chuyển hoạt động sang ở nơi khác nhưng những hình ảnh về vùng đất, con người nơi cũ vẫn luôn thường trực trong sâu thẳm tâm trí ông. Tây Tiến lúc mới ra đời đã bị cấm lưu hành, qua thời gian nét độc đáo, sáng tạo, cái hay trong thơ hiện rõ chính vì vậy mà nó được đưa vào sách giáo khoa ngày nay. Điều kiện thời tiết vùng Tây Bắc rất khắc nghiệt, nó ảnh hưởng trực tiếp đến người lính hành quân nơi đây:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

“Không mọc tóc” có thể hiểu là thời tiết ảnh hưởng, bị sốt rét làm đau đớn thân xác người lính. Tác giả nói “không mọc tóc” chứ không phải “không mọc được tóc” chứng tỏ nó được coi như các người lính cạo trọc đầu để dễ dàng cho việc chiến đấu, chứ không phải do bệnh tật để giảm đi sự đau thương đối với người đọc. “Quân xanh màu lá”, nếu sự thật trần trụi là do bệnh sốt rét gây nên thì Quang Dũng lại cho rằng đó là màu xanh của lá cây hóa thân cho người lính để giặc khó nhận ra.Tuy khó khăn chồng chất, bệnh tật liên miên, nhưng qua lăng kính của tác giả, đoàn binh hiện lên với sự yêu đời, không quản gian nan.

Cho dù chịu nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nó không làm cho người lính Tây Tiến người đi tình cảm lãng mạn của mình. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả nét đẹp cũng như sự mạnh mẽ của con người:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Dù ngày đêm đánh giặc nhưng tâm hồn của những người lính luôn trong trạng thái mộng mơ. Cái mộng họ gửi qua biên giới, nơi vẫn còn đầy bóng giặc thù, đó là cái mộng giết giặc để lập công danh. “Mắt trừng” gợi sự mạnh mẽ, đầy nội lực, quyết tâm vì dân tộc, ở đâu đó trong họ vẫn luôn tồn tại một nỗi căm thù giặc sâu sắc. Đoàn binh Tây Tiến chủ yếu là học sinh, sinh viên người Hà Nội- là thủ đô văn hiến, là cả trái tim của Tổ quốc chính vì thế họ lấy đó làm động lực chiến đấu. “Dáng kiều thơm” chính là nét đẹp thanh lịch, thướt tha của con gái Hà Nội, cũng là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp của quê hương đã thúc giục người lính phải chiến đấu, đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ từng nét đẹp nơi họ sống. Đó là động lực lớn để tinh thần chiến đấu thêm mạnh mẽ. Hình ảnh dáng kiều thơm là vầng sáng lung linh trong kí ức nhưng cũng là thứ giúp cho họ tìm được sự cần bằng, tìm được sự thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả. Ra biên cương là chấp nhận đối mặt với hi sinh, biết đi là sẽ chết, vậy mà các anh vẫn xung phong ra trận với hi vọng sẽ đem chiến thắng trở về:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Biết bao nhiêu anh hùng đã ngã xuống ở nơi biên cương. Chiến tranh nó luôn tồn tại song song với chết chóc, tuy vậy tinh thần xung phong ra trận vẫn luôn sôi nổi. Tuổi xuân là độ tuổi đẹp nhất, là thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người nhưng các anh cũng đành gác lại để đặt nhiệm vụ Tổ quốc lên trên hết “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tình cảm đôi lứa, những cái tôi vị kỉ đều gạt sang một bên, những người chiến sĩ vẫn nối tiếp nhau tầng tầng lớp lớp lên đường, đi để bảo vệ từng đồng lúa, mùa ngô, bảo vệ nhịp đập con tim của toàn dân tộc. Tiếp nối âm hưởng bi tráng, hai câu thơ cuối đã tô đậm thêm sự mất mát hi sinh, thể hiện cái chết cao đẹp, cái chết bất tử của người lính:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Quang Dũng dường như đã khóc khi viết đến dòng thơ này. Đây chính là cái chết nhưng tác giả đã nói giảm nói tránh để giảm bớt sự đau thương mất mát cho người ở lại. Thời gian chiến tranh là khoảng thời gian thiếu thốn, nghèo khổ của toàn dân tộc ta. “Áo bào” thay “chiếu” vì người hi sinh quá nhiều, họ chỉ được quấn chiếc áo bào trên vai để về với đất mẹ. Anh về với đất, nghĩa là anh đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình và giờ đây anh hóa thân cho dáng hình xứ sở. Câu thơ cuối miêu tả tiếng gầm của sông Mã như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Bằng việc sử dụng những bút pháp nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn dụ. Quang Dũng đã khắc họa lại một đoàn binh Tây Tiến với nhiều vẻ đẹp khác nhau, họ đẹp về cả hình dáng, mạnh mẽ từ ánh mắt đến tính cách và cả sự hi sinh cao cả. Tất cả vì lòng yêu Tổ quốc, mong muốn được sống trong hòa bình và hạnh phúc, không tồn tại những đau thương mất mát. Đoạn thơ này có nhạc, có họa, vừa bi hùng lại vừa kiêu hãnh. Những hình ảnh khắc họa đoàn quân Tây Tiến trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 16

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh. Nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc………..

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

“Tây Tiến” của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ tươi” như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

Tây Tiến đoàn quân ….. khúc độc hành

Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, nay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo.

Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như ‘tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ “Tây Tiến” mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn “động vật hoá” người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ:

Hoành sóc giang san cáp kỷ thu

Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu

Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:

Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu

Thể diện sài long xâm lược quân

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông A. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:

Từ thuở mang gươm đi mở nước

Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long

Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.

Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.

Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”. Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại là “rải rác” nơi “viễn xứ”, những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Trong Chinh phụ ngâm:

Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn

Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.

Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ “áo bào thay chiếu anh về đất”. Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:

Ở đây không manh ván

Chôn anh bằng tấm chăn

Của đồng bào Cứa Ngàn

Tặng tôi ngày sơ tán

Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 17

Quang Dũng là một trong những nghệ sĩ rất đa tài. Ông có thể vẽ tranh, làm thơ, ông còn biết sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng nổi bật với một hồn thơ lãng mạn, hào hoa, thắm đượm nghĩa tình và tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện cái tình đó của Quang Dũng.

Lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến”. Sau bỏ “nhớ” giữ lại “Tây Tiến” vì Quang Dũng cho rằng bài thơ vốn đã tràn đầy nỗi nhớ, người đọc sẽ cảm thấy. Bài thơ được nảy sinh trong những năm tháng không thể nào quên, từ một môi trường sống và chiến đấu không thể nào quên của cuộc đời người lính.

Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về kỉ niệm với thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ của mình. Trong tác phẩm, hình tượng những người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ thứ 3 của bài thơ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…

Sông Mã gầm lên khúc độc hành!

Đoàn quân Tây Tiến nơi lưu giữ trong trái tim Quang Dũng những tư tưởng tốt đẹp nhất của thời thanh xuân là đơn vị được thành lập năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng. Đoàn quân có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Các chiến sĩ trong đội quân chủ yếu là những học sinh, sinh viên, dân lao động thành thị thuộc mọi ngành nghề khác nhau hợp thành một đội quân rất đoàn kết. Cuộc sống nơi chiến địa gian khổ, thiếu thốn vô cùng nhưng trong họ vẫn luôn ngời sáng phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ với tinh thần lãng mạn, lạc quan, không sợ gian khổ. Hình tượng người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đậm chất bi tráng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hình ảnh “không mọc tóc” gợi ra sự thật nghiệt ngã của hoàn cảnh sống và chiến đấu của các chiến sĩ Tây Tiến nhưng mang đậm chất khí chất ngang tàng. Hình ảnh “Quân xanh màu lá” với nghệ thuật đối lập “Không mọc tóc”, “quân xanh” – “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ xanh xao tiều tụy vì căn bệnh sốt rét. Tuy nhiên, hơn hết từ trong sâu thẳm con người họ vẫn toát lên dáng vẻ oai như những con hổ chốn rừng thiêng, làm nổi bật tính cách dũng cảm của người lính.

Sự oai phong lẫm liệt còn được thể hiện qua ánh mắt. “Mắt trừng” chính là ánh mắt dữ dội, rực cháy căm hờn, mang mộng ước giết kẻ thù. Họ rất anh dũng, kiên cường, đứng trước mũi súng quân thù vẫn hiên ngang nhưng nét đẹp lãng mạn vẫn rất rõ nét, sâu sắc trong tâm tưởng họ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, Quang Dũng đã không tiếc lời, ông đã dành những từ ngữ vô cùng trang trọng khi nói về vẻ đẹp các cô gái Hà Nội: bên trong cái dáng vẻ oai hùng, dữ dằn là trái tim, là tâm hồn khao khát với cuộc đời:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Là những câu thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Các từ Hán Việt cổ kính, trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ” tạo không khí trang trọng, âm hưởng bi hùng làm giảm đi hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, hoang vu. Vẻ đẹp bi tráng còn được thể hiện qua khí phách người lính, lí tưởng anh hùng lãng mạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết tâm hiến dâng sự sống cho đất nước:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Từ ngữ ước lệ “áo bào” gợi lên vẻ đẹp bi tráng của sự hi sinh: nhìn cái chết của đồng đội giữa chiến trường thành sự hy sinh rất trang trọng của người anh hùng chiến trận. Biện pháp nói giảm: “anh về đất” làm vơi đi sự bi thương khi nói về cái chết của người lính Tây Tiến. Biện pháp cường điệu: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” để nói lên rằng thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc hùng tráng đưa tiễn người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ra đi trong khúc nhạc vĩnh hằng.

Bằng những câu thơ mang âm hưởng bi tráng, đoạn thơ khắc họa chân dung người lính từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là tính cách hào hoa lãng mạn bi mà không lụy. Những con người đã làm nên vẻ đẹp hào khí của một thời. Họ mang phẩm chất chung của người lính cụ Hồ.

Bài thơ là khúc ca bi tráng và tinh thần lãng mạn về hình tượng người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy gian khổ, thiếu thốn mà vẫn gợi lên phẩm chất anh hùng hào hoa, lãng mạn.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 18

“Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bắt rễ và sinh sôi.” (Puskin) Thơ Quang Dũng chân thực như chính những trải nghiệm của nhà thơ nơi chiến trường. Ngòi bút của Quang Dũng không né tránh những sự thật bi thương, những mất mát hi sinh nơi chiến trường. Từ những chặng đường hành quân vất vả giữa núi cao vực sâu, dốc thẳm đến những đêm hội liên hoan ấm áp tình quân dân đều được tác giả tái hiện một cách chân thực.

Nếu ở những đoạn thơ đầu, người lính Tây Tiến xuất hiện gián tiếp trong khung cảnh núi rừng miền Tây với những bước chân hành quân ra trận thì đến khổ thơ thứ ba, hình ảnh các anh được khắc họa trực tiếp với vẻ đẹp lãng mạn nhưng đậm chất bi tráng. Ở hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã vẽ ra chân dung người lính Tây Tiến với bề ngoài kì dị khác thường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Người lính Tây Tiến hiện lên với hình ảnh “không mọc tóc”. “Không mọc tóc” bởi những cơn sốt rét rừng triền miên, cũng có thể do các anh tự cạo trọc đầu. Câu thơ còn có thể hiểu như các anh không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc, biểu hiện một thái độ coi thường gian khổ hiểm nguy. Từ những chàng trai Hà Thành vốn hào hoa lịch lãm, người lính Tây Tiến trở thành những anh “vệ trọc” với mái đầu không tóc.

Bên cạnh không mọc tóc còn là “quân xanh”. Đó là màu xanh của bộ quân phục, màu xanh của lá ngụy trang hay là màu xanh của nước da vàng vọt xanh xao do khó khăn bệnh tật. Màu xanh của nước da như hòa vào màu xanh bạt ngàn của núi rừng, lột tả được hiện thực đầy khắc nghiệt của chiến tranh.

Vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của những người lính Tây Tiến không chỉ thể hiện qua dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện qua đời sống tâm hồn với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

“Mắt trừng” là ánh mắt luôn hướng về phía trước, luôn ngời lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là ánh mắt của lòng căm thù, của tinh thần cảnh giác và sự cả sự kiên cường vững chãi. Các anh gửi mộng qua biên giới, là giấc mộng đánh đuổi quân xâm lăng, lập nên chiến công, bảo vệ non sông đất nước.

Ý chí của người lính thì mạnh mẽ can trường nhưng lại vô cùng lãng mạn, trái tim luôn rạo rực yêu đời. Vốn xuất thân từ những học sinh, sinh viên Hà Nội, dù trải qua gian khổ ác liệt của chiến tranh nhưng tâm hồn của các anh vẫn rất mộng mơ, lãng mạn, đắm say. Sau một ngày đối mặt với bom đạn chết chóc, đêm về các anh lại mơ về một dáng “kiều thơm” nơi đất Hà Thành. Nếu người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu nhớ về quê hương “nước mặn đồng chua”, về “giếng nước gốc đa”, mái tranh nghèo và người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya, một giấc mơ mộc mạc chân tình như ca dao tục ngữ, thì người lính Tây Tiến lại nhớ về những dáng “kiều thơm”, bóng dáng thướt tha, yểu điệu của những thiếu nữ nơi đường phố Hà Thành. Một giấc mộng thật trẻ trung, sôi nổi của thời tuổi trẻ, gợi lên vẻ hồn nhiên, đa tình và cũng rất đáng yêu của người lính. Tình yêu lứa đôi trở thành bệ phóng nâng đỡ vun đắp cho tình yêu quê hương đất nước. Chính giấc mơ của tuổi trẻ ấy đã cân bằng cuộc sống, tạo ra động lực tinh thần và tiếp thêm sức mạnh để người lính vững bước trên những chặng đường hành quân gian khổ phía trước.

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”

(Nguyễn Đình Thi)

Hay nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng viết:

“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ như cha như vợ chồng

Ôi Tổ quốc khi cần ta chết

Cho mỗi căn nhà, ngọn núi dòng sông.”

Quang Dũng đã xây dựng được hình ảnh tập thể những người lính Tây Tiến với bao gian khổ hi sinh nhưng không hề nhấn chìm người đọc vào cảm giác bi lụy. Cảm hứng của nhà thơ mỗi lần chìm vào đau thương lại được nâng lên bởi đôi cánh lãng mạn, đôi cánh lý tưởng. Vì thế chân dung người lính Tây Tiến hiện lên không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

“Cuộc bể dâu mà còn người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim người nghệ sĩ.” (Tố Hữu) Mỗi tác phẩm văn học phải hướng đến hiện thực đời sống , nêu được đặc điểm của thời đại mà nó ra đời. Và trong thơ Quang Dũng cũng đã hút được cái nhụy ấy của cuộc sống , đã dám nhìn thẳng vào sự thật với những mất mát, đau thương, đã không ngần ngại nói đến cái chết và sự ra đi của người lính Tây Tiến.

Chiến tranh vốn khốc liệt, đã có biết bao người lính vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, nơi chân đèo dốc núi, nơi biên cương xa xôi lạnh lẽo. Ngôi mộ của các anh trở thành những nấm mồ ẩn mình giữa rừng sâu biên giới hoang vu, heo hút. Các anh ra đi trong lặng lẽ, không một mảnh chiếu che thân. Đồng đội vùi xác các anh vào lòng đất trong sự thiếu thốn tột cùng. Hiện thực nghiệt ngã ấy đã khơi gợi niềm xót xa đau đớn và sự ngậm ngùi thương cảm của người đọc.

Đau thương, mất mát, hi sinh là vậy nhưng qua cách diễn đạt của Quang Dũng, sự ra đi của người lính Tây Tiến vẫn thật hào hùng, dũng mãnh. Quang Dũng nói đến cái chết chỉ đủ gây thương cảm cho người đọc từ đó làm nổi bật chí khí và tầm vóc của các anh. Cái đau thương bị át đi ngay ở câu thơ nói về bi thương bởi cách sử dụng từ ngữ Hán Việt (biên cương, viễn xứ). Những từ ngữ Hán Việt này không chỉ làm giảm đi sự mất mát hi sinh mà còn gợi lên sự tôn nghiêm vĩnh hằng, sự thành kính thiêng liêng trong sự ra đi của người lính.

Nhà thơ đã khẳng định lý tưởng và tư thế lên đường của người lính,vút lên như một lời thề thiêng liêng của những tráng sĩ thời loạn “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.” “Chẳng tiếc” là cách nói ngang tàng đầy khí phách, là thái độ tự nguyệnkhông ép buộc và một tâm trạng hết sức thanh thản. Họ sẵn sàng hiến dâng đời với biết bao hi vọng, mộng mơ, sẵn sàng hi sinh vì đất nước, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Lý tưởng ấy thật cao cả, đẹp đẽ, sáng người ý chí quyết tâm. Đây cũng là tâm nguyện của những thanh niên Việt Nam thời chống Mỹ trong thơ thơ của Thanh Thảo:

“Chúng tôi đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc.”

Với cái nhìn lãng mạn, Quang Dũng đã khiến cho sự ra đi của người lính Tây Tiến thật hào hùng, sang trọng và cao đẹp bởi hình ảnh “áo bào thay chiếu”, đưa các anh về với đất mẹ. Chiếc áo của người lính được thi vị hóa trở thành áo bào, vừa cổ kính trang trọng lại vừa gần gũi thân thương. Các anh ra đi không có da ngựa bọc thây như những chiến tướng thuở xưa nhưng đã có áo bào lẫm liệt đưa các anh về với núi sông.

Cách dùng từ ngữ của Quang Dũng cũng thật độc đáo. Nhà thơ không dùng từ “chết” mà là “về đất”. Cách nói giảm đã làm vơi bớt đi nỗi đau thương để cái chết ấy trở thành bất tử. Với người lính chết chưa phải là hết, nó không phải là sự ra đi mà là cuộc hành trình trở về với đất mẹ thân yêu. Người mẹ hiền đất nước đang dang rộng vòng tay để đón các anh về. Linh hồn các anh đã hóa thân vào sông núi để còn mãi với núi sông, để làm nên vóc dáng, hình hài của đất nước. Sự ra đi ấy thật thanh thản nhẹ nhàng.

“Ôi đất nước 4000 năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

(Nguyễn Khoa Điềm)

Người lính Tây Tiến ra đi đã có dòng sông Mã tấu lên khúc nhạc trầm hùng tiễn đưa linh hồn các anh. Sông Mã là con sông của hoài niệm chuyên chở nỗi nhớ của người lính, giờ đây nó là nhân chứng cuối cùng trong cuộc đời của các anh. Tiếng gầm thét của sông Mã là biểu hiện cao độ cho sự mất mát, cho nỗi tiếc thương và cả niềm uất hận. Nó như một con chiến mã trung thành đang gầm rú, gào thét vì sự ra đi của chủ tướng. Dường như cả đất trời núi sông, cả quê hương đều đang nghiêng mình tiễn biệt người lính trong âm hưởng hào hùng và dữ dội của sông Mã.

“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay.” Nhà thơ Quang Dũng đã có quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy công phu, nghiêm túc thậm chí là khổ hạnh để tạo nên một kiệt tác văn chương để đời. Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa thành công chân dung của những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng, từ đó làm nổi bật tài năng và phong cách nghệ thuật của Quang Dũng với sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, sự hòa quyện giữa chất thơ, chất họa, chất nhạc của một hồn thơ đầy tài hoa phóng khoáng.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 19

Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc,… “Tây Tiến” của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu . Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân… Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

…………………

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Lúc bấy giờ, Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, đại đội trưởng – nhạc sĩ Như Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những chàng trai Hà Thành còn rất trẻ. Binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên tri thức Hà Nội đang theo học tại các trường Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Long,… Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm nhuần trong máu, tủy và hồn, là một chàng trai đa tài, lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại.

Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc. Rồi “Đồng chí” của Chính Hữu, “Cá nước” của Tố Hữu đều miêu tả người lính chân quê:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày.”

( “Đồng chí” – Chính Hữu)

Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến. Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” và “dữ oai hùm” là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh người bộ đội thời chống Pháp trở nrnr kì dị khác thường. Cảm nhận thơ như vậy vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những là anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo” mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

“Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân không có tóc, hậu quả của những con sốt rét rừng hoặc phải sống triền miên nơi rừng thiêng nước độc. “Quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như màu lá – đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, và cả do gian khổ và thiếu thốn, thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa lad vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.

Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”. Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:

“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Múa giáo non sông đã mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt cả sao Ngưu)

Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến, một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những chiến binh năm xưa với người lính cụ Hồ hôm nay.

Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới.” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của những chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng” thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Chiến tranh thật tàn khốc những chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người ta gán cho “Tây Tiến” những “mộng rớt”, “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ “Đất nước”:

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”

Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn của họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!

Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ” gợi cảm giác buồn thầm lặng – sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” nơi đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ: không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nang đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem như “nhẹ tựa lông hồng”.

Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ của Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.

Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hi sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm “áo bào” sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” là là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng Tổ quốc. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất này nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.

Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ.” Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các từ Hán Việt, nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.

Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 20

Nếu như đoạn đầu của bài thơ là nỗi “nhớ chơi với” với bao kỉ niệm đẹp và cảm động của một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh thì tám câu thơ đoạn ba lại khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa., qua đó thể hiện rõ niềm tự hào của tác giả. Bốn câu thơ đầu tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh của người lính Tây Tiến trong những năm tháng hào hùng của dân tộc:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Mở đầu khổ thơ là đảo ngữ “Tây Tiến” nhằm nhấn mạnh khắc sâu ấn tượng về một cái tên Tây Tiến, chỉ riêng cái tên thôi đã gợi trong lòng thi nhân biết bao kỉ niệm về một đời không thể nào quên. Không chỉ vậy, vượt qua gió bụi của thời gian, “Tây Tiến” đã đi vào lịch sử như một đoàn binh có một không hai, là chủ nhân của một thời đại gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc. Bên cạnh đó, những người lính Tây Tiến với cái tên “đoàn binh” là từ Hán Việt gợi cảm giác về một đoàn quân được trang bị đầy đủ và tinh nhuệ. Qua bút pháp tả thực, cụm từ “không mọc tóc” hiện lên đầy ấn tượng qua cách sử dụng bút pháp đề cập đến sự khốc liệt của chiến tranh. Đó là những cơn sốt rét rừng hành hạ khiến cho người lính Tây Tiến bị rụng hết tóc. Trong văn học kháng chiến không ít lần chúng ta bắt gặp hình ảnh của những cơn sốt rét rừng. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu từng viết:

“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận

Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”

Cách diễn đạt của Quang Dũng thật độc đáo khi chuyển “không mọc tóc” từ thế bị động sang thế chủ động, đó là không thèm mọc tóc khiến cho người đọc cảm nhận về một đoàn quân kiêu hùng ngang tàng, bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ. Họ vẫn kiêu hãnh nhìn thẳng về phía trước, lạc quan hài hước và hóm hỉnh. Trong sự thiếu thốn trăm bề ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên chân thực và oai hùng: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Xanh màu lá là hình ảnh tả thực: màu xanh ấy có thể là màu xanh của quần áo lính, màu lá ngụy trang, hay đó có thể là nước da xanh xao do cơn sốt rét rừng, do thiếu thốn và bệnh tật. Nhưng độc đáo hơn là cụm từ “dữ oai hùm” qua bút pháp ẩn dụ độc đáo. Bên trong hình tượng tưởng chừng như tiều tụy ấy là cả một khí phách, một bản lĩnh kiên cường, một sự oai nghiêm dữ dằn đầy sức mạnh như một vị chúa sơn lâm. Đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Lối viết của Quang Dũng thật tài hoa. Nói được lính ốm mà không thấy lính yếu.”

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật,… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Chân dung người chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng, oai phong trong dáng vẻ dữ dội, uy nghi mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn. “Mắt trừng” là từ để diễn tả ánh nhìn đầy sự quyết tâm nung nấu, chứa đựng bao hoài bão. Đó là cái nhìn đầy oai phong lẫm liệt. Còn “mộng” là ước mơ giết giặc lập công của những người chiến sĩ. Đó là cái mộng để hướng tới hòa bình độc lập, bảo vệ quê hương tổ quốc. Đây là cái mộng cao cả xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước. Mộng của người chiến sĩ Tây Tiến rất giống với quan niệm nợ công danh của những trang hào kiệt, đấng nam nhi thời Trung đại. Mộng thì gửi về biên cương nhưng mơ thì hướng về Hà Nội:

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ trường xưa, “những phố dài xao xác hơi may”? Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thân yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Đó có thể là người vợ, người yêu hay một người em gái chưa từng dám ngỏ lời. Câu thơ thể hiện cái nhìn lãng mạn, đa tình, cũng như gửi gắm khát khao thầm kín về hạnh phúc lứa đôi. Bởi chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà Thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa.

“Từ thuở mang gươm đi giữ nước

Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long.”

(Huỳnh Văn Nghệ)

Quang Dũng đã khắc họa thành công hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ ngòi xanh xao, tiều tụy nhưng mang một ý chí mạnh mẽ, tư thế chiến đấu oai hùng, tinh thần yêu nước thiết tha và tâm hồn lãng mạn hào hoa. Đó cũng chính là một nét khám phá mới của nhà thơ khi vẽ chân dung anh bộ đội cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh đó đoạn thơ như một khúc hùng ca bi tráng và oai hùng về một thời đại không thể nào quên với Quang Dũng và những người lính Tây Tiến qua sự kết hợp tài tình giữa bút pháp lãng mạn và bút pháp hiện thực, sử dụng thành công các biện pháp tu từ: ẩn dụ, đảo ngữ,… cùng một lối diễn đạt giàu cảm xúc, giàu hình ảnh.

Chiến tranh đã lùi xa, hòa bình lập lại nhưng có lẽ hình ảnh những người chiến sĩ đã ngã xuống vẫn in sâu trong từng tấc đất, bản làng, ngõ xóm. Tưởng chừng tất cả đã qua đi nhưng hinhf ảnh xương máu của cha ông một lần nữa được tái hiện trong âm hưởng bi tráng và niềm tự hào dân tộc:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Câu thơ đầu đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết “rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ vào chữ mồ, một âm tiết mang thanh bằng ở âm vực thấp, một từ gợi ý nghĩa hiện hữu của cái chết, câu thơ vì thế đem đến cảm giác trầm buồn và ảm đạm. Trong đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt: biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào. Tất cả được sử dụng một cách trang nghiêm như những nén tâm hương thắp lên để tưởng nhớ những người chiến sĩ đã hi sinh vì tổ quốc. “Mồ” chỉ nắm đất đắp vội chôn ngay dọc đường hành quân để đoàn quân tiếp tục lên đường. Đặt trong không gian nơi biên cương miền viễn xứ khiến nấm mồ ấy gợi bao xót xa. Khi nằm xuống, bất cứ ai cũng mong trở về nơi quê hương đất mẹ, được vùi mình xuống dòng nước mát quê hương. Nhưng ảm đạm thay họ phải hi sinh nơi đất khách quê người gợi biết bao thương tiếc. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật đảo “rải rác” lên đầu câu sự thưa thớt. Đó là những nấm mồ nằm lẻ loi dọc đường hành quân, cũng là nơi những người lính Tây Tiến đã nằm xuống. Đó cũng chính là hiện thực chiến tranh tàn khốc mà không ai có thể trốn tránh. Nhờ đó, cảm giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu năm đã nhanh chóng được xóa đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Nghệ thuật đảo trong cụm từ “chiến trường đi” nhấn mạnh điểm đến. Chiến trường chính là nơi sủng nổ bom rơi đầy gian khổ hi sinh. Nhưng chiến trường cũng chính là lựa chọn đầy trách nhiệm của cả thế hệ trẻ vì đối với họ “đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Và cuộc đời đẹp nhất là trên trận chiến đấu chống quân thù.

Hơn hết, cách nói “chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự dứt khoát quyết tâm. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là thanh xuân của những “chàng trai chưa trắng nợ anh hùng”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, câu thơ vang lên như một lời thề thiêng liêng cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Chúng ta cũng từng thấy tinh thần ấy trong “Trường ca những người đi tới biển” của nhà thơ Thanh Thảo:

“Chúng tôi đi chẳng tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi thì làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc.”

Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá. Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu làm nô lệ. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến chiến trường miền Tây thuở ấy:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là một hình ảnh chân thực đến xót xa của chiến tranh. Đó là sự thiếu thốn về vật chất. Họ hi sinh chỉ có tấm chiếu chôn vào lòng đất. Nhưng ở đây không có chiếu mà có áo bào. Hình ảnh áo bào có lẽ chính là tấm áo lính họ mặc chiến đấu hàng ngày, nó giống áo bào của những tráng sĩ xưa. Cách nói như vậy là để vinh danh những người lính Tây Tiến như cách tráng sĩ có da ngựa bọc thây, áo bào bọc thây. Quang Dũng có kể lại: “Khi tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm, nói áo bào thay chiếu là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi những đồng chí vừa ngã xuống”. Còn cụm từ “về đất” là cách nói giảm nói tránh nhưng có ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng và sâu xa. Chết không phải đi vào cõi hư vô mà là trở về với đất mẹ thân yêu. Đất mẹ mở lòng đang dang tay đón những đứa con ưu tú của mình. Các anh đã ngã xuống để hóa thân cho dáng hình xứ sở để mỗi tên làng, tên sông, tên núi đều có hình bóng các anh.

Hình ảnh con sông Mã lại một lần nữa xuất hiện: mở đầu cho cuộc hành trình trở về Tây Tiến trong kí ức của nhà thơ là con sông Mã. Và lúc này khi đưa tiễn những con người trở về với đất mẹ cũng là con sông Mã. Với nghệ thuật nhân hóa “sông Mã gầm” dòng sông ấy gầm lên trong cơn giận dữ đau thương và uất nghẹn. Đau thương ấy sẽ biến thành sức mạnh của lòng căm thù. Hơn hết “độc hành” tức là một mình. Những người lính Tây Tiến hi sinh là những mất mát không gì bù đắp được, để lại sự thương tiếc xót xa và hụt hẫng.

Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ có hồn. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc:

“Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!”

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 21

Đến với Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng mà thơ mộng. Đặc biệt hình ảnh người lính hiện lên qua khổ thơ thứ ba đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bài thơ được sáng tác khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết bài thơ này. Nhà thơ đã khắc họa người lính với hiện thực đầy khốc liệt:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Người lính sống nơi chiến trường khốc liệt – thiếu thốn mọi điều. Nhưng họ vẫn chủ động đối mặt với những khó khăn đó. “Không mọc tóc” cho thấy một sự kiên quyết – người lính chủ động cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt. Nhưng hình ảnh này còn có thể được hiểu khi gắn với thực tế cuộc sống của người lính tại rừng Trường Sơn lúc bấy giờ. Hóa chất của kẻ thù đã khiến tóc của họ bị rụng dần. Thế mới thấy, Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu.

Tiếp đến là hình ảnh “Quân xanh màu lá dữ oai hùng” – có thể hiểu đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang giúp người lính hành quân trong rừng. Nhưng nếu hiểu đó là màu xanh xao trên khuôn mặt của người lính bởi cơn sốt rét rừng thì mới thấy được sự khó khăn của họ.

Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về

“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Nhưng khác là ở đây, người lính Tây Tiến nhớ đang nhớ về quê hương của mình. Nhà thơ Quang Dũng cũng không né tránh sự hy sinh của người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.

Nếu ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, thì người lính Tây Tiến lại “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.

Có thể khẳng định rằng, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” là một khổ thơ hay. Hình ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, giúp bạn đọc hiểu hơn về cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc, cũng như tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 22

Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, “Tây Tiến” là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nối bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
……
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Khổ thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy: “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một “đoàn binh” lại mang “oai” của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng “gửi mộng qua biên giới” thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một “dáng kiều thơm” ở mảnh đất quê hương.

Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất: giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó.

Trước đó chỉ bằng hình ảnh “gục lên súng mũ bỏ quên đời”, Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua. Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những “nấm mồ viễn xứ” trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến.

Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống “giản dị và bình tâm” nhưng cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 23

Viết về Tây Tiến – Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những tình cảm, nỗi lòng người lính Tây Tiến qua đoạn thơ:

.. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

…..

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút đùa nghịch đầy chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc – đó là hậu quà của những cơn sốt rét rừng run người làm tiều tụy, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ… tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu lá…. Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm, xanh, rụng tóc… Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…”

Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương và để “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Những người chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tâm hồn đầy thơ mộng.

Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ành của người lính không xanh xao, tiều tuỵ mà oai phong, dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa.

úi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…

Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì “áo bào thay chiếu anh về đất”. Bằng hai chữ “áo bào”, nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý. một vẻ đẹp như những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường.

Rồi “anh về đất’, cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương ỵêu, thân thuộc ngày xưa. “Anh về đất là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước. Và sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng “gầm than trầm uất”, nỗi đau như dồn nén, quặn thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn chảy trong lòng, độc hành… chảy ngược vào tim.

Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.

Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng má còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 24

Quang Dũng – nhà thơ rất mực đa tình và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Thơ ông mang cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc. Bài thơ Tây Tiến với nỗi nhớ dạt dào đã quay lại thời gian để chân dung những chiến binh hiện lên đầy hào hoa, dũng cảm trong cảnh sắc thiên nhiên đậm chất thơ. Đặc biệt phải kể đến khổ thơ thứ ba với tất cả sự hào hùng, bi tráng, lãng mạn.

Nếu như đoạn thơ thứ hai mở ra khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc đầy mơ màng, thơ mộng với vẻ đẹp thắm thiết, mặn mà của tình quân dân, thì đến đoạn thơ thứ ba chân dung người lính được khắc họa rõ hơn bao giờ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm“

Người lính hiện lên đầy hào hùng, hào hoa vừa độc đáo vừa có phần kì lạ. Đoàn quân Tây Tiến hoạt động chủ yếu ở vùng rừng núi hiểm trở, núi cao thì thật cao, vực sâu thì thăm thẳm, bởi thế những trận sốt rét rừng khiến họ xanh xao, tiều tụy đến mức hình dáng cũng thay đổi “không mọc tóc”, “xanh màu lá”… Thế nhưng khó khăn không thể đánh gục ý chí chiến đấu, họ vẫn tràn đầy sinh khí oai hùng, biểu hiện cho tinh thần chiến đấu vững vàng dù hiểm nguy vây quanh, dù bệnh tật đau đớn, dù cuộc sống khó khăn họ vẫn giữ vẻ oai phong của những mãnh hổ nơi rừng thiêng.

Vẻ oai phong được thể hiện qua ánh mắt giận dữ đầy sự căm thù và khao khát lập công. Dường như vẻ oai hùng cũng khiến người lính có phần dữ dằn nhưng sau vỏ bọc ấy là những tâm hồn luôn khao khát yêu thương:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Tây Tiến và đoàn binh rất bi tráng trong những câu thơ tiếp theo:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Hình ảnh “mồ viễn xứ” là hình ảnh của cái chết, nói đến sự ra đi của người lính với những nấm mồ nằm rải rác nơi biên giới xa xôi. Câu thơ gắn liền với sự bi thương, bi lụy thế nhưng Quang Dũng không để người đọc chìm vào bi lụy nên câu thơ thứ hai ngay lập tức cân bằng lại đầy khỏe khoắn và đặc biệt là triết lí sống mạnh mẽ “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Những người lính Tây Tiến dường như lường trước được điều gì sẽ xảy đến và họ nguyện hiến dâng cả thanh xuân, cả đời xanh của mình cho Tổ quốc và coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Tác giả dùng cách nói giảm nói tránh để sự hi sinh bớt nặng nề, bớt bi thương trước hoàn cảnh thực tế vô cùng bi thảm. Khi người lính Tây Tiến ngã xuống, thậm chí không có một manh chiếu che thân, sống sao chết vậy. Con sông Mã đã từng chứng kiến biết bao vui buồn của cuộc đời người lính đã tấu lên khúc nhạc bi tráng vừa hào hùng, dữ dội lại vừa thương tiếc, ngậm ngùi để tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ thương yêu.

Như vậy, với ngòi bút lãng mạn và thủ pháp đối lập đoạn thơ đã cho ta thấy rõ hình ảnh người lính Tây Tiến gian khổ, khó khăn vẫn lẫm liệt oai phong trong gian lao thử thách, mất mát, hy sinh vẫn hiên ngang, hào hoa, thanh lịch. Hình ảnh người lính được tác giả vẽ bằng hai nét “bi” và “hùng”, từ đó phản ánh chân thực hiện thực khốc liệt đồng thời làm bật lên tinh thần chiến đấu và chiến thắng của lớp lớp thanh niên Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 25

Có những con người” Không cần ai biết đến tuổi tên nhưng họ đã làm ra đất nước” đó là hình tượng những người anh hùng vô danh đổ máu xương cho nền độc lập dân tộc, toả bóng mình tưới mát những trang thơ. Nếu ta đã từng biết đến những người lính nông dân trong “đồng chí” của Chính Hữu, “Quen nhau từ thủa chưa biết chữ” trong “Nhớ” của Hồng Nguyên thì hãy thêm một lần cảm phục yêu mến những người lính Tây Tiến trong thi phẩm cùng tên của Quang Dũng. Bức chân dung của họ được hiện lên qua 8 dòng thơ đặc sắc:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

…..

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Đúng như một nhà triết học La Mã cổ đại đã nói- hoàn cảnh rèn đúc nên con người, hoàn cảnh nào con người ấy. Với “Tây Tiến” hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội của núi rừng miền tây đã” hằn vết” lên cơ thể những chàng trai của mảnh đất thị thành dấu ấn không thể phai mờ- những hình ảnh mà cho tới mãi sau này vẫn còn ám ảnh trong miền hoài niệm của Quang Dũng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Tính chất khắc nghiệt của tự nhiên với sương muối giá rét, với tàn tích của dịch sốt rét rừng làm các chiến sĩ” không mọc tóc”. “Không mọc” hay đã rụng hết? Có lẽ đó là cách nói đầy bản ngã của Quang Dũng. Đẹp một cách dữ dội dù ” không mọc tóc” hay “quân xanh màu lá”, dù là in vết của bệnh tật, của hoàn cảnh, họ vẫn hiện lên đầy bi tráng hào hùng qua khuôn mặt dáng vẻ” dữ oai hùm” và đôi “mắt trừng” mở to đầy dữ dội như ánh nhìn căm thù sục sôi. Nhưng có phải chăng, khi ánh mắt ấy lại” gửi mộng qua biên giới”, mơ về Hà Nội với bóng hình một kiều nữ xa xôi:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Họ gửi vào giấc mơ, trong cả niềm thao thức dáng hình thủ đô với tất cả nhớ thương vời vợi. Nhớ Hà Nội- nơi miền quê của họ- nơi một thời giảng đường- nơi trái tim của cả nước.

Nhưng có lẽ dù lãng mạn tới đâu, ngọn gió thi hứng trong Quan Dũng vẫn phải cất cánh từ hiện thực. Đó là bản chất của thi ca nói riêng và nghệ thuật nói chung. Hiện thực tàn khốc của cuộc chiến dù đã được nhà thơ nói giảm nói tránh tới tối giản vẫn hiện lên đầy khốc liệt phũ phàng

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Đó là những nấm mồ không tên của bao chiến sĩ đã ngã xuống, Có lẽ nó cũng nhỏ nhoi “bằng phẳng như mặt đất rừng” của ông Sáu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang sáng. Những cái chết cao cả nhưng lặng thầm, vĩnh viễn ngủ yên trong lòng đất mẹ. Quang Dũng đã rất khéo léo khi sử dụng những từ Hán Việt ( biên cương, viễn xứ) vừa làm tăng tính trang trọng, bi tráng cho sự hi sinh, vừa làm giảm bớt cảm giác đau thương bi luỵ Những chiến sĩ của binh đoàn Tây Tiến, những chàng trai đôi mươi mười tám của mảnh đất Hà thành ra đi với lí tưởng cao đẹp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.

Cùng trong dòng chảy nỗi nhớ, Quang Dũng bật lên thơ trong tiếng nói cảm xúc, trong nỗi đau xé lòng nhưng đươc kìm nén để vọng lên trong hai câu thơ đầy tính nhạc:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Sự hi sinh của họ – ngay cả khi mãi mãi lìa xa cuộc đời như chiếc lá lìa cành vẫn thiếu thốn trong manh “áo bào” như của các chiến binh thủa xưa. “Về đất” vẫn là cách Quang Dũng nén nỗi đau của con tim để giảm đi phần bi luỵ , tăng thêm tính hào hùng. Nỗi đau của con người trào ra trong cảnh vật, trở thành tiếng “gầm” đầy đau thương oan trái, sông Mã- con sông kỉ niệm của binh đoàn Tây tiến như gào thét, cuộn sóng đầy đau đớn trước sự ra đi của những tri kỉ, “khúc độc hành” gợi nhớ tiếng hát của Kinh Kha bên bờ sông Dịch.

Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc như một trận động đất nhào nặn lại thi hứng hiện thực trong thi ca, những ngòi bút xông pha vào máu lửa trận chiến để sống và viết như Quang Dũng, Chính Hữu, Hồng Nguyên… đã tái hiện lại cả một thời đại lịch sử, Họ đã đúc nên bao tượng đài bất tử về những người lính chiến như đoàn binh Tây Tiến, mà ở đó- nói như một triết học gia” Họ giống nhau về tính phổ quát hơn là khác nhau về sự cá thể”

Trên đây là nội dung bài học Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chọn lọc hay nhất (25 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (8 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *