Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa (15 mẫu)

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa

Mục lục

Dàn ý Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa chi tiết

A. Mở bài

– Giới thiệu tác giả: Bằng Việt

  • Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
  • Thơ Bằng Việt có giọng điệu tâm tình, trầm lắng, cảm xúc tinh tế, do đó tạo được sức lôi cuốn với bạn đọc.

– Giới thiệu tác phẩm: Bếp lửa

– Giới thiệu khái quát về hai khổ cuối

B. Thân bài

1. Khổ thơ “Lận đận… bếp lửa!”

* Những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về cuộc đời của bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Những vần thơ chan chứa bao nghĩa nặng tình sâu của đứa cháu đối với bà. Bà quen dậy sớm để tiếp tục nhóm lên ngọn lửa:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

2. Khổ thơ “Giờ cháu… lên chưa?”

  • Cháu đã lớn khôn, đã được sống trong cuộc đời mới thật vui thật đẹp, giữa ngọn khói trăm tàu lửa trăm nhà.
  • Nhưng cháu vẫn không thể quên bếp lửa đơn sơ ấm áp của bà để rồi mỗi ngày đều tự hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi mà cũng là lời khẳng định: Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được bà và bếp lửa vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cháu đã được nuôi dưỡng và lớn lên từ đó.

C. Kết bài

  • Khẳng định giá trị của tác phẩm
  • Tình cảm của em dành cho tác phẩm

15 mẫu Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 1

Bằng Việt là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ Bằng Việt trong trẻo, thường khai thác những kỉ niệm trong sáng thủa thiếu thời và khơi gợi ước mơ tuổi trẻ. Bài thơ “Bếp lửa”là một trong những tác phẩm đầu tay của Bằng Việt. Bài thơ đã thể hiện sâu sắc và cảm động tình cảm của nhà thơ dành cho người bà và bếp lửa. Trong đó, hai đoạn thơ cuối của bài là những suy ngẫm về bà và bếp lửa của nhà thơ:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
…………………………..
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?

Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Ở những khổ thơ đầu, Bằng Việt đã đưa người đọc đến với những kỉ niệm của ông trong những năm tháng sống bên bà để từ đó bộc lộ tình cảm yêu thương, thấu hiểu cho những vất vả nhọc nhằn mà bà phải trải qua đồng thời bộc lộ lòng biết ơn bởi những gì mà bà đã làm cho cháu. Và tình cảm ấy tiếp tục được bộc lộ ở hai khổ thơ cuối khi nhà thơ bộc bạch những suy ngẫm về cuộc đời của bà.

Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Để rồi mỗi khi nhớ lại, cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nghệ thuật đảo ngữ: đưa từ láy “ lận đận” lên đầu câu, kết hợp với cụm từ “ đời bà”, “ mấy chục năm rồi”, hình ảnh ẩn dụ “ nắng mưa” đã diễn tả một cách sâu sắc và trọn vẹn về cuộc đời đầy những lận đận, gian nan, vất vả của bà. Đồng thời thể hiện sự thấu hiểu một cách sâu sắc trong tình cảm của cháu.

Phó từ “ vẫn” khẳng định thói quen không bao giờ thay đổi cảu bà “ thói quen dậy sớm’ để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, tình yêu thương cho cháu.Có thể nói, tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà sâu nặng, thiết tha.

Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay khẳng khiu, gầy guộc mà còn bằng tất cả tấm lòng đôn hậu đối với con cháu:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Điệp ngữ “nhóm”được nhắc lại 4 lần mang đến nhiều liên tưởng: “Nhóm bếp lửa”, “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh tả thực công việc nhóm bếp, nhóm lửa của bà. “ Nhóm niềm yêu thương”, “nhóm dậy cả những tâm tình” là hình ảnh ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý: bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và những người xung quanh niềm yêu thương, chia sẻ.

Chính từ đó mà, theo mạch suy ngẫm, nhà thơ đi lên khái quát rất tự nhiên và hợp lý: “Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa”. Đúng vậy, vì bếp lửa thật giản dị , bình thường và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kỳ diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu. Bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu.

Có thể nói, cảm xúc của nhà thơ như dâng trào khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Khổ thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định về bà: bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, luôn chăm lo cho mọi người.

Bốn câu kết thể hiện một cách đằm thắm tình thương nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã đi xa:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà , niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Dấu chấm giữa dòng thơ ngắt câu thơ thành hai câu tự sự để gợi sự chảy trôi của thời gian, sự biến đổi của không gian và vẽ lên một thực tại: người cháu năm xưa giờ đã lớn khôn, trưởng thành, đã được chắp cánh bay xa, được làm quen với những chân trời rộng mở.

Điệp ngữ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Điệp ngữ “ có” kết hợp với thủ pháp liệt lê và câu hỏi tu từ cuối câu cho thấy người cháu có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đã tìm được bao niềm vui mới, khẳng định đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, ngọn lửa ấy đã thành kỉ niệm, niềm tin nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài.

Niềm kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.

Như vậy, bằng biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp ngữ và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ cuối của bài thơ “Bếp lửa” đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn những suy nghĩ của cháu về cuộc đời bà để từ đó bộc lộ nỗi nhớ thương bà da diết. Đọc những vẫn thơ ấy, ta nhận ra ở nhà thơ Bằng Việt là tình yêu thương, sự thấu hiểu và lòng biết ơn vô tận của nhà thơ đối với bà và cũng là đối với quê hương đất nước. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

Qua dòng hồi tưởng của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và bếp lửa, nhà thơ đã bộc lộ những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước. Khổ thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người Việt: “ uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm hồn con người từ ấu thơ, để rồi như chắp cánh cho mỗi người bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 2

Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng dồi dào, vô tận cho văn học và nghệ thuật. Viết về đề tài này, nhà thơ Bằng Việt đã đem đến một thi phẩm vô cùng ý nghĩa mang tên “Bếp lửa”. Tác phẩm đã tái hiện thành công bức tranh sống động về tình bà cháu gắn bó, thân thiết. Đặc biệt, hai khổ thơ cuối bài đã khắc họa chân thực nỗi nhớ, tình yêu thương sâu đậm của đứa cháu dành cho người bà kính yêu.

Sau dòng hồi tưởng về khoảng thời gian thuở nhỏ đầy khó khăn, cực nhọc, nhân vật trữ tình đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với những hi sinh, vất vả của bà:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Hai chữ “nắng mưa” đã từng xuất hiện ở khổ thơ đầu tiên của bài. Đây là hình ảnh tượng trưng cho những vất vả, nhọc nhằn mà bà phải trải qua. Cuộc đời của bà “lận đận” với biết bao khó khăn. Nào là những năm “đói mòn đói mỏi”, “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”,… Ấy vậy nhưng bà vẫn tần tảo sớm hôm, chăm sóc và dạy dỗ đứa cháu nhỏ nên người. Nghệ thuật đảo ngữ đã làm câu thơ như biến thành một lời cảm thán, từ đó bày tỏ nỗi xót xa cho “đời bà”. Câu thơ “Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ” diễn tả một khoảng thời gian dài đằng đẵng, tuần hoàn, lặp lại. Người bà chịu thương chịu khó suốt hàng chục năm vẫn miệt mài dậy sớm nhóm lửa, nuôi dưỡng đứa cháu lớn khôn, nên người.

Tiếp nối mạch cảm xúc ấy, nhân vật trữ tình đã khẳng định ý nghĩa lớn lao, cao cả của tình yêu thương mà bà dành cho đứa cháu thơ ngây thuở nào:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Một lần nữa, cụm từ “ấp iu nồng đượm” đã được tác giả sử dụng. Bà nhóm bếp không chỉ bằng đôi bàn tay gầy guộc mà còn bằng cả tình thương, sự chăm chút, âu yếm. Ngọn lửa soi tỏ mọi thứ. Nó giúp cho đứa cháu nhỏ cảm nhận sâu sắc được tình yêu thương của bà. Những “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới” được sẻ chia. Điều này đã lan tỏa sự ấm áp tới mọi người chứ không riêng gì hai bà cháu. Từ ghép “chung vui” đã nói lên được niềm hạnh phúc của sự sum vầy, chia sẻ. Không chỉ vậy, ngọn lửa cháy còn sưởi ấm không gian lạnh lẽo, thắp sáng cả những “tâm tình tuổi nhỏ”, những ước mơ trong lòng đứa cháu. Và khi cảm xúc trào dâng, nhân vật trữ tình đã phải thốt lên:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Hình ảnh bếp lửa giản dị, gần gũi, thân thuộc với mọi gia đình ở làng quê Việt Nam. Ấy vậy mà nó vẫn thật “kì lạ”. Chỉ là chiếc bếp lửa thôi nhưng lại có thể khơi gợi lên trong lòng nhân vật bao xúc cảm, nhớ nhung, hồi tưởng. Có lẽ vì thế nên hình ảnh bếp lửa mới trở nên “thiêng liêng”. Sự thiêng liêng đó gắn cả với kỉ niệm về người bà đáng kính, trở thành một phần không thể tách rời trong tâm trí đứa cháu nhỏ năm nào.

Đứa cháu giờ đã lớn khôn, đến được nhiều nơi, thấy được nhiều thứ hơn xưa. Tuy vậy, trong thâm tâm của cháu vẫn luôn nhung nhớ về hình ảnh bếp lửa, về người bà thương yêu:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Một lần nữa, tác giả đã sử dụng biện pháp điệp. Từ “trăm” lặp lại đến ba lần cùng các hình ảnh “ngọn khói”, “tàu”, “lửa”, “nhà”, “niềm vui”, “ngả” đã đem đến ấn tượng vô cùng sâu sắc cho người đọc. Việc “đi xa” đã giúp nhân vật trữ tình mở mang tầm mắt, thấy được bao điều mới mẻ, kì thú trên thế giới. Thế nhưng càng đi, đứa cháu nhỏ năm nào lại càng nhớ bà, không ngừng tự nhắc nhở mình về những kí ức đẹp đẽ khi xưa. Câu hỏi tu từ ở cuối bài như một lời hỏi thăm đầy nghẹn ngào, xúc động. Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại càng tô đậm hơn nỗi nhớ da diết của người cháu nơi phương xa. Từ đó, đem đến bao suy tư, chiêm nghiệm cho người đọc về giá trị của tình cảm gia đình.

Vậy, chỉ với hai khổ thơ ngắn gọn, Bằng Việt đã đem đến bức tranh thật đẹp để ca ngợi tình bà cháu gắn bó, cảm động. Tác giả sử dụng một loạt các biện pháp tu từ, lồng ghép cùng các hình ảnh gần gũi với cuộc sống con người hàng ngày. Từ đó khiến độc giả như cảm nhận được rõ hơn sự ấm áp, yêu thương giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả đều đã góp phần chứng minh sự tài hoa trong ngòi bút Bằng Việt. Đồng thời, ngợi ca hình ảnh người bà tần tảo, giàu đức hi sinh.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 3

Có lẽ, khi nhắc đến hình ảnh bếp lửa là trong lòng mỗi chúng ta lại sống dậy những kỉ niệm thời thơ bé với hương cay cay của khói bếp. Chính vì vậy, nhà thơ Bằng Việt đã tái hiện lại hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm qua hai khổ thơ cuối bài thơ “Bếp lửa” bằng tất cả cảm xúc tin yêu và chân thành của mình.

Tác giả Bằng Việt sinh năm 1941 thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông mang giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, ngôn ngữ điểm đạm và hệ thống thi ảnh đặc sắc. Tác phẩm “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 và được đưa vào tập “Hương cây – Bếp lửa” năm 1968 với sự kết hợp linh hoạt của thể thơ bảy chữ và tám chữ.

Đến với những khổ thơ cuối của tác phẩm, nhà thơ đã thể hiện những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó thức khuya dậy sớm vì bữa cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm kích và biết ơn bà của mình. Bà không quản khó khăn, mệt nhọc “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa” để thổi nên nồi cơm chan chứa tình yêu thương. Tác giả diễn tả cuộc đời bà lận đận, vất vả, đồng thời thể hiện sự thấu hiểu một cách sâu sắc tình cảm của đứa cháu dành cho bà. Dù mấy chục năm trôi qua nhưng thói quen của bà vẫn không hề thay đổi “thói quen dậy sớm” để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, niềm yêu thương cho đứa cháu bé nhỏ. Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay gầy guộc mà còn bằng tất cả tấm lòng đôn hậu đối với con cháu. Bà “nhóm bếp lửa”, “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh tả thực công việc nhóm bếp, nhóm lửa của bà. Bà còn “nhóm niềm yêu thương”, “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” là những ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý, bà đã khơi dậy trong tâm hồn đứa cháu và những người xung quanh niềm yêu thương và sự sẻ chia. Chính vì vậy mà bếp lửa thật bình thường, giản dị và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam nhưng bếp lửa cũng thật kì diệu và thiêng liêng để nhà thơ phải thốt lên rằng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”. Bếp lửa thiêng liêng, thần kì vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa và truyền lửa, tạo nên tuổi thơ của đứa cháu. Bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống, tinh thần của cháu.

Trong 4 câu thơ cuối, nhà thơ Bằng Việt đã bộc lộ nỗi thương nhớ, tấm lòng kính yêu, biết ơn sâu sắc dành cho bà của mình:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”

Tác giả đã gợi sự chảy trôi của thời gian, sự biến đổi của không gian và vẽ lên một thực tại rằng người cháu năm xưa giờ đây đã lớn khôn, đã đi xa “có ngọn khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng những kí ức về bà, về tuổi thơ vẫn chưa bao giờ phai mờ. Người cháu đã có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đã tìm được bao niềm vui mới nhưng chưa một lần quên đi được ngọn lửa của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành một kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ, là niềm tin để nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài của sự trưởng thành. Khổ thơ khép lại như chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người Việt Nam đó là “uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ để rồi trở thành động lực chắp cánh cho mỗi con người được bay cao, bay xa hơn trên hành trình đi tìm mảnh ghép cuộc đời của chính mình.

Nhà thơ đã kết hợp nhiều phương thức biểu đạt như biểu cảm, tự sự, miêu tả, bình luận và sử dụng hình ảnh thơ độc đáo, chất thơ trong trẻo, trẻ trung để diễn tả về hình ảnh của người bà và nỗi nhớ của đứa cháu dành cho bà. Qua đó, nhà thơ đã bộc lộ những tình cảm thiêng liêng với gia đình, quê hương, đất nước bởi nhớ về bà, về bếp lửa là nhớ về cội nguồn dân tộc.

Có thể nói, cảm xúc của nhà thơ như dâng trào khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Hai khổ thơ cuối của bài thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định rằng bà là một người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, luôn luôn chăm lo cho mọi người mà không quản nắng mưa, mệt nhọc.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 4

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài, đã thể hiện tình cảm bà cháu tha thiết qua những dòng hồi tưởng của tác giả chân thành và cảm động. Điều này được bộc lộ rõ nét qua hai khổ cuối của bài thơ Bếp lửa.

Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà. Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình:

“Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay người bà. Đứa cháu ấy đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn không nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần của đứa cháu ở phương xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là một hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc. “Bếp lửa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật không ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy.

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.

Từ những suy ngẫm của người cháu, khổ thơ cuối bài thơ “Bếp lửa” biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 5

Hai khổ thơ cuối bài thơ Bếp lửa là sự tái hiện những hồi ức về người bà tần tảo của một thời tuổi thơ hiện hữu về trong tâm trí người cháu với những gian khó, vất vả. Hình ảnh người bà đã trở thành một phần ký ức trong cháu, là mảnh ghép trong tâm hồn cháu để rồi cho đến mãi sau này khi đã trưởng thành và phải sống xa nhà thì hồi ức về sự hy sinh của bà đã nhắc nhở người cháu không được quên những tận tụy và tình cảm ấm áp của bà, không quên hình ảnh thân thuộc của quê hương.

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

………

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Trong cuộc đời ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp thân thương. Ko chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của 2 bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.

Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng Trái Đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ:
– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của 2 bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp nơi nắng mưa 2 bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ ko bao giờ quên được vì đó chính là cội nguồn, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu. Đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. “Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy …..”

Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó, bởi nơi đây đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 6

Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt có giọng điệu tâm tình, trầm lắng, cảm xúc tinh tế, do đó tạo được sức lôi cuốn với bạn đọc. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài, đã thể hiện tình cảm bà cháu tha thiết qua những dòng hồi tưởng của tác giả chân thành và cảm động. Điều này được bộc lộ rõ nét qua hai khổ cuối của bài.

Khổ thơ đầu là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về cuộc đời của bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Một lần nữa, tác giả khẳng định cuộc sống của bà còn nhiều vất vả, thiếu thốn “lận đận, biết mấy nắng mưa”. Bà cần mẫn, chịu thương chịu khó, thức khuya “dậy sớm” vì con vì cháu. Những vần thơ chan chứa bao nghĩa nặng tình sâu của đứa cháu đối với bà. Bà quen dậy sớm để tiếp tục nhóm lên ngọn lửa:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà. Bà nhóm lên những gì? Đầu tiên là nhóm bếp lửa “ấp iu nồng đượm” để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương sớm. Bà nhóm bếp luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình thương yêu vô hạn. Rồi “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà thay lời dạy cháu phải biết mở lòng với mọi người xung quanh, phải biết đoàn kết, gắn bó với xóm làng. Cuối cùng, “nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ” – bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm lung linh huyền ảo. Theo mạch suy ngẫm đó, nhà thơ đi đến khái quát rất tự nhiên và hợp lí:

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Đúng vậy. Bếp lửa thật giản dị, phổ biến trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kì diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu. Bếp lửa nhóm lên không chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà được nhóm lên từ chính ngọn lửa trong lòng bà. Bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu. Hơn thế, qua bếp lửa của bà, người đọc cảm nhận thật sâu sắc linh hồn của một dân tộc vất vả gian lao mà tình nghĩa.

Trong bài thơ, mười lần xuất hiện bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Người bà đã, đang và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bốn câu kết thể hiện một cách xúc động tình thương nhớ, niềm kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã đi xa:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tà
Có lửa trăm nhà, tiền vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở.
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Cháu đã lớn khôn, đã được sống trong cuộc đời mới thật vui thật đẹp, giữa ngọn khói trăm tàu lửa trăm nhà. Nhưng cháu vẫn không thể quên bếp lửa đơn sơ ấm áp của bà để rồi mỗi ngày đều tự hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi mà cũng là lời khẳng định: Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được bà và bếp lửa vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cháu đã được nuôi dưỡng và lớn lên từ đó. Chúng ta biết rằng bài thơ này được viết khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô. Ở nơi xứ lạ xa xôi, tác giả nhớ về bếp lửa về bả cũng đồng nghĩa nhở về tổ ấm gia đình với niềm vui sum họp, nhớ thương quê hương đất nước. Như nhà thơ I – li – a Ê – ren – bua đã viết : “Lòng yêu nhà yêu làng xóm yêu miền quê … trở lên lòng yêu tổ quốc.

“Bếp lửa” là một bài thơ hay, kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố biểu cảm, tự sự và trữ tình, nhiều hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Tình bà cháu trong bài thơ là tình cảm thiêng liêng, cảm động. Bà dành cho cháu những hi sinh thành lặng. Bà là mái ấm chở che, bao bọc tuổi thơ dại khổ của cháu trước những mất mát, đau thương của cuộc sống Vì người cháu dù lớn khối, xa vòng tay bà vẫn nhớ đến bà với lòng tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho, cháu được cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trường tồn bất diệt. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng người đọc một tình cảm đẹp đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 7

Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để nhóm bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, tỏa sáng trong gia đình:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà lặng lẽ chịu đựng, hi sinh để: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố”. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà thân thuộc có nỗi vất vả, gian lao của người bà.

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.

Trong bài thơ có tới mười lần người bà hiện diện cùng bếp lửa với vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:

Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.

Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 8

Ai sinh ra và lớn lên cũng mang theo bên mình một hành trang chứa đựng bao kỷ niệm của một thời tuổi thơ. Cái tuổi thơ của một thời trong trẻo bên người thân. Và với riêng nhà thơ Bằng Việt thì ông đã có cho mình một tuổi thơ như thế, tuổi thơ bên người bà, những kỷ niệm mà cho mãi đến sau này khi đã trưởng thành, khi xa nhà thì những kỷ niệm đó vẫn trở về hiện hữu. Những kỷ niệm về bà bên chiếc bếp lửa. Đó là lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời.

Dòng giã tám năm bên bà trong những năm tháng chiến tranh hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông.

Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để nhóm bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, tỏa sáng trong gia đình:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà lặng lẽ chịu đựng, hy sinh để: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố”. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà thân thuộc có nỗi vất vả, gian lao của người bà.

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.

Trong bài thơ có tới mười lần người bà hiện diện cùng bếp lửa với vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:

Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.

Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 9

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ của Bằng Việt thật thiết tha và nồng thắm. Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp lửa chờn vờn sương sớm mà sao tha thiết nghĩa tình thế, mà sao lắng sâu đến thế. Thì ra có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, lại hiện hình lên những tình cảm thiết tha, chân thành không thể nào quên. Cứ thế bài thơ Bếp lửa đã đọng trong lòng ta những dư vị ngọt ngào.

Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh gần gũi bếp lửa. Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt

Xuyên suốt cả bài thơ là bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu bên bà. Được bà chăm sóc, được bà dạy, bà chứng kiến sự trưởng thành của cháu. Như một thước phim quay chậm, mọi kỷ niệm ùa về trong tâm trí tác giả khiến ông bồi hồi, xúc động. Hồi ức vẫn còn đó, hiện tại trong tâm trí nhà thơ chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm với triết lí sâu xa:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”.

Cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ “lận đận”. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng. chăm sóc cho con cháu.

Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh vẫn đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. “Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.

Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”.

Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.

Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.

Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ẩm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.

Thật vậy, chỉ khi nào con người ta phải sống xa gia đình, xa người thân thì những ký ức mới hay trở về. Và với tác giả cũng vậy.

Dù giờ đây, tuy không được ở gần bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luôn hướng về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ:
– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”

Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được bà và tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa, rộng lớn; bay tới những cuộc sống đầy đủ, với nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc khắp nơi, khắp chốn. Vậy mà cháu vẫn không nguôi nhớ bà, không quên ngọn lửa của bà. Câu hỏi tu từ như một lời tự vấn, lời độc thoại:

“- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí người đọc. Người cháu đang tự nhắc nhở bản thân mình luôn phải nhớ về “Bếp lửa” của quê hương, nhớ về bà, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chúng cháu phương xa. “Bếp lửa” vừa thực tế, vừa có ý nghĩa biểu tượng cho sự yêu thương, niềm tin, nguồn cội gia đình và quê hương, sức sống bền bỉ của con người.

Bài thơ khép lại bằng một dấu câu đặc biệt, dấu chấm lửng. Dấu câu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết: sống chung thủy, nhân nghĩa; phải có lòng biết ơn, có cách đối xử ân tình với gia đình, với láng giềng, với quê hương, với nguồn cội.

Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “bếp lửa” tượng trưng cho những kỉ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang để người cháu bước vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xa…

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 10

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.

Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc mười chín tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà.

Những khổ đầu bài thơ “Bếp lửa” là hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà, là những hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa tuổi thơ. Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (bốn lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lý, điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa:

“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người cháu luôn đau đáu, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:

“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…”

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 11

Trong cuộc đời ai cũng có cho mình những kỷ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên trong sáng. Những kỷ niệm ấy là những điều thiêng liêng thân thiết nhất. Nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người xuất hành trình dài và rộng của cuộc đời và Bằng Việt cũng có riêng một kỷ niệm đó chính là những tháng năm sống bên bà cùng bà nhóm lên bếp lửa thân thươn. Không chỉ vậy điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu qua bài thơ Bếp Lửa đặc biệt là hai khổ thơ cuối.

Bếp Lửa được ông sáng tác năm 1963 khi 19 tuổi và đang du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu đồng thời, thể hiện lòng kính yêu sự trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, với gia đình quê hương đất nước. Tình cảm và những kỷ niệm của bà được khơi gợi qua hình ảnh bếp lửa, ở nơi đất khách quê người bắt gặp hình ảnh bếp lửa tác giả chợt nhớ về người bà.

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Cụm từ biết mấy nắng mưa gợi lên cuộc đời vất vả gian truân của bà lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ nhóm bao gồm rất nhiều nghĩa nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sáng sớm, mỗi chiều. Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ ấp iu nồng đượm gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn được than hồng bởi bàn tay khéo léo cần mẫn của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm những cả tình yêu thương, sự san sẻ chung vui tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây hành động nhóm lửa của bà không chỉ đơn thuần là hành động nhóm bếp thông thường mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho ý nghĩa cuộc sống. Qua hành động nhóm lửa bà muốn truyền lại cho người sau hơi ấm của tình yêu sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa bà đã gợi cả những ký ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là sự khắc ghi tới cội nguồn quê hương đất nước của dân tộc mình từ đó bếp lửa trở nên kỳ lạ thiêng liêng.

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa

Từ cảm thán Ôi kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ để thể hiện sự ngạc nhiên ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lý điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Bếp Lửa và bà chưa hóa thân vào là một luôn rực cháy bất tỉnh thiêng liêng.

Khổ cuối bài thơ là lời của bài chân thành của người cháu khi đã lớn khôn trưởng thành dù cho khoảng cách về không gian thời gian, có xa xôi khói trăm tàu, lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả nhưng người cháu vẫn luôn khắc họa trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà và bếp lửa nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa

Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại giữa khói lửa của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỷ niệm tuổi thơ về bà, một người truyền lửa hoặc truyền sự sống tình yêu thương và niềm tin dai dẳng bất diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về Bếp lửa , nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người cháu luôn đau đáu thiết tha, nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương đất nước.

Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc hình tượng. Bếp Lửa được thể hiện độc đáo của giọng điệu tâm tình thiết tha, nhịp điệu thơ linh hoạt kết hợp với lối trùng điệp khiến cho lời thơ và hình ảnh bếp lửa tràn ra dâng lên mỗi lúc thêm nồng nàn ấm nóng, khiến cho người đọc thấy thấm thía xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết kỉ niệm ấu thơ.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 12

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Bằng Việt cải thiết tha nồng thắm chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp lửa tròn vườn xương sớm mà sao tha thiết nghĩa tình thế mà sao nắng sâu đến thế. Có khi những điều nhỏ nhoi giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình chứa đựng những điều thiêng liêng đã hiện lên hình ảnh thiết tha chân thành không thể nào quên, cứ thế bếp lửa đã đọc trong lòng ta những dư vị ngọt ngào

Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu với bà với gia đình quê hương đất nước. Tình cảm và những kỷ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh gần gũi bếp lửa trong biết bao kỷ niệm tuổi thơ Bếp Lửa in dấu đậm sâu trong suy nghĩ của Bằng Việt.

Xuyên suốt cả bài thơ là bao nhiêu kỉ niệm thời thơ ấu quên bà được bà chăm sóc, dạy dỗ, chứng kiến từng sự trưởng thành của cháu như một thước phim quay chậm. Mọi kỷ niệm ùa về trong tâm trí tác giả khiến ông xúc động

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Cảm xúc biết mấy nắng mưa được lặp lại giống ở khổ 1 mở đầu bài thơ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Có phải đó là lời nhắn mạnh sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ lận đận. Bao nhiêu khó khăn vất vả gian nan biết mấy nắng mưa và âm thầm chịu đựng để được lo lắng chăm sóc cho con cháu. Đã mấy chục năm rồi chiến tranh vẫn đi qua gian khổ, nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt. Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm cuộc đời bà cứ gian nan vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Bà là người thức khuya dậy sớm chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Từ nhóm được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ giống như lời khẳng định bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, sự hi sinh cao cả. Khi nhóm lên lửa bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Bên cạnh đó bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã từng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa ấp nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người, người bà kỳ diệu ấy đã nhóm khơi dậy giáo dục , bù đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn với ước mơ lẽ sống tâm tình tuổi nhỏ.

Bài thơ khép lại bằng một dấu câu đặc biệt dấu chấm lửng dấu câu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết, sống chung thủy, nhân nghĩa, phải có lòng biết ơn, cách đối xử ân tình và gia đình, láng giềng với quê hương nguồn cội. Từ hình ảnh bà cháu bài thơ đang dần tính tình yêu làng quê, yêu tổ quốc và hình tượng bếp lửa tượng trưng cho những kỷ niệm ấm lòng, trở thành niềm tin thiêng liêng kỳ diệu in sâu vào tâm hồn tác giả.

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 13

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt thiết tha, nồng nàn. Chỉ là tiếng gà mái nhảy nhót trong một trưa nắng, chỉ là ánh lửa bập bùng trong sương sớm… mà sao tha thiết về tình người, mà sao mà sâu lắng đến thế. Hóa ra đôi khi những điều nhỏ bé, giản dị nhất lại chứa đựng những cảm xúc, lắng đọng những điều thiêng liêng, bộc lộ những tình cảm chân thành khó quên. Cứ thế, bài thơ Bếp Lửa đã lắng đọng trong lòng ta những dư vị ngọt ngào.

Đoạn thơ gợi những kỉ niệm xúc động về người bà, đồng thời thể hiện tình cảm kính yêu, kính trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước. Những cảm xúc, kỉ niệm về bà gợi lên từ hình ảnh bên bếp lửa. Trong rất nhiều kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt.

Xuyên suốt bài thơ là bao kỉ niệm thơ bên em. Được bà chăm sóc, được bà dạy dỗ, được chứng kiến sự trưởng thành của các cháu. Như một thước phim quay chậm, tất cả những ký ức về mùa hè hiện về trong tâm trí anh khiến anh bồi hồi và xúc động. Kỷ niệm còn đó, giờ đây trong tâm trí nhà thơ hiện lên những dòng suy tư triết lí sâu xa:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”.

Cảm giác “biết mấy giọt nắng mưa” được lặp lại như ở khổ thơ đầu, đầu bài thơ:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Phải chăng đó là điểm nhấn, điểm nhấn cho những nỗi buồn đau khổ của cuộc đời nàng? Cuộc đời của cụ bà chỉ gói gọn trong hai chữ “truyền thống”. Biết bao khó khăn, gian khổ, vất vả, “biết bao mưa nắng”, mẹ âm thầm chịu lửa để được lo lắng, chăm sóc các con, cháu.

Mấy chục năm rồi, chiến tranh vẫn còn, gian khổ chưa nguôi, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc sống của cô thật khó khăn, tưởng chừng như sẽ không bao giờ kết thúc. Mẹ là người thức khuya, dậy sớm, chịu khổ nhất trong gia đình, nhưng mẹ cũng là người nhóm lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như một lời khẳng định: bà là người đã thắp lên trong lòng con mình ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hi sinh cao cả. Khi thắp lên “ngọn lửa ngọt ngào”, bà đã dạy cho các cháu của mình tình yêu thương của người thân. Bằng tình yêu quê “khoai, sắn”, mẹ đã dạy con yêu làng, yêu quê nghèo. “Góp gạo nếp mới có nhau”, mẹ đã dạy anh phải luôn mở lòng với mọi người xung quanh.

Bên cạnh đó, cô cũng nhắn nhủ anh đừng bao giờ quên những năm tháng yêu nhau, những năm tháng khó khăn mà hai người đã cùng nhau trải qua. Họ không chỉ thắp lên ngọn lửa đam mê và cháy sáng trong lòng mỗi người. Người bà kì diệu ấy đã đánh thức, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho con cháu cả về thể xác lẫn tâm hồn về ước mơ và lẽ sống của những đứa “trí óc trẻ thơ”.

Cái bếp của cô khó tính, cầu kỳ, xa lạ. Bà nuôi tôi không lớn bằng cái lò. Vì giờ đây, tôi đã đi du học để tận hưởng trời Nga xa Nhân Mã, xa bà ngoại, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc sống của bạn giống như một câu chuyện cổ tích. Và ở đó, bà là bà tiên dịu dàng, luôn nâng đỡ con trên mỗi bước đường đời. Tôi lớn lên từ bếp lửa của bà. Từ một cuộc sống nghèo khó, bà đã mơ ước được đưa cháu trai của mình đi du học. Tất cả những gì tôi có được hôm nay là nhờ ngọn lửa trong bạn, ngọn lửa ấy sẽ tiếp sức cho con người tôi tự tin bay vào đời cao rộng.

Đứa cháu không thể lớn, hay dù đã trưởng thành về thể chất nhưng tâm hồn cháu không thể lớn nếu cháu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng tấm lòng của người bà hết mực yêu thương cháu. Người bà có một sức mạnh kỳ diệu từ trái tim, đánh thức trong lòng người cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho những ước mơ của cháu bay cao bay xa để mai sau cháu không lớn lên được nên người.

Âm điệu bài thơ dạt dào, lan tỏa như ngọn lửa ấm áp hay đó là nỗi niềm đang trào dâng trong lòng khiến nhà thơ phải nhẹ nhàng:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Bài thơ chỉ có tám chữ nhưng có sức gợi tả và suy nghĩ tình cảm của tác giả đối với hình ảnh bếp lửa. Gắn liền với hình ảnh người bà – người giữ lửa, thắp lửa, truyền lửa, người xây dựng tuổi thơ. cho bạn. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh linh hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả, cho dù lúc này hai người đã xa cách.

Quả thật, chỉ khi con người ta phải sống xa gia đình, xa những người thân yêu thì ký ức mới ùa về. Và đối với tác giả cũng vậy. Dù bây giờ, dù không gần bà, gần quê nhưng tâm hồn đứa cháu luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mẹ, nơi có người bà lặng lẽ, hiu quạnh:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ:

– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…

Những năm dài phía trước đã trôi qua. Đứa cháu năm nay chưa lớn, đã cùng bà yêu tung cánh bay về phương trời xa rộng; bay đến những cuộc đời no đủ, với bao niềm vui, hạnh phúc ở mọi nơi, mọi nơi. Chính vì thế tôi vẫn không nhớ anh, không quên ngọn lửa của anh. Câu hỏi tu từ như một lời thẩm vấn, độc thoại:

“- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Khép lại bài thơ Thật khéo, thật hay, có sức giết chết ngày tháng trong lòng người đọc. Người cháu đang tự nhắc mình phải luôn nhớ về “bếp lửa” của quê hương, nhớ về bà ngoại, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người cháu phương xa. “Bếp lửa” vừa thiết thực, vừa là biểu tượng của tình yêu thương, thủy chung, cội nguồn gia đình, quê hương và sức sống bền bỉ của con người.

Bài thơ khép lại bằng một dấu chấm câu đặc biệt, một dấu chấm lửng. Dấu câu như gợi mở về một bài học đạo đức tha thiết: sống thủy chung, nhân hậu; Phải có tình nghĩa, có cách đối xử với tình cảm gia đình, với làng xóm, với quê hương, với cội nguồn.

Từ tình cảm ông bà, bài thơ nâng lên thành tình yêu làng, yêu Tổ quốc. Và hình ảnh “bếp lửa” tượng trưng cho những kỉ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu đi sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang cho em bước vào đời, nâng cao đôi cánh ước mơ nơi phương xa…

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 14

Trong cuộc đời, ai cũng có cho mình những kỉ niệm về một thời tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những gì thiêng liêng và thân thiết nhất, chúng có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có một kỷ niệm đặc biệt, đó là những năm tháng được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa thân yêu. Không chỉ vậy, điều in đậm trong tâm trí Bằng Việt mà còn là tình cảm bền chặt của hai bà cháu. Ta có thể cảm nhận được điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.

Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 khi mới mười chín tuổi và đang du học ở Liên Xô. Đoạn thơ gợi lại những kỉ niệm cảm động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện tình cảm kính yêu, kính trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Những cảm xúc, kỉ niệm về bà gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Nơi đất khách quê người, nhìn hình ảnh bếp lửa, tác giả nhớ đến người bà của mình.

Những khổ thơ đầu của bài thơ “Bếp lửa” là hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho những dòng hồi tưởng xúc động về bà, những hồi ức về kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với bếp lửa. . Sau khi hồi tưởng về tuổi thơ bên bà, những đứa cháu tiếp tục suy tư, ngẫm nghĩ về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Cụm từ “biết mấy giọt nắng mưa” gợi lên cuộc sống của người phụ nữ vất vả, gian khổ nhưng vẫn ánh lên phẩm chất thiêng liêng, cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Từ “nhóm” (bốn lần) bao hàm nhiều nghĩa, thể hiện ý nghĩa cao cả của công việc mà mẹ vẫn làm mỗi sớm tối: Mẹ là thành viên của nhóm và lửa cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm và nóng. , tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ “trầm ngâm” gợi lên công việc bếp núc và bếp lửa luôn được đảm đang bởi đôi bàn tay hồng hào khéo léo, tiết kiệm, đảm đang của bà. Cô đốt lửa mỗi sáng cũng là thắp lên tình yêu thương, niềm vui sẻ chia và tình cảm tuổi thơ của những đứa cháu. Lúc này, hành động nhóm lửa của bà không chỉ là một hành động nhóm bếp thông thường nữa mà nó đã trở thành một hình ảnh ẩn dụ thể hiện ý nghĩa của việc bà nhóm lửa. Thông qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền đến cháu hơi ấm của tình yêu thương, sự sẻ chia với mọi người xung quanh. Và chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi lên những kí ức tuổi thơ trong lòng người cháu để con cháu mãi nhớ về nó và đó cũng là nỗi nhớ mãi khắc ghi về cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc. Tôi. Từ đó bếp lửa trở nên thiêng liêng lạ lùng “Ôi lạ lùng và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ diễn tả sự ngỡ ngàng, ngơ ngác như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữa cuộc sống thôn dã. Bếp lửa và bà như hóa thân làm một, luôn rực cháy, bất diệt và thiêng liêng.

Khổ thơ cuối là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi chưa trưởng thành. Dẫu cho khoảng cách về không gian và thời gian có xa xôi “ trăm khó khăn trăm nhà cháy nhà trăm niềm vui nỗi buồn” nhưng người cháu luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ bà nội và bếp lửa:

“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại và bếp lò đơn sơ, bình dị của bà cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa bà nhóm lên trong từng đốm lửa đầu thu. trường tồn mãi trong lòng cháu con. Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức tuổi thơ của cô – người truyền lửa, truyền sức sống, tình yêu thương và niềm tin bất diệt cho thế hệ sau. Vì vậy, nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Đoạn thơ được kết hợp với câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ da diết, xa xăm. Người cháu luôn đau đáu, tha thiết nhớ về tuổi thơ, nhớ gia đình, nhớ quê hương đất nước.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình ảnh bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu thiết tha, giàu cảm xúc; nhịp thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được vận dụng, biến hóa khiến cho lời thơ với hình ảnh ngọn lửa bừng cháy, bốc lên, mỗi lúc một nồng nàn, ấm áp hơn. Từ đó, khiến người đọc cảm thấy thực sự hết hồn, xúc động trước nỗi nhớ da diết về những kỉ niệm với người cháu và tấm lòng chân thành của nhà thơ đối với người bà kính yêu của mình. Qua đó ta càng thấy yêu, càng trân trọng tình cảm gia đình, quê hương, đất nước. Từ đó mới lưu lại được hết lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, nó ý nghĩa biết bao:

“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…”

Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 15

Khi lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể là kỉ niệm với người mẹ thân yêu, với người cha tôn kính, có thể là với người bà trân trọng. Với Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của mình là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện cùng bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả nhớ về bà và viết về bà qua bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa. Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong quá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.

Xuyên suốt cả bài thơ là bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu bên bà. Được bà chăm sóc, được bà dạy, bà chứng kiến sự trưởng thành của cháu. Như một thước phim quay chậm, mọi kỷ niệm ùa về trong tâm trí tác giả khiến ông bồi hồi, xúc động. Hồi ức vẫn còn đó, hiện tại trong tâm trí nhà thơ chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm với triết lí sâu xa:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”.

Cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ “lận đận”. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng, chăm sóc cho con cháu.

Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh vẫn đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. “Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.

Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”.

Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.

Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.

Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.

Thật vậy, chỉ khi nào con người ta phải sống xa gia đình, xa người thân thì những ký ức mới hay trở về. Và với tác giả cũng vậy. Dù giờ đây, tuy không được ở gần bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luôn hướng về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ:

– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”

Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được bà và tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa, rộng lớn; bay tới những cuộc sống đầy đủ, với nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc khắp nơi, khắp chốn. Vậy mà cháu vẫn không nguôi nhớ bà, không quên ngọn lửa của bà. Câu hỏi tu từ như một lời tự vấn, lời độc thoại:

“- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí người đọc. Người cháu đang tự nhắc nhở bản thân mình luôn phải nhớ về “Bếp lửa” của quê hương, nhớ về bà, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chúng cháu phương xa. “Bếp lửa” vừa thực tế, vừa có ý nghĩa biểu tượng cho sự yêu thương, niềm tin, nguồn cội gia đình và quê hương, sức sống bền bỉ của con người.

Bài thơ khép lại bằng một dấu câu đặc biệt, dấu chấm lửng. Dấu câu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết: sống chung thủy, nhân nghĩa; phải có lòng biết ơn, có cách đối xử ân tình với gia đình, với láng giềng, với quê hương, với nguồn cội.

Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa (15 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (3 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *