Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ ngắn gọn, hay nhất (17 Mẫu)

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 17 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Mục lục

Dàn ý Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12

Dàn ý Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Số 1

I. Mở bài:

  • Đôi nét về tác giả, tác phẩm
  • Giới thiệu nhân vật

II. Thân bài:

* Xuất thân của A Phủ

  • Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.
  • Là con người không bao giờ lùi bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.

* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý

  • Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.
  • Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt
  • Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.

* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:

  • Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”
  • Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.
  • Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.

* Đánh giá

  • Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.
  • Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.
  • Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng
  • Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.

III. Kết bài:

Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Dàn ý Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Số 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật A Phủ.

2. Thân bài

a. Số phận bất hạnh và những vẻ đẹp của A Phủ:

– Mồ côi cha mẹ sau một trận dịch đậu mùa, bị bán cho người Thái, nhưng với bản lĩnh và tính gan bướng anh bỏ trốn lên Hồng Ngài, đi làm thuê cho người ta tự nuôi sống bản thân.

– Là một chàng trai chịu khó, lại lăn lộn từ sớm thành thử A Phủ trở nên rất giỏi và thạo nhiều việc “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”

– Khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lại chăm chỉ, “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy lúc mà giàu”, là người tình trong mộng của nhiều cô gái ở Hồng Ngài.

– Vì nghèo, vì mồ côi, vì những tục lệ cưới xin rườm rà mà A Phủ vẫn không thể có lấy một tấm vợ tử tế.

– Trái tim vẫn khao khát những cuộc vui, dù bản thân chẳng có gì ngoài “chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ”, nhưng A Phủ vẫn tự tin đem khèn, sáo, quả pao, con quay, quả yến đi tìm người yêu khắp Hồng Ngài.

b. Bi kịch xảy đến:

– Đánh nhau với A Sử, khiến tên này bị thương, dưới sức ép của cường quyền, thần quyền, anh phải chịu đền tội, đền tiền cho nhà A Sử.

– Làm mất một con bò khi đi chăn, phải chịu trói đứng ở cái cột giữa sân với mệnh lệnh tàn nhẫn.

=> Định sẵn số phận sẽ phải chết, điều đó khiến anh đau đớn và tuyệt vọng.

– “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ bộc lộ sự cay đắng, đớn đau đến tột cùng.

→ A Phủ đang tự xót thương cho số phận quá đỗi hẩm hiu và đắng cay của cuộc đời mình, bất hạnh từ khi nhỏ cho đến khi trưởng thành, rồi cuối cùng phải đền mạng vì làm mất một con bò.

– Nghe được hai tiếng “Đi đi…” của Mị, thì bản năng, khao khát được sống được tự do mãnh liệt của A Phủ lập tức bùng cháy, hâm nóng thân thể đang chực sụp xuống vì đói vì rét, trở thành động lực khiến anh dùng hết sức bình sinh chạy xuống sườn đồi, thoát khỏi gông cùm của cường quyền độc ác.

– Khi nhìn thấy Mị đuổi theo, xin đi cùng, A Phủ đã không ngần ngại, giúp đỡ người đàn bà đã cứu mình cùng nhau chạy trốn mà không hề hỏi cớ sự. Rồi từ ấy hai người trở thành vợ chồng.

=> A Phủ đã có sự thấu hiểu cảm thông và chia sẻ với cuộc đời của Mị.

– Chi tiết hai vợ chồng cùng nhau làm cách mạng, đã chứng tỏ ý chí và bản lĩnh của A Phủ, con người có nghị lực phi thường, khao khát tự do mãnh liệt, tự giải thoát cho bản thân bằng những con đường riêng biệt.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận chung.

17 Bài mẫu Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 1

Tác phẩm để đời của nhà văn Tô Hoài và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” chính là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Trong tác phẩm này, nhà văn đã thể hiện tài năng của mình thông qua cách miêu tả nhân vật A Phủ, tạo nên một điểm nhấn đáng chú ý. Nhà văn đã khéo léo bắt đầu câu chuyện từ thời điểm quan trọng trong cuộc đời của A Phủ, từ đó làm nổi bật tính cách của nhân vật. Trong tác phẩm, tác giả đã chọn hai chi tiết đặc trưng để tạo nên cá tính của A Phủ. Chi tiết thứ nhất là khi A Phủ bị đánh trong cuộc xử kiện: “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá.” Chi tiết thứ hai là khi A Phủ được Mị cởi trói: “A Phủ quật sức vùng lên chạy.” Những chi tiết, hành động ấy đã thể hiện sức mạnh phản kháng của A Phủ và cũng là của người nông nô nghèo miền núi.

Sự xuất hiện của A Phủ trong tác phẩm đã tạo ấn tượng mạnh đối với người đọc, đặc biệt là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra vì hắn dám phá đám chơi của A Phủ và bạn bè. Ban đầu ta nghĩ rằng A Phủ là một nhân vật có quyền thế, nhưng thật ra anh cũng không khác gì Mị, là một nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột sức lao động và trở thành con ở, tôi đòi và nô lệ cho gia đình thống lí.

Mới mười tuổi, A Phủ đã phải trải qua tuổi thơ đầy bất hạnh, mồ côi cả cha lẫn mẹ trong đợt dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành một đứa trẻ không cha không mẹ, không anh em, tứ cố vô thân, không có bất cứ tài sản gì. Hơn nữa, anh còn bị những người xấu bụng trong làng bán xuống vùng núi thấp chỉ để lấy ít thóc. Tuy nhiên, A Phủ không cam chịu và đã quyết định trốn lên núi cao, lang thang khắp nơi và làm công việc thuê mướn ở Hồng Ngài.

Lớn lên, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày cuốc. Dù đã trải qua những khó khăn và gian truân từ nhỏ, A Phủ vẫn giữ được sự trong sáng, yêu đời, hồn nhiên, yêu cuộc sống và tin vào chính nghĩa. Anh vẫn mang theo sáo và khèn của mình đi khắp nơi, tìm kiếm người yêu

Số phận nghiệt ngã của A Phủ đâu chỉ có như vậy, A Phủ đã trở thành nông nô dưới sự thống trị của gia đình Pá Tra chỉ vì anh dám đánh A Sử, người đã làm hỏng cuộc chơi của A Phủ và bạn bè. Trước khi trở thành một nông nô cho gia đình nhà Pá Tra, A Phủ đã phải tham gia vào một cuộc xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo. Khi đã trở thành nông nô cho gia đình thống lí, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ngoài ở ngoài gò và rừng. Đặc biệt, anh phải chịu đựng nỗi đau tinh thần hành hạ khi bị cúng trình ma, phải chịu những lời lăng mạ cay độc từ mọi người và từ cả Pá Tra.

Lòng tin tưởng của Tô Hoài vào giá trị của con người một lần nữa được khẳng định. Sự tin tưởng ấy không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng của nhân vật A Phủ. Để thể hiện điều đó, tác giả đã chọn lựa chi tiết trong cuộc xử kiện, khi A Phủ bị bọn trai làng xô đến đánh, “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá”. Nhiều người đọc có thể nghĩ rằng A Phủ nhát gan, nhưng thực tế không phải vậy. Nếu anh ta nhát gan, làm sao dám đánh A Sử, người mang vòng bạc quý trên cổ, một biểu tượng chỉ được phép đeo bởi con cái của gia đình quan trọng trong làng. Ngược lại, hình ảnh “im như tượng đá” chính là một hành động phản kháng, biểu hiện sự không tuân thủ, nén lại sự căm giận trong lòng, không nói ra, không bày tỏ và điều này chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người A Phủ.

Những con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong A Phủ được tạo nên bởi chính cá tính gan góc và mạnh mẽ đó của anh. Khi hoàn cảnh trở nên nghiệt ngã và đau khổ, sức phản kháng trong anh lại càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Nó được Tô Hoài thổi bùng lên trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hổ vồ mất một con bò trong lúc mải săn nhím và đã bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện, trói đứng vào cột mà không cho ăn uống. Tuy nhiên, nhờ tình thương và lòng đồng cảm của Mị, cô đã cởi trói và cứu giúp A Phủ. Trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc giữa sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng trong A Phủ trỗi dậy và được tài năng của Tô Hoài thể hiện: A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống, không thể bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, A Phủ lại quật sức vùng lên và chạy. Ban đầu, hành động này có thể chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết, nhưng sau đó nó đã trở thành một hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, tinh thần phản kháng, khát khao sống, khát khao tự do. Điều này trở thành cơ hội tốt để A Phủ hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng khi anh trở thành một du kích.

Nghệ thuật miêu tả nhân vật đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo ra một hình tượng nhân vật A Phủ đầy nam tính. Trong A Phủ, khát vọng tự do và công bằng được biểu hiện một cách âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và đơn giản. Tính cách của anh mang đậm phẩm chất tiêu biểu của một người đàn ông chân chính thuộc dân tộc Mông.

Nhân vật A Phủ được miêu tả hai lần và ở hai thời điểm khác nhau đã gây ra ý kiến trái chiều. Có người cho rằng lần miêu tả đầu tiên A Phủ đã cam chịu, chấp nhận số phận, trong khi lần thứ hai mới thể hiện sức mạnh phản kháng thực sự. Quan điểm này không sai, vì thực tế là A Phủ đã để cho họ đánh, bởi vì sức mạnh của A Phủ không thể đối đầu với hàng trăm người mạnh hơn. Đó là sức mạnh áp bức của quyền lực đè nén lên một người nông dân nghèo khổ như A Phủ, người đã quen với khổ đau trong cuộc sống. Dưới chế độ thống trị của nhà thống lí Pá Tra, mọi nơi đều tương tự nhau. Điều đó chính là sự cam chịu của người nông dân miền núi cao, khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có nhận thức, chưa biết về sự đoàn kết để tạo nên sức mạnh chống lại sự áp bức.

Và chính trong lần miêu tả thứ hai, hành động quật sức chạy của A Phủ không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ của anh mà có thể coi là cơ hội để anh tiến gần hơn đến Cách mạng, để nhận thức và trở thành một du kích trong tương lai. Từ đó, chúng ta có thể thấy tài năng và sự hiểu biết sâu sắc về tâm lí con người của Tô Hoài. Ông thực sự là một nhà văn giàu kinh nghiệm khi nhìn thấy hai mặt trái ngược trong con người A Phủ, một con người vừa cam chịu số phận vừa mạnh mẽ, can trường và không chịu khuất phục. Điều này cũng thể hiện niềm tin vững chắc của nhà văn vào tâm hồn, sức sống và sự phản kháng quyết liệt của con người trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và bản ngã.

Bằng nghệ thuật miêu tả cuộc đời và tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã phơi bày sự bất công của giai cấp thống trị đại diện bởi cha con nhà thống lí Pá Tra, họ đã đẩy một con người hiền lành, chất phác như A Phủ vào tình cảnh bị cướp đoạt sức lao động và quyền làm người. Nhà văn đã viết về điều đó với lòng thương cảm đối với sự khổ đau và bất hạnh của họ, đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một con đường thoát khỏi bất công cho những người lao động nghèo trong miền núi. Như vậy là một lần nữa, tài năng nắm bắt cá tính con người và lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài đã được khẳng định.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 2

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh rất đậm nét về cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn hết nữa chính là khát vọng và là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc rất nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Nhà văn Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại đã khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách và phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.

Nhà văn Tô Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát và đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó nhà văn ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng rất nhiều sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình và bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ và cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy đã khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa là đã có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc và ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài và đã làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ và rất dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.

Từ khi trưởng thành  A Phủ đã chứng tỏ rằng  mình là một người gan góc và liều lĩnh, không chịu khuất phục và luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày và biết đúc cuốc lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính sự nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói và cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan và tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “ A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ và A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn và con quay  cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên sự ấn tượng cho nhiều cô gái.

Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ và không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng  nhiều hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế.

Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập và lại vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra và vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới và nắm cái vòng cổ dập đầu xuống áo đánh tới tấp”. Hành động này đã chứng tỏ rằng A Phủ rất khỏe mạnh và vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ và quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man và rất tàn bạo từ trưa đến đêm.Có có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục và sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật và không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật sự thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn và uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì hết.

Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã bịlàm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bây giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới tận đáy của xã hội mới hả hê và mới yên long.

Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vật Mị và có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy sự oán hận này.

Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị vậy từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lý. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi và không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lý pá tra . Một sự thật rất nghiệt ngã đến đau long. Nhà văn Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả mà nhà văn đã tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.

Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác và chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lý đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và rất tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy và đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiện trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều này.

Có lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và để bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho nhiều  người đọc vừa hồi hộp lại vừa xót xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng của mình . A Phủ thực sự đã làm được và đã  thoát khỏi nhà thống lý, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước và đi theo tiếng gọi của cách mạng.

Nhà văn Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ và hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh liệt.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 3

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi nhà văn Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm này rất đặc sắc sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó là những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ và mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về và có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa và cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi và thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên và cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó đã để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, nhà văn làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm và A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này thì A Phủ mới bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này nhà văn mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ và chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ và sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận và A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé và với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu được . Sức sống tiềm tàng của A Phủ một người đã sớm được bộc lộ và không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật và hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của nhà văn Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng và yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình mà dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ đã vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy là chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt nên ở xã hội phong kiến miền núi đương thời và A Phủ bị người ta khinh thường với một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình thì A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn và mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều nhiều ngày, càng hút, càng tỉnh và càng đánh, càng chửi và càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại về cảnh xử kiện độc đáo ấy và có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ và ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh những tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với những người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ và A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng nghìni công việc. A Phủ có thể đốt rừng và cày nương, vỡ nương, săn bò tót và bẫy hổ, chăn bò và chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng và có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ đã phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa và áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ đã chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình và có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò và A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng thì anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình lại . Ở trong nhà thống lí Pá Tra và sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường và anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh đã là giọt nước mắt của sự đắng cay và sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Tuy nhiên vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ và nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh phải chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh đã gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai và nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây và anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu và lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát và đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay , anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí và thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ đã để cho Mị đi theo và anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí thì A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng đã như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của những bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm và là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ thì được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp và không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, nhà văn Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng là với A Phủ là Mị và dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc và họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 4

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc nhất cũng là tác phẩm đề đời của nhà văn Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”. Và một trong những thành công của truyện là nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ. Khi miêu tả nhân vật A Phủ nhà văn đã cho thấy tài năng của mình khi bắt đầu kể chuyện từ thời điểm có ý nghĩa trong cuộc đời của A Phủ, để từ đó làm nổi bật lên tính cách của nhân vật. Và trong tác phẩm này, tác giả đã chú ý chọn lựa hai chi tiết tiêu biểu làm nên cá tính của A Phủ: Lần thứ nhất, lúc bị đánh trong cuộc xử kiện: “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá. Lần thứ hai là lúc được Mị cởi trói: “A Phủ quật sức vùng lên chạy”. Đó là sức mạnh phản kháng ở người nông nô nghèo miền núi.

A Phủ xuất hiện trong tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Trá, khi hắn dám phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Ta tưởng đây là nhân vật có quyền thế nhưng không A Phủ cũng giống như Mị, anh là người nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột và trở thành tôi đòi, con ở, nô lệ cho gia đình thống lí.

Tuổi thơ của A Phủ đầy bất hạnh, mới mười tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ trong dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành đứa bé tứ cố vô thân không cha mẹ, không anh em, không có ruộng, không có bạc, đã vậy lại bị người làng xấu bụng bán xuống núi thấp để đối lấy thóc, A Phủ không chịu liền trốn lên núi cao lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê làm mướn. Đến lớn, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày ruộng cuốc đất. Nhưng dù lớn lên trong cảnh nghiệt ngã, A Phủ vẫn hồn nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống tự nhiên, yêu chính nghĩa. Anh vẫn đem sáo, đem khèn đi tìm người yêu.

Tuy nhiên, đâu chỉ có vậy, số phận nghiệt ngã đã biến A Phủ trở thành nông nô cho nhà thống lí chỉ vì đánh A Sử, người đã phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Trước khi trở thành nông nô cho nhà Pá Tra, A Phủ phải tham gia xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo “mặt A Phủ xưng lên môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Đến khi trở thành nông nô cho nhà thống lí Pá Tra, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ở ngoài gò ngoài rừng. Đặc biệt phải chịu hành hạ về nỗi đau tinh thần khi bị con ma trình mặt, phải chịu đựng những lời chửi rủa cay độc của mọi người và Pá Tra.

Nhưng một lần nữa, Tô Hoài lại cho thấy niềm tin của ông vào giá trị của con người. Nó không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà nó còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng ở nhân vật A Phủ. Điều này được nhà văn Tô Hoài chọn lựa chi tiết trong vụ xử kiện, khi bị bọn trai làng xô đến đánh, “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá”. Nhiều người đọc đến đây cho rằng A Phủ hèn nhát, nhưng không, nếu hèn nhát thì sao A Phủ dám đánh A Sử có nạm vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo, ngược lại phải chăng hình ảnh “im như tượng đá” chính là một hành động của sự phản kháng, đó là biểu hiện bất tuân, nén nỗi căm giận vào trong lòng, không nói, không thanh minh đó chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người nhân vật này.

Chính cá tính gan góc, mạnh mẽ đó của A Phủ đã tạo nên những con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong anh. Khi hoàn cảnh càng trở nên nghiệt ngã, đau khổ thì sức phản kháng lại càng mạnh mẽ. Nó được thổi bùng trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hồ vồ mất bò do mải bẫy nhím, bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện và bắt đứng trói vào cột không cho ăn, không cho uống. Nhưng nhờ sự đồng cảm, tình thương người của Mị, cô đã cởi trói cứu giúp A Phủ. Và trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng ấy lại trỗi dậy và được tài năng Tô Hoài thể hiện “A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay. A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Hành động của A Phủ có lẽ lúc đầu chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết nhưng sau đó nó đã trở thành hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, là tinh thần phản kháng, là khát khao sống, khát khao được tự do và đó cũng chính là cơ hội tốt để sau này A Phủ làm du kích cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng.

Có thể nói, nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo nên một hình tượng nhân vật đầy nam tính. Khát vọng tự do công bằng được biểu hiện ở A Phủ âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và cũng thật đơn giản. Tính cách của A Phủ mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông chân chính dân tộc Mông.

Hai lần miêu tả A Phủ ở hai thời điểm khác nhau có ý kiến trái chiều cho rằng lần miêu tả thứ nhất A Phủ đã cam chịu, cam phận đến lần thứ hai thì đó mới là sức mạnh phản kháng thật sự. Điều này không sai, bởi lẽ A Phủ để mặc cho họ đánh vì sức của A Phủ không thể địch lại với sức của hàng trăm người ở đó, nó là sức cường quyền áp bức lên một người nông nô nghèo thân cô thế cô và hơn nữa ở lâu trong cái khổ thì cũng quen khổ rồi, ở cái đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của nhà thống lí Pá Tra thì đâu cũng vậy thôi. Đó cũng chính là sự cam chịu của người nông nô vùng núi cao khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có sự giác ngộ, chưa biết đoàn kết tạo nên sức mạnh chống lại cường. Và chính lần miêu tả thứ hai khi A Phủ quật sức chạy, nó không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ ở anh mà hành động quật sức chạy đó phải chăng là cơ hội để A Phủ chạy gần đến bên Cách mạng, được giác ngộ để làm du kích sau này. Từ đây, ta có thể thấy được tài năng am hiểu nội tâm con người của Tô Hoài, ông thật sự là một cây bút già dặn khi nhìn thấy hai mặt đối lập ở một con người A Phủ vừa cam chịu số phận nhưng cũng vừa mạnh mẽ, can trường, bất khuất. Đó cũng chính là niềm tin bất diệt của nhà văn vào tâm hồn, sức sống, sự phản kháng quyết liệt ở con người trên đường đi tìm hạnh phúc, tìm lại chính mình.

Như vậy qua nghệ thuật miêu tả cuộc đời, tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã tố giác giai cấp thống trị miền núi đại diện là cha con nhà thống lí Pá Tra đã đẩy con người hiền lành chất phác như A Phủ vào cảnh bị cướp đoạt sức lao động, cướp đoạt quyền làm người. Viết về điều đó, nhà văn đã cảm thông với những khổ đau, bất hạnh của họ đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một lối thoát cho những người nghèo lao động miền núi. Qua đây, một lần nữa thể hiện tài năng nắm bắt cá tính con người và tấm lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 5

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.

Tô Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc, ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.

Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “ A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô gái.

Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế.

Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm.Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì hết.

Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bây giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên long.

Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vật Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận này.

Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lý. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lý. Một sự thật nghiệt ngã đến đau long. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.

Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lý đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiển trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều này.

Có lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống lý, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách mạng.

Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh liệt.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 6

Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn của tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1953. Truyện kể về hai chặng đường đời của Mị và A Phủ những ngày ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và sau khi sang Phiềng Sa nên vợ nên chồng, gặp gỡ Cách mạng và trở thành chiến sĩ du kích. Trong đó, A Phủ là một nhân vật gây ấn tượng khá sâu sắc.

Tác giả cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong một hoàn cảnh đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra, rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất hết cả mẹ cha và anh em trong một trận đậu mùa khủng khiếp, phải sống kiếp bơ vơ khi còn rất nhỏ và “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng”.

Không cam chịu cuộc sống khốn khổ, mới 10 tuổi đầu A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc: một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người. “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”.

Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Vì vậy, A Phủ trở thành niềm mơ ước của biết bao cô gái Mèo. Họ kháo với nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.

Tuy vậy với tập tục khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời. A Phủ chẳng những bị khinh thường mà thực tế cũng chẳng bao giờ anh kiếm đủ tiền để làm nhà và cưới vợ. Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không sao thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân. A Phủ dám đánh lại con nhà quan phố đám chơi “Chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp…”

Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp. Sau đó, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập rất dã man, A Phủ đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. A Phủ không hề khóc lóc van xin trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Cuối cùng trong cảnh xử kiện quái gở khi kẻ phát đơn kiện cùng là người ngồi ghế quan tòa, A Phủ đã bị Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời để trừ nợ.

Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “cày ruộng, cuốc nương và săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”. Tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra. Chỉ vì để hổ bắt mất bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây sậy quấn từ chân lên vai”.

Và nếu bọn A Sử không bắt được hổ về thì chắc chắn A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét” — Như Mỵ từng chứng kiến những cảnh tương tự. Tuy vậy, với tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất, sẵn có, A Phủ không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Và với sự trợ giúp của Mị A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu.

A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương, từ đấu tranh tự phát, A Phủ và Mị đã tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc.

Từ trong bóng tối của cuộc đời đầy đau khổ, tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đấy cũng là giá trị nhân đạo, mới mẻ sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 7

Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn hiểu biết sâu sắc phong phú về phong tục tập quán ở nhiều vùng miền và lối trần thuật hóm hỉnh sinh động, ông đã tạo ra những tác phẩm nổi tiếng đi vào lòng người đọc. Một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông chính là “Vợ chồng A Phủ”.

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Truyện ngắn được in trong tập “Truyện Tây Bắc” xuất bản năm 1953. Truyện kể về cuộc đời của hai nhân vật chính Mị và A Phủ. Hai nhân vật này đã góp phần làm nổi bật giá trị của truyện cũng như mục đích của tác giả khi sáng tác truyện ngắn này. Và nhân vật A Phủ là đại diện cho những chàng trai Tây Bắc gan bướng, cứng cỏi và không sợ cường quyền.

A Phủ có một lai lịch hết sức đặc biệt. Anh mồ côi cha mẹ, không người thân thích. Anh là người duy nhất trong gia đình sống sót qua nạn dịch. Năm mười tuổi, anh bị bắt đem bán để đổi thóc cho người Thái. Sau đó anh trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đây cuộc đời anh mới gặp nhiều sóng gió. Trong tác phẩm anh được xuất hiện trong đêm tình mùa xuân khi đánh nhau với A Sử con trai thống lí Pá Tra. Sự việc này đã phần nào hé mở về cá tính của nhân vật này.

Trước hết A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh và có tài. Anh là niềm mơ ước của nhiều cô gái. Từ đục lưỡi cày, chăn bò tót… anh đều làm rất thạo. Người ở Hồng Ngài ví nếu có anh ở trong nhà không khác gì có một con trâu tốt. Nhưng anh vẫn không lấy nổi vợ. Vì anh nghèo “chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn ở cổ”. Mặc dù vậy, trong đêm tình mùa xuân anh vẫn cầm con quay đi tìm bạn tình. Vì vậy mới sinh sự ở Hồng Ngài.

A Phủ có một tính cách, cá tính rất mạnh mẽ. Năm mười tuổi khi bị bán để đổi thóc cho người Thái, phải ở cánh đồng thấp, anh không chịu được mà trốn lên cánh đồng cao. Chỉ chi tiết này thôi cũng phần nào hiểu được cá tính của anh. Đặc biệt anh không hề sợ con quan. Anh đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra.

Anh đánh A Sử mà không phải sợ sệt hay kiêng nể chịu nép vế vì là con quan. Anh còn gan bướng cứng cỏi đến mức trong cuộc xử kiện, họ đánh đập chửi rủa anh, anh vẫn “im như một tượng đá”. Khi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí, anh vẫn tự do. Người nhà thống lí không thể trói buộc được anh. Ngày ngày anh rong ruổi nơi bìa rừng khắp chốn. Một mình anh chăn dắt đàn bò đến mấy chục con.

Chẳng may một hôm vì mải mê bẫy nhím anh để hổ ăn mất một con bò. Nhưng anh không hề sợ hãi mà điềm nhiên vác nửa con bò về nhà thống lí. Không chỉ thế anh còn nói với thống lí xin đi bắt hổ về. Quả thực mặc dù trở thành nô lệ cho nhà thống lí nhưng anh vẫn không hề mất đi bản lĩnh, vẫn cứng cỏi, không sợ cường quyền.

Cá tính mạnh mẽ của anh còn được thể hiện qua tâm lí khi anh bị trói đứng. Anh đứng im cho người nhà thống lí trói mình, rồi không chịu được anh dùng răng nhai đứt mấy vòng dây mây. Anh mạnh mẽ đến mức bị trói đứng mấy ngày liền anh vẫn không hề than oán. Chỉ đến ngày thứ ba cảm nhận mình đã đến bên bờ cái chết anh mới tuyệt vọng để hai hàng nước mắt bò trên gò má. Cá tính mạnh mẽ của anh rất có lợi cho việc giác ngộ cách mạng sau này.

Bằng khả năng khắc họa nhân vật tài tình, Tô Hoài đã xây dựng được một nhân vật hết sức tiêu biểu cho những chàng trai miền Tây Bắc – A Phủ. Một chàng trai khỏe mạnh, có tài năng và cá tính mạnh mẽ. A Phủ là một biểu tượng của chàng trai núi rừng mộc mạc, chân chất. Đồng thời, xây dựng nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn này.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 8

Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này

Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử con trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.

Từ bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích trên đời, bị người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ đã gan bướng, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con thống lí Pá Tra.

Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dữ dội: “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt hơn.

Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kỳ ai. Con hổ hay thống lí cũng thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết.

Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.

Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 9

Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc không khỏi ấn tượng với nhân vật A Phủ- một chàng trai dân tộc với số phận bất hạnh nhưng có những phẩm chất phi thường.

A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu.

A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử.

Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.

Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp.

Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đầy đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết.

A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật.

Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.

Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình bị trói trong đêm tình mùa đông mà không có một ai đến cứu.

Có lẽ, giọt nước mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài và Nam Cao. Nam Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Với Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể thanh lọc tâm hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại của A Phủ- một chàng trai người Mông gan góc, khỏe mạnh khác thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?

Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống, khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”.

Qua tác phẩm, tác giả Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật A Phủ với hình tượng người lao động khao khát tự do và tình yêu cuộc sống. Từ đó càng cho thấy tài năng và niềm đồng cảm sâu sắc mà tác giả dành cho những con người lao động nghèo khổ, bất hạnh.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 10

Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông là người có 95 năm tuổi đời nhưng dành đến 70 năm để đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyễn từng nói “Văn chương của ông hướng về những con người, số phận, cuộc đời lấm láp, đời thường. Ông ra đi vì tuổi trời nhưng văn chương của ông vẫn còn nguyên giá trị.” Là kết quả của chuyến đi lên Tây Bắc giải phóng đồng bào dân tộc cùng với đồng đội năm 1952, Vợ chồng A Phủ tập trung miêu tả, phản ánh cuộc sống tủi cực của đồng bào dân tộc miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến, thực dân. Bên cạnh nhân vật Mị – nhân vật chính, trung tâm của tác phẩm, nhà văn cũng khắc họa rất thành công nhân vật A Phủ.

Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc. Trong cuộc va chạm giữa trai làng bên và nhóm A Sử, A Phủ bất ngờ xuất hiện ngay sau câu nói: “Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi. A Phủ đâu ? A Phủ đánh chết nó đi !”. Ngay lập tức, “một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay bằng gỗ ngát lăng vào giữa mặt” con trai thống lý Pá Tra. A Sử “vừa kịp bưng tay lên” thì A Phủ đã “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Những hành động của A Phủ diễn ra liên tiếp, nhanh và mạnh đến mức A Sử không kịp chống đỡ. Một loạt các động từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập, dứt khoát đã được Tô Hoài sử dụng ở đây để đặc tả các đòn đánh tới tấp, áp đảo của A Phủ. Những đòn đánh ấy vừa cho thấy sức mạnh của chàng trai này vừa tạo nên một hình ảnh thật dũng mãnh, hiên ngang ở A Phủ khi đối đầu không chút sợ hãi với con trai quan thống lý – một thứ “con giời” ở vùng núi cao Tây Bắc. Như vậy, nếu sự xuất hiện của Mị gây chú ý cho người đọc ở hình ảnh tương phản với cảnh sống ở nhà Pá Tra thì sự xuất hiện của A Phủ lại khiến độc giả phải lưu tâm về hành động mạnh mẽ, dám đối đầu và đánh bị thương con trai thống lý mà không một chút đắn đo, suy tính. Sự xuất hiện của nhân vật này cũng khiến bạn đọc phải tò mò tìm hiểu xem A Phủ là ai mà hiên ngang như vậy ? Đánh A Sử rồi, A Phủ liệu có bị đòn thù từ thống lý Pá Tra ? Số phận con người này rồi sẽ thế nào?… Câu trả lời chắc chắn sẽ được nhà văn đưa đến trong những đoạn tiếp theo của truyện. Một lần nữa, ta thấy cách dẫn dắt câu chuyện và giới thiệu nhân vật khéo léo, tài tình của Tô Hoài.

A Phủ – chàng trai mồ côi, nghèo nhưng khỏe mạnh và có khả năng lao động thật đáng quý. Theo lời kể của người trần thuật – nhà văn, A Phủ có một hoàn cảnh xuất thân không may mắn, rất đáng thương. A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Cha mẹ và cả anh em ruột của A Phủ đều bị chết trong “một trận bệnh đậu mùa”. Bản thân A Phủ bị một người trong làng Háng-bla đói bụng bắt “đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái”. Không gia đình, không ruộng nương, không có bạc, chỉ duy nhất có “một chiếc vòng vía lằn trên cổ”, A Phủ chấp nhận cảnh sống nghèo khổ, đi làm thuê làm mướn để có cái ăn. Tuy nhiên, chính cuộc sống khó nhọc và cùng cực ấy đã hun đúc nên ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, một tính cách thật gan góc, cùng khả năng lao động thật đáng quý. A Phủ không chỉ biết làm những công việc thường ngày như “đúc lưỡi cày”, “đục cuốc” mà còn “cày giỏi”, thậm chí có thể một mình làm những công việc lao động nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm : “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng”. Sức khỏe của A Phủ là niềm mơ ước của nhiều gia đình, nhiều cô gái : “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu”. Có thể nói, dù xuất thân kém may mắn nhưng với sức mạnh thể chất, với tâm hồn trong sáng, chất phác và nhất là khả năng lao động tuyệt vời, A Phủ cũng rất xứng đáng có được một cuộc sống bình thường của một người dân lao động nghèo.

A Phủ – nạn nhân của cường quyền tàn bạo và những hủ tục vô lý, tàn nhẫn ở rẻo cao Tây Bắc. Tuy nhiên, cũng giống như Mị, A Phủ là nạn nhân của cường quyền tàn bạo và những hủ tục đã sâu rễ bền gốc ở những rẻo cao Tây Bắc. Trước hết là cường quyền. Chỉ vì đánh con trai quan thống lý, A Phủ đã phải hứng chịu những trận đòn dã man của tên địa chủ, cường hào miền núi Pá Tra. Hắn cho trói A Phủ, bắt quỳ ở giữa nhà rồi cho bọn trai làng xô đến đánh. Cùng với cường quyền là những hủ tục. Cảnh bọn “chức việc khắp vùng Hồng Ngài” từ “các lí dịch, quan làng” đến “thống quán, xéo phải đội mũ, quấn khăn” kéo tới “dự đám xử kiện” A Phủ và “ăn cỗ” là một bức tranh cụ thể và sinh động về một tập tục cổ hủ, tàn nhẫn mang dáng dấp của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “Suốt từ trưa cho tới hết đêm mấy chục người hút”.“Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”; “Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút”; “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Không chỉ bị đánh lên đánh xuống, A Phủ còn phải “nộp vạ”. Có ba tầng “nộp vạ”: cho người bị đánh (A Sử);“cho thống quan năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào”; cho “các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay”, “mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ”. Có thể nói A Phủ đã phải gánh tất cả các loại “phí” vô lý của đám xử kiện trong đó có “lệ phí bồi dưỡng” cho những kẻ chỉ đến xem “xử án” mình mà không có một câu bênh vực, không có một lời bào chữa. Vô lý hơn nữa là cái “phí hưởng lạc” mà A Phủ phải trả cho các quan đến “ăn cỗ xử kiện” mình. Đúng là một thứ hủ tục cực kì lạc hậu, phản nhân văn, phi nhân tính. Nó là sản phẩm của ý thức mông muội đã ăn sâu bén rễ vào tâm thức những người dân nơi miền núi cao Tây Bắc. Đến như A Phủ, một chàng trai dũng mãnh, ngoan cường là thế mà cũng đã chấp nhận nó một cách vô điều kiện. Ở đây, sự chấp nhận ấy không chỉ nằm ở hoàn cảnh thân cô, thế cô của A Phủ mà còn bắt nguồn từ cái ý thức đã in sẵn từ bao đời nay trong đầu A Phủ và biết bao người dân khác nữa. Chẳng thế mà sau đám “xử kiện”, chính A Phủ, chứ không phải ai khác đã tự tay cầm dao, chân đau bước tập tễnh đi làm thịt lợn hầu chính những kẻ đã “đánh hội đồng” mình, những kẻ đã làm cho mình từ nay trở thành nô lệ cho nhà thống lý. Như vậy, có thể cho rằng có hai A Phủ đối lập nhau trong một con người: một A Phủ cường tráng, bất khuất và một A Phủ cam phận tôi đòi. Con người trước là biểu trưng cho sức mạnh, cho vẻ đẹp thể chất và tinh thần của người dân lao động miền núi Tây Bắc. Còn con người sau là hiện thân của nỗi đau bị chà đạp, của ý thức sơ khai, hoang dã. Hai nét tính cách này vừa thống nhất cùng nhau vừa xung đột với nhau, và đó chính là nguồn gốc làm nên sự vận động, phát triển nội tại của hình tượng A Phủ mà hành động tự giải thoát khỏi nhà thống lý Pá Tra là điểm bắt đầu của sự phát triển ấy.

Cùng chiều hướng số phận và sự phát triển tính cách như Mị, A Phủ không hề mất đi cái sức sống tiềm tàng mãnh liệt của những người con tự do của núi rừng. Cuộc sống địa ngục trần gian ở nhà thống lí Pá Tra không hủy diệt được ngọn lửa của lòng ham sống trong A Phủ. Sự cam phận, nhẫn nhục chỉ tạm làm ngọn lửa ấy bớt cháy ngùn ngụt chứ chẳng thể khiến nó tắt ngấm. Vì thế, chỉ cần một trận gió mát lành thổi tới là nó lại bùng cháy một cách mãnh liệt. Vì để hổ vồ mất bò A Phủ đã bị “trói đứng vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai”. Cái kiểu trói tàn nhẫn ấy, sự đớn đau về thể xác mà nó mang lại, Mị đã từng trải qua. Tô Hoài đã thông qua cảm nhận của Mị để gián tiếp miêu tả nỗi đau và tình cảnh nguy kịch của A Phủ : “trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết […]. Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét”. Nhưng chính trong khoảnh khắc cận kề cái chết ấy của A Phủ, nhà văn đã cho mọi người thấy cái sức sống mãnh liệt đến mức nào của anh. Được Mị cắt bỏ hết dây trói, mặc dù “khuỵu xuống”, chân “không bước nổi” nhưng A Phủ vẫn “quật sức vùng lên” và “chạy”. Bốn chữ “quật sức vùng lên” đã cho thấy sức mạnh quật cường, khả năng đứng dậy mạnh mẽ từ trong đau thương của A Phủ. Cái sức sống tiềm tàng được bảo lưu trong con người A Phủ đã được đánh thức. Lòng ham sống và khát vọng tự do trong anh đã trỗi dậy. Tất cả đã cộng hưởng với nhau để tạo nên một nguồn sức mạnh to lớn giúp A Phủ vượt thoát khỏi thế giới ngục tù ở nhà thống lý để tìm đến một chân trời mới, tự do.

Như vậy, cùng với Mị, nhân vật A Phủ đã thể hiện một cách sống động và chân thực những nét tính cách của người dân lao động miền núi nói chung và người Mông nói riêng. Đó là những con người có bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong lại sôi nổi, mạnh mẽ một niềm ham sống, khát khao tự do và hạnh phúc. Tuy nhiên, khác với Mị – được miêu tả chủ yếu bằng bút pháp “hướng nội” – A Phủ được khắc họa bằng bút pháp hướng ngoại. Nếu ở Mị, sức sống tiềm tàng mạnh mẽ được nhà văn miêu tả qua đời sống nội tâm thì ở A Phủ cái sức sống ấy lại được “ngoại hiện hóa” ra ở vẻ đẹp nam tính thông qua những hành động dữ dội, quyết liệt và lời nói dứt khoát. Ở A Phủ, ta còn thấy Tô Hoài đã có những phát hiện thú vị về nét riêng, nét lạ trong tính cách nhân vật : âm thầm mà mãnh liệt; đơn sơ mà hết sức dữ dội; và nhất là phóng khoáng, tự do, hồn nhiên như núi rừng Tây Bắc của tổ quốc. Điều đó đã góp phần làm nên một A Phủ độc đáo, một “con người này” bên cạnh hình tượng trung tâm của truyện – nhân vật Mị.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 11

Tôi đã từng đọc ở đâu đó “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người”. Và tôi biết một người nghệ sĩ như thế – một nhà văn viết về Tây Bắc bằng cả tấm lòng của mình, cả niềm thương nỗi nhớ luôn thường trực trong trái tim – Tô Hoài! Trong số những thành công của ông, không thể không nhắc đến “Vợ chồng A Phủ”- truyện ngắn mang giá trị sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh nhân vật A Phủ.

Nếu hôm nay ta có “thấy Nguyễn Nhật Ánh trong tuổi thơ” thì Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài là quyển sách gối đầu của hàng triệu thiếu niên Việt Nam. Tô Hoài – nhà văn có lối viết rất riêng: đậm đà bản sắc dân tộc với những sáng tác thiên về sự thật đời thường. Ông có quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh độc đáo có phần quyết liệt “viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Trong chuyến đi thực tế dài tám tháng tại Tây Bắc với đồng bào các dân tộc thiểu số cùng ăn, cùng ở, cùng chung sống… Chính cuộc sống ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để nhà văn hoàn thành tập Truyện Tây Bắc

A Phủ là nhân vật được tác giả cho xuất hiện khá đột ngột trong cuộc đánh nhau của thanh niên làng bên với A Sử rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Nhà văn để nhân vật đi vào trang văn bất ngờ, tự nhiên và đầy ấn tượng. A Phủ quê ở Háng-bla và tuổi thơ đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp cướp đi cả gia đình anh. A Phủ gan dạ, vừa ngang bướng đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, ngày qua ngày, mùa qua mùa, A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.

Một mình bươn trải, A Phủ đủ mạnh mẽ, gan góc, sống tự do phóng khoáng thì kết thúc bị trói buộc cả cuộc đời tại nhà thống lí. Chính sách áp bức của chúa đất đã đẩy người lao động phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời. Cảnh xử kiện A Phủ là minh chứng rõ ràng nhất về cách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Riêng A Phủ chỉ âm thầm chịu đựng, nuốt đắng cay mà chịu đòn đầy đau đớn.

Cảnh Pá Tra trói đứng A Phủ như một tình cảnh bị trói chờ chết như năm nào mà cô Mị đã phải chịu. Mị không lấy làm lạ. Bởi Mị đã quá quen với những tội ác thế này và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi rồi lé mắt trông sang, thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt đau đớn đã làm sống dậy ý thức và tình cảm của Mị. Ký ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột, nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Tình thương người còn lớn ngàn lần nỗi sợ hãi. Nó tiếp thêm sức mạnh và bản lĩnh để Mị hành động cứu A Phủ. Và Mị đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra và chạy theo A Phủ. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy thôi thúc họ phải đấu tranh để sống và được sống.

Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện cùng hình tượng nhân vật với những nét cá tính khá rõ. Ngoài ra, chất thơ toát lên từ chủ đề của tác phẩm, từ tâm hồn đôn hậu, chất phác của nhân vật chính và thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc là điểm nhấn làm nên ấn tượng tuyệt đối.

Nguyễn Minh Châu từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người”. Với Tô Hoài, ông không chỉ tìm kiếm, phát hiện mà còn khơi nguồn vực dậy trong tâm hồn Mị sức sống, khao khát sống tưởng như đã bị héo mòn, bị chôn vùi bởi những thế lực tàn bạo. Qua đó nhà văn khéo léo gửi quan niệm về cuộc sống của bản thân vào nhân vật của mình rằng: Con người lao động, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ luôn giữ bản lĩnh và sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của bản thân mình.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 12

Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952. Đây là truyện hay nhất in trong tập “Truyện Tây Bắc” của nhà văn Tô Hoài (1953) và đạt giải nhất của Hội văn hóa nghệ thuật 1954 – 1955. Nhà văn muốn làm hiển hiện lại cuộc sống của người dân tộc trung thực, chí tình quý trọng tình cảm cho dù gian nan đến đâu cũng mong đợi ngày mai tươi sáng, tiêu biểu là nhân vật A Phủ. Đây là nhân vật được nhà văn xây dựng với hình tượng thật đặc biệt.

A Phủ có số phận đặc biệt vì A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích, cả làng không mấy ai vượt qua được dịch bệnh đậu mùa: anh em, bố mẹ của A Phủ chết. A Phủ đã vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên, A Phủ khỏe, sống sót. Có người làng đói bụng đem bắt A Phủ đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng.

Tuy nhiên, mới 10 tuổi nhưng A Phủ rất ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, trốn lên núi cao và lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê lần nữa cho nhà này, nhà khác, vượt qua vô vàn cơ cực, thử thách và A Phủ đã trưởng thành, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, thông minh: “Biết đúc lưỡi cày, đục cuốc lại cày giỏi và đi săn bò rất táo bạo. A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa”.

Vì vậy con gái có nhiều người con gái mê mẩn, có nhiều người đã nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. “Tuy nhiên người ta cũng chỉ ao ước thế thôi vì A Phủ mồ côi, nghèo, không có ruộng, không có bạc, không có nhà, A Phủ không thể lấy nổi vợ vì A Phủ suốt ngày cày thuê cuốc mướn, tục lệ cưới xin phép rượu cũng to hơn phép làng.

Nhà văn khắc họa nhân vật thông qua nghệ thuật kể kết hợp với miêu tả sinh động, hấp dẫn được nhìn từ bên ngoài để tạo điểm nhấn về tính cách. Nhà văn đặc biệt chú ý đến những hành động của nhân vật để giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp của A Phủ.

Nhà văn đặc biệt tô đậm tính cách gan góc, mạnh mẽ, cá tính ở nhân vật A Phủ, tính cách này bộc lộc từ năm lên 10 tuổi với cuộc sống hoang dã của núi rừng và hình ảnh phải làm thuê, cuốc mướn, ở đợ đã hun đúc lên tính cách mạnh mẽ, táo bạo của A Phủ. Tính cách đó có lúc trở thành ngang tàng, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu. Đó là lúc A Phủ cùng với trai làng đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử. Bọn người của nhà thống lí Pá Tra quyền lực bằng trời, không ai dám đụng tới, chúng có quyền muốn làm gì thì làm.

Tuy nhiên A Phủ thì không sợ, A Phủ đánh A Sử là đánh kẻ phá đám, đánh kẻ gây sự, đó là hành động dũng cảm thể hiện sự gan dạ, dũng cảm. Nhà văn đã dùng ngôn ngữ kể sinh động, hấp dẫn tái hiện một trận đánh rất sôi động. “một người to lớn…” đánh tới tấp…”. Nhà văn đã miêu tả liên tiếp những hành động mạnh, nhanh, táo bạo: chạy vụt ra, vung tay, ném, xộc tốc, nắm vòng cổ, kéo dập đầu, xé vai áo, đánh tới tấp… để nhấn mạnh sức mạnh và tính cách của A Phủ.

Cũng chính vì hành động đó, A Phủ đã phải trả giá đắt, trở thành thân phận kẻ ở trừ nợ vô cùng cực khổ. A Phủ quanh năm một thân một mình nào là phá nương, cuốc rừng, săn bò tót, bắt bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm bôn ba, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng; đang sức thanh niên A Phủ làm phăng phăng mọi việc, đang mùa đói, do mải mê bẫy nhím, để hổ ăn mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò bị hổ ăn thịt dở về nói với thống lí: “Tôi về lấy súng đi bắt con hổ”.

Đó là tính cách đặc biệt của A Phủ: A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm nhiên, không sợ cái uy của kẻ ác, cái uy của nhà giàu, con hổ hay thống lí thì cũng thế thôi. Đặc biệt, ngay cả việc A Phủ tự lấy cọc và dây mây, tự mình đóng cọc để người ta trói mình chết thế cho con vật vừa bị mất thì A Phủ cũng làm rất thản nhiên.

Đó chính là thể hiện tính cách của A Phủ là một người mạnh mẽ, gan góc, không sợ cả cái chết. A Phủ được Mị cởi trói, đồng cảm, khát vọng tự do, khát vọng sống, đã thôi thúc A Phủ quật sức vùng lên để chạy, thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra. Sau đó A Phủ đến Phiềng Sa được A Chân giác ngộ trở thành đội viên du kích đi theo cách mạng.

Qua Vợ chồng A Phủ nhà văn viết về cuộc đời đau khổ, tủi cực, nhục nhã của người dân nghèo ở miền núi Tây Bắc. Những người dân nghèo từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa, từ cuộc đời nô lệ, áp bức, khổ nhục, cho đến cuộc đời tự do, hạnh phúc, từ cuộc sống tăm tối đến cuộc sống của ánh sáng, niềm vui, từ thân phận trâu bò cho nhà giàu trở thành chiến sĩ du kích chiến đấu giải phóng quê hương, giải phóng cuộc đời mình.

A Phủ đại diện cho những con người không chấp nhận sự áp bức, bóc lột đã vùng dậy phản kháng quyết liệt. Đó là quá trình chuyển biến biện chứng, logic từ tự phát đến tự giác dưới ánh sáng của cách mạng.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 13

Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu.

Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất Tây Bắc với nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta còn từng bắt gặp Tô Hoài với riêng một tập truyện viết về phong tục về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây Bắc. Truyện ngắn thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.

Tô Hoài là một nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả sự thật của đời thường với trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn. Sáng tác của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống con người phong tục cũng như sinh hoạt của người dân Tây Bắc.

Vợ chồng A Phủ được trích từ tập truyện Tây Bắc sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài năm 1952 trong một lần lên Tây Bắc. Truyện hướng tới phản ánh số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, đi từ số phận khổ đau đến cuộc đời mới tự do.

A Phủ là chàng trai người H’mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó A Phủ trốn ngược về vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho hết nhà này đến nhà kia. Đến tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng nên không lấy nổi vợ.

Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng cảm và tài ba: đốt rừng, làm nương, cuốc nương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do phóng khoáng. Ngay từ khi mới lên mười, cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà muốn trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây mai đó nhưng được là con chim của núi rừng tự do.

Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh mẽ, kiên cường luôn khao khát cuộc sống tự do, phóng khoáng. A Phủ bị giai cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm lặng thì nỗi khổ của A Phủ được miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt và và cảnh A Phủ bị trói đứng vì làm mất bò.

Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám đánh lại con quan chính là A Sử rồi khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn bạo đến mức chưa từng có. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Thành phần tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh trọng trang nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ.

Nhân trứng lại là đám trai làng- những công cụ của thống lý. Còn bị cáo A Phủ thì không được trình bày, không được nghe luận tội mà chỉ luôn quỳ im mà chịu đòn. không khí phiên tòa diễn ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và tiếng rít thuốc phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ô cửa. Kết thúc xử kiện, A Phủ phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.

Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan, cho người đi gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau và cả một con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra thừa biết A Phủ không thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con, đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận mặt người vay nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi của thống lý. Cuộc sống nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau đớn, chân bước đi tập tễnh, A Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình.

Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải sống một kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách sự kiện phạt vạ, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp thống trị miền núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những con người lao động tự do vào kiếp đời nô lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.

Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thật thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ chôn cột, lấy dây mây để cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm cho A Phủ không cựa quậy được rồi bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết để đền mạng cho con bò của gia đình thống lý.

Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi Chúng coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng hiểu thêm nỗi thống khổ con người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền làm người.

Khi còn là một cậu bé lên mười, A Phủ chấp nhận sống nghèo khổ đi ở cho hết nhà này đến nhà khác để sống tự do và khi chứng kiến A Sử quấy rối phá đám cuộc chơi, A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng đó là con quan. Trong cảnh xử kiện tàn bạo của thống lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không kêu rên mà chỉ quỳ yên như cái tượng đá để chịu đòn.

Trước thế lực cường quyền ghê gớm, A Phủ đã bất lực phải chịu đựng nhưng ẩn trong thái độ đó là sự thách thức sự phản kháng ngầm. Trong đêm A Phủ bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát cho mình. Chỉ khi bị cho thêm hai thòng lọng vào cổ, A Phủ mới bất lực.

Sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát rõ nhất khi A Phủ được Mị cởi trói. A Phủ đã ngã quỵ xuống vì kiệt sức nhưng sau đó A Phủ đã quật tức vùng lên chạy khỏi nhà thống lí. Có lẽ lòng khao khát được sống, được tự do và tinh thần phản kháng ở chàng trai nô lệ ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô biên khiến cho A Phủ không chỉ được cứu mình mà còn cứu được Mị chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, để được sống tự do chấm dứt kiếp đời nô lệ.

Tô Hoài đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể vừa khái quát. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương đồng nhưng cách khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động. Những biểu hiện, lời nói và hành động của A Phủ thường ngắn gọn, dứt khoát quyết liệt rất phù hợp với tính cách và góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Khép lại trang viết về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với hình ảnh của A Phủ và Mị đã để lại trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã rất thành công khi tái hiện được hình ảnh của A Phủ và Mị với những sức sống với sức mạnh phản kháng vươn lên mạnh mẽ bất chấp hoàn cảnh. Tác phẩm sẽ sống mãi cùng với thời gian và đồng hành cùng bạn đọc các thế hệ.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 14

Trong các tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc cũng không khỏi ấn tượng với nhân vật A Phủ- một chàng trai dân tộc với số phận rất bất hạnh nhưng có những phẩm chất phi thường.

A Phủ đã được giới thiệu là một người mồ côi và một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp và trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã rất  gan bướng và dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi và không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm và là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy nhiên vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và về tình yêu. A Phủ như đứa con và như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh và vô cùng éo le qua vụ xử kiện vô lý này của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này thì A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính là  vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, nhà văn Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra và vung tay, ném, xốc tới và nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo và đánh tới tấp. Đọc đến đoạn văn này thì người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền và cậy thế.

Tuy nhiên vậy , tất cả những mơ ước khát vọng đó đã bị chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc về tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra và A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai rất yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự thế việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật này vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền và thống trị ở các địa phương đày đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng thế là A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm và trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc bỏ trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả và khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi đã lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc và tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí Pá Tra mất một con bò và nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động rất dã man và mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của những người lao động chân chính. Nhưng cũng chính là từ sự bất hạnh này đã đem lại đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.

Từ một cô gái vô cảm và chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy được giọt nước mắt của A Phủ: “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết rất nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu và sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cái cảnh mình bị trói trong đêm tình mùa đông mà không có một ai đến cứu cả . Có lẽ là giọt nước mắt của con người đã chạm đến tận trái tim của các nhà văn và họ luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta đã thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng nhà văn Tô Hoài và nhà văn Nam Cao.Nhà văn Nam Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của nhà văn Nam Cao, và hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.Đối với nhà văn Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể nói thanh lọc tâm hồn con người”. Phải chăng là khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại của A Phủ- là một chàng trai người Mông gan góc và khỏe mạnh khác thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra,nhà văn Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?

Chính nhờ những giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ và giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt dây xong thì Mị lại hốt hoảng và lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí Pá Tra. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống và khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “ khỏi địa ngục trần gian”.

Qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài đãi đã xây dựng thành công nhân vật A Phủ với hình tượng người lao động khao khát tự do và tình yêu cuộc sống và từ đó càng cho thấy tài năng và niềm đồng cảm sâu sắc mà nhà văn dành cho những con người lao động nghèo khổ và bất hạnh.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 15

Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng với nhiều tác phẩm hay và đặc sắc như “Truyện Tây Bắc”, “Dế Mèn phiêu lưu kí”, “Núi cứu quốc”, “Xuống làng”, “O chuột”,… Nổi bật trong số những tác phẩm của ông là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn này là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Bắc khỏe mạnh, chăm chỉ lao động, luôn khát vọng tự do và hạnh phúc.

A Phủ không phải là người ở Hồng Ngài, quê chàng ở tận Háng-bla. Cả nhà đã bị bệnh đậu mùa mà chết từ lâu, A Phủ bị người ta bắt đi để đổi lấy thóc. Không chịu cảnh đó, A Phủ trốn lên Hồng Ngài, đi làm thuê, tự nuôi sống bản thân từ khi mười tuổi. Thời gian trôi qua, A Phủ đã trở thành chàng trai to lớn, “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. Tuy cuộc sống mưu sinh có vất vả nhưng chàng chưa bao giờ cảm thấy buồn tủi. Ngược lại, A Phủ luôn luôn chăm chỉ, làm việc tháo vát, nhanh nhẹn, giỏi giang khiến ai cũng quý. Người ta bảo rằng, có được A Phủ cũng như “bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Thế nhưng, “A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, chàng không thể lấy nổi vợ”. Không vì thế mà A Phủ đánh mất đi niềm vui của tuổi trẻ. Trong đêm tình mùa xuân, dù  chỉ có “độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ”, chàng vẫn đi chơi cùng bạn. Chàng chơi quay, đánh pao, thổi kèn, sáo và đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Có thể thấy rằng, A Phủ ở thời kì này là con người khỏe mạnh, chăm chỉ, tràn đầy sức sống tuổi trẻ, không hề ngần ngại bất cứ điều gì. Những gì toát lên ở A Phủ cho ta thấy được sức mạnh của cuộc sống tự do.

Thế nhưng, chỉ sau một trận đánh nhau với A Sử, A Phủ đã bị trói lại, bị đánh đập dã man, bị quan thống lí phạt đến một trăm bạc trắng. Không có tiền trả, A Phủ đành phải đi ở cho nhà Pá Tra để trừ nợ. Vậy là, cuộc sống tự do của chàng đã kết thúc. Từ đây, chàng bị cường quyền, thần quyền trói chặt, phải làm trâu làm ngựa cho người khác. Khi đi ở cho nhà quan thống lí, việc gì A Phủ cũng làm: “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa,…”. Tuy có sức khỏe, A Phủ “cái gì cũng làm phăm phăm” nhưng anh phải bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng, làm giàu cho nhà thống lí. Tưởng như cuộc sống cứ trôi qua như thế thì bi kịch bỗng ập đến với A Phủ. Vì mải mê bẫy nhím, chàng lơ đễnh để hổ bắt mất bò. Chàng bị thống lí Pá Tra phạt trói đứng vào cột, dây mây quấn từ đầu tới vai. Nếu không bắn được hổ, A Phủ sẽ phải chết như thế. Chàng sẽ chết vì đói, vì mệt, kiệt sức, vì bị dây mây siết chặt. Giá trị của con người khỏe mạnh, chăm chỉ khi ấy còn chẳng bằng một con bò. Kiếp người trong tay bè lũ thống trị thật quá rẻ mạt, chẳng đáng đến một hào. Càng nghĩ, A Phủ càng đau đớn tủi nhục, chán nản, “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”. Có lẽ, trong giờ phút bị trói, chàng đã tưởng rằng cuộc đời mình sẽ kết thúc đầy bi đát, tuyệt vọng như thế.

May mắn thay, Mị đã giải thoát cho A Phủ. Sau rất nhiều ngày bị trói đứng, không được ăn uống, “A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”. Chàng cảm thấy kiệt sức, không còn đủ tỉnh táo để nhận thức điều gì. Thậm chí chàng còn ngã khuỵu xuống, chẳng thể bước nổi. Thế nhưng, chỉ cần nghĩ đến cảnh đi ở trừ nợ, cảnh bị bóc lột, bị đánh đập, trói buộc dã man, “A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Từ chi tiết đó, ta thấy được sức sống tiềm tàng trong con người chàng. Dù đã kiệt quệ về thể chất và tinh thần nhưng vì hi vọng sống, chàng lại lấy hết sức để chạy đi, trốn thoát khỏi chốn đau khổ làm còn người trở nên tàn tạ, kiệt quệ. Sau đó, A Phủ cũng dìu Mị – người con gái làm trâu ngựa cho nhà thống lí đi cùng. Lòng yêu thương, đồng cảm giữa những mảnh đời nghèo khổ đã khiến họ giải thoát cho nhau, cùng nương tựa, gắn bó vào nhau để xây dựng cuộc sống mới. Khi trốn lên đến Phiềng Sa, hai người làm ăn, dựng nhà, giác ngộ cách mạng. Từ đó, độc giả thấy được ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ của những con người nơi núi rừng Tây Bắc. Dù cho quá khứ có nhiều đau thương nhưng họ vẫn vượt qua, kiên cường sống tiếp để tìm kiếm hạnh phúc.

Bằng lối xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, mới mẻ, nhà văn Tô Hoài đã ca ngợi những người dân vùng Tây Bắc đầy khỏe mạnh, kiên cường. Dù bị áp bức, bóc lột nhưng họ vẫn có sức sống tiềm tàng, khát vọng tìm kiếm tự do và hạnh phúc. Nghệ thuật xây dựng và miêu tả diễn biến tâm lí tài tình cũng giúp cho các nhân vật trong truyện, nhất là A Phủ hiện lên đầy sống động. Những hành động, suy nghĩ diễn ra đều hợp tình, hợp lí. Từ đó, tác giả bày tỏ lòng yêu thương, trân trọng nhân vật A Phủ cũng như tất cả bà con đồng bào miền núi trong thời kì thực dân nửa phong kiến.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 16

Nằm trong tập “Truyện Tây Bắc’ có thể nói truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những “đứa con tinh thần” ưu tú nhất của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài.Có thể nói đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh và đầy éo le của những người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến.

Qua đó, dường như ta đã thấy được tác giả cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của những người nghèo khổ. Và bên cạnh nhân vật Mị thì nhân A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về sự bản lĩnh vượt lên số phận và vượt lên chính mình.

A Phủ là một nhân vật trong truyện, tuy không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người cho đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. Nhân vật dường như đã xuất hiện trước mắt người đọc trong lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt, bị phạt vạ và đánh đập rất dã man. Từ đây, có thể thấy rằng tác giả đã ngược dòng để kể về lại lịch của A Phủ, giúp người đọc hình dung rõ hơn về con đường đời vượt lên số phận của anh.

A Phủ được biết đến là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch đậu mùa. Chính vì vậy mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới cánh đồng.

Thế nhưng, dường như đã không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh và bỏ trốn lên Hồng Ngài, anh đi làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi thân. Và cũng bởi chính những bản lĩnh gan góc, và một sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ cực ấy và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá lớn hơn về sau trong cuộc đời A Phủ.

Từ khi trưởng thành, thì A Phủ như lại càng chứng tỏ con người gan góc, không chịu khuất phục, luôn có ý chí vượt lên số phận cay đắng để vươn đến những điều tốt đẹp, đáng mơ ước của mình. Chàng dường như đã “biết đúc lưỡi cày”, “đi săn bò tót rất bạo”. Chẳng những là một người lao động giỏi mà A Phủ lại còn có sức khỏe hơn người: “A Phủ chạy nhanh như ngựa”, có thể nói “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Có thể thấy chính những nghị lực sống và sức khỏe của anh dường như cũng đã khiến cho nhiều cô gái và người làng yêu mến.

Nhưng tiếc thay, A Phủ hiện lên lại là người không cha không mẹ, không nhà cửa, không ruộng nương và cũng chính vì những tập tục cưới vợ của người Mèo phải có trăm đồng bạc trắng cho nên mà đối với A Phủ chuyên lấy vợ với anh là chuyện quá xa xôi và có phần viển vông. Có thể thấy một chàng trai khỏe mạnh và cá tính như anh đáng lẽ ra anh phải được hưởng hạnh phúc vậy mà cuối cùng vẫn phải một mình cô độc như thế.

Và cho dù có nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào trong những ngày lễ Tết, A Phủ dường như không có quần áo mới như những anh con trai khác mà với nhân vật A phủ thì lại “chỉ có độc một chiếc vòng cổ” nhưng “A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Đã có rất nhiều cô gái kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”.

Chẳng những thế, ở nhân vật A Phủ còn là một con người trọng tình và đầy nghĩa khí. Khi mà gặp chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn thường xông ngay vào để bênh vực cho bạn của mình. Điều này đã chứng tỏ nhân vật A Phủ là một chàng trai gan dạ và chí khí.

Và khi anh bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã bị bọn người nhà thống lý đánh đập hết sức dã man, tàn bạo từ trưa cho đến đêm muộn. Và hình ảnh “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Thế nhưng bọn người nhà thống lý “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”.

Mặc dù bị đánh đập và rất đau đớn nhưng A Phủ không hề khóc lóc van xin mà trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Sự im lặng chịu đựng của anh đã cho thấy bản lĩnh gan dạ, không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai và sự bất lực, căm phẫn đến tột độ vì không thể làm gì được.

Cho đến cuối cùng, khi kết thúc phiên xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị thống lý Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Đó là kiếp người sống mà bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải đảm đương cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như việc săn bò tót đầy nguy hiểm.

Với cảnh xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy giai cấp địa chủ thống trị dường như luôn luôn tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào ngoi lên đòi quyền sống và được làm người đúng nghĩa. Có thế mà bọn địa chủ mới hả hê, mới yên lòng.

Chế độ xã hội phong kiến ở miền núi Tây Bắc còn tàn độc đến mức, con người có thể nắm giữ mạng sống của con người, có quyền sinh – sát đối với người khác. Là một con nợ, là nô lệ cho nên vậy mà tính mạng của A Phủ sống hay chết là nằm trong bàn tay của thống lý Pá Tra.

Cũng chính vì lý do đó, chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ lại bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây sậy quấn từ chân lên vai”. Và chuyện A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét” là sẽ xảy ra. Và những cảnh tương tự mà Mị từng chứng kiến trong nhà thống lý Pá Tra – để thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt.

Tuy vậy, chính với bản lĩnh gan góc, không chịu khuất phục sẵn có, A Phủ nhất định không chịu chết chôn chân ở cái cộc gỗ ấy mà anh luôn tìm cách tự giải thoát cho chính mình “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng chưa kịp dứt ra thì trời cũng lại vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vòng dây trói nữa.

Và nhân vật “A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa” đành chịu “đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya”. Và có thể thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là những giọt nước mắt của sự cay đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Và phải chăng chính vì trông thấy những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng ấy mà lúc này nhân vật Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính mình.

Hai người đã cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, để tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. Từ đây, có thể nói A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào công cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương. Hình ảnh nhân vật A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý cách mạng là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.

Cùng với Mị thì có thể thấy cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong những tăm tối của đau khổ, tủi nhục và chính bằng sức mạnh của chính mình họ đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đó có thể nói đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 17

Cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hình thành Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ. Vợ Chồng A Phủ đã đặt ra vấn đề về số phận con người, những con người bị bóc lột cả về thể xác lẫn tâm hồn. Một trong những số phận đầy bất hạnh đó chính là nhân vật A Phủ.

A Phủ có một cuộc đời đầy khổ đau tủi nhục. Ngay từ nhỏ, A Phủ đểu mồ côi cha mẹ. Năm đó, làng Háng -Bla phải một trận bệnh đậu mùa. Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Chỉ còn sót lại có một mình A Phủ. Cuộc đời A Phủ từ đó bơ vơ vất vưởng.

Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà A Phủ bị người ta bắt đem đổi lấy thóc. Có một người trong làng vì đói quá đã nhẫn tâm bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy cắp của người Thái dưới cánh đồng. Nhưng với bản tính ngang bướng, A Phủ tìm cách trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đó A Phủ sống một cuộc sống phiêu bạt. Cuộc đời anh không nhà cửa, không ruộng nương, phải đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác.

Năm tháng qua đi, chẳng bao lâu A Phủ đã biết hết các công việc. Cuộc sống đã rèn luyện A Phủ thành một con người vững chãi. A Phủ biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo. A Phủ lại rất khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê. Có người còn khen rằng: “đứa nào được A Phủ cũng bằng con trâu tốt trong làng”.

Tuy nghèo khó, khổ cực nhưng A Phủ cũng sống đầy khát khao. Ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Anh ung dung tự tại giữa cuộc sống đầy khắc nghiệt chốn Hồng Ngài.

Thế nhưng, vận rủi đã đến với anh và chuyển hướng cuộc đời anh đến chỗ thảm khốc. Vì xích mích với đám trai làng trong lúc đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra đến chảy máu. Hành động bột phát ấy đã mang tai họa đến với A Phủ. Anh bị đám trai làng bắt trói và đưa về nhà thống lí để chịu tội.

Từ một thanh niên tự do bỗng dưng A Phủ trở thành nô lệ. Cuộc đời nhân vật A Phủ là điển hình của cảnh áp bức bóc lột ở chốn Hồng Ngài. Bọn thống trị dựa vào đầu óc mê tín của người dân, lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của họ.

Qua cảnh sử kiện tại nhà thống lý, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được bộ mặt dã man tàn bạo của bọn thống trị miền núi. Bọn thống trị bằng sức mạnh của mình đã chà đạp lên quyền sống của con người, tước đoạt ở họ quyền làm người tự do. Không những thế, chúng còn hành hạ thân xác con người tàn tệ như đối xử với thú vật.

A Phủ bị bắt khiêng về ném xuống nhà như một con vật. Thế rồi suốt từ trưa đến chiều, thâu đêm đến sáng hôm sau, bọn chức dịch lợi dụng việc sự kiện kéo đến ăn cỗ và thi nhau hút thuốc phiện. Còn A Phủ suốt đêm đó phải quỳ giữa nhà chịu đòn. Cứ sau một đợt hút thuốc phiện lại một lần A Phủ bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. A Phủ đau lắm nhưng không biết kêu ai. Anh chỉ có một mình, còn bọn chúng thì quá đông. Anh là kẻ có tội, còn bọn chúng dựa vào cả cường quyền, lẫn thần quyền để khuất phục, chế ngự và hành hạ anh. Mọi người biết nhưng không ai nói gì, làm gì. Vì họ cũng tin vào thứ cường quyền và thần quyền ấy.

Cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nộp nên phải ở làm kẻ lao động trừ nợ cho nhà thống lí. bản án ấy được khẳng định qua lời của tên thống lí: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở lại làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Đau đớn hơn đó là khi A Phủ phải đứng lên cầm con dao, ra chọc tiết, làm thịt lợn để làm cỗ hầu chính những kẻ đã biết anh thành nô lệ. Như vậy, sống trong hoàn cảnh mà mọi quyền lực đều nằm trong tay giai cấp thống trị, số phận của những người dân nghèo thật bi thảm. Họ có thể bị đánh đập dã man, bị chết bất cứ lúc nào.

Cuộc đời A Phủ từ đây rơi vào bóng tối cùng cực. A Phủ chính thức trở thành nô lệ, là công cụ lao động trong nhà thống lý Pá Tra. Quanh năm suốt tháng anh chỉ làm việc quần quật chỉ một thân một mình. A Phủ hết đốt rừng, cuốc nương rồi lại săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa. Quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Anh chìm ngập trong cả núi công việc, không bao giờ ngơi tay. Cả ngày mưa lẫn ngày nắng người ta thấy lúc nào A Phủ cũng phải làm việc. Lâu dần anh quên cả ý nghĩa của sự tồn tại bản thân, quên hẳn những khát khao của tuổi trẻ.

Tưởng chừng số phận đã an bài số phận A Phủ sẽ là người nô lệ suốt đời suốt kiếp. Rồi anh sẽ chết khi không còn sức lực để làm việc nữa. Thân xác anh sẽ trở về với đất. Cái tên A Phủ sẽ không còn ai nhắc đến. Thế nhưng, một sự việc xảy đến, một lần nữa, cuộc đời A Phủ lại chuyển hướng. Bánh xe số phận lại gập ghềnh.

Lần đó, chỉ do mải mê bẫy dính mà anh để hổ bắt mất bò. Mất một con bò khiến cho thống lý Pá Tra vô cùng giận dữ. Nó trói đứng A Phủ vào cột suốt mấy ngày mấy đêm phải chịu đói, chịu rét cho đến khi A Sử và bọn trai làng giết được con hổ ấy thì chúng mới tha cho anh. Với sức của A Sử và bọn trai làng nghiện hút, A Phủ không tin chúng sẽ bắt được con hổ. A xin đi bắt hổ nhưng chúng không chịu. Chúng lo sợ anh sẽ bỏ trốn. Và thiếu chút nữa A Phủ đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình nếu không được Mị giải thoát.

Thông qua biểu phản ánh số phận đầy đau thương của nhân vật A Phủ, nhà văn tố cáo mạnh mẽ giai cấp thống trị độc ác đồng thời bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc đối với người dân nghèo. Trong con người của A Phủ, người đọc còn cảm nhận được ở anh những phẩm chất tốt đẹp. Đó là sự ý thức của A Phủ về quyền làm người. Ngay từ nhỏ A Phủ đã thể hiện sự dũng cảm của mình. A Phủ không chấp nhận sống dưới cánh đồng thấp nên đã trốn lên núi cao. Còn khi bị bọn A Sử phá đám trong buổi chơi tết, A Phủ để xông ra đánh A Sử mà không hề nghĩ rằng đó là con quan: “A Phủ sốc tới, nắm có vòng cổ (dấu hiệu con nhà quan) kéo dập đầu xuống, xé vai áo,đánh tới tấp”.

Khi bị bắt, bị đánh đập, A Phủ không hề kêu van. Anh không hề van xin mà lì như tượng đá. Ngay cả khi làm mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò còn lại về ném xuống gốc đào trước cửa. Anh không chấp nhận chịu trói mà đòi lấy súng để đi bắn hổ. Anh nói dõng dạc: “cho tôi đi. Được con hổ ấy còn nhiều hơn con bò, cho tôi khỏi tội”. Đó là anh tự tin vào bản thân. Bị thống lý trói đứng vào cột, đến đêm A Phủ tìm cách nhay đứt hai vòng dây. Phải chăng, đó chính là ý thức của sự phản kháng trong con người A Phủ.

Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết A Phủ đã quật sức vùng lên chạy. Anh còn cứu thoát cả cuộc đời nô lệ của Mị. Sự vùng lên tự giải thoát cho chính mình của A Phủ (và Mị) tiêu biểu cho sự vươn lên của đồng bào dân tộc miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ.

Mặc dù không được Tô Hoài dành cho nhiều trang viết nhưng nhân vật A Phủ cũng thể hiện sự thành công của nhà văn trong bút pháp khắc họa nhân vật. Thông qua việc phản ánh số phận của A Phủ, nhà văn còn lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị phong kiến miền núi đồng thời bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình.

Qua cuộc đời và số phận của nhân vật A Phủ, truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi. Nhà văn trực tiếp phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người. Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Thông qua cuộc đời đầy khổ đau, tủi nhục và sức mạnh vươn lên của nhân vật A Phủ và nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã đã chỉ ra con đường giải thoát cho người dân tộc miền núi. Muốn vượt lên sức mạnh của cường quyền và thần quyền chỉ có một cách là tìm đến ánh sáng của cách mạng, làm cách mạng và tự giải phóng mình ra khỏi ách thống trị, làm chủ cuộc sống của chính mình.

*****

Trên đây là 17 bài mẫu Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (1 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *