Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên ngắn gọn, hay nhất (22 Mẫu)

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên lớp 10 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 22 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên.

Mục lục

Dàn ý Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên lớp 10

Dàn ý Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Số 1

a) Mở bài

– Giới thiệu sơ lược về tác giả, đoạn trích

  • Nguyễn Du là một ngôi sao sáng trên nền trời thơ ca Việt Nam, ông còn là bậc thầy trong cả việc miêu tả nội tâm nhân vật.
  • Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn thơ có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

– Khái quát tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích: Đoạn trích là tiếng lòng đau xót và tê tái, tâm trạng giằng xé đầy đau khổ của Thúy Kiều khi phải chia lìa hạnh phúc của mình.

b) Thân bài

* Luận điểm 1: Tâm trạng Kiều khi mở lời trao duyên

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

….

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

– Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa).

-> Lời xưng hô của Kiều vừa như trông cậy, vừa như nài ép, phù hợp để nói về vấn đề tế nhị “tình chị duyên em”.

– Nhắc nhở mối tình của mình với chàng Kim:

  • “Giữa đường đứt gánh tương tư”
  • “Mối tơ thừa”
  • “Quạt ước, chén thề”

-> Mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim – Kiều.

– Kiều giãi bày lí do đi đến quyết định trao duyên cho Vân

+ Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”. Kiều buộc phải chọn một trong hai con đường là “hiếu” và “tình” -> Kiều đành chọn hi sinh tình để giữ trọn hiếu.

=> Kiều đã gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để Vân thấu hiểu.

+ “Ngày xuân em hãy còn dài”

-> Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.

+ “Xót tình máu mủ thay lời nước non”

-> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.

+ “Thịt nát xương mòn”, “ Ngậm cười chín suối” : Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.

=> Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.

* Luận điểm 2: Tâm trạng Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em

– “Chiếc vành, bức tờ mây”

-> Kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.

– Từ “giữ – của chung – của tin”

  • “Của chung” : của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa.
  • “Của tin” : những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều (mảnh hương, tiếng đàn)

-> Thể hiện sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.

– Kiều dự cảm về cái chết:

+ hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan

-> Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng.

=> Sự đau đớn, đầy tuyệt vọng, tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim Trọng của Kiều.

– Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân

  • “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
  • “Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.

-> Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.

=> Thúy Kiều trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát.

* Luận điểm 3: Tâm trạng của Kiều khi nghĩ về Kim Trọng

– Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại

– “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”

-> Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình, số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi.

– Hành động:

  • Nhận mình là “người phụ bạc”
  • Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu
  • Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.

-> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý.

=> Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng.

c) Kết bài

  • Khái quát tâm trạng của Kiều trong đoạn trích.
  • Cảm nhận của em.

Dàn ý Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Số 2

1. Mở bài:

  • Giới thiệu vài nét đặc sắc nhất về tác giả, tác phẩm và vị trí của đoạn tích.
  • Dẫn dắt đặt vấn đề (theo yêu cầu đề ra).

2. Thân bài:

– Đoạn 1: Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

(“Cậy em em có chịu lời…phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”)

  • Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa). Lời xưng hô của Kiều vừa như trông cậy, vừa như nài ép, phù hợp để nói về vấn đề tế nhị “tình chị duyên em”.
  • Nhắc nhở mối tình của mình với chàng Kim: thắm thiết nhưng mong manh, nhanh tan vỡ.

Cách nói của Kiều thể hiện sự thông minh khôn khéo, qua đó thể hiện tài năng bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du.

+ Kiều trao duyên cho em. Chú ý cách trao duyên – trao lời tha thiết, tâm huyết; trao kỉ vật lại dùng dằng nửa trao, nửa níu – để thấy tâm trạng của Kiều trong thời khắc đoạn trường này: Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình.

– Đoạn 2: Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên

(Mai sau dù có bao giờ…thiếp đã phụ chàng từ đây)

  • Dự cảm về cái chết cứ trở đi, trở lại trong tâm hồn Kiều ; trong lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn,Kiều hướng về người yêu với tất cả tình yêu thương và mong nhớ.
  • Từ chỗ nói với em Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu ; từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ vừa mới chớm nở đã tan vỡ.

=> Với nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật và ngôn ngữ độc thoại sinh động, đoạn trích Trao duyên đã ánh lên vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau đớn khi tình yêu tan vỡ và sự hy sinh đến quên mình vì hạnh phúc của người thân.

3. Kết bài:

  • Tài năng xuất sắc của Nguyễn Du trong việc khám phá và thể hiện quy luật nội tâm sâu sắc của con người.
  • Đoạn trích thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, qua đó thấy được cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du.

 

22 Bài mẫu Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên lớp 10 hay nhất đạt điểm 9, 10

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 1

Tai biến ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của những con người hiếu thảo: “Để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành. “Khi mâu thuẫn giữa hiếu và tình đã được giải quyết, Thúy Kiều lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và nhức nhối hơn. Đoạn trích Trao duyên đã khắc họa sâu sắc bi kịch đó của Thúy Kiều đồng thời cũng khiến chúng ta trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng.

Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với chính mình, với ngọn đèn in bóng đau khổ đã cạn dần với chiếc khăn thấm lệ đã đẫm nước mắt: “Dẫu chong trắng địa, lệ tràn thấm khăn”. Điều gì đã khiến nàng “ngồi nhẫn tàn canh”. Trong tâm trạng “bàn hoàn” đến vậy? Chỉ đến khi Thúy Vân “ghé đến ân cần hỏi han” Kiều mới thổ lộ tâm sự sâu kín của nàng. Người con gái tài sắc ấy không chỉ có lòng hiếu thảo với cha mẹ mà trong tình yêu, nàng là con người thiết tha, sâu nặng, vị tha đến quên mình. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Thúy Kiều. Số phận nàng ngày mai không biết sẽ ra sao nơi đất khách quê người, nhưng hiện tại trong giờ phút này, Kiều một lòng một dạ hướng về người yêu. Điều này được thể hiện rõ qua lời khẩn cầu thiết tha đối với Thúy Vân:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Cái sâu sắc nước đời của Tố Như thể hiện ở việc lựa chọn từ ngữ diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong những từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,… Nguyễn Du chọn từ cậy, vì chỉ từ này mới hàm chứa hai nội dung: nhờ và tin. “Chịu lời” chứ không phải nhân lời vì nhận lời là sự tự nguyện của Vân. Song việc Kiều sắp nhờ cậy em gái là một sự nài nỉ, bắt buộc, không nhận không được, là đưa cả chính nàng và Vân vào hoàn cảnh khó xử. Đó là việc Vân thay Kiều trả “nghĩa” cho Kim Trọng: xót tình máu mủ thay lời nước non”. Trong quan niệm của người trung đại tình thường gắn với nghĩa. Cả ba người trong cuộc đều coi việc trả nghĩa này là hợp lí. Nhưng cho dù đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của Vân: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Thúy Kiều vẫn đưa ra những lí lẽ để thuyết phục em gái. Chính những lí lẽ ấy càng thể hiện rõ tình yêu sâu nặng Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, càng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Nói với em, thuyết phục em mà Kiều như sống lại những kí ức tình yêu với Kim Trọng: “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”; trao kỉ vật tình yêu cho Vân: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền,… mà những mong thông qua đó, nàng có thể hiện diện trong tình yêu, trong nỗi niềm với Kim Trọng.

Song càng nặng tình với chàng Kim bao nhiêu, Kiều càng rơi vào bi kịch khổ đau bấy nhiêu. Đó trước hết là bi kịch của tình yêu lứa đôi đang đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ này ta đã bắt gặp trong ca dao, hóa ra, những đau khổ của Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên bi kịch tình yêu tan vỡ ở nàng vẫn đau đớn và nhức nhối hơn bất cứ thiên tình sử nào trước đó. Một phần là bởi Thúy Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân chứ không thể trao tình yêu cho em gái. Nàng đã trao lại cho Vân những kỉ vật tình yêu đẹp đẽ và thiêng liêng. Trong mối quan hệ chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng dành cho người chị chữ “tình”, và cô em chữ “duyên”.

Khi ăn ở lúc ra vào,

Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa

Kiều mong muốn thông qua những kỉ vật, nàng có thể hiện diện trở về trong tình yêu, trong tâm thức của Kim Trọng: “Mất người còn chút của tin”, nhưng có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người đã mất, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thi hay chị về”. Nhưng nàng ý thức được rằng đó là cái chết oan nghiệt: “Rảy xin chén nước cho người thác oan”. Trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa, còn trong Truyện Kiều giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ, luôn luôn bị chia cắt bởi hai cõi âm dương: “Dạ đài cách mặt khuất lời “Sau này, trong màn “Tái hồi Kim Trọng “sự gặp mặt của Kim – Kiều cũng không còn là sự gặp lại của tình yêu, vì “sự đời đã tắt lửa lòng” “đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì”.

Thông qua việc khám phá vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách Thúy Kiều cũng như bi kịch của nàng trong đoạn trích: “Trao duyên”, người đọc nhận ra “sức cảm thông lạ lùng” của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 2

Một trong những thành công tiêu biểu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật. Điều đó được thể hiện rõ trong đoạn trích Trao duyên. Chỉ bằng tầng ngôn từ biểu đạt, Nguyễn Du đã khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thúy Kiều trong nỗi đau xót dở dang duyên phận của mình. Những chuyển biến tâm lý của Kiều trong từng lời nói, hành động được Nguyễn Du thể hiện đầy tinh tế, gợi những đồng cảm với nhân vật trong lòng người đọc.

Mở đầu đoạn trích, là tâm trạng buồn tủi, xót xa của Kiều khi mở lời cậy nhờ em gái chắp mối duyên cho mình:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Lời Kiều cất lên vừa chân tình lại vừa tha thiết. Hai tiếng “cậy em” chất chứa cả sự khẩn cầu và tin cậy. Ngoài Vân ra Kiều chẳng thể nhờ ai được, bởi chỉ có Vân là hiểu Kiều, chỉ có Vân là người phù hợp nhất để thay Kiều chắp vá duyên mình. Hành động “lạy”, “thưa” ngỡ là vô lý bởi lẽ thường là bậc làm chị sao có thể nào “lạy em”, nhưng đặt trong tình huống lại rất hợp lý. Bởi với Kiều lúc này, Vân là một ân nhân, một người có thể giúp Kiều. Những hành động thể hiện trong từng lời nói ấy như báo trước cho Vân một sự hệ trọng mà Kiều sắp nói ra đồng thời cũng cho thấy những tâm tư sầu kín của nàng.  Kiểu hiểu rằng với em, nhờ vả chuyện này nào dễ dàng gì, nàng hẳn cũng đã rất day dứt, nghĩ  suy rất nhiều mới ngỏ lời nhờ em như vậy:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Bằng lời lẽ chân tình, Kiều giãi bày với em về sự tình lúc này. Giờ đây, tình yêu của Kiều và Kim bị “đứt gánh” giữa đường, đành cậy nhờ em “chắp mối tơ thừa” cho chị. Là người sâu sắc và hiểu chuyện, Kiều hiểu được sự thiệt thòi và khó xử của Vân, nhưng không còn cách nào khác đành phó mặc em chắp mối duyên tình dang dở cùng Kim Trọng. Vừa nhờ em, nàng vừa tâm sự cùng em những kỉ niệm đẹp đẽ bên chàng Kim. Đó là những tháng ngày Kiều được hưởng hạnh phúc, vui vầy trọn vẹn. Điệp từ “khi” cùng những hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” như tái hiện lại khoảng thời gian hạnh phúc trong tâm trí Kiều, đồng thời diễn tả nỗi nhớ nhung tha thiết và tiếc nuối của Kiều ngay lúc ấy. Cuộc sống, ai cũng khát khao hạnh phúc, Kiều không nằm ngoài lẽ ấy. Để có được hạnh phúc không phải là điều dễ dàng, hạnh phúc có được mà đành ngậm ngùi rời bỏ càng tiếc nuối trăm bề. “Sóng gió bất kỳ” xảy đến, gặp cơn gia biến, Kiều có lựa chọn nào khác đâu ngoài bán thân mình chuộc cha cho vẹn đạo làm con, cho tròn chữ ” Hiếu”. Nhưng trọn chữ “Hiếu” rồi kiều cũng không thể phụ chữ “Tình” với chàng Kim, nên việc cậy nhờ Vân của Kiều là điều hợp lẽ. Tuy vậy, dù lý trí dẫn đường mà lòng nàng không đặng, trong mỗi tiếng thơ là đều thấy được những tiếc nuối của Kiều về mối tình dang dở. Dặn lòng mình để thuyết phục em, Kiều đưa ra những lời lẽ thật thấu tình đạt lý, mà hẳn khi Vân nghe cũng không thể nào chối từ nguyện vọng của chị:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

 Với Kiều, tuổi xuân giờ đây dường như không còn nữa, bán mình, nàng đành chấp nhận mất đi thanh xuân ngắn ngủi. Còn với Vân thì khác, Vân vẫn còn tuổi xuân, sắc xuân, vẫn còn thời gian để tìm hiểu và yêu thương Kim Trọng,  Kiều mong em hãy vì tình máu mủ mà thay phần chị chăm sóc, san sẻ cùng Kim. Nếu được vậy thì dẫu cho có chết đi kiều vẫn vui, được an lòng nơi chín suối “ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Lời Kiều thốt ra như đẫm giọt lệ thương tâm, vừa xót xa, bi ai lại vừa day dứt, tiếc nuối. Phải yêu Kim Trọng đến nhường nào, chung thủy với Kim Trọng đến ra sao thì Kiều mới đau đớn đến như vậy. Đành rằng là cậy nhờ em, nhưng là lời cậy nhờ trong tiếc nuối, trong nỗi đớn đau khôn cùng khi phải buông bỏ mối tình không trọn vẹn, trao cho người khác cái hạnh phúc mà mình vốn chắt chiu, gìn giữ bấy lâu. Vừa dứt lời cậy nhờ, Kiều trao lại những kỉ vật tình yêu của mình cho em trong nỗi luyến tiếc khôn nguôi:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”

Tay muốn trao mà lòng chẳng đặng, bởi bao nhiêu kỉ vật là bấy nhiêu kỉ niệm, bấy nhiêu ân tình của Kiều và Kim trọng dành cho nhau. Trao cho em chiếc vành với bức tờ mây trong tiếc nuối, duyên thì mong em giữ, chắp nối nhưng vật là “của chung”. Bởi dù có thế nào đi chăng nữa thì trong Kiều vẫn chung thủy một mối tình sắt son cùng chàng Kim mà thôi, không gì có thể thay đổi được điều đó. Trong nỗi đau đớn tột cùng, Kiều ngậm ngùi nghĩ đến cái chết. Nhưng dẫu có ở chốn suối vàng lạnh lẽo, lòng Kiều vẫn sẽ không quên lời thề son sắt, thủy chung. Nỗi đau lên đến tận cùng, nàng nói với em mà như nói với chính lòng mình, với người thương nơi xa xôi. Lời Kiều thiết tha, mang nỗi xót xa, tuyệt vọng, mang nỗi phẫn uất, đớn đau, mang cả những luyến tiếc, nhớ thương và cả trăm ngàn những ngổn ngang:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.”

Yêu Kim Trọng bao nhiêu thì Kiều lại càng trách cứ bản thân mình phụ bạc chàng Kim bấy nhiêu. Một người trân trọng và thủy chung như Kiều luôn mang trong mình mặc cảm tội lỗi. Hành động “trăm nghìn gửi lạy” như lời tạ lỗi mà Kiều gửi đến Kim vì đã phụ chàng, vì đã khiến cho mối tơ duyên trở nên ” ngắn ngủi”, lỡ làng, không trọn vẹn. Trong nỗi xót xa, Kiều trách móc phận mình bạc bẽo, trái ngang. Tiếng gọi Kim Lang trong nghẹn ngào:

“Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.”

Trong tiếng gọi “Kim Lang” là cả nỗi nhớ thương chất chứa, nỗi đau giằng xé tâm can và những yêu thương tha thiết. Dẫu cho thế nào đi nữa, Kiều vẫn trân trọng chàng Kim, gọi Kim Trọng bằng hai tiếng ” Kim Lang” thầy chân thành.

“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” 

Cho đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người mình thương. Đến cuối cùng, Kiều vẫn tự nhận lỗi về mình, trách chính mình đã phụ bạc.

Đoạn trích Trao duyên tuy chỉ là một phần nhỏ trong tác phẩm dài 3254 câu thơ lục bát của Truyện Kiều nhưng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên thành công cho tác phẩm. Nỗi đau giằng xé của Thúy Kiều khi lâm vào bi kịch tình yêu được lột tả thật chân thực. Ở đó, ta thấy được sự mạnh mẽ, dứt khóa cửa một người con gái hết mực lý trí và cũng thấy được sự yếu đuối nhưng rất mực chân thành của một người phụ nữ thủy chung, giàu tình cảm.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 3

Tình yêu đầu bao giờ cũng là tình yêu trong sáng và đẹp đẽ nhất. Thế nhưng, với Thuý Kiều, tình yêu ấy lại chứa chan bao đau khổ, xót thương vô cùng. Mối tình đầu đẹp như mơ của nàng với Kim Trọng đã buộc phải chia cắt vì biến cố bất ngờ của gia đình. Để vẹn tròn hai bên hiếu, tình nàng đã quyết định trao lại mối duyên ấy cho Thuý Vân – em gái mình để Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Tất cả điều đó được thể hiện qua đoạn trích Trao duyên vô cùng đặc sắc. Đoạn trích đã cho thấy được sự dằn vặt, đau đớn khôn nguôi của Kiều khi phải trao đi mối duyên sâu đậm của mình.

Đoạn trích Trao duyên là trích đoạn từ câu 723 đến câu 756 thuộc tác phẩm Truyện Kiều của nhà văn Nguyễn Du. Sau đêm thề nguyền cùng chàng Kim Trọng, gia đình Kiều xảy ra gia biến, gia sản bị tịch thu còn cha và em trai thì bị bắt. Trước biến cố bất ngờ Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy bốn trăm lạng vàng, đút lót quan lại để cứu cha và em. Khi đó, Kim Trọng đang ở Liễu Dương chịu tang chú nên không hề biết chuyện xảy đến với gia đình Kiều. Vào tối đêm trước ngày ra đi, Kiều đã nhờ Thuý Vân – em gái mình ở lại trả nghĩa cho chàng Kim. Bao nhiêu đau đớn và giằng xé trong tâm can Kiều được đẩy lên cao trào trong trích đoạn này.

Đêm trước ngày ra đi, Kiều một mình lặng lẽ trong bóng tối. Nàng đau xót cho mình, đau xót cho cả mối tình dang dở với chàng Kim. Nàng luôn tự trách bản thân có lỗi với chàng, nàng là nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho chàng:

“Công trình kể biết mấy mươi

Vì ta khăng khít cho người dở dang!

Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa”

Kiều mang trong mình đầy những mặc cảm tội lỗi dù rằng chuyện tình cảm là hai người tự nguyện đến với nhau và cùng nhau thề nguyền. Dưới bóng đèn mờ ảo, nàng khóc thương cho phận mình, duyên tình mình. Tâm trạng Kiều đầy dằn vặt, đầy rối bời đan xen. Nàng nghĩ lại mọi chuyện và nghĩ rằng chỉ còn một cách cứu vãn, dù chỉ là một phần mối duyên của mình, đó là trao lại cho Thuý Vân. Vân sẽ giúp nàng kết duyên cùng Kim Trọng, hai người là chị em, Thuý Vân cũng sẽ như nàng mà thôi.

Khi Thuý Vân nhìn thấy vẻ mặt ủ dột của Kiều, Vân đã gặng hỏi Kiều câu chuyện và Kiều đã đáp rằng:

“Lòng đương thổn thức đầy

Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong

Hở môi ra cũng thẹn thùng

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.”

Kiều mở lời trong thẹn thùng, e ngại bởi đây là chuyện tình của riêng nàng, đâu phải ai cũng có thể hiểu, cũng có thể nghe. Bởi vậy muốn ngỏ lời với Vân chuyện hệ trọng đó thật khó biết bao! Vậy nên Kiều đã vô cùng thận trọng, lựa chọn những từ ngữ thật cẩn thận, ngập ngừng nói với em gái rằng:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Câu nói bật ra khiến người đọc cảm nhận được ngay sự e dè, thận trọng cũng như mức độ quan trọng của câu chuyện Kiều muốn tỏ bày cùng em. Nàng lựa chọn từng câu từ chính xác với một tâm trạng vô cùng đắn đo khi nhờ cậy em mình. Một từ “cậy” thôi, người đọc thấy ở đó là âm điệu nặng nề, một sự nhờ vả nhưng đầy hoang mang, dằn vặt khi Kiểu mở lời. Và rồi tiếp theo những hành động của Kiều càng khiến người ta phải ngạc nhiên hơn nữa “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Những hành động tôn kính hết mực, vốn chỉ dành cho những bậc bề trên thì nay Thuý Kiều lại dùng nó với Thuý Vân – em gái của mình. Bởi thứ mà Kiều muốn nhờ vả em mình quá đỗi quan trọng với nàng và còn vì trong tâm nàng đang tràn đầy những nỗi đau đớn, xót xa cho mối tình của mình. Hai từ “cậy, chịu” của Kiều, người đọc chỉ nghe thôi ma sao cũng thấy xót xa, thấy đau đớn thay cho nàng. Chắc hẳn, phải tuyệt vọng lắm, Kiều mới thốt lên được những tiếng nhờ cậy đau xót nhường ấy. Lời nhờ cậy ấy không chỉ là một lời nói suông mà còn chứa trong đó một thái độ nài ép, ép buộc Thuý Vân phải nhận lời.

Kiều đã rất khéo léo, thông minh khi đặt vấn đề với Vân trong câu chuyện của mình. Những lời nói của nàng không chỉ khiến Vân cảm nhận được tầm quan trọng của việc nàng định nhờ vả mà còn có thể thấy được nỗi đau và sự tuyệt vọng của Kiều trong từng câu nói đó.

Sau lời ban đầu khó nói, Kiều bộc bạch nỗi lòng của mình với em về mối tình đẹp đẽ của mình với chàng Kim:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Từng lời từng lời là từng kỉ niệm về mối tình đầu trong sáng, vẹn nguyên của nàng. Những lời hẹn ước, thề nguyền dưới trăng vẫn còn đầy, thế mà nàng đành lòng phải “đứt gánh”. Câu thơ nghe như lời tự tình thổn thức, lời tâm sự của Kiều về nỗi lòng khó chọn lựa giữa hiếu và tình:

“Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Ở trong tình thế khó xử đó, nàng đã quyết định chọn lựa chữ hiếu, bán mình lấy bốn trăm lạng vàng cứu cha và em. Thế nhưng, canh cánh trong lòng nàng là nỗi niềm tình yêu với chàng Kim – món nợ tình khó lòng trả hết. Có thể thấy, từng câu từng chữ đều là những nỗi đau khổ khôn cùng của Kiều. Vậy nên, nàng van lơn em gái, hãy vì tình cảm máu mủ mà thay mình kết duyên, trả nợ nghĩa cho chàng Kim thay nàng. Nếu được như thế, nàng có chết đi bằng cách thê thảm nhất cũng sẽ vui lòng.

Những câu chữ trong lý lẽ trao duyên của Kiều hết sức chặt chẽ, hết sức thông minh. Nhưng ẩn chứa trong đó là sự dằn vặt cũng như xót xa cho mối tình đầu của mình.

Nói hết lý lẽ trao duyên cho Thuý Vân hiểu, nàng lại lặng lẽ trao cho em hết những kỉ vật tình yêu của mình:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Nếu như ở trên, Kiều bình tĩnh phân tích cho Vân nghe mọi chuyện, mọi sự dằn vặt, đau xót nàng cất giữ trong lòng cho riêng mình, thì ở đoạn này, Kiều không thể kìm nén được nữa. Những câu thơ nghe như tiếng nấc nghẹn của nàng, khi đưa cho em gái từng kỉ vật. Nàng trao hết đi, trao “duyên này” đi, tác thành cho mối duyên giữa Vân và Kim Trọng, thế nhưng, những kỉ vật này, hãy coi nó là “của chung”, của cả ba người. Những dòng thơ tuôn trào là nỗi lòng Kiều trong giằng xé, bởi nàng vừa muốn trao đi mối duyên của mình lại vừa tiếc nuối nó, không đành. Càng nói, Kiều càng đau xót cho số phận mình, tự nhận mình là một kẻ “bạc mệnh”. Thế nên nàng mới dự cảm được tương lai của mình đầy mịt mù, chỉ thấy cái chết là rõ ràng nhất.

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Trong khi Vân và chàng Kim được nên duyên vợ chồng, Kiều tưởng tượng mình chỉ còn là một mảnh hồn vất vưởng nơi trần thế, “hiu hiu” trong gió. Thế nhưng dù “nát thân bồ liễu” thì linh hồn nàng vẫn mang nặng lời thề sắt son cùng Kim Trọng, vĩnh viễn không bao giờ quên. Thật là mâu thuẫn, thật là đan xen. Bởi Kiều đã nói nếu Vân chịu nhận lời giúp nàng thì nàng “thịt nát xương mòn” cũng sẽ “ngậm cười chín suối”. Ấy vậy mà giờ đây, khi trả được món nợ tình duyên, nàng cũng không hề thanh thản mà còn xót xa, nặng nề hơn trước nữa. Phải chăng đó là bởi trước đó, nàng lo cho người mà quên đi mình, giờ đây khi lo chu toàn chuyện của người, nàng mới nhận ra sự bạc bẽo của phận mình. Tương lai mờ mịt, oan trái, còn tinh thần nàng thì như nửa tỉnh nửa mê. Những câu nói của nàng như lời của một linh hồn phảng phất từ thế giới bên kia vọng lại.

Có thể thấy, trong lời nói của Kiều là sự giằng xé, sự tiếc nuối khôn nguôi khi phải trao đi mối duyên tình đậm sâu của mình. Và chứa chán trong đó, còn là nỗi đau xót, xót xa cho số phận bạc bẽo của mình, cho tương lai mù mịt, không lối thoát.

Trong sự cao trào của nỗi đau xót, Kiều thốt lên những lời gan ruột đau đớn cho mối duyên tình dở dang của mình, cho số phận của mình:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Giờ đây, trong thực tại nỗi nhớ về Kim Trọng, Kiều chỉ thấy những đổ vỡ, những tang thương “trâm gãy, bình tàn”. Thế nhưng, còn có thể làm được gì, “phận” đã “bạc như vôi” thì đành phải chấp nhận, đành để mối tình ấy, trái tim ấy “lỡ lãng”. Kiều biết nàng đã phụ chàng, nàng đã làm chàng phải thất vọng. Vậy nhưng giờ đây, nàng chỉ còn biết tạ tội với tình lang của mình trông chua xót và bất lực. Cuối cùng, không thể chịu đựng nổi, nàng đã thốt lên trong sự nghẹn ngào và đau đớn quằn quại:

“Ôi Kim lang! Hời Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Tiếng nấc nghẹn ấy của Kiều là sự bộc lộ toàn bộ tâm trạng đau đớn lúc đó của nàng, tới mức gần như mê sảng. Nỗi đau chia cắt cứ nhân lên nhân lên gấp bội, lên tới tột đỉnh.

Đoạn kết khép lại trong nỗi đau thương quằn quại con người nàng. Nhưng không phải là vì bản thân nàng mà là vì người nàng yêu, vì tình lang của mình. Tâm hồn nàng chứa chan sự vị tha, nhân hậu vô bờ, nàng muốn cho người được hạnh phúc còn mình thì sẵn sàng cam chịu sự hi sinh.

Đoạn trích Trao duyên đã lột tả chân thực tâm trạng của Thuý Kiều khi buộc lòng phải trao đi mối duyên nồng đậm với Kim Trọng. Ngòi bút của Nguyễn Du đã sắc sảo trong việc sử dụng ngôn ngữ để lột tả hoàn toàn từng rung động trong tâm hồn Kiều, để từ đó, ta thấy được sự đau đớn, giằng xé, nghẹn ngào trong con người Kiều một cách chân thực nhất.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 4

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xem là kiệt tác của nền văn học Việt Nam nói chung và của nền văn học trung đại nói riêng. Tác phẩm có sự ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa dân tộc, với các giá trị nhân văn nhân đạo sâu sắc khi phản ánh được hiện thực xã hội bất công, đồng thời thấu hiểu và cảm thông cho số phận con người đặc biệt là người phụ nữ. Không chỉ đặc biệt xuất sắc ở nội dung, làm nên giá trị của tác phẩm còn là các biện pháp nghệ thuật được Nguyễn Du sử dụng một cách nhuần nhuyễn khéo léo. Bên cạnh bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tâm lý nhân vật một cách ước lệ mà sâu sắc, thì Nguyễn Du còn bộc lộ tâm trạng và tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm và các cuộc đối thoại, từ đó là sáng rõ diễn biến tâm lý cũng như hoàn cảnh nhân vật. Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du khi làm nổi bật tâm trạng Thúy Kiều trước những biến cố cuộc đời, cũng như làm sáng rõ những nét đẹp trong tính cách của nàng.

Thúy Kiều vốn dĩ là một người con gái có tất cả trong tay, gia đình sang quý, cuộc sống cẩm y ngọc thực, lại được trời phú nhan sắc hiếm có, thông minh vượt bậc, lại có được tình yêu đẹp với chàng Kim Trọng tài hoa hơn người. Những tưởng cứ như thế Kiều sẽ trở thành người con gái hạnh phúc nhất thế gian có trong tay tất cả, nhưng chỉ một cơn sóng gió, một lời vu oan nàng đã không còn gì trong tay, nhà tan cửa nát, trở thành kẻ “yếu” trong xã hội, không thể tự quyết định vận mệnh của bản thân. Trước tình thế cha và em bị bắt giam, gia sản bị tịch thu, Kiều chỉ đành bán mình làm lẽ cho người ta để lấy tiền chuộc cha và em. Cứ như thế một cô gái tài sắc vẹn toàn, trong hàng vạn người chưa chắc có một, vậy mà nghiễm nhiên trở thành một món hàng mặc người ta ngã giá, định đoạt, giá trị bản thân chỉ còn là mấy trăm lượng vàng, nghe mà thấy xót xa cho một kiếp hồng nhan bạc phận. Nỗi đau của Thúy Kiều không chỉ dừng lại ở chuyện nhà tan của nát, hay nỗi tủi nhục phải làm thiếp thất, mà còn đến từ bi kịch tình yêu tan vỡ, mà Kiều lại trong vai kẻ bội bạc, phụ lòng Kim Trọng. Dù chuyện gia sự đã giải quyết vẹn toàn, nhưng món nợ tình cảm với Kim Trọng vẫn luôn đè nặng trong lòng nàng, khiến nàng day dứt mãi, dù Kiều đã định sẽ trao duyên cho Thúy Vân nhờ em gái giúp mình  nối tiếp tình duyên với Kim Trọng, xem như một phần tạ lỗi và trả lại những ân tình giữa hai người. Thế nhưng chuyện tình cảm có phải nói trao, nói trả là hết được, duyên Thúy Vân đã nhận, nhưng lòng Kiều chưa lúc nào thôi đau xót, dằn vặt, không chỉ thương cảm cho mối tình yểu mệnh mà còn là đau đớn cho số phận nổi trôi của chính bản thân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim ,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Trong 12 câu thơ đầu, ta có thể thấy hình ảnh của một cô gái trưởng thành, hiểu lý lẽ, cũng như sự thông minh, tính toán cẩn thận khi cậy nhờ em gái việc trao duyên. Thể hiện quyết tâm cũng như sự dứt khoát, mạnh mẽ của Thúy Kiều trong tình cảm, luôn muốn vẹn toàn cả đôi bề, dù rằng trong câu chuyện nàng đã chọn lấy chữ hiếu làm đầu, chấp nhận để chữ tình sứt mẻ. Khi cho gọi Thúy Vân vào nói chuyện, từ cách nói chuyện của Thúy Kiều, ta thấy rằng nàng đã phải trăn trở và suy tính mọi chuyện rất kỹ càng, và cẩn thận dường như nắm chắc chuyện sẽ thành.

Đối mặt với người em gái nhỏ tuổi, còn chưa hiểu hết được những biến cố vừa ập tới với gia đình, Kiều nhẹ nhàng mở lời “cậy” nhờ nhưng hết sức khiêm tốn, dè dặt, Kiều không lấy thân phận chị để ép em mà lấy vị thế là một người cần được giúp đỡ, nhờ cậy chân thành, chỉ mong Vân có thể “chịu lời”. Sau ấy, Kiều để Vân ngồi trên, rồi “lạy”, đưa Thúy Vân vào vị thế là người có ơn giúp đỡ, đặc biệt hành động của Kiều còn như nhắc nhở về sự quan trọng, cũng như những khó khăn của sự việc nàng sắp nói ra. Không chỉ thế cách hành động của Kiều nhún nhường, cẩn trọng càng thể hiện tấm lòng của nàng với Kim Trọng, với tình yêu của hai người, rõ ràng Kiều đã rất trân trọng và nâng niu mối duyên ấy, nó như là điều thiêng liêng đáng trân quý nhất cuộc đời mà nàng có được.

Chính lẽ ấy, dù chuyện tình yêu tan vỡ, Kiều vẫn muốn trân trọng, trao lại cho người nàng tin tưởng nhất, chứ không đành lòng phụ bạc, lặng lẽ ra đi. Lời Kiều nói với Vân “Giữa đường đứt gánh tương tư/Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, nghe ra sự mạnh mẽ và dứt khoát của Thúy Kiều trong việc trao duyên, những tưởng như nàng đã hoàn toàn chấp nhận việc phải chia tay Kim Trọng, bước vào cuộc đời mới. Thế nhưng thực tế trong lòng nàng là những cơn sóng ngầm đang gào thét, những nỗi đau đớn không nói thành lời, Kiều cố tỏ ra mạnh mẽ, bình tĩnh cậy nhờ Thúy Vân một phần là để chuyện trao duyên được diễn ra êm đềm, thuận lợi theo kế hoạch, một phần là muốn em gái mình nhận lời mà không phải khó xử khi chứng kiến bản thân, yếu đuối đau khổ.

Thúy Kiều là người hiểu biết lý lẽ nên cũng nhận thấy được sự do dự trong lòng Thúy Vân, thế nên nàng bắt đầu tâm sự, giải thích cho em gái về những biến cố trong gia đình, tiền căn hậu quả và lý do tại sao nàng phải trao duyên cho em gái. Cũng bộc lộ được nét đẹp trong tính cách của Thúy Kiều khi phải lựa chọn giữa “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, nàng đã quyết chọn làm tròn hiếu đạo, nén đau khổ từ bỏ tình yêu. Tuy nhiên vì trân trọng tình yêu đó, tấm lòng sắt son với Kim Trọng thế nên nàng cũng muốn một phần đền đáp những tình nghĩa cũ cho chàng, bằng cách nhờ em gái nối duyên. Để ít nhiều nàng cũng được an tâm vì bên cạnh Kim Trọng đã có người đáng tin cậy bầu bạn quãng đời sau này khi không có nàng.

Đối với chuyện trao duyên Kiều thể hiện sự trân trọng vô cùng, là việc mà dù “thịt nát xương mòn”, phải trả giá Kiều cũng chấp nhận, dù sau này “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Bấy nhiêu đó cũng cho thấy rằng Thúy Kiều là một con người sống vô cùng tình cảm, thủy chung son sắt một lòng, dẫu rằng cuộc đời có đẩy đưa nàng vào những biến cố khủng khiếp. Không chỉ thế trong những lời giãi bày tâm sự, ta còn thấy Kiều là một người con gái hiểu đạo nghĩa, lý lẽ, biết thông cảm, nàng bộc lộ rằng bản thân biết chuyện trao duyên là khó xử cho Thúy Vân khi ngày xuân của em gái còn dài, cuộc đời xứng đáng được hưởng những gì tốt đẹp hơn, chứ không phải bị gắn vào mối duyên nợ kỳ lạ này. Thế nhưng lòng của một người sắp phải rời bỏ quê hương như nàng cũng thật sự mong Thúy Vân có thể thấu hiểu và thương xót cho cuộc đời nhiều đớn đau và những sự lựa chọn khó khăn như nàng, nếu không phải bất đắc dĩ có lẽ Kiều đã chẳng nhờ đến Vân một chuyện khó khăn như thế. Từng lời tỉ tê, tâm sự ta thấy được sự xót xa, tội nghiệp và dằn vặt của Thúy Kiều khi nàng mạnh mẽ, thông minh, gắng gượng cậy nhờ em gái, tự tay dâng tình yêu cho người khác trong đau đớn tột cùng.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Tâm trạng của Thúy Kiều càng được bộc lộ rõ thông qua chuyện nàng trao lại những kỷ vật của mình và Kim Trọng cho em gái để hoàn tất việc trao duyên. Kiều trao lại cho Vân “chiếc vành với bức tờ mây” như là biểu hiện của sự dứt tình, mạnh mẽ kết thúc mối duyên với Kim Trọng, trao trọn lại cho Thúy Vân. Thế nhưng trong lời nói “Duyên này thì giữ, vật này của chung” ta lại thấy sự mâu thuẫn, rõ ràng trao tín vật lại cho em như là hoàn toàn buông bỏ, thế nhưng lời nói của nàng lại thể hiện sự lưu luyến không lỡ. Với lời nói ấy của Kiều ta có thể thấy được sự tiếc nuối, không nỡ từ bỏ của nàng đối với mối tình cùng Kim Trọng. Lòng nàng dù sắp xếp sự việc ổn thỏa thế nhưng vẫn không tránh khỏi được cái ích kỷ của người thường, vẫn muốn trong mối duyên nợ này bản thân vẫn còn một chút liên quan, một chút vướng bận để lòng được an ủi. Và không ai có thể trách Kiều khi nàng làm như thế, mất đi tình yêu, bản thân lại phải chịu cảnh bất hạnh có ai mà không tránh khỏi sự uất ức, tủi hờn, nếu thực sự là ích kỷ có lẽ Kiều đã chẳng hy sinh thân mình, hy sinh hạnh phúc để cứu cha, cứu em.

Xét đến cùng Thúy Kiều vẫn thật đáng thương vì cái khổ ải mà nàng phải gánh lấy khi tuổi đời còn quá trẻ. Những lời dặn dò sau đó nữa càng thể hiện sự đớn đau, tuyệt vọng của Kiều đối với số mệnh của bản thân, việc nàng trao những tín vật “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” thể hiện tấm lòng đáng quý của Kiều, khi mong muốn sau này cuộc sống của Vân và Kim Trọng có được hạnh phúc êm đềm. Nhưng đồng thời nhưng cũng là sự mềm yếu, xót xa khi nàng có ý mong mỗi lúc vợ chồng em gái gảy đàn, đốt hương cũng hãy nhớ đến kẻ mệnh bạc là nàng. Kiều dù sắp phải rời đi, thế nhưng nàng vẫn còn nhiều luyến lưu đối với ngôi nhà này, đối với những người mà nàng thương mến, vẫn mong mình sẽ luôn là một phần ở trong cuộc sống của họ, được hưởng một chút bình yên, vui vầy, dù chỉ là trong ước muốn. Có thể thấy rằng đối với việc trao duyên, dù Kiều đã cố gắng tỏ ra mạnh mẽ dứt khoát, thế nhưng lý trí của nàng vẫn không thể giấu đi được những mất mát, đớn đau, giằng xé trong lòng. Điều đó bộc lộ sự thủy chung, tình yêu sâu nặng, cũng như những tấm lòng trân trọng, gắn bó mà Kiều dành cho Kim Trọng.

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ gió cây,

Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rảy xin chén nước cho người thác oan”

Đến những câu thơ tiếp, từng lời nói của Kiều dường như lại càng nặng nề tâm trạng, sự u uất, buồn thảm và tuyệt vọng len lỏi trong từng câu chữ. Dường như ta thấy Thúy Kiều không phải là đang tâm sự với Thúy Vân và là đang dặn dò những chuyện hậu sự của một đời người, của một kẻ đang đi vào cõi chết. Mà nếu xét theo như tâm lý của một người con gái tài sắc, thanh cao như Thúy Kiều, chuyện làm lẽ, bán mình, thêm cảnh tình yêu lâm vào tuyệt vọng thì có lẽ rằng đời nàng dường như đã chết. Sự tuyệt vọng, bế tắc và đau khổ tột cùng đã khiến Kiều có những cái nhìn bi quan về tương lai, chính lẽ đó nàng dặn dò em gái những lời nghe thật thiểu não và ảm đạm.

Nhắc nhở Vân rằng nếu có cùng Kim Trọng gẩy đàn, đốt hương mà thấy tiếng gió hiu hiu quẩn quanh ngọn cỏ, cái cây thì tức là tiếng mình về cùng chung hưởng cảnh yên ấm hạnh phúc. Như vậy lời Kiều ý nhắc đến cái chết oan ức, khó  siêu thoát và lòng nàng vẫn còn nặng vương vấn với trần gian, với những người nàng yêu mến. Không chỉ vậy việc phụ bạc Kim Trọng, Thúy Kiều vẫn không thể hoàn toàn buông bỏ “hồn còn mang nặng lời thề”, thế nên dù trải qua bao nhiêu khổ ải “nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai” thì hồn Kiều vẫn có thể quay về bên cạnh vợ chồng Thúy Vân, chứng kiến cảnh hay người ấm êm mà yên lòng, lúc ấy cũng chỉ mong Vân có thể “Rảy xin chén nước cho người thác oan”, vẫn còn nhớ thương mà giải nỗi oan khuất cho chị.

“Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phân sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Những câu thơ cuối đoạn trích là lời độc thoại nội tâm của Thúy Kiều, ở đây người ta càng thấy rõ hơn được những đau đớn tột cùng mà nàng phải gánh chịu, cùng với tình yêu sâu sắc mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Nàng thổn thức “Bây giờ trâm gãy bình tan/Kể làm sao xiết muôn vàng ái ân”, như nói với Kim Trọng cũng là tự nhắc nhở mình về mối duyên tan vỡ đầy tiếc nuối. Kiều và Kim Trọng từ đây xem như đã hết duyên, vốn dĩ đẹp như trâm vàng, bình ngọc ấy vậy mà lại tan tác, chia lìa, không thể nào hàn gắn. Chính lẽ đó càng làm cho Kiều thêm đau đớn, phần vì mất đi người mình yêu thương, phần vì mặc cảm tội lỗi bội ước lại những lời hẹn thề ái ân bấy lâu với Kim Trọng.

Trước tình cảnh day dứt, tủi khổ Thúy Kiều chẳng còn cách nào khác để tạ tội với Kim Trọng, thế nên nàng chỉ còn cách “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”, xem như lời tạ lỗi thiêng liêng và chân thành duy nhất mà Thúy Kiều có thể làm lúc này. Đồng thời Kiều cũng tự nhủ với bản thân “Tơ duyên ngắn ngủi có từng ấy thôi” để lòng đỡ phần đau đớn, cũng là lời gửi gắm đến Kim Trọng tránh cho chàng buồn thương. Cũng qua lời thở than ấy của Kiều, ta còn thấy được sự xót xa, đắng cay và nhiều tiếc nuối, hụt hẫng của nàng trước nghịch cảnh số phận.

Thông qua bi kịch tình yêu, bi kịch gia đình, Kiều có cái nhìn thấu đáo về cuộc đời và thân phận của bản thân, điều ấy bộc lộ rõ trong mấy câu “Phận sao phận bạc như vôi/Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Câu thơ trực tiếp thể hiện nỗi tuyệt vọng, bế tắc, sự hoang mang, bế tắc của Thúy Kiều, một người con gái thông minh, mạnh mẽ nhưng đứng trước những biến cố khủng khiếp nàng cũng không tránh khỏi gục ngã, sụp đổ. Kiều tự xót thương cho số phận mình, ví mệnh nàng bạc như vôi, nhạt nhẽo, không một chút sắc hồng may mắn, rồi lại đem so với cảnh hoa rơi trên nước, để mặc cuộc đời đẩy đưa, chẳng biết sẽ dạt về đâu và héo tàn như thế nào. Những liên tưởng ấy khiến người ta không khỏi xót xa, tội nghiệp cho người con gái bạc mệnh. Cuối cùng khi chìm trong những đớn đau tuyệt vọng cùng cực Kiều đã cất lên tiếng than khóc đoạn trường “Ôi Kim lang, hỡi Kim lang/Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Kết thúc một mối tình tuyệt đẹp, kết thúc một cuộc đời xuân sắc tươi vui, khởi đầu cho những bi kịch chồng chất trong suốt 15 năm trời đằng đẵng.

Trao duyên là đoạn trích đặc sắc bộc lộ rõ nhiều sắc thái tâm trạng cũng như những nét tính cách, phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều. Bằng nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đối thoại cùng với độc thoại nội tâm, mà diễn biến tâm lý nhân vật được lột tả một cách chân thực, rõ nét, những bi kịch trong cuộc đời Kiều càng được khắc sâu ấn tượng. Bên cạnh đó cũng thể hiện được tấm lòng nhân đạo tiến bộ của Nguyễn Du trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Thúy Kiều không chỉ là một tấm gương đạo đức, thấu hiểu lý lẽ mà còn là một con người trần thế, có đủ hỉ nộ ái ố, dù lý trí nhưng cũng không giấu nổi những đau thương, mềm yếu trong lòng

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 5

Đoạn trích “Trao duyên” có một vị trí đặc biệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Về phương diện kết cấu, đoạn thơ đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời nhân vật chính Thúy Kiều: mở đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về phương diện chủ đề, đoạn thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ. Về phương diện nghệ thuật, đoạn thơ chứng minh tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật.

Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên diễn biến qua ba chặng như ba nấc thang tâm lí. Mở đầu là những lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều đối với Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Hai câu thơ cho thấy Kiều vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, vừa như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong bao từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,…Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”. Phải chăng vì chỉ từ “cậy” mới hàm chứa nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa, tại sao là “chịu lời” mà không phải là “nhận lời”, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chắc gì Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã có ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuyện gì mà tự nguyện hay không tự nguyện. Do vậy phải là “chịu lời”, vì đây là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào hoàn cảnh không nhận không được. Ở đây Kiều hiểu hoàn cảnh khó xử của mình và càng hiểu hoàn cảnh khó xử của cô em gái. Cũng qua đây có thể thấy Nguyễn Du là thi sĩ thật “sâu sắc nước đời”.

Thúy Kiều đã không quá dài lời về hoàn cảnh của mình. Những việc vừa xảy ra ai chẳng rõ. Nhưng bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới là người thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và khi “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa hiếu và tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu là chuyện chữ hiếu thì Kiều đâu phải “cậy”, phải “lạy”, phải “thưa” với cô em gái của mình; việc gá duyên, với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.

Mâu thuẫn chính được thể hiện qua đoạn trích là “mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi và hạnh phúc bị tan vỡ”. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng gặp trong ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.

Sau tám câu mở đầu Kiều nói với Vân về nỗi bất hạnh của mình, về sự thấu hiểu hoàn cảnh khó xử của em, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự biểu hiện qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Những lời tâm sự có tác dụng thuyết phục. Kiều ràng buộc Vân bằng tình máu mủ, lại khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của em:

“Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vừa thuyết phục vừa ràng buộc, ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Nhưng chính lúc mục đích đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều lên tới đỉnh cao. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ không phải vì “lời nước non” cho nên Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân, còn tình yêu, nàng đâu có dễ trao. Với tình yêu, Kiều là “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật, linh hồn bất tử.

Kiều đã trao lại Vân những kỉ vật. Nàng những mong, bằng kỉ vật, nàng sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỉ vật đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày đẹp nhất của đời Kiều. Kỉ vật thiêng liêng bởi nó là riêng – chỉ riêng cho Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em mình. Bao xót xa trong một từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Bao đớn đau trong một từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

Hiện thực đẹp đẽ, rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng. Thời gian khách thể bị phá vỡ, nhường chỗ cho thời gian của tâm trạng. Kỉ vật còn đó mà đối với tình yêu, Kiều không hiện diện. Có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã mất. Con đường trở về bằng kỉ vật đã không giúp được Kiều.

Kiều tìm đến con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều những mong bằng sự trở về ấy nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm của người thương “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Thế nhưng, như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa thì trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ.

Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm mà còn được đẩy lên mức cao hơn. Ấy là lúc sự trở về bằng linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm nhận thực tế của người con gái họ Vương. Kiều ý thức rất rõ về cái hiện sinh, cái “bây giờ”: “Trâm gãy gương tan”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”.

Kiều ý thức về cái hiện hữu, cái “bây giờ” và Kiều càng thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi thương người, vì người, nàng đã tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải là vị kỉ mà vẫn là rất mực vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không chút bóng dáng của đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều xong xuôi, bây giờ mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao” (Lê Trí Viễn).

Tâm trạng bi kịch của Kiều càng sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận nàng vẫn không thôi khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của người em gái. Đang từ đối thoại với Vân, Kiều trở về độc thoại nội tâm và rồi nàng như hướng tất cả về Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong một câu thơ, tên Kim Trọng được gọi đến hai lần, kèm theo là những thán từ chỉ sự đớn đau, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc, để rồi đến câu thơ dưới nhịp thơ dài ra như một lời than. Lời trao duyên kết thúc bằng một lời thân, bằng tiếng kêu đớn đau, tuyệt vọng. Tuy nhiên, tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu được khẳng định. Đó là nét đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ có bi kịch, đau thương nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ánh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người.

Đoạn thơ miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình ? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu… Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hàng sông mãi với thời gian. Đoạn thơ đồng thời cho ta thấy “sức cảm thông lạ lùng” (Hoài Thanh) của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta còn thấy bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc của đại thi hào.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 6

Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tên tuổi sáng chói góp phần vào dòng văn học việt nam có bước chuyển mình vàng son. Trong thời kỳ văn học hiện đại, Nguyễn Du cùng với các tên tuổi lớn như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên những tượng đài thi ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là bộ tiểu thuyết viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” hay được gọi đơn giản với cái tên “Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” là thiên truyện nói về nỗi đau khổ của con người trong một chế độ đầy những bất công. “Truyện Kiều” là bức tranh diễn tả tâm trạng của con người nói đúng hơn và rõ hơn số phận của nhân vật trong chế độ ấy. “Trao duyên” là khúc tình thảm khốc và bi thương nhất của thiên truyện bằng thơ này, lưu lạc Kiều năm có bao nhiêu là nỗi khổ: phải bán mình chuộc cha, phải vật vã trong chốn phòng the, bị Hoạn thư làm nhục, giết Từ Hải, bị ép cưới Thổ Quan. Trao duyên “là sự đau khổ và nỗi lòng của Kiều. Mối duyên tình mê đắm là mối tình đầu đẹp và nên thơ, cuộc “hẹn ngọc thề vàng” với Kim Trọng diễn ra không bao lâu thì nay với việc “bán mình chuộc cha” Thúy Kiều đã phải “sám hối” vì tình duyên của mình. Nàng vật vã đau đớn trong đêm khuya, tự khóc than cho phận bạc của mình và đã đấu tranh giao cái tình duyên cho em gái là Thúy Vân. “Trao Duyên” là một trong những bài thơ có vai trò rất quan trọng trong Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ khắc họa một cách rõ nét nhất tấn bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều. Khi vì chữ Hiếu mà nàng phải quên mất chữ Tình quên cả hạnh phúc của cuộc đời mình đã dở dang. Những thủ pháp miêu tả nội tâm tài tình Nguyễn Du đã cho chúng ta biết được tâm trạng giằng xé đầy đau đớn của Thúy Kiều.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Trong không gian tĩnh mịch đêm khuya vắng. Thúy Kiều gọi Thúy Vân đến khẩn thiết cậy nhờ em. Nàng biết rằng điều mình nói ra đây thật sự rất khó khăn nên mới phải sử dụng từ “cậy em”. Sau đó rồi đưa Thúy Vân lên một tầm cao hơn đó là ngồi lên bên trên để chị “lạy rồi sẽ thưa”. Chỉ hai câu thơ đầu thôi mà chúng ta đã thấy được Thúy Kiều là một người hiểu chuyện như thế nào khi lường trước được việc mình cậy nhờ em sẽ thật sự khó khăn nên muốn đưa em vào thế không thể chối từ. Trong niềm đau đớn của bản thân, Thúy Kiều cố gắng phân bày với em việc tại sao mới có lý do cậy nhờ ngày hôm nay:

“Giữa đường đứt mối tương tư.

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ.

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài.

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn.

Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”​

Giải bày sự tình để cho em hiểu lòng mình mà nhận được lời đồng ý từ Thúy Vân. Giải bày sự tình cũng là để gửi gắm tình yêu, tình thương của mình với Kim Trọng. Nói rồi trao ngay kỷ vật, trao ngay cái tình và cái “trách nhiệm” cho em. Nàng kể lại mối tình đẹp của mình với Kim Trọng vừa chớm nở giờ đã bị lụi tàn vì hoàn cảnh khó khăn. Không còn sự đau đớn nào hơn khi vì chữ Hiếu mà đành dứt chữ Tình với chàng Kim. Vì thế Thúy Kiều cũng mong Thúy Vân hiểu được nỗi đau của nàng để đồng ý nối tình duyên với Kim Trọng. Nếu Thúy Vân đồng ý làm việc ấy thì dù cho có chết Thúy Kiều cũng luôn biết ơn em. “Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”. Nàng đã lấy cả cái chết ra để thuyết phục em nhận được lời cậy nhờ của Thúy Kiều. Nét khi Thúy Vân đã đồng ý thì chị Thúy Kiều bắt đầu đưa cho em các kỷ vật tình cảm. Lúc này tâm trạng đau đớn giằng xé của nàng được tác giả Nguyễn Du thể hiện khá rõ nét. Trao thân và “Trao duyên” đã dứt khoát rồi mà sao ta vẫn thấy còn tiếc nuối, còn thèm một chút “thơm lây”, vẫn còn “dù có chết” hồn cứ quanh quẩn nơi đây trong mỗi lá cây, cọng cỏ. Nguyễn Du thật tài tình khi diễn tả tâm trạng của Nàng Kiều qua đoạn “Trao duyên” này. Miêu tả tâm trạng Thúy Kiều như vậy, chứng tỏ nhà thơ, thấu hiểu tâm lý nhân vật của nguyễn du nhiều và cũng là cảm thông, yêu thương nhân vật của mình nữa.

Chiếc trâm với bức tờ mây.

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng.

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin.

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Trong giờ phút trao duyên mọi kỷ niệm lại sống dậy mãnh liệt trong tâm trí Thúy Kiều. Ngỡ như tình yêu chỉ mới hôm qua đây khi nàng vừa gặp Kim Trọng vừa trao nhau những lời thề nguyền ước hẹn. Trao duyên nhưng kỷ vật ấy được xem là của chung. Và sau này khi em có nên vợ nên chồng với chàng Kim cũng đừng quên chị. Càng nói Thúy Kiều càng xót xa cho thân phận hồng nhan bạc mệnh của mình. Khi mà có được tình yêu trong tay rồi mà vì biến cố gia đình lại bị tuột mất. Nàng chới với không biết bám víu vào đâu nên tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau mà lúc đấy nàng chỉ như một oan hồn vật vờ trong gió vương vấn trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa:

Mai sau dù có bao giờ.

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây.

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Trọn vẹn ở đoạn thơ đầu Thúy Kiều nói chỉ cần Thúy Vân đồng ý trao duyên thì mình ở trên thiên đàng cũng được an ủi. Thì ở đoạn thơ cuối khi nói về những kỷ niệm tình yêu với chàng Kim nàng lại day dứt. Nàng day dứt vì hạnh phúc không trọn vẹn. Thúy Kiều cảm thấy nỗi buồn vô hạn dù cho có chỉ là tưởng tượng nhưng cũng làm người khác phải thương xót. Hoặc là “trâm gãy bình tan” tơ duyên mong manh chưa nở đã tàn. Thúy Kiều chỉ xin em dù có thế nào nếu có duyên thì hãy cho chị mượn giọt nước mắt để khỏi ngã xuống.

Hồn còn mang nặng lời thề.

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời.

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Với Thúy Kiều dù có chết nàng cũng không bao giờ quên được tình yêu với Kim Trọng. Nên dù “thác xuống” nàng vẫn đau đáu với tình yêu chưa trọn vẹn. Thổ lộ được tâm trạng của mình với em rồi, đã gửi tình cảm của mình cho em rồi, phận bạc của mình như thế, lẽ ra Thúy Kiều có thể giảm bớt âu lo, có thể thanh thản mà rời xa mãi vào nơi vô định được. Trái lại, quên đi có em ở trước mặt, nàng đã khóc thét lên, như muốn được “sám hối” vì tội lỗi của mình. Lời thú tội ấy quả là đau đớn vô cùng, thật là thảm thiết:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng

Thúy Kiều đã phải thốt lên “ôi Kim Lang” nghĩa là nàng đã coi chàng Kim Trọng như phu quân của mình là tình lang trong mộng. Nhưng từ nay cũng chỉ vì chữ Hiếu mà phải phụ chàng từ đây. Đoạn thơ kết thúc với tâm trạng đau khổ cùng cực của Thúy Kiều. Ta thấy Nguyễn Du thật sự rất tài tình khi đã lột tả chân thực được nỗi niềm của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên. Ở đó có cả sự mạnh mẽ của quân tử cũng có sự yếu đuối của nữ nhi thường tình khi phải rời xa tình yêu khắc cốt ghi tâm của mình. Một tâm trạng giằng xé đau khổ mà không phải ngòi bút nào cũng có thể lột tả được. Hẳn là, khi nghe Kiều than khóc như vậy. Thúy Vân càng thương chị hơn, càng thấy cái “được” của mình là vì chị nữa. Vân càng hiểu rằng chị Kiều đã chịu “riêng oan một mình”, đã hy sinh tình yêu của mình. Tiếng kêu thét cho tình yêu ấy, dù là tuyệt vọng cũng như vang đến tận tay Kim Trọng đang ở quê xa và có thể còn hơn thế, nỗi đau “trao duyên” của Thúy Kiều như là một nốt sầu thảm trong cung đàn “bạc mệnh” mang đến. Như vậy qua bài thơ ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái mình. Cái xã hội phong kiến kia đã khiến cho bên tình bên hiếu bị đặt lên bàn cân và buộc người con gái hiếu thảo kia phải lựa chọn. Mà vốn dĩ chữ hiếu và tình không thể nào đem ra cân được. Chữ hiếu làm tròn thì tình kia lại đành thất hẹn, làm trái lời thề. Chính bởi lẽ ấy mà Kiều cảm thấy rất đau đớn thậm chí cô đã nghĩ đến cái chết.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 7

Nguyễn Du là một ngôi sao sáng trên nền trời thơ ca Việt Nam, ông còn là bậc thầy trong cả việc miêu tả nội tâm nhân vật. Nguyễn Du đã viết truyện Kiều bằng cả niềm say mê của mình, ông còn hóa thân trên từng nhân vật để cảm thấu nỗi khổ tâm tư của con người. Chính vì thế cho nên trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật,đoạn Trao Duyên là một trong những đoạn trích miêu tả rõ nhất về diễn biến tâm trạng thúy Kiều.

Đoạn trích là tiếng lòng đau xót và tê tái của Thúy Kiều khi phải chia lìa hạnh phúc của mình. Nàng trao duyên cho em và nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng hộ mình. Đoạn trích đã miêu tả một cách đầy đủ và sống động nhất về diễn biến tâm lí ngổn ngang trong lòng Kiều. Bằng tài năng miêu tả của mình, Nguyễn Du đã làm dấy lên trang thơ về một hình ảnh Kiều đa sầu đa cảm.

Mở đầu đoạn thơ, chúng ta đã thấy rõ lời nói dịu dàng ân cần của Thúy Kiều với Thúy Vân:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi đây cho chị lạy rồi sẽ thưa

Nàng không nhờ vân mà “cậy lời”. Trong lời nói của Kiều không chỉ có sự nhờ cậy mà còn có cả sự nài ép van xin. Từng lời nói đó khiến cho chúng ta cảm thấy Kiều là một người khôn khéo.

Nhưng ở đằng sau đó ta còn nhận ra được cả sự mong ngóng và hi vọng của Kiều. Tuy nhiên cái hay ở trong miêu tả nội tâm nhân vật không chỉ dừng lại ở đó, Kiều không chỉ nhờ cậy Vân mà còn “lạy” rồi “thưa”, đó là nghịch lý. Việc mà Kiêu sắp nói ra chắc là việc lớn quan trọng. Kiều đẩy Vân vào tình thế khó xử cho nên Vân vẫn nhận lời. Tâm lí nhân vật được miêu tả đặc sắc cho thấy tâm tư sâu kín của nàng.

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

“đứt gánh tương tư”- chỉ với câu này chúng ta đã có thể cảm nhận được cuộc đời đầy bi kịch và éo le của nàng. Cuộc tình của Kim Trọng với nàng còn đẹp đẽ là vậy thế nhưng giờ đây sắp phải chia lìa nhau. Sự đau đớn và xót xa đó cho thấy Kiều bắt đầu hồi tưởng lại những tháng ngày nàng hạnh phúc bên Kim Trọng.

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Những kỉ niệm về sự hẹn ước và lúc ở bên nhau Thúy kiều không thể nào quên được. Những ngày hạnh phúc đến thật nhanh nhưng cũng đi thật nhanh mà ta không thể ngờ tới được. Kiều chưa kịp hưởng trọn thì đã tuột khỏi tầm tay

Có lẽ những kỷ niệm về Kim Trọng sẽ không bao giờ nhạt phai trong Kiều. Những ngày tháng vui vẻ, hạnh phúc ấy đến thật nhanh mà đi cũng thật nhanh. Kiều chưa kịp hưởng trọn nó thì hạnh phúc đã vụt khỏi tay nàng.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 8

Văn học Trung đại Việt Nam đã có những trang viết đầy nhân văn về hình ảnh người phụ nữ xưa. Các tác phẩm không chỉ hướng đến khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất đáng trân trọng mà còn tái hiện số phận đầy đau thương, bất công của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là nàng Vũ Nương hiền hậu thủy chung nhưng có cuộc đời đầy oan khuất trong Chuyện người con gái Nam Xương, là người chinh phụ đầy sầu muộn với khát khao hạnh phúc cháy bỏng trong Chinh phụ ngâm. Cũng viết về đề tài người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đại thi hào Nguyễn Du đã mang đến những cảm nhận sâu sắc mà đầy xót xa về cuộc đời bất hạnh của người con gái tài hoa bạc mệnh Thúy Kiều. Qua đoạn trích Trao duyên, tác giả Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét bi kịch cùng những đớn đau đến tột cùng của nàng Kiều trước cơn bão tố của cuộc đời.

Kim-Kiều tình cờ gặp nhau rồi nảy sinh tình cảm mà nên duyên đôi lứa. Tình cảm ấy những tưởng được hạnh phúc vẹn tròn nhưng ai nào ngờ biến cố bất ngờ ập đến. Gia đình Kiều bị hãm hại, lâm vào biến cố, Kiều không còn cách nào khác để vẹn chữ “hiếu” đành bán mình chuộc cha và em. Chấp nhận bán mình để cứu gia đình đồng nghĩa với việc Kiều phải bỏ lỡ mối lương duyên trời ban cùng Kim Trọng. Để vẹn toàn bên hiếu, bên tình, Thúy Kiều đã quyết định trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ em thay mình nối tiếp tình duyên còn dang dở với chàng Kim.

” Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Lời nhờ cậy ngập ngừng khó nói. Kiều hiểu rằng đây là việc khó khăn với cả Vân và nàng, trao duyên đâu phải nào dễ dàng như trao một món quà, một gói bánh. Đó là trao cả một mối lương duyên, cả một tình yêu thiêng liêng và tri kỉ của nàng. Kiều nhờ em bằng lời van xin đầy chân thành tha thiết, Kiều không nhờ Vân mà là “cậy” Vân, gửi gắm niềm tin vào em gái của mình,  bởi lúc này đây,  Kiều còn ai để có thể tin tưởng, cảm thông,  Kiều còn có thể trông cậy vào ai ngoài Vân được. Câu nói mở lời đầy chân thành ấy như vừa như lời van xin, khẩn cầu vừa như đang nài ép, mong mỏi em chấp nhận. Để thuyết phục Thúy Vân  nhận lời, nàng Kiều đã giãi bày hoàn cảnh trớ trêu cùng những kỉ niệm tình yêu đẹp bên chàng Kim.

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”

Mối tình Kim- Kiều đẹp biết bao, bao nhiêu kí ức như ùa về trong tâm trí. Đó là những kỉ niệm đẹp của tình yêu đôi lứa,  của ngày hẹn ước tương lai. Vậy mà đành chịu “đứt gánh” giữa đường. Mối “tương tư” ấy vốn đẹp đẽ, thiêng liêng nhưng giờ đây trao cho Vân cũng chỉ là “mối tơ thừa” mà thôi. Dẫu biết vậy em sẽ phải chịu thiệt thòi  nhưng cũng đành phó mặc nơi em, mong rằng Thúy Vân sẽ chắp mối keo loan quý giá mà nàng vốn rất trân trọng.

“Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Trước biến cố bất ngờ, với trách nhiệm của một người con Thúy  Kiều nào đâu nỡ dửng dưng trước cảnh khốn khổ của mẹ cha, anh em mình. Công sinh thành, ơn dưỡng dục ngần ấy năm Kiều nào đâu thể quên. Lựa chọn chữ Hiếu, nàng lấy cuộc đời mình để báo đáp mẹ cha. Tiếng gọi của tình yêu Kiều đành ngậm ngùi bỏ dở,  dẫu cho đau đớn đến tột cùng.

Sau khi giãi bày lòng mình, Kiều tiếp tục dùng lời lẽ đầy thấu đáo để thuyết phục em chấp nhận:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Nỗi đau phải bán đi tuổi xuân, hạnh phúc của mình chưa dứt, nghĩ đến việc phải phụ tình chàng Kim khiến Kiều đau càng thêm đau đớn. Tuổi xuân của nàng như chấm dứt từ đây,  thật ngắn ngủi khi tình không cạn mà duyên đã đứt. Còn với Vân, em còn trẻ “ngày xuân hãy còn dài”, em còn tự do nên hãy thay chị kết mối duyên cùng chàng, thay nàng giữ trọn lời hẹn thề như đã hứa. Em hãy vì tình máu mủ giữa chị em mình mà nhận lời giúp chị. Những lời lẽ thấu tình đạt lý ấy của Kiều khiến Vân nào có thể chối từ lời cậy nhờ của chị. Với Kiều, chỉ cần Thúy Vân giúp nàng hoàn thành ước nguyện ấy thì dẫu cho có chết “ngậm cười chín suối” thì nàng cũng nguyện, cũng an lòng mà vui vẻ. Dù trong cảnh tan vỡ chia lìa,  Kiều cũng nào đâu nghĩ đến bản thân mình, chỉ mong cho Kim Trọng được vẹn duyên đôi lứa, được hạnh phúc với em mình, điều đó thật đáng trân trọng biết bao. Một người con gái tài sắc vẹn toàn lại sống ân nghĩa, thủy chung, luôn vì người khác như Kiều cớ sao lại chịu trái ngang đến vậy?

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Trong thâm tâm Kiều,  dù cho có “thịt nát xương mòn”, vẫn luôn nhớ tới ân tình của em. Vẫn luôn tự hào “thơm lây” dưới suối vàng vì có một người em đầy bao dung, nhân hậu và giàu đức hi sinh như vậy.

Rồi dường như sợ Thúy Vân chối từ,  nàng lại lúng túng, vội vàng trao kỉ vật cho em:

“Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung”

Lúc này đây, nỗi đau càng chất chứa khôn nguôi. Bao nhiêu kỉ vật là bấy nhiêu kỉ niệm, bấy nhiêu ân tình trong đó, vì trái ngang mà lỡ dở cuộc tình. Trao kỉ vật cho em mà tim Kiều như thắt lại “Duyên này thì giữ,  vật này của chung”.

Lý trí đã buộc nào trao hết duyên tình cho em nhưng con tim không thể nào dứt bỏ. Tình cảm còn đó, kỷ vật còn đó làm sao nàng có thể nào quên được. “Vật này của chung” cũng chính là chút an ủi cuối cùng mà Kiều phó thác nơi em.

Những tưởng cậy nhờ em xong thì lòng Kiều sẽ nhẹ nhõm và thoải mái hơn, nhưng không phải, trái tim nàng như thêm đau, đau đến tột cùng. Bao lời nói tuôn ra như tiếng khóc nghẹn lòng, đầy xót xa, bi ai và cả phẫn uất. Nàng than khóc cho số phận mình, nói với Vân mà như nói với chính mình:

” Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”

Nàng khóc cho phận mình, không chỉ thương cho số phận hẩm hiu mà nàng còn dự cảm đến cái chết. Và dẫu có rời xa nhân thế thì lòng nàng vẫn mang nặng lời thề nguyện năm xưa, vẫn trọn tình thủy chung với chàng Kim. Tình cảm của Kiều quá sâu nặng, thương Kim nhưng đành lỡ hẹn cả cuộc đời, gửi gắm tình mình ở một cõi khác. Thật là một người con gái nặng tình, nặng nghĩa.

Những lời lẽ sau cùng Kiều dành trọn tình cảm của mình cho người yêu:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Chấp nhận hy sinh tình yêu của mình,  Kiều luôn tự thấy mình là kẻ bội tình với chàng Kim, nàng nhận mình là người có lỗi. Phận duyên ngắn ngủi ngần ấy, gửi Kim Trọng tiếng xin lỗi bằng tiếng chân thành, rồi nàng trách móc sao phận bạc cho duyên tình lỡ làng.

“Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Hai tiếng “Kim Lang” gọi lên trong tuyệt vọng như chính lòng Kiều cũng tuyệt vọng từ đây. Tiếng kêu cất lên đắng cay đến xé lòng. Nỗi đớn đau về bi kịch tình yêu ấy thật quá đỗi tàn nhẫn với Kiều.

Đoạn thơ “Trao duyên” tuy ngắn mà thật hay, thật cảm xúc. Cả đoạn thơ là tiếng lòng của một người con gái khát khao yêu thương, khát khao được sống trong tình yêu nhưng lại lâm vào bi kịch tình yêu tan vỡ. Bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của ngôn ngữ để dựng nên một bức tranh tâm trạng Kiều đầy đau đớn, xót xa, đầy tuyệt vọng, bi phẫn trong cảnh trao duyên cho em. Ngoài ra, tác giả còn vận dụng hài hòa nghệ thuật độc thoại, dùng điển tích, điển cố, các thành ngữ dân gian được vận dụng linh hoạt, bộc lộ tâm trạng nhân vật qua cử chỉ, điệu bộ. Tiếng lòng Kiều cất lên trong trái tim của một người con gái nhân hậu, thủy chung, hiếu thảo mà giàu đức hy sinh ấy trở thành bản nhạc không tên lay động trái tim bao thế hệ.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 9

Thường thì nam nữ yêu nhau thì trao duyên cho nhau nhưng Thúy kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du lại tự trao duyên mình cho em gái. Ở đây hình thức trao duyên khác với nam nữ trao duyên với nhau. Có thể nói qua đoạn trích Trao duyên ta có thể thấy được hình ảnh của Thúy Kiều khi buộc phải trao duyên tình của mình cho Thúy Vân.

Trước hết, khi nhờ cậy Thúy Vân, hình ảnh Thúy Kiều hiện lên với dáng vẻ lạy van, nhờ vả:

Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Những từ ngữ như “cậy”, “lạy”, “thưa” cho thấy Thúy Kiều đang quỳ xuống trước mặt Thúy Vân để cầu xin, để nhờ vả Vân thay mình nối duyên với chàng Kim Trọng. Hành động ấy, lời nói ấy như những lời nhờ vả tha thiết mà cũng như khiến cho người bị nhờ vả phải khó xử, không muốn nhận cũng phải nhận. Vì bình thường phận làm chị sao lại quỳ dưới chân em mà lạy như thế. Với hình ảnh như thế, người đọc không thể không xót thương cho nàng Kiều, nàng quỳ ở đó lạy em nhưng trong lòng chỉ hướng tới mục đích là nhờ em trả tình trả nghĩa cho Kim Trọng thay mình.

Không chỉ xuất hiện với hình ảnh khúm lúm, lạy thưa Thúy Kiều còn xuất hiện với hình ảnh tiều tụy, đau khổ:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Nàng như ngồi thẫn thờ giãi bày nỗi lòng mình cho em gái hiểu. Kể từ khi nàng gặp chàng Kim hai người đã mến nhau và thề nguyện đủ điều. Tưởng rằng mối tình ấy sẽ đơm hoa kết trái, tưởng chừng Kim Trọng sẽ trở thành một người bao bọc che chở cho Kiều cả đời thế nhưng sóng gió bỗng ập đến gia đình Kiều buộc Kiều phải chọn một trong hai chữ tình và hiếu. Vốn là một người con hiếu thảo nàng không thể để cha chịu oan ức trong trốn lao tù, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Thế nên giờ đây mang tiếng phụ bạc tình Kim, chỉ mong Vân có thể thay mình nối duyên với chàng. Dù có chết đi thì nàng cũng cam lòng. Qua từng câu thơ người đọc có thể tưởng tượng được hình ảnh của Thúy Kiều hiện lên với đôi mắt sâu thẳm nói chuyện quá khứ, nói chuyện hiện tại và nói đến cả tương lai.

Nói đoạn nàng trao những kỉ vật tình yêu cho em gái mình với bộ dạng lưu luyến, không muốn đưa mà buộc phải đưa:

Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai

Nàng mong Thúy Vân xót chị mà chấp nhận mối duyên với Kim Trọng nhưng cũng mong Thúy Vân coi những kỉ vật này là của ba người. Nàng thẫn thờ hình dung đến cái chết của mình, mai sau dù hai người có thành vợ chồng thì cũng hãy nhớ đến người chị này. Người dù có chết thì hồn vẫn giữ nguyên lời thề xưa.

Cuối cùng nàng gọi tên chàng Kim, nàng lạy chàng với tất cả tình yêu và lời xin lỗi chân thành:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.

Hình ảnh Thúy Kiều hiện lên thật đáng thương, người con gái xinh đẹp tài sắc là thế, nàng có một mối tình trong sáng đẹp đẽ là thế, vậy mà nàng bỗng dưng trở thành kẻ phụ tình. Thường thì người ta phụ tình người ta đâu có buồn thế mà ở đây Thúy Kiều phụ tình lại buồn, lại đau đến thế. Rõ ràng xã hội bất công kia đã đày đọa, dập vùi tình yêu của người con gái.

Có thể nói nhà thơ Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình ảnh Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên. Không trực tiếp nói đến điệu bộ của nàng một cách chi tiết nhưng qua những câu thơ nặng trĩu tâm trạng ta cũng phần nào thấy được hình ảnh của Thúy Kiều khi quyết định trao duyên cho Thúy Vân.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 10

Kiều là một cô gái xinh đẹp mặn mà sắc sảo thế nhưng chính cái xã hội đen tối phong kiến kia đã làm cho Kiều có cuộc đời gian truân sóng gió. Có thể nói nhà thơ Nguyễn Du thông cảm sâu sắc với số phận ấy lắm thì mới có thể kể chi tiết về cuộc đời của người con gái xinh đẹp tài năng ấy được.

Trước khi Kiều trở thành món hàng của phường buôn thịt bán người. Kiều đã nhớ đến người yêu của mình là Kim Trọng và nhờ Thúy Vân đền đáp nghĩa tình với chàng Kim thay mình. Đoạn trích Trao duyên đã thể hiện tâm trạng của Kiều khi quyết định trao duyên cho em.

Duyên là một thứ trời xe, trời định, những người yêu nhau ắt hẳn được xe duyên. Thế mà ở đây Kiều tự thay trời trao duyên của bản thân mình cho em thì có thể được không? Mà duyên thì là yêu nhau mới có huống chi Thúy Vân cùng chàng Kim có yêu nhau đâu. Mặt khác trong sâu thẳm trái tim của Kiều thì việc trao duyên kia không hề dễ, phải trao đi người mà mình yêu thương thì làm sao có thể vui được. Tuy nhiên thì ở đây Kiều vẫn phải tước quyền của ông Tơ bà Nguyệt, bỏ qua những cảm xúc của bản thân mình để quyết định trao duyên cho em.

Trước hết là mười bốn câu thơ đầu nói lên việc Thúy Kiều quyết định trao duyên cho em mình là Thúy Vân.

Thứ nhất là Kiều nói với em về nỗi bất hạnh của mình. Nỗi bất hạnh ấy chỉ có Thúy Vân mới thay thế được Kiều cũng chỉ có Thúy Vân mới giúp Kiều an tâm về chuyện chàng Kim được:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Tác giả dùng từ thật hay khi nói đến việc trao duyên của nàng Kiều cho Thúy Vân. Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” đó chính là thái độ của người dưới dành cho người trên nhưng ở đây thì lại là chị dành cho em. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim.

Trước sự cậy nhờ ấy để thêm phần thuyết phục Vân đồng ý thì Kiều đã tâm sự với em về những nỗi tơ vương sầu muộn đang bủa giăng trong lòng nàng. Và chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp đỡ Kiều chứ không có ai khác cả:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Nàng ngậm ngùi mà rằng nàng đã trót thề nguyền cùng người con trai tên Kim Trọng ấy mà giờ đây tình yêu vừa mới chớm đến lại đứt gánh tương tư giữa đường. Còn tại sao đứt gánh thì có lẽ Vân cũng hiểu. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Có thể nói để cất lên những tiếng cậy nhờ kia thì quả thật Kiều cũng đau đớn lắm. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Tiếp đến Kiều thể hiện hoàn cảnh của bản thân mình và cuộc sống của Vân để làm cho lời cậy nhờ kia nặng hơn khiến cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”

Khi cậy nhờ em xong thi Kiều lại quay về cảm giác một mình và cái sự một mình ấy đã khiến cho nàng nghĩ đến những chuyện trước đây, tâm trạng của nàng bắt đầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Thứ nhất là Kiều mong muốn trong tuyệt vọng quay về với người yêu của mình:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Thôi thì nàng quyết định giữ cái duyên còn vật kia thì thành của chung. Mai này khi Vân và Kim Trọng có nên duyên vợ chồng thì cũng mong hãy nhớ đến Kiều. Rồi là phím đàn với mảnh hương thề nguyền ngày nào cũng là những kỉ vật tình yêu của Kiều và Kim Trọng. Thế nhưng Nguyễn Du không để những kỉ vật ấy cùng một câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim Trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây, đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.

Những tưởng Thúy Kiều trao duyên xong sẽ cảm thấy thanh thản phần nào những trái lại giây phút kết thúc sự trao duyên ấy lại là giây phút Kiều đau nhất. Có lẽ trong sâu thẳm trái tim Kiều một khi đã trao duyên thì tức không phải của mình nữa. Tình yêu bấy lâu nay bỗng chốc không phải là của mình nữa. Kiều đau như chết lặng đi trong sự đau đớn đang giày xé con tim mình:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rảy xin chén nước cho người thác oan”

Kiều nghĩ đến cái chết và Kiều ngẫm rằng kể cả khi nàng chết đi thì những lời thề kia cũng không thể nào quên được. Và sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau khi Vân Trọng nên duyên thì cũng đừng quên Kiều. Nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Nàng mượn cơn gió kia để đưa hồn mình về thăm Vân Trọng. Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong Kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. Kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con đường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc nào.

Như vậy qua bài thơ ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái mình. Cái xã hội phong kiến kia đã khiến cho chữ tình chữ hiếu bị đặt lên bàn cân và buộc người con gái hiếu thảo kia phải lựa chọn. Mà vốn dĩ chữ hiếu và chữ tình không thể nào đem ra cân được. Chữ hiếu làm tròn thì chữ tình kia lại đành thất hẹn, làm trái lời thề. Chính bởi lẽ ấy mà Kiều cảm thấy rất đau đớn thậm chí cô đã nghĩ đến cái chết.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 11

Nguyễn Du là Đại thi hào của dân tộc với rất nhiều tác phẩm văn chương để đời. Trong đó phải kể đến Truyện Kiều được coi là kiệt tác văn học. Trong đó, đoạn trích Trao Duyên – Truyện Kiều là đoạn trích hay, đắt giá. Đoạn trích là tiếng lòng đau xót và tê tái, tâm trạng đau khổ giày xé của Thúy Kiều khi chìa lìa hạnh phúc. Bằng bút pháp miêu tả nội tâm sâu sắc mà Nguyễn Du đã tái hiện được đầy đủ tâm trạng giằng xé của Thúy Kiều khi vì chữ Tình mà dỡ lở cuộc đời.

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Trong không gian đêm khuya tĩnh mịch, Thúy Kiều gọi Thúy Vân vào để nhờ cậy em. Nàng biết rằng, việc nhờ em chuyện này là vô cùng khó khăn nên tác giả phải sử dụng từ “Cậy” để cho thấy sự chân thành của Nàng. Đặc biệt “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”, Thúy Kiều đã đưa Thúy Vân lên một tầm cao mới và mong muốn, lạy lục em chuyện mình nhờ vả. Điều này cho thấy, Thúy Kiều là người hiểu chuyện thế nào. Trong tình huống này, có lẽ nàng cũng hiểu chỉ có một mình Thúy Vân mới có thể giúp được nàng vì vậy nàng đem hết tâm gan, ruột gan ra để nhờ Thúy Vân.

Giữa đường đứt mối tương tư.

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ.

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài.

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn.

Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”

Trong lần tâm sự này, Thúy Kiều kể về mối tình của nàng với Kim Trọng. Mối tình vừa chớm nở đã lụi tàn. Tình cảm đang mặn nồng đành phải chia xa. Mà nguyên nhân sâu xa chính là do biến cố gia đình. Giữa chữ Tình và Hiếu, làm sao trọn vẹn cả hai? Không có nỗi đau nào đau hơn khi Thúy Kiều đành phải buông bỏ chữ Tình vì chữ Hiếu. Kiều mong sao Thúy Vân cũng có thể hiểu cho nỗi lòng của nàng, đồng ý để nàng se xuyên với Kim Trọng “tình chị duyên em”. Để rồi, nếu nàng có chết cũng mỉm cười nơi chín suối. Điều này cho thấy, nàng còn đem cả cái chết ra để thuyết phục em. Có lẽ chỉ khi bị đẩy vào bước đường cùng, con người ta mới phải tìm cái chết để “ép” nhau. Càng phân tích càng thấy sự tổn thương, giày xé và bế tắc của Thúy Kiều.

Sau khi Thúy Vân đã nhận lời, Thúy Kiều bắt đầu trao em những kỉ vật tình yêu:

Chiếc trâm với bức tờ mây.

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng.

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin.

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Phân tích tâm trạng thúy kiều trong đoạn trích trao duyên Trao kỷ vật cho em mà lòng nào nặng trĩu. Từng câu chữ, từng lời nói như đá nặng trong tim. Những kỉ vật mới hôm nào của riêng đôi ta giờ đây đã thành của chung. Mối tình mới ngày nào còn đang đẹp vậy mà giờ đã dang dở. Nhưng nàng vẫn một lòng se duyên cho em để trọn nghĩa tình. Và dù sau này em có nên vợ chồng cũng xin đừng quên người chị bạc mệnh này. Có lẽ, Thúy Kiều càng nói càng xót xa cho thân phận Hồng nhan bạc mệnh của mình. Tình yêu đã ở trong tay vậy mà giờ lại bẽ bàng thế này. Chỉ nghĩ đến lúc khi Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau nàng chỉ là oan hồn phất phơ mới đau xót làm sao.

Mai sau dù có bao giờ.

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây.

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Dường như Thúy Kiều đã nhìn thấy tương lai của mình. Có lẽ cuộc đời nàng sau này đen tối và không còn lối thoát. Có lẽ chẳng sớm thì muộn nàng cũng cô quạnh và nếu chết đi cũng chỉ là oan hồn cô đơn mà thôi. Nếu ở những câu thơ trong trao kỉ vật thì ở câu thơ này tâm trạng xót xa, đau đớn, bẽ bàng càng được thể hiện ra. Đoạn thơ nhắc đến những kỉ niệm tình yêu mà day dứt. Day dứt vì không trọn vẹn khiến trong tưởng tượng thôi cũng xót xa vô cùng. Thúy Kiều chỉ muốn nhắc Thúy Vân xin đừng quên nàng, nếu lỡ âm dương cách biệt thì cũng hãy nhớ đến chị : “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”.

Hồn còn mang nặng lời thề.

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời.

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Chỉ tưởng tượng thôi cũng đã thấy xót xa. Nếu đoạn trên là mong ước cho Thúy Vân nhận lời se duyên với Kim Trọng thì đoạn sau lại là nỗi lòng xót xa của Thúy Kiều. Dường như, sau khi lo cho em và cha mẹ xong, Thúy Kiều mới bắt đầu nghĩ đến cuộc đời mình. Thế là hết! Hồng nhan bạc mệnh, trâm vỡ bình tân. Hi sinh chữ Tình để vì chữ Hiếu bán thân chuộc cha, lo cho em gái có một tấm chồng như ý suốt đời. Khi mọi việc đã lo xong thì giờ đây nàng mới nghĩ đến mình, mới nghĩ đến mối tình chớm nở đã tàn, mối tình khắc cốt ghi tâm với bao lời thề ước. Vậy mà giờ cũng không thể đến với nhau. Có lẽ, ngay cả khi Thúy Kiều chết đi nàng vẫn nhớ đến những lời thề năm xưa. Chỉ mong, nếu nàng có chết cũng xin được giọt nước cho người thác oan.

Những lời tâm sự của Kiều dường như rơi vào nửa tỉnh nửa mê. Lúc đầu nàng nhờ cậy, lạy lục em, khi em đồng ý nàng mới như bừng tỉnh nghĩ cho cuộc đời mình. Nàng mới càng nhớ da diết đến Kim Trọng, càng tiếc thương cho mối tình trong sáng, ngọt ngào vừa mới đây thôi:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng

Nàng thốt lên Ôi Kim Lang, hỡi Kim lang nghĩa là nàng đã coi Kim Trọng là phu quân là tình lang của mình. Nhưng từ nay, vì chữ Hiếu nên xin phụ Tình. Sau khi thốt ra nỗi lòng nhớ nhung của mình cũng là lúc trái tim nàng đã nguội lạnh, tâm hồn đã chết, cả người băng giá. Mất đi Kim Trọng cũng như mất đi một nửa cuộc đời. Nàng đã xác định cuộc đời phía trước là bể dâu, nước đẩy thuyền trôi không thể cưỡng cầu.

Chỉ một đoạn trích Trao Duyên ngắn nhưng Nguyễn Du đã lột tả chi tiết và sâu sắc tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều. Một bên Hiếu – một bên Tình nàng phải lựa chọn sao cho thỏa đáng, nàng phải hi sinh hạnh phúc cá nhân vì gia đình. Một người con gái mới lớn, chưa trải sự đời, chưa biết sóng gió bên ngoài ra sao mà phải chấp nhận bán thân vào lầu xanh cho thấy sự hi sinh của nàng lớn thế nào. Và cũng cho thấy nàng bế tắc thế nào. Những hình ảnh sử dụng trong đoạn trích vừa ma mị, vừa hư ảo, hiện tại quá khứ đan xen khiến cho tâm trạng của Kiều càng rối bời, nửa mê nửa tỉnh, nửa nhớ thương nửa đau đớn.

Đoạn Trao Duyên trong Truyện Kiều chính là một khúc Đoạn Trường bậc nhất trong cuộc đời Thúy Kiều. Đây chính là đoạn trường đầu tiên nàng bước vào để rồi kéo dài triền miên những ngày tháng tê dại, đau khổ và bế tắc. Nguyễn Du đã tái hiện thành công những ngổn ngang đau đớn của Kiều khi hi sinh tình yêu của mình để mang lại hạnh phúc cho gia đình. Tưởng rằng, đây là hành động vô lý của Thúy Kiều nhưng nó lại có giá trị nhân văn sâu sắc và thể hiện tình yêu một lòng một dạ, chân thành với Kim Trọng.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 12

Trao Duyên là một trong những đoạn thơ có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ khắc họa được rõ nét nhất tấn bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều. Khi vì chữ Hiếu mà nàng phải quên đi chữ Tình quên đi hạnh phúc của đời mình đành dang dở. Bằng bút pháp miêu tả nội tâm tài tình Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy được tâm trạng giằng xé đầy đau khổ của Thúy Kiều.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Trong không gian tĩnh mịch đêm khuya vắng. Thúy Kiều gọi Thúy Vân đến khẩn thiết cậy nhờ em. Nàng biết rằng điều mình nói ra đây thật sự rất khó khăn nên mới phải sử dụng từ “cậy em”. Sau đó rồi đưa Thúy Vân lên một tầm cao hơn đó là ngồi lên trên để chị “lạy rồi sẽ thưa”. Chỉ hai câu thơ đầu thôi mà chúng ta đã thấy được Thúy Kiều là người hiểu chuyện như thế nào khi lường trước được việc mình cậy nhờ em sẽ thật sự khó khăn nên muốn đưa em vào thế không thể chối từ.

Trong niềm đau đớn của bản thân, Thúy Kiều cố gắng phân bày với em việc tại sao mới có lý do cậy nhờ ngày hôm nay:

“Giữa đường đứt mối tương tư.

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ.

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài.

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn.

Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”

Nàng kể về mối tình nồng thắm của mình với Kim Trọng vừa mới chớm nở nay đã phải lụi tàn vì hoàn cảnh gia đình. Không còn nỗi đau khổ nào hơn khi vì chữ Hiếu mà phải dứt bỏ chữ Tình với chàng Kim. Vì thế Thúy Kiều cũng mong Thúy Vân thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà nhận lời chắp nối tơ duyên với Kim Trọng. Nếu Thúy Vân nhận lời làm việc đó thì dù có chết Thúy Kiều cũng vẫn biết ơn em. “Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”. Nàng đã lấy cả cái chết ra để thuyết phục em gái nhận lời cậy nhờ của mình.

Sau khi Thúy Vân đã nhận lời giúp chị Thúy Kiều bắt đầu trao cho em những kỷ vật tình yêu. Lúc này tâm trạng đau khổ giằng xé của nàng được tác giả Nguyễn Du khắc họa rất rõ nét.

Chiếc trâm với bức tờ mây.

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng.

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin.

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Trong giờ phút trao duyên mọi kỷ niệm lại sống dậy mãnh liệt trong tâm trí Thúy Kiều. Ngỡ như tình yêu chỉ mới hôm qua đây khi nàng vừa gặp Kim Trọng vừa trao nhau những lời thề nguyền ước hẹn. Trao duyên nhưng kỷ vật đấy được xem là của chung. Và sau này khi em có nên vợ nên chồng với chàng Kim cũng đừng quên chị. Càng nói Thúy Kiều càng xót xa cho thân phận hồng nhan bạc mệnh của mình. Khi mà có được tình yêu trong tay rồi mà vì biến cố gia đình lại bị tuột mất. Nàng chới với không biết bám víu vào đâu nên tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau mà lúc đấy nàng chỉ như một oan hồn vật vờ trong gió vương vấn trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ.

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây.

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Nếu như ở đoạn thơ đầu Thúy Kiều nói chỉ cần Thúy Vân nhận lời trao duyên thì mình ở nơi chín suối cũng ngậm cười thơm lây. Thì đến đoạn thơ này khi nhắc đến những kỷ niệm tình yêu với chàng Kim nàng càng day dứt. Nàng day dứt vì tình yêu không trọn vẹn. Thúy Kiều cảm thấy nỗi xót xa vô hạn dù chỉ là tưởng tượng thôi cũng khiến người ta cảm thấy thương cảm. Đúng là “trâm gãy bình tan” tơ duyên ngắn ngủi vừa nở đã tàn. Thúy Kiều chỉ xin em dù có thế nào nếu có âm dương cách biệt hãy cho chị xin giọt nước cho người thác oan.

Hồn còn mang nặng lời thề.

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời.

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Với Thúy Kiều dù có chết nàng cũng không bao giờ quên được tình yêu với Kim Trọng. Nên dù “thác xuống” nàng vẫn đau đáu với tình yêu chưa trọn vẹn. Nàng đã phải thốt lên:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng

Thúy Kiều đã phải thốt lên “ôi Kim Lang” nghĩa là nàng đã coi chàng Kim Trọng như phu quân của mình là tình lang trong mộng. Nhưng từ nay cũng chỉ vì chữ Hiếu mà phải phụ chàng từ đây.

Đoạn thơ kết thúc với tâm trạng đau khổ cùng cực của Thúy Kiều. Ta thấy Nguyễn Du thật sự rất tài tình khi đã lột tả chân thực được nỗi niềm của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên. Ở đó có cả sự mạnh mẽ của quân tử cũng có sự yếu đuối của nữ nhi thường tình khi phải rời xa tình yêu khắc cốt ghi tâm của mình. Một tâm trạng giằng xé đau khổ mà không phải ngòi bút nào cũng có thể lột tả được.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 13

Mười năm lưu lạc của Thúy Kiều là một tấn bi kịch triền miên chất chứa bao nỗi đau đớn, thảm sầu. Mối tình đầu đẹp đẽ, trong sáng giữa nàng với Kim Trọng đã sớm bị sóng gió cuộc đời làm cho tan vỡ. Sau khi bán mình chuộc cha để báo đền chữ hiếu, Kiều đã âm thầm khóc thương cho lời nguyền vàng đá với chàng Kim. Nàng đành cậy Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng. Trao duyên là nỗi đau đớn, nỗi đau đầu đời của người con gái tài sắc – Thúy Kiều.

Trong đêm gia biến: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo đẫm giọt lệ tóc se mái sầu. Nàng sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính minh là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng cam chịu số phận đen bạc của mình: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu để nghĩ đến nỗi đau của Kim Trọng:

Công trình kẻ biết mấy mươi

Vì ta khăng khít cho người dở dang!

Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa

Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự trách mình khăng khít, khiến cho người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động tìm đến nhau, yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc.

Một mình một bóng, đối diện với tâm trạng rối bời, tan nát, Kiều chỉ biết âm thầm khóc than cho gia cảnh, cho duyên phận. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Và Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân.

Thấy Kiều khóc lóc ủ ê, Thúy Vân gạn hỏi nguyên do và cũng lờ mờ đoán biết chị mình đang mắc mối tình chi đây. Kiều trao duyên cho em mà trong lòng băn khoăn, bối rối:

Rằng: lòng đương thổn thức đầy

Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong

Hở môi ra cũng thẹn thùng

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.

Nàng thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình mà chỉ hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em mình đi nữa cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tám; nó trở thành thiêng liêng, khó có thế đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình, Kiều sợ chắc gì Vân đã nhận lời.

Kiều lâm vào tình thế khó xử; không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đó sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng.

Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lèn cho chị lạy rồi sẽ thưa

Lời gì vậy? Đó là lời nhờ Vân thay chị nối tình với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Cả một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này. Nàng chỉ có đau khổ, giày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và tỏ ra thương chị, nàng như vụt thấy một làn chớp sáng: Đây rồi, cô em gái này có thế’ giúp mình trả món nợ tình. Đề nghị ây cũng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó quan trọng quá, nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà? Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đề ra ý kiến ấy và hầu như ép Thúy Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất đúng đắn là tình thương. Chị thương em. tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết em thương chị, không lỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, lại đang đau xót vì môi tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết lời giãi bày, chắc cũng đã thấu hiểu lòng chị.

Người ta hỏi: Tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự sai biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không dọng ở chữ thư nhất của câu thơ nữa mà còn giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, cái ý nghĩa hi vọng thiết tha của một lời trối trăng, ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt. Giữa chiu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có lẽ có nội dung tự nguyện: còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ, chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được?

Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện.

Kiều yêu cầu Thúy Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa vì nàng coi sự chịu lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì chỉ có kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy.

Trong những giây phút đau đớn, tội nghiệp này, Kiều vẫn quên mình để suy nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt.

Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu:

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Là người con có hiếu, Kiều đã bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trả:

Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Ý nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào! Nàng van lơn em gái hãy xót tình máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận. Tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Tưởng tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện của sự thương thân, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với cái đạo đức thơm tho của em. Kiều nói với em những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ?

Ngôn ngữ của Kiều ở đoạn này là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều là cô gái rất giàu tình cảm nhưng đối với chuyên trọng đại của cả một đời người này, nàng không thể dùng tình cảm của mình mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh mà dùng lí lẽ, phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng giúp.

Trước lời nói có lí, có tình thiết tha của Thúy Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là nàng chấp nhận. Đến đây Thúy Kiều mới nhẹ lòng và nàng lấy kỷ vật tình yêu giữa mình với Kim Trọng ra trao cho em gái:

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc này, trao lại kỷ vật cho em, nàng cảm thấy đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm của mình nữa, trái tim đa cảm bắt đầu lên tiếng. Nàng nói: Chiếc vành với bức tờ mây vẫn bằng tiết tấu của mấy câu thơ trên, nhưng đến câu: Duyên này thì giữ vật này của chung nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào ở trong đó. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, phần nàng đã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, những kỷ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rò ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.

Mối tình đầu thơm, tho, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Gửi lại trong chút kỷ vật này vậy. Giữa lúc tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tìm lấy một chút an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác của lòng mình. Ngôn ngữ nàng không còn cái. mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm, của cả ảo giác. Càng nói càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình. Nàng nói rõ mình mệnh bạc, tình mình mất đi và bao nhiêu nỗi niềm ngày xưa nay chỉ còn có phím đàn với mảnh hương nguyền:

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Động đến tương lai chắc chắn mù mịt, nàng đâu còn giữ được sự yên ổn trong lòng phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn vướng chặt với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai cho người. Nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy oan.

Có mâu thuẫn không?

Trên kia Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chỉ trong giây lát tưởng tượng, .nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất!

Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người; nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng không chỉ chới với trong tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa tỉnh nửa mê, nửa phần là người sống, nửa phần là hồn ma. Và tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời nàng phảng phất như lời từ cõi bên kia vọng về.

Đoạn thơ cùng chợt đổi giọng. Hình ảnh âm điệu như chập chờn bay hết nét thật, có cái gì đó thật hư ảo: thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím của người xưa để lại) hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió…) Tất cả đều nói lên rằng Kiều tiếp tục khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

Theo đà nửa tỉnh nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói một mình, nói với mình về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, đành gửi chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn quằn quại đến mức Kiều phải nấc lên:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây

Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã làm cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau không đơn giản mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.

Đoạn thơ là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tâm hồn vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 14

Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “ có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng?. Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Đoạn “ trao duyên” trong “ Truyện Kiều” rất cảm động. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại.

Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại tình tiết trao duyên thật sống động. “ Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “ để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Trong dãy từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “ cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “ cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “ lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến . Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh. Chuyện thề nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà đối với cái trí bình thường của Thúy Vân không bao giờ biết được:

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Qua lời Thúy Kiều , Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu Tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được . Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội ấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “ hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “ Đức tin, Hi vọng và Tình yêu, Tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một lời trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều.

Cho nên hi sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng:

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Hai chị em đều là “ xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào ! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao.

Biết là em thuận lòng ( con người trời sinh ra để hưởng hạnh phúc đó,trong giờ phút này cũng dễ thuận lòng lắm. Với lại chị nói cảm động quá. Mà anh Kim Trọng em đã nhất kiến rồi, cũng dễ thương lắm), nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim:

Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ , vật này của chung

Tình cảm dẫu sao vẫn còn là trừu tượng, chữ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “ chiếc thoa với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì. Nàng trao duyên,trao kỉ vật cho em mà nàng chửi đời. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng ghét không, có đáng nguyền rủa không? Đấy chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người.

Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỉ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ. Bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “ thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ ngọn cỏ lá cây”, với “ hiu hiu gió…” Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.

Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu , nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách mình là “ phận bạc”, là ‘hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết thảy chúng ta . Đối với Kim Trọng ,nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “ phụ chàng”. Chính tâm lí mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết chất trong tiếng kêu thương thấu trời:

Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Đoạn “ trao duyên” trong “ Truyện Kiều” là một khúc “ đoạn trường” trong thiên “ Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời , Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời , ông đã dựng lại đoạn “ trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. trong sự kiện “ sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư , hồn nhiên ( cũng đừng vội chê trách Thúy Vân . Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì lại càng đau đớn hơn. Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lí, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn trao duyên , chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh , có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác.Nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 15

Nhan đề bài thơ là Trao Duyên nhưng tại sao mở đầu bài thơ lại khó hiểu như vậy. “Cậy em, em có chịu lời”, đây giống như một lời nhờ cậy, một lời gửi duyên phận của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục một mỗi duyên dang dở. Nguyễn Du đã sử dụng từ “cậy” để cho chúng ta thấy rằng, Thúy Kiều đã nhờ bằng tất cả niềm hi vọng và tin tưởng, đồng thời dùng tự “chịu” để thể hiện cho việc phải đồng ý, phải bắt buộc nhận lời, không thể từ chối.Qua đó có thể thấy được tình yêu sâu sắc, chân thành của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Và càng thấy cái nghĩa cái tình của của Thúy Kiều và Kim Trọng nó lớn biết nhường nào. Em ơi, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Câu thơ như xé tâm can người con gái. Vừa cảm thấy có lỗi với người em gái, vừa cảm thấy xót xa cho số phận của mình. Kiều đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi của hai người để ràng buộc Thúy Vân. Để cái tình của mình trao lại cho em.

Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giải bày lí do cho những hành động trước đó. “ Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chấp nối tơ thừa mặc em”. Câu thơ là sự giải bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở “đứt gánh tương tư”. Cuộc tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, sót xa nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Nàng cảm thấy có lỗi, cảm thấy ray rứt vô cùng đối với em, vì cảm thấy như mình ép duyên, buộc em phải nhận, nhưng vẫn giao phó “ tơ thừa” để “mặc” Thúy Vân quyết định.

Mặc dù đã trao duyên cho em, nhưng dường như mối tơ duyên vẫn đè nặng trong lòng Thúy Kiều. Những kỉ niệm ngọt ngào như ùa về trong lòng, nàng đành bày tỏ tâm sự cùng em.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Câu thơ đã liệt kê ra những kỉ niệm của Thúy Kiều và Kim Trọng, kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng sống động đang diễn ra của đôi uyên ương. Đẹp biết mấy. Từ “khi” được lập lại ba lần gợi cho ta cảm nhận một tình cảm sâu nặng, nhưng xót xa và dày xé tâm can nàng cũng như người đọc. Nguyên nhân tại đâu mà dẫn đến cơ sự này.

“Sự đâu song gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Quá khứ tươi đẹp là thế, nhưng hiện tại của nàng, từ khi chàng Kim về chịu tang, bao sóng gió ập đến, đứng giữa chữ hiếu và tình nàng phải làm sao đây. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được họ, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện mới hôm nào chưa kịp nguội. Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại. Nhìn cảnh cha và em bị tra tấn, đòn roi, là một người con có hiếu, nàng đành hi sinh tình yêu để làm trọn phận con, để báo đáp công ơn. Nàng nói cho em hiểu nổi đau của mình, mong em hiểu và chấp nhận lời yêu cầu ngang trái đó. Nàng sợ em mình không đồng ý, đã cố gắng dùng mọi lí lẻ để thuyết phục em.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Nàng dùng tình máu mủ, nàng dùng đến cái chết để thuyết phục. Nguyễn Du đã dùng các thành ngữ để giúp nàng Kiều thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em chấp nhận yêu cầu. Tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng, dù nàng có phải thịt nát xương mòn thì nàng cũng chấp nhận, chỉ mong sao Vân giúp nàng nối duyên với Kim Trọng. Dù xuống suối vàng nàng vẫn ngậm cười, vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện. Chính cách viện dẫn đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến Vân không thể chối từ. Có thể nói đây là cách duy nhất để vẹn lý, vẹn tình.Đây cũng có thể là một lời trăn trối của nàng, mà ắt hẳn cả chúng ta cũng không thể nào nhẫn tâm từ chối yêu cầu ngạt lý đó. Nghe những lời xót xa đó, hẳn sẽ khiến nàng Vân càng thêm yêu quý chị mình.

Thể thơ lục bát đã giúp cho Nguyễn Du dễ dàng khắc họa tâm trạng dằn vặt, sự đớn đau khi phải hi sinh chữ tình để vẹn tròn chữ hiếu của Thúy Kiều. Nàng đã được ông tô vẽ lên thật đẹp đẽ trong lòng người đọc. Một cô gái quá mong manh nhưng rất mạnh mẽ.

Trao duyên đã cho chúng ta thấy được một cảnh đời đầy bi kịch, một số phận nghiệt ngã đến xé lòng của nàng Kiều. Nhờ sự trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc cùng khả năng sử dụng từ điêu luyện của Nguyễn Du đã khiến cho nội tâm của nhân vật như được khắc họa rõ nét nhất, từ nổi đau đến tâm hồn của Kiều như đang trải dài qua từng câu chữ. Khiến người đọc mãi không thể thôi xót thương.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 16

Đoạn thơ Trao duyên là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Mười năm lưu lạc của Thúy Kiều là một tấn bi kịch triền miên chất chứa bao nỗi đau đớn, thảm sầu. Mối tình đầu đẹp đẽ, trong sáng giữa nàng với Kim Trọng đã sớm bị sóng gió cuộc đời làm cho tan vỡ. Sau khi bán mình chuộc cha để báo đền chữ hiếu, Kiều đã âm thầm khóc thương cho lời nguyền vàng đá với chàng Kim. Nàng đành cậy Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng. Trao duyên là nỗi đau đớn, nỗi đau đầu đời của người con gái tài sắc – Thúy Kiều.

Trong đêm gia biến: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu. Nàng sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính minh là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng cam chịu số phận đen bạc của mình: Phận dầu, dầu vậy cùng dầu để nghĩ đến nỗi đau của Kim Trọng:

Công trình kẻ biết mấy mươi

Vì ta khăng khít cho người dở dang!

Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa

Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự trách mình khăng khít, khiến cho người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động tìm đến nhau, yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc.

Một mình một bóng, đối diện với tâm trạng rối bời, tan nát, Kiều chỉ biết âm thầm khóc than cho gia cảnh, cho duyên phận. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Và Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân. Thấy Kiều khóc lóc ủ ê, Thúy Vân gạn hỏi nguyên do và cũng lờ mờ đoán biết chị mình đang mắc mối tình chi đây. Kiều trao duyên cho em mà trong lòng băn khoăn, bối rối:

Rằng: lòng đương thổn thức đầy

Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong

Hở môi ra cũng thẹn thùng

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.

Nàng thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình mà chỉ hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em mình đi nữa cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tám; nó trở thành thiêng liêng, khó có thế đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình, Kiều sợ chắc gì Vân đã nhận lời. Kiều lâm vào tình thế khó xử; không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng.

Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lèn cho chị lạy rồi sẽ thưa

Lời gì vậy? Đó là lời nhờ Vân thay chị nối tình với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Cả một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này. Nàng chỉ có đau khổ, giày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và tỏ ra thương chị, nàng như vụt thấy một làn chớp sáng: Đây rồi, cô em gái này có thế’ giúp mình trả món nợ tình. Đề nghị ây cũng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó quan trọng quá, nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà?

Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đề ra ý kiến ấy và hầu như ép Thúy Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất đúng đắn là tình thương. Chị thương em. tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, lại đang đau xót vì môi tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết lời giãi bày, chắc cũng đã thấu hiểu lòng chị.

Người ta hỏi: Tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự sai biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không dọng ở chữ thư nhất của câu thơ nữa mà còn giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, cái ý nghĩa hi vọng thiết tha của một lời trối trăng, ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt. Giữa chiu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có lẽ có nội dung tự nguyện: còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ, chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được? Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện.

Kiều yêu cầu Thúy Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa vì nàng coi sự chịu lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì chỉ có kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy. Trong những giây phút đau đớn, tội nghiệp này, Kiều vẫn quên mình để suy nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt. Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu:

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Là người con có hiếu, Kiều đã bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trả:

Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Ý nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào! Nàng van lơn em gái hãy xót tình máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận. Tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Tưởng tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện của sự thương thân, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với cái đạo đức thơm tho của em. Kiều nói với em những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ? Ngôn ngữ của Kiều ở đoạn này là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều là cô gái rất giàu tình cảm nhưng đối với chuyên trọng đại của cả một đời người này, nàng không thể dùng tình cảm của mình mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh mà dùng lí lẽ, phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng giúp.

Trước lời nói có lí, có tình thiết tha của Thúy Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là nàng chấp nhận. Đến đây Thúy Kiều mới nhẹ lòng và nàng lấy kĩ vật tình yêu giữa mình với Kim Trọng ra trao cho em gái:

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung

Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc này, trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm của mình nữa, trái tim đa cảm bắt đầu lên tiếng. Nàng nói: Chiếc vành với bức tờ mây vẫn bằng tiết tấu của mấy câu thơ trên, nhưng đến câu: Duyên này thì giữ vật này của chung nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào ở trong đó. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, phần nàng đã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rò ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.

Mối tình đầu thơm, tho, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Gửi lại trong chút kỉ vật này vậy. Giữa lúc tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tìm lấy một chút an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác của lòng mình. Ngôn ngữ nàng không còn cái. mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm, của cả ảo giác. Càng nói càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình. Nàng nói rõ mình mệnh bạc, tình mình mất đi và bao nhiêu nỗi niềm ngày xưa nay chỉ còn có phím đàn với mảnh hương nguyền:

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Động đến tương lai chắc chắn mù mịt, nàng đâu còn giữ được sự yên ổn trong lòng phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn vướng chặt với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai cho người. Nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy oan. Có mâu thuẫn không?

Trên kia Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chỉ trong giây lát tưởng tượng, .nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất!

Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người; nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng không chỉ chới với trong tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa tỉnh nửa mê, nửa phần là người sống, nửa phần là hồn ma. Và tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời nàng phảng phất như lời từ cõi bên kia vọng về.

Đoạn thơ cùng chợt đổi giọng. Hình ảnh âm điệu như chập chờn bay hết nét thật, có cái gì đó thật hư ảo: thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím của người xưa để lại) hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió…) Tất cả đều nói lên rằng Kiều tiếp tục khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

Theo đà nửa tỉnh nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói một mình, nói với mình về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, đành gửi chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn quằn quại đến mức Kiều phải nấc lên:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây

Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã làm cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau không đơn giản mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.

Đoạn thơ là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tâm hồn vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 17

Tình yêu trong văn học trung đại Việt Nam dường như ít được đề cập đến. Trong các mối tình trung đại, nổi bật nhất phải kể đến mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đó là mối tình đẹp bậc nhất nhưng cũng bi kịch bậc nhất của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Cuộc đời Kiều là một chuỗi ngày bi kịch nhưng bi kịch đau đớn nhất, tác động mạnh mẽ nhất đến cuộc đời Kiều là bi kịch tình yêu của nàng và Kim Trọng.

Khi quyết định bán mình chuộc cha, Kiều đã mạnh mẽ bao nhiêu thì đến khi đối diện với tình yêu của bản thân nàng lại càng đau đớn và bất lực bấy nhiêu. Chấp nhận gả cho Mã Giám Sinh, tương lai mù mịt nhưng những điều đó không làm nàng bận lòng. Trong những giây phút này, Kiều chỉ nghĩ đến Kim Trọng. Và nàng đã bất ngờ đưa ra một quyết định cho mối tình này – trao duyên cho Thúy Vân. Tâm trạng Kiều khi ấy đầy những đau đớn giằng xé ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Trao duyên”.

Trước khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta cần nắm được vị trí của trích đoạn này trong tác phẩm. Truyện Kiều của Nguyễn Du được cấu tạo theo kết cấu quen thuộc Hội ngộ – Lưu lạc – Đoàn viên. Trong đó, đoạn trích Trao duyên đóng vai trò bản lề – kết thúc chuỗi ngày hạnh phúc và mở đầu cho chuỗi ngày bi kịch.

Sau đêm Kiều và Kim Trọng thề nguyền, Kim Trọng phải trở về Liêu Dương hộ tang chú. Gia đình Kiều lại bị thằng bán tơ vu oan giáng họa. Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Chữ hiếu đã xong những vẫn còn chữ tình. Đêm trước khi theo Mã Giám Sinh, Kiều vẫn canh cánh món nợ ân tình với Kim Trọng. Thúy Vân tỉnh giấc đến bên ân cần hỏi han và Kiều nảy ra ý định trao duyên, trao lại mối tình đầu dang dở cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Đây là một nghịch cảnh éo le, một bi kịch đầy nước mắt của cuộc đời Kiều.

Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên được thể hiện rất rõ qua đoạn mở đầu là lời cầu khẩn của Kiều đối với Vân. Tâm trạng nào lúc này thật khó nói. Bởi trao duyên tình của mình cho người khác thật đau đớn và càng khó xử hơn khi nàng ý thức được việc này sẽ ảnh hưởng hệ trọng đến cuộc đời của Thúy Vân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ở hai câu thơ này, tác giả đã tạo ra một tình huống, một không khí đặc biệt. Những lời nói, hành động của Kiều trở nên trang trọng khác thường. Nguyễn Du sử dụng từ “cậy” mà không dùng “nhờ”, dùng “chịu” mà không dùng nhận. Bởi ở từ cậy ngoài nét nghĩa “nhờ” còn mang thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối. Mặt khác, từ “cậy” mang thanh trắc tạo được âm điệu nặng nề gợi được sự quằn quại trong tâm hồn Kiều lúc này. Chị nhờ em với tất cả lòng tin của chị. Dùng “chịu” mà không dùng “nhận”, bởi “nhận” có phần nào tự nguyện còn “chịu” có phần bắt buộc. Kiều dường như đã đưa Vân vào hoàn cảnh không thể chối từ. “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ba động từ nối tiếp nhau ngồi – lạy – thưa gợi nhiều suy nghĩ. Tại sao Kiều lại phải lạy Vân? Tại sao lại phải lạy rồi mới thưa? “Lạy”, “thưa” vốn là những từ thể hiện thái độ trân trọng, trang nghiêm và kính cẩn – thường dùng để chỉ cho người bề trên hoặc người mình chịu ơn. Ta thấy có sự thay đổi vị thế giữa Kiều và Vân, giữa họ không còn được đặt trong quan hệ chị – em mà đang trong quan hệ người ban ơn – kẻ chịu ơn. Kiều ý thức được sự việc mà nàng nói ra đây sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời của Vân. Vì vậy, lạy ở đây là lạy cái đức hi sinh của Vân. Kiều đã hạ mình hết mực với một thái độ trang trọng, nghiêm túc.

Giữa đường đứt gánh tương tư

eo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy tình yêu dang dở của Kiều và Kim Trọng được trình bày ngắn gọn qua thành ngữ “giữa đường đứt gánh”. Đồng thời sự kết hợp “giữa đường đứt gánh” và “tương tư” đã cụ thể hóa một khái niệm trừu tượng khiến nó như có hình có khối và càng khắc sâu thêm nỗi đau nơi tâm hồn Kiều. Vì thế mà “mặc em” tùy em định liệu nhưng cũng chỉ có duy nhất em là người có thể quyết định mà thôi. Câu thơ tuy không phải lời trao duyên chính thức nhưng đã phần nào ràng buộc.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Kiều điểm qua những sự kiện quan trọng trong cuộc đời mình. Đó là khi nàng gặp chàng Kim và sóng gió bất kỳ xảy ra. Hai sự kiện có sức ảnh hưởng lớn đến Kiều và đồng thời hai sự kiện này cũng được Vân chứng kiến. Những kỉ niệm với Kim Trọng được liệt kê ngắn gọn nhưng cũng đủ cho ta thấy được cái tình khắng khít gắn bó của họ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, đặc biệt qua những câu thơ này vô cùng xúc động.

Điệp từ “khi” như nhấn mạnh về quãng thời gian tươi đẹp ấy. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu thì “sóng gió bất kỳ”. Tâm trạng của Kiều lúc này không phải là mâu thuẫn giữa hiếu và tình. Bởi nàng sớm đã lựa chọn chữ hiếu. Nếu bốn câu trên có tính chất thông báo nhưng lời trao duyên vẫn chưa trực tiếp thì đến bốn câu sau Kiều đã trực tiếp đưa ra lý lẽ để thuyết phục em nhận lời.

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta nhận thấy ngày xuân ở đây không chỉ mang ý nghĩa là tuổi trẻ mà đó còn là những tháng ngày vui vẻ hạnh phúc ấm êm. Kiều cũng hy vọng ngày dài tháng rộng cùng Kim Trọng sẽ mang lại hạnh phúc cho Vân khi em “chắp mối tơ thừa”. Tuổi trẻ của em là lý do đầu tiên được nàng viện dẫn. Tình máu mủ thiêng liêng mới là lý do quan trọng nhất để thuyết phục Vân nhận lời.

Bên cạnh đó, Kiều còn viện dẫn cái chết của mình. Viện dẫn cái chết không nhằm mục đích đẩy Vân vào tình thế khó xử mà để thể hiện sự toại nguyện, biết ơn của Kiều đối với Vân nếu em đồng ý. Lời thỉnh cầu của Kiều chủ yếu thiên về mặt tình cảm. Kiều luôn đặt mình trong vị thế của người chịu ơn nên lời lẽ của nàng cũng vì thế mà trở nên khẩn khoản tha thiết. Tâm trạng của nàng lúc này chỉ hướng về việc thuyết phục em nhận lời, là tiếng nói của lý trí bỏ qua trái tim đang quặn thắt. Đến đây, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên đã được đẩy lên cao độ, cho thấy biết bao giằng xé trong tâm hồn nàng Kiều.

Trong quá trình phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy sau khi tìm lý lẽ thuyết phục em, Kiều không để cho Vân có cơ hội nói mà nàng lập tức hành động – trao kỷ vật cho Vân. Gọi là kỷ vật bởi lẽ những vật này chứa đựng biết bao kỷ niệm ngọt ngào của cuộc tình mới chớm.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

Duyên này chính mối tình giữa nàng và Kim Trọng. Mối tình này nàng chỉ nhờ Vân “giữ”, không hoàn toàn trao hẳn cho Vân. Trao kỷ vật chính là sự cụ thể hóa cho trao duyên. Trao kỷ vật cho Vân nhưng lại nói với em đây là “của chung”, biết bao đau đớn trong hai từ “của chung” ấy. Của chung ấy là của ai? Nếu trước kia đó là của Kim – Kiều thì giờ có một sự đổi ngôi Kim – Vân, nhưng còn dường như là Kim – Kiều – Vân. Khi Vân đồng ý nhận lời và nhận kỷ vật là lúc bi kịch trong lòng Kiều bắt đầu trào dâng không sao kìm nén. Tâm trạng, sự đau của Kiều được soi chiếu ở sự đối lập, mâu thuẫn còn – mất, hợp – tan trong cõi âm dương cách trở. Sau khi trao duyên, Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc.

“Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”

Bởi lẽ, mất đi tình yêu, mất đi hy vọng cuộc đời nàng giờ đây không còn ý nghĩa. Đau đớn hơn, Kiều lại là người chính tay dập tắt mối tình mới nhóm ấy. Điệp khúc “mệnh bạc” này đã gắn chặt với cuộc đời Kiều. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta nhận ra những chuỗi ngày bi kịch của tương lai cũng không đau xót bằng cõi lòng nàng đã nát tan ở hiện tại.

“Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa”

Từ “của chung” giờ đã chuyển thành “của tin”. Kỷ vật trao thì đã thành của chung, nhưng kỷ niệm và tình cảm ấy không thể trao trọn nên vẫn là của tin của chỉ Kiều và Kim. Một lần nữa gợi nhắc lại kỷ niệm “phím đàn”, “mảnh hương huyền”, nhưng bao kỷ niệm giờ chỉ còn tồn tại trong ký ức, trong quá khứ xa xăm. Nàng hướng tầm nhìn đến tương lai nhưng tương lai lại càng tuyệt vọng bế tắc.

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin chén nước cho người thác oan”

Từ kỷ niệm ngọt ngào của quá khứ, Kiều đã đưa suy nghĩ đến tương lai. Nhưng thế giới tương lai mà Kiều hình dung là một cuộc sống cõi âm mù mịt, tăm tối. Thúy Kiều trăn trở và tiếc nuối mối tình đầu trong trắng với những hẹn thề chưa thể thực hiện được và nghĩ mình là người chết oan, cho nên ngôn ngữ nói như nửa tỉnh, nửa mê: hiu hiu, hương khói, ngọn cỏ, lá cây…mà thực sự là tâm trạng đớn đau dằn vặt khôn nguôi.

Vẫn đang nói với Vân, đang dặn dò và tâm tình cùng em, nhưng hình như càng nói, Kiều càng dần quên sự có mặt của em. Nàng chỉ nói một mình, với mình, thầm thì thành tiếng về tương lai mù mịt, thê thảm của chính mình. Đang sống mà nàng lại nói đến cái chết cho thấy nỗi đau của Kiều dồn lên đến đỉnh điểm. Những câu thơ trên khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy nó đã có tác dụng giúp thể hiện tình cảm bền chặt, thủy chung và mãnh liệt của Kiều đối với Kim Trọng.

Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên từ lời tâm sự với Thúy Vân, Kiều chuyển dần sang lời độc thoại với chính bản thân mình. Bất lực, uất ức, nghẹn ngào bắt đầu trào dâng bật thành lời thơ. Tiếng thơ cũng chính là tiếng lòng nàng.

“Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”

Hiện tại và quá khứ bỗng trở thành hai khoảng thời gian lạ lẫm. Quá khứ hạnh phúc ngọt ngào bao nhiêu thì hiện giờ đây ngay lúc này nàng chỉ thấy đau đớn đắng cay. Quá khứ được nhắc đến nhưng chỉ qua gợi nhắc “muôn vàn ái ân”. Quá khứ hạnh phúc không thể đong đếm nhưng ngắn ngủi giữa chừng đứt gánh đầy bàng hoàng. Ngỡ như mọi chuyện chỉ mới vừa xảy ra. Đối lập với quá khứ là hiện tại. đó là hiện tại của “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng” gợi sự chia ly muôn vàn xót xa. Ái ân hạnh phúc ngày xưa nay còn đâu.

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiều ý thức được thực tại bẽ bàng, buồn thay cho thân phận mình. Nhưng nàng lại nhận tất cả mọi chuyện về mình, mọi lỗi lầm về mình. Cách sử dụng thán từ kết hợp với điệp từ “Kim lang” cho thấy một tiếng gọi đau đớn, níu kéo trong tuyệt vọng. Trong thời khắc đau đớn của tâm hồn, Kiều vẫn hướng tất cả về phía Kim Trọng. Kiều rơi vào bi kịch đau xót của tình yêu nhưng vẫn mang vẻ đẹp cao thượng của sự hi sinh. Cuộc trao duyên từ biệt trở thành cuộc tử biệt sinh ly.

Ở những dòng thơ này chính là một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát. Trái tim bắt đầu thổn thức và lên tiếng. Nguyễn Du đã vận dụng thành công phép biện chứng của tâm hồn diễn tả tinh tế từng bước chuyển biến tâm trạng của Kiều. Cách sử dụng từ ngữ kết hợp với hình ảnh giàu giá trị biểu cảm đã diễn tả rõ nét tâm trạng bi kịch giằng xé của Kiều. Còn gì đau đớn hơn khi chính tay mình dập tắt mối tình đầu tươi đẹp. Qua đó, người đọc đồng cảm và thấu hiểu hơn với Kiều.

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” bậc nhất trong thiên “Đoạn trường tân thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc trao duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Qua đó, ta càng thêm hiểu hơn cho Thúy Kiều hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu chân thành mà nàng dành cho Kim Trọng.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 18

Con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Tuy nhiên thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ “nghĩa” lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn bù đắp cho tình cảm kia của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân.

Duyên là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Thế nhưng ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Vì trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang dở.

Với hai câu thơ đầu ta thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận:

“Cậy em em có chịu lời.

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” là những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Cái “cậy” kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ. Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim. Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”

Nàng như thể hiện được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì chữ hiếu mà nàng hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân cho được. Thúy Kiều vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột già. Điều đó càng làm cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”

Rõ ràng cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác đâu. Nói như thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào. Kiều mong vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Nếu được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc cho sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây cái sự hi sinh của em gái cho mình. Khi đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến nàng. Nàng đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình yêu ấy mới bắt đầu:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Nàng chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của ba người. Dẫu đã trao cho Thúy Vân những kỉ vật ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của chung. Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu thơ.

Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trạng của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy. Kiều đau đớn như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rảy xin chén nước cho người thác oan”

Sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Cơn gió kia thể hiện sự vương vấn cõi trần này của nàng. Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con đường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc nào.

Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư của nàng Thúy kiều. Tình đầu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ nhất, duyên phận vốn trớ trêu với con người. Chính vì thế chữ tình kia không trọn cho phận má đào. Cô không muốn chàng Kim đợi chờ mình mà mong rằng Thúy Vân em cô sẽ giúp cho anh có một cuộc sống hạnh phúc. Dẫu biết vậy nhưng nàng không khỏi đau khổ khi trao duyên.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 19

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo khiến độc giả phải suy ngẫm. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”

Khi gia đình gặp nạn, để giải cứu cho cha và em trai, Thúy Kiều buộc phải trao lại mối duyên của mình cho Thúy Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Thúy Kiều là chị, tuy nhiên khi nhờ vả, muốn nói chuyện với em mình, nàng dùng sự kính trọng, nhã nhặn đối với em.

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

“Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình.

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”

Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh.

“Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vân còn trẻ, đang trong độ tuổi xuân thì, chàng Kim lại là tài tử hiếm có, nếu Vân thay Kiều đến với Kim Trọng thì nàng Kiều sẽ yên tâm mà ra đi vì dù sao đi chăng nữa Vân với Kiều cũng cùng chung giọt máu. Để cảm kích sự đồng ý của Vân, dù cho Kiều có ‘thịt nát xương mòn” nơi đất khách quê người nàng cũng yên tâm mà ra đi, không còn suy tư trăn trở.

Đoạn thơ gây ám ảnh người đọc bởi nó làm hiện ra trước mắt chúng ta một bức tranh như thực về nàng Kiều trọng tình, trọng nghĩa, ta phần nào hiểu thêm, đồng cảm, thương xót cho số phận một cô gái “hồng nhan bạc mệnh.”

Những câu thơ tiếp theo là lời dặn dò của Kiều với Vân sau khi trao em mối duyên của mình:

“Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ gió cây,

Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rảy xin chén nước cho người thác oan.

Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”

Sau khi Vân đồng ý nhận mối duyên của mình, Kiều mang trao lại em những kỉ vật của mình với chàng Kim. Kiểu sẽ thực sự ghi nhớ ơn nghĩa nếu Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng. Thật đau đớn và xót xa khi người mình yêu nên duyên cùng chính em gái mình, ấy thế mà, với Kiều, đấy lại là một ơn nghĩa mà Vân làm cho cô khiến cô ghi nhớ mãi.

Tuy rằng, Kiều sẽ phải ra đi, nhưng dù còn sống hay khi không còn trên đời nữa, cô vẫn luôn hướng về nhà, về nơi có cha mẹ, có các em và có chàng Kim. Người con gái ấy đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất khi cô chỉ còn là “linh hồn mang nặng lời thề” trở về nhà, cô dặn Vân hãy rảy xin cho cô chén nước để linh hồn cô được siêu thoát. Đến đây, nỗi xót xa của nàng Kiều dường như bị đẩy lên một cao trào mới. Những suy tư ngổn ngang đè nặng lên vai một cô gái vốn có cuộc sống thanh bình. Duyên gãy, phải đi xa gia đình, bán thân thành một người rẻ mạt làm Kiều không tránh nỗi chua xót.

“Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”

Câu nói thốt lên trong sự cay đắng, nghiệt ngã của số phận. Bao nhiêu kỉ niệm đẹp giữa hai người giờ đây chỉ còn là kí ức. Từng kỉ niệm ấy Kiều sẽ mãi lưu giữ bên mình. Đó cũng là sự hụt hẫng, tiếc nuối về một thời yêu nhau say đắm của hai người. Đến đây, người đọc không khỏi tiếc nuối: tiếc nuối cho số phận của Kiều, tiếc nuối cho mối duyên của hai người cũng như tiếc nuối về kỉ niệm mà họ đã từng có với nhau.

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Những việc Kiều làm khiến người khác phải thương xót. Tuy nhiên, với nàng, đó lại là những lỗi lầm nàng gây ra cho người nàng thương yêu. Nàng gửi đến chàng Kim trăm nghìn cái lạy để mong chàng tha thứ vì mình đã không giữ đúng lời hứa cùng chàng nên duyên vợ chồng. Tơ duyên của hai người có lẽ chỉ đến được đây thôi, từ nay Vân sẽ thay Kiều yêu thương, chăm sóc cho chàng. “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” câu nói Kiều thốt ra như một lời xin lỗi, tiễn biệt mà nàng gửi đến Kim Trọng. Từ nay, Kiều phải đi về nơi khác, phải phụ tình cảm mà Kim dành cho mình từ đây. Có thể Kim Trọng sẽ thất vọng, sẽ đau khổ khi nàng ra đi nhưng nàng không thể làm khác được.

Từng câu thơ là sự đau khổ, bất hạnh của nàng Kiều, nhưng chính những điều này khiến ta nể phục, yêu thương cô Kiều vì cô không chỉ là người sống tình nghĩa mà còn là người có suy nghĩ sâu sắc, luôn quan tâm, lo lắng cho người khác trước khi lo cho bản thân mình.

Điểm nổi bật làm nên thành công vang dội của tác phẩm đó chính là thể thơ lục bát dân gian của dân tộc. Đoạn trích sử dụng những câu cảm thán đã khắc họa thành công tâm trạng, nỗi lòng của Thúy Kiều khi trao mối duyên của mình cho Thúy Vân.

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp một phần không nhỏ vào việc làm đa dạng nền văn hóa dân tộc. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn trích “Trao duyên” cùng tác phẩm Truyện Kiều vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 20

Nguyễn Du, một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như. Quê ông ở Hà Tĩnh, ông được sinh ra trông một gia đình phong kiến quý tộc. Sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoài đạo đức, đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công, cũng như sự thối nát của xã hội bấy giờ. Và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ bất hạnh. Nguyễn Du đã viết ra nhiều tác phẩm văn học để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, cho số phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Trong đó có bài “Trao Duyên”, là một bài thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều”, một bài thơ bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nỗi xúc động khôn nguôi cho người đọc.

“Trao Duyên” nói về một bi kịch dang dở trong tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Bài thơ đã khắc họa một nỗi đau mà khó ai có thể thấu hiểu cua Thúy Kiều, qua bài thơ chúng ta cũng thấy được một giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện một niệm khát khao có được hạnh phúc của con người. Nổi bật nhất trong bài thơ Trao Duyên chính là đoạn thơ:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Đọc nhan đề bài thơ là Trao Duyên nhưng tại sao mở đầu bài thơ lại khiến khó hiểu như vậy. “Cậy em, em có chịu lời”, đây giống như một lời nhờ cậy, một lời gửi duyên phận của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục một mỗi duyên dang dở. Nguyễn Du đã sử dụng từ “cậy” để cho chúng ta thấy rằng, Thúy Kiều đã nhờ bằng tất cả niềm hi vọng và tin tưởng, đồng thời dùng tự “chịu” để thể hiện cho việc phải đồng ý, phải bắt buộc nhận lời, không thể từ chối.Qua đó có thể thấy được tình yêu sâu sắc, chân thành của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Và càng thấy cái nghĩa cái tình của của Thúy Kiều và Kim Trọng nó lớn biết nhường nào. Em ơi, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Câu thơ như xé tâm can người con gái. Vừa cảm thấy có lỗi với người em gái, vừa cảm thấy xót xa cho số phận của mình. Kiều đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi của hai người để ràng buộc Thúy Vân. Để cái tình của mình trao lại cho em.

Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giải bày lí do cho những hành động trước đó. “Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chấp nối tơ thừa mặc em”. Câu thơ là sự giải bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở “đứt gánh tương tư”. Cuộc tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, xót xa nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Nàng cảm thấy có lỗi, cảm thấy ray rứt vô cùng đối với em, vì cảm thấy như mình ép duyên, buộc em phải nhận, nhưng vẫn giao phó “tơ thừa” để “mặc” Thúy Vân quyết định.

Mặc dù đã trao duyên cho em, nhưng dường như mối tơ duyên vẫn đè nặng trong lòng Thúy Kiều. Những kỉ niệm ngọt ngào như ùa về trong lòng, nàng đành bày tỏ tâm sự cùng em.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Câu thơ đã liệt kê ra những kỉ niệm của Thúy Kiều và Kim Trọng, kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng sống động đang diễn ra của đôi uyên ương. Đẹp biết mấy. Từ “khi” được lập lại ba lần gợi cho ta cảm nhận một tình cảm sâu nặng, nhưng xót xa và dày xé tâm can nàng cũng như người đọc. Nguyên nhân tại đâu mà dẫn đến cơ sự này.

“Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Quá khứ tươi đẹp là thế, nhưng hiện tại của nàng, từ khi chàng Kim về chịu tang, bao sóng gió ập đến, đứng giữa chữ hiếu và tình nàng phải làm sao đây. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được họ, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện mới hôm nào chưa kịp nguội. Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại. Nhìn cảnh cha và em bị tra tấn, đòn roi, là một người con có hiếu, nàng đành hi sinh tình yêu để làm trọn phận con, để báo đáp công ơn. Nàng nói cho em hiểu nỗi đau của mình, mong em hiểu và chấp nhận lời yêu cầu ngang trái đó. Nàng sợ em mình không đồng ý, đã cố gắng dùng mọi lí lẻ để thuyết phục em.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Nàng dùng tình máu mủ, nàng dùng đến cái chết để thuyết phục. Nguyễn Du đã dùng các thành ngữ để giúp nàng Kiều thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em chấp nhận yêu cầu. Tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng, dù nàng có phải thịt nát xương mòn thì nàng cũng chấp nhận, chỉ mong sao Vân giúp nàng nối duyên với Kim Trọng. Dù xuống suối vàng nàng vẫn ngậm cười, vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện. Chính cách viện dẫn đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến Vân không thể chối từ. Có thể nói đây là cách duy nhất để vẹn lý, vẹn tình. Đây cũng có thể là một lời trăn trối của nàng, mà ắt hẳn cả chúng ta cũng không thể nào nhẫn tâm từ chối yêu cầu đó. Nghe những lời xót xa đó, hẳn sẽ khiến nàng Vân càng thêm yêu quý chị mình.

Thể thơ lục bát đã giúp cho Nguyễn Du dễ dàng khắc họa tâm trạng dằn vặt, sự đớn đau khi phải hi sinh chữ tình để vẹn tròn chữ hiếu của Thúy Kiều. Nàng đã được ông tô vẽ lên thật đẹp đẽ trong lòng người đọc. Một cô gái quá mong manh nhưng rất mạnh mẽ.
Trao duyên đã cho chúng ta thấy được một cảnh đời đầy bi kịch, một số phận nghiệt ngã đến xé lòng của nàng Kiều. Nhờ sự trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc cùng khả năng sử dụng từ điêu luyện của Nguyễn Du đã khiến cho nội tâm của nhân vật như được khắc họa rõ nét nhất, từ nỗi đau đến tâm hồn của Kiều như đang trải dài qua từng câu chữ. Khiến người đọc mãi không thể thôi xót thương.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 21

Tên thực của Truyện Kiều là Đoạn trường tân thanh, có nghĩa là tiếng kêu đứt ruột. Thực ra trong đó có vô vàn tiếng kêu thương. Mà Trao duyên có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên khởi đầu một chuỗi dài đau thương chất chồng lên cuộc đời truân chuyên của một người con gái tài sắc. Thuý Kiều đứt ruột trao duyên. Và Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh Trao duyên bằng những lời thơ tan nát can tràng.

Nỗi oan khiến bỗng đâu ập xuống gia đình, giáng hoạ lên đầu mọi người, không trừ một ai. Nhưng dường như Kiều muốn một mình, hứng chịu tất cả. Tự nguyện bán mình chuộc cha, đêm trước nàng đã trải qua một cuộc giằng xé âm thầm giữa một bên là mối tình đầu biết bao hứa hẹn và một bên là bổn phận làm con đối với ơn sinh thành. Cuối cùng nàng đã nghĩ những dằn vặt day dứt đã hết sau khi đã quyết chọn một con đường. Nào ngờ, đó mới chỉ là khởi đầu, dạo đầu. Hôm-trước, là chữ Tình và chữ Hiếu, nó có phần chóng vánh. Còn hôm nay, là giằng xé giữa chữ Tình và chữ Duyên, nó mới thực sự bi kịch, vĩnh viễn đau thương.

Nỗi đau đớn đứt ruột trong tâm trạng Kiều hôm nay là sự tiếp tục của đêm trước. Bởi, đã xác định vì chữ Hiếu thì còn phải làm hốt phần việc còn lại là trao duyên cho người khác. Hôm qua là sự chọn lựa trong nhận thức, hôm nay mới chính thức là mất mát trong tình cảm. Giá Kiều không phải là người tận tình, tận tâm; giá nàng hời hợt đơn giản hơn một chút thôi, chắc nàng không lâm vào bi kịch, không rơi vào đau đớn đến thế. Đằng này Duyên thì. đã trao mà Tình càng thêm nặng.

Thậm chí, chính lúc mất Kim Trọng này lại thấy yêu, thấy gắn bó với chàng Kim hơn bao giờ hết. Vì thế, mỗi lời nàng nói, mỗi việc nàng làm trong cái lúc trao duyên này đều như đứt từng khúc ruột. Chẳng biết Nguyễn Du đã hoá thành người trong cuộc sâu sắc như thế nào mà có thể thấu, được mọi lẽ nhường ấy. Thi hào môi thấy tường tận Tình và Hiếu chỉ là đầu mối, là cái phần bên trên, còn ở bề sâu, cái phần nhức buốt nhất chính là Tình và Duyên. Cảnh Trao duyên, là giằng xét của bi kịch ấy.Đọc trích đoạn Trao duyên, ta đều dễ dàng nhận thấy tự nó hình thành ba phần.

Phần đầu, gồm 12 câu: Thuý Kiều lựa lời thuyết phục Thuý Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng; phần tiếp theo gồm 14 câu: Kiều trao kỉ vật lại cho Vân. Phần cuối, gồm 8 câu: Kiều tạ từ với Kim Trọng – con người tuy không hiện diện nhưng luôn sống trong tình yêu và nỗi đau của Kiều. Ban đầu, nàng Kiều còn bình tĩnh, càng về cuối càng tâm lí, càng về cuối càng chìm vào nỗi đau đớn tột bậc để rồi cuộc trao duyên từ biệt cứ muốn biến thành cuộc tử biệt sinh li.Trao duyên được mở đầu bằng hai câu thơ mà khi nói về vẻ đẹp của ngôn ngữ.

Truyện Kiều ít ai không nói đến. Nó giản đơn như những lời nói thông thường mà chân xác như mọi câu thơ hàm súc nhất.

Cậy em em có chịu lời.

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Đúng là trọng lượng của câu thơ rơi vào bốn chữ “cậy”, “chịu”, “lạy” “thưa”; Người ta không thể thay các chữ kia bằng bất cứ chữ nào khác. Tôi muốn nói thêm rằng: 4 chữ ấy mang đậm cái bi kịch của nàng Kiều. Với bốn chữ kia, vị thế của hai chị em Thuý Kiều đã thay đổi, đảo lộn. vẫn xưng hô là chị em, mà thực tình trong đó là quan hệ giữa một ân nhân và một kẻ chịu ơn. Bốn chữ ấy đều là lời của kẻ dưới đang nói khó với người trên. Chị thành kẻ lép vế phải cậy cục lụy phiền, em thành người ban ơn.

Để báo đáp ân tình trong muôn một cho chàng Kim, Kiều đã phải nhún mình hạ mình, đến thế! Nhưng, trong cái cử chỉ tội nghiệp kia, ta thấy tất cả sự cao khiết của một tấm lòng, một phẩm cách. Rồi nàng kể, nàng giãi bày thật nhanh, thật rõ ràng ngành ngọn cho Vân hiểu vì sao mình phải lựa chọn cách này. Trong lời lẽ có phần khôn ngoan của Thuý Kiều cứ thấy lộ ra cái vẻ lo âu. Dường như Kiều phải gắng thuyết phục hết lời, tận tình để cho em vì mình mà không thể thoái thác. Nàng đã viện đến cả cái chết để lời cậy nhờ nặng như lời uỷ thác:

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Nhưng ngẫm mà xem, Kiều đâu phải dùng cái chết như, một nghệ thuật thuyết phục! Trong suốt đoạn trao duyên này và cả trước đó nữa, nàng luôn nghĩ đến cái chết như một kết cục u ám. Trong hoàn cảnh này, đời đã đến thế này, có còn gì để tha thiết nữa đâu, vô nghĩa hết cả rồi, người ta đâu còn muốn sống nữa! Càng yêu đời lại càng không muốn sống.Đoạn Trao duyên phải là một cuộc chuyện trò, nhưng rồi lại diễn ra như một màn độc thoại. Thuý Vân hầu như không lên tiếng. Nàng im lặng chịu lời. Và thế là Kiều phải làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất: trao lại kỉ vật cho Vân. Hôm qua nghĩ đến việc hi sinh mối tình, Kiều đã nghĩ đến việc mất Kim Trọng.

Và vừa rồi trong lúc lựa lời thuyết phục em gái, cảm giác mất mát ấy có đến gần hơn. Nhưng có lẽ phải lúc này đây nó mới thực sự choáng ngợp tâm hồn nàng. Còn giữ kỉ vật, ít nhiều người ta vẫn có cái ảo giác người yêu vẫn còn là của mình, vẫn trong mình. Chỉ đến khi tự tay cầm kỉ vật trao đi, người ta mới thật rơi vào hẫng hụt. Bắt đầu từ giây phút này đây, cùng với kỉ vật này đây, chàng Kim sẽ vĩnh viễn thuộc về người khác!. Câu thơ như một nỗi nghẹn ngào:

Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Quả là, hai chữ “của chung” chất chứa bao đau xót. Kỉ vật tình yêu chỉ thiêng liêng khi nó là tín vật, là nhân chứng thầm kín của riêng hai người thôi, Còn bây giờ, từ bây giờ, nó đã thành của “chung”! Nhưng câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau sâu kín của nàng Kiều. Hai chữ “này” như dằn lòng, như day dở. Lý trí đã quyết định trao duyên, trao kỉ vật. Song tình cảm vẫn cố trì hoãn, níu giữ. Vì thế mà cái động thái trao kia cứ dùng dằng. Kỉ vật lìa khỏi tay người như cũng vật vã không yên. Cố dằn lòng mà không thể cầm lòng! Người giản đơn có thể nghĩ con người trung đại không phức tạp đến thế. Nhưng cho dù thời nào thì bản chất tình yêu vẫn là không thể chia sẻ! Trái tim yêu thời nào có lẽ cũng đau như vậy thôi. Trao kỉ vật cho Thuý Vân và dặn dò em, nhưng có lẽ qua Thuý Vân, Kiều muốn dặn dò Kim Trọng.

Lời nàng lâm li, tức tưởi. Nỗi đau trong lòng cứ quặn lên mãi. Kiều nhìn khắp lượt những đồ vật thân yêu, những chứng nhân lặng lẽ. trong những giây phút nồng nàn hạnh phúc của mình với Kim Trọng: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”, “Lò hương ấy, tơ phím này” v.v… Và hình dung, chỉ ngày mai thôi , chúng sẽ lại chứng kiến những phút giây nồng nàn như thế của Kim Trọng với một người khác, cho dù người ấy có là em gái mình đi chăng nữa… cũng không thể chịu nổi. Nguyễn Du có lẽ đã hiểu thấu những tâm tư khuất lấp mà chân thực vô cùng ấy, cho nên đã viết những câu thật lắng đọng:

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Có lẽ nhà thơ Vũ Cao đã có lý khi cho rằng cái câu “Mai sau…” nghệ thuật không đau mà lại chính là câu thơ khó viết. Đã đành Kiều đang hình dung về mai sau, một cái mai sau rồi sẽ đến. Nhưng sao lại có hai cái tiếng “dù có” như một giả định về một việc khi xảy ra như vậy? Hai chữ “dù có” như bỗng nhói lên trong cái âm điệu xuôi chiều của câu thơ. Nó cho thấy lòng nàng không dễ nguôi yên, nàng không muốn có cái cảnh “bao giờ” trớ trêu ấy xảy ra. Tấm tình ấy đâu đã chịu tắt lửa lòng! Kiều hình dung mình sẽ chết rõ quá và tội quá! (chứ không còn chung chung “ngậm cười chín suối” như ở phần trên!) Mối tình sâu nặng với Kim Trọng nàng vẫn cứ mang theo như khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

Vì sự thiết tha ấy oan hồn của nàng còn trở về dương thế! Thậm chí nàng còn hình dung rõ mồn một mình sẽ về trong gió trong cây cỏ thế nào. Hai chữ “hiu hiu” nghe mà gai người. Người ta như thấy trong đó cả sự hiển linh. Hai tiếng “hiu hiu” chấp chới giữa hai thế giới thực tại và hư vô, chập chờn giữa hai cõi thế: cối âm và cõi dương! Kiều hi sinh tất cả, cho tất cả. Về dương thế, nàng chỉ xin cho mình có một chén nước thôi. Một chút nhớ thương của người sống? Một chút tình cũ? Hay một chút duyên thừa? Chỉ một chén nước thôi, một chút thế thôi mà nàng đã thấy được an ủi, cảm thông nhiều lắm:

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai

Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rảy xin chén nước cho người thác oan,

Kiều hình dung mình chết. Và Kiều còn thấy rõ là mình “thác oan”! Hai chữ “thác oan” có biết bao là tình là hận!Những việc cần làm thì đã làm rồi. Sợi dây níu buộc đã cắt lìa rồi. Nhìn vào lòng mình, đời mình, bây giờ Kiều mới thấy rõ mất mát để lại trong lòng cả một nỗi trống hoang, hụt hẫng. Nàng quên đi em Vân trước mặt, quay vào với nỗi đau trong lòng. Giờ đây với nàng, chỉ còn nỗi đau kia là hiện hữu, nỗi đau đang choán ngập cả lòng nàng. Quên mất thực tại để chỉ chìm sâu vào trong lòng, đấy là lúc bi kịch đang dâng lên trầm trọng. Kiều như phân trần, thanh minh, tạ lỗi với chàng Kim. Mong muốn ở chàng một sự cảm thông, thấu hiểu:

Bây giờ trâm gãy, bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Nghĩ về quá khứ muôn vàn ái ân mà đau. Nghĩ đến “bây giờ” một thực tại quá phũ phàng trâm gãy bình tan mà đau. Nghĩ đến “mai sau… dạ đài khuất mặt khuất lời” mà càng bội phần đau đớn. Tâm tư Kiều bị vây khốn, bị dìm ngập giữa bao đau thương,. Muôn vàn ái ân đã hoá thành muôn vàn đớn đau! Ngán ngẩm cho số kiếp đen bạc của mình, nàng cất lên cái tiếng than thân. thăm thẳm của người đàn bà. Nàng sa vào mặc cảm phũ phàng. Mở đầu thì lạy em gái, bây giờ thì phải lạy cả người yêu. Nàng cứ thấy mình là kẻ bội tình và những mong được lượng thứ:

Trăm nghĩa gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã dành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ta như nghe trong đó tiếng vọng của những câu thơ mà Nguyễn Du đã bao lần kêu lên đây thống khổ cho những thân phận đàn bà tài sắc:- Đau đớn thay phận đàn bà- Chém cha cái số hoa đào. Và cuối cùng như oà lên, câu thơ không nói gì đến nước mắt, nhưng chúng ta biết lời Kiều đang vỡ ra trong nước mắt, nức nở cay cực:

Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Vậy đấy, lời trao duyên đứt ruột đã hoá thành lời trăng trối! Hình như cái tố chất đặc thù của người nghệ sĩ chính là sự cảm thông. Khả năng cảm thông sâu sắc khiến cho người nghệ sĩ đã hóa thân thành người trong cuộc, nhập thân thành người trong cuộc đến từng thoáng rợn mơ hồ nhất của xúc cảm để nói lên những tiếng nói sâu xa kín khuất nhất của cõi lòng. Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nguyễn Du đã hoá thành Thuý Kiều. Đến nỗi Thuý Kiều trao duyên mà ngỡ như chính Nguyễn Du đang đứt ruột trao duyên.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên – Mẫu 22

Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Truyện Kiều”, tiêu biểu nhất là ở đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích này đã thể hiện những tâm trạng, cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” với Kim Trọng.

Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở giai đoạn đẹp nhất thì bỗng phải chia lìa vì Kiều bán mình cứu cha và em. Hai người đã có một cuộc thề nguyền đầy thiêng liêng và lãng mạn nhưng trong hoàn cảnh gia đình gặp gia biến, phận làm con Kiều lựa chọn chữ hiếu để báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Không thể tiếp tục mối tơ duyên với chàng Kim “phong tư tài mạo tót vời”, nàng vô cùng đau đớn. Và cuối cùng nàng đã quyết định trao duyên lại cho người em gái để cô giúp mình trả tình nghĩa với Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.

Những câu thơ trên đã giúp bạn đọc thấy được Thúy Kiều trân trọng mối tình ấy như thế nào. Nàng không dùng các từ như “nhờ em”, “xin em”, “mong em”,…mà lại dùng từ “cậy em” cùng các hành động trang trọng như “lạy”, “thưa” thể hiện mong muốn cậy nhờ Thúy Vân giúp đỡ. Thúy Vân có quyền đồng ý hoặc từ chối lời thỉnh cầu của người chị gái nhưng trước những lời lẽ thuyết phục như van nài thì Thúy Vân chỉ có thể “chịu lời”.

Thúy Kiều là vai bề trên nhưng lại có những lời nói và hành động của một người chịu ơn bởi đối với nàng, Thúy Vân chính là người làm ơn. Chính Thúy Vân sẽ giúp nàng giữ trọn lời thề trăm năm bên nhau với chàng Kim và cũng chỉ có duy nhất cô mới giúp đỡ được Thúy Kiều. Thúy Kiều để mặc cho người em gái đưa ra quyết định nhưng thực tâm nàng tha thiết Vân sẽ nhận lời. Hiểu được nỗi lòng khó xử của Thúy Vân khi phải “chắp mối tơ thừa”, Thúy Kiều đã bày tỏ hết nỗi lòng của mình về mối tình “giữa đường đứt gánh”:

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”

Thúy Kiều cũng bồi hồi, xúc động khi nhớ về những kỉ niệm với người yêu và kể những điều ấy cho em gái nghe. Mối tình Kim – Kiều là một mối tình say đắm, lãng mạn. Họ đã ước hẹn chuyện trăm năm gắn kết, thề nguyền thủy chung. Chiếc quạt họ dành tặng cho nhau và chén rượu họ cùng nhau uống đã thể hiện điều ấy. Nếu thằng bán tơ không vu oan cho gia đình Kiều, tai ương không xảy đến thì có lẽ Thúy Kiều và Kim Trọng sẽ đôi lứa xứng đôi vô cùng hạnh phúc.

Nàng trao lại mối tình duyên cho Thúy Vân mà trong lòng ngổn ngang những tâm trạng, cảm xúc. Trao lại thứ gì đó thuộc về vật chất thì còn dễ hình dung, đong đếm nhưng Thúy Kiều lại trao duyên, có mấy ai định hình được thứ tình cảm này? Thúy Kiều mong em sẽ thông cảm cho mình mà nhận lời bởi “ngày xuân em hãy còn dài”, hơn nữa mối quan hệ giữa hai người là mối quan hệ ruột thịt, cùng chung huyết thông nên Thúy Vân sẽ nể tình mà giúp đỡ. Nếu được như vậy thì cho dù Thúy Kiều có “thịt nát xương mòn” cũng thỏa lòng vui vẻ. Những kỉ vật của tình yêu như chiếc vòng đeo tay và tờ giấy ghi lời thề nguyền của hai người Thúy Kiều đều đem trao lại để Thúy Vân giữ:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

Từ giờ phút này trở đi, đó là những kỉ vật thuộc quyền sở hữu của cả ba người: Thúy Kiều – Kim Trọng – Thúy Vân. Trao lại những kỉ vật tình yêu và người mình yêu cho người khác có mấy ai không cảm thấy buồn bã, đau xót? Cái duyên của mình với Kim Trọng Thúy Kiều xin được giữ lại vì tình cảm nàng dành cho chàng Kim rất sâu đậm. Tuy có phần ích kỉ nhưng hành động của nàng nhận được sự đồng cảm nơi bạn đọc. Họ đã thề nguyền, đính ước nhưng Thúy Kiều vì bán mình cứu cha và em nên trở thành kẻ thất hứa. Những kí ức đẹp đẽ về cuộc thề nguyền thiêng liêng và những giây phút hạnh phúc Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe sẽ không còn nữa.

****

Trên đây là 22 bài mẫu Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên lớp 10 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (10 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *