Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương chọn lọc hay nhất (14 bài mẫu)

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn, hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 14 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương
Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương

Mục lục

Dàn ý Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương chi tiết

Dàn ý Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương -Mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, câu chuyện Chuyện người con gái Nam Xương và dẫn dắt vào những yếu tố kì ảo.

2. Thân bài

a. Những chi tiết kì ảo

– Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang đêm nằm mộng thấy có người xin chàng thả rùa xanh mà chàng vừa bắt được (Linh phi hóa thân):

  • Điều kì ảo ở đây là có một thế giới dưới nước (Thủy cung) và Linh phi hóa thân thành chú rùa đi ngao du và sa vào lưới.
  • Việc Phan Lang cứu một con rùa là điều hết sức bình thường nhưng chú rùa đó là Linh phi, đã báo mộng và mong chàng thả ra.
  • Phan Lang tưởng chừng không liên quan đến câu chuyện nhà Vũ Nương nhưng chính chàng sau này trở thành cầu nối cho vợ chồng Vũ Nương.

– Chi tiết kì ảo thứ hai: Vũ Nương và Phan lang được Linh Phi cứu sống và cho ở nơi động rùa dưới thủy cung. Sau đó, Phan Lang được hồi sinh và trở về trần gian:

Biết Vũ Nương bị oan nên Linh Phi đã cứu nàng khi nàng tự vẫn và đưa nàng về thủy cung của mình.
Sau này, Phan Lang gặp nạn, cũng được Linh Phi cứu và chàng gặp lại Vũ Nương ở Thủy cung. Khi trò chuyện và khuyên nhủ Vũ Nương, Phan Lang cầm theo tín vật của nàng trở về nhân gian → vô lí, hoang đường.
– Chi tiết kì ảo thứ ba: linh hồn Vũ Nương trở về trên bến sông khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng nói vài lời tỏ minh rồi từ từ biến mất trong sương khói mịt mờ.

b. Đánh giá chung

Những chi tiết kì ảo là sáng tạo của Nguyễn Dữ, do ông dựng lên với dụng ý của riêng mình so với cốt truyện dân gian Vợ chàng Trương.

Các chi tiết kì ảo góp phần hoàn thiện tính cách và nhân phẩm của nhân vật. Vũ Nương trở về trực tiếp nói lời từ biệt cuối cùng. Trương Sinh vì thế mà cũng tỏ ra là người biết hối lỗi, khát khao hạnh phúc trong muộn màng.

Các chi tiết kì ảo làm tăng thêm giá trị hiện thực và nhân đạo cho tác phẩm. Đó là tiếng nói bênh vực con người, là minh chứng cho đạo lý ở hiền gặp lành của nhân gian.

3. Kết bài

Khái quát lại ý nghĩa các chi tiết kì ảo nói riêng và nội dung, ý nghĩa của câu chuyện nói chung.

Dàn ý Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương -Mẫu 2

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

+ Nguyễn Dữ là người Hải Dương, sống ở thế kỉ thứ XVI

+ Chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 trong 20 câu chuyện được Nguyễn Dữ ghi chép lại trong cuốn Truyền kì mạn lục.

– Dẫn dắt vấn đề: truyện có nhiều yếu tố kì ảo, đặc biệt là đoạn cuối câu truyện

2. Thân bài

– Các yếu tố kì ảo trong truyện:

+ Vũ Nương được Linh Phi, vợ vua Nam Hải, cứu về sống ở thủy cung

+ Khi Phan Lang nằm mộng, thả con rùa và lạc vào động Rùa của Linh Phi, được đãi yến tiệc và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết oan, được sứ giả Xích Hỗn do Linh Phi đưa về

+ Vũ Nương trở về dương thế

+ Yếu tố kì ảo đặc sắc nhất của tác phẩm là hình ảnh Vũ Nương hiện ra khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoang Giang: lung linh huyền ảo với kiệu hoa, võng lọng rực rỡ lúc ẩn lúc hiện rồi loáng thoáng mờ nhạt dần.

+ Các yếu tố kì ảo được trình bày đan xen với những chi tiết thực (địa danh, sự kiện, lịch sử) làm tăng thêm sự gần gũi với đời thực, thêm tính thuyết phục.

– Ý nghĩa các yếu tố kì ảo

+ Tạo ra kết thúc có hậu, mang đặc trưng của thể loại: ước nguyện của nhân dân “ở hiền gặp lành”, “bị oan sẽ được giải oan”,…

+ Tô đậm bản chất tốt đẹp của Vũ Nương (nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, trọng danh dự, nhân phẩm…)

+ Tạo kịch tính, tố cáo xã hội Phong Kiến nam quyền bất công buộc con người mà nhất là người phụ nữ phải chết oan ức, không có chỗ đứng của người lương thiện.

+ Lòng nhân đạo cảu tác giả: hạnh phúc không có trong ảo ảnh hay thế giới bên kia, hạnh phúc chỉ có ở đời thực trần gian và con người cần phải biết trân trọng và giữ gìn nó.

3. Kết bài

– Khẳng định lại các vấn đề: các yếu tố kì ảo đã góp phần làm cho câu chuyện thêm hay, kịch tính, khắc họa rõ tính cách nhân vật.

– Lòng nhân đạo của tác giả: thông cảm, trân trọng, bảo vệ,…

14 bài mẫu Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 1

Chuyện người con gái Nam Xương phỏng theo cổ tích Vợ chồng Trương, song có sức hấp dẫn và lôi cuốn hơn nhiều. Bởi dưới ngòi bút sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt. Và hơn thế nữa, những chi tiết kì ảo được xây dựng ở phần hai của truyện còn tạo nên sức hấp dẫn và những giá trị mới cho áng “thiên cổ kì bút”

Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức hấp dẫn của đoạn truyện này, chủ yếu là ở những yếu tố hoang đường, kì ảo: Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh xin tha mạng, rồi thả Rùa mai xanh; Phan Lang lạc vào động Rùa của Linh Phi, được đãi tiệc và gặp Vũ Nương; chuyện Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan. Dù đó chỉ là những yếu tố hoang đường nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực bởi tác giả đã khéo léo kết hợp với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, sự kiện và nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương; câu chuyện của Phan Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất.

Sự đan xen giữa yếu tố thực và những chi tiết kì ảo khiến câu chuyện có một sức hấp dẫn và làm thỏa mãn tâm thiện của người đọc. Bởi vì, những yếu tố kỳ ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:

– Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi được, để mang tiếng xấu xa. Và chàng, ngựa Hổ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày:.

Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khát khao được phục hồi danh dự: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.”

Bên cạnh đó, những yếu tố kì ảo còn tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm. Nó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng: người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cải thiện bao giờ cũng chiến thắng.

Tuy vậy, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về nhưng chỉ thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi: “Đa tạ tình cành, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi mà chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thật sự đâu có thể tìm lại được nữa. Dự dứt áo ra đi cả Vũ Nương biểu hiện thái độ phê phán đối với xã hội bất công bấy giờ, xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.

Trong các câu chuyện cổ tích, người đọc thường gặp những kết thúc có hậu. Đó là cô Tấm trở về ngôi Hoàng Hậu, sống một cuộc sống hạnh phúc; Thạch Sanh trở thành hoàng tử; Sọ Dừa trở thành trạng Nguyên… Kết thúc trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng kết thúc có hậu nhưng mang dáng dấp bi kịch. So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình. Bản thân chàng Trương phải chịu trách nhiệm về hành động ghen tuông mù quáng của mình. Đó là một sự trả giá tất yếu.

Như vậy, yếu tố kì ảo trong chuyện không chỉ giúp hoàn chỉnh thêm nghệ thuật xây dựng truyện đặc sắc của Nguyễn Dữ mà còn mang một giá trị nhân văn sâu sắc.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 2

“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn. Trong đó, các chi tiết kì ảo cũng góp phần thể hiện nội dung ý nghĩa truyện vô cùng đặc sắc.

Yếu tố kì ảo không có trong toàn bộ câu chuyện mà chỉ hiện lên tập trung, đậm nét trong cái kết mới mà Nguyễn Dữ sáng tạo nên. Các chi tiết kì ảo trong truyện làm cho tác phẩm trở nên li kì, hấp dẫn hơn.

Trong tác phẩm, tác giả xây dựng 3 chi tiết kì ảo. Thứ nhất là Phan Lang đêm nằm mộng thấy có người xin chàng thả rùa xanh mà chàng vừa bắt được (Linh phi hóa thân). Chi tiết thứ hai, Vũ Nương và Phan lang được Linh Phi cứu sống và cho ở nơi động rùa dưới thủy cung. Sau đó, Phan Lang được hồi sinh và trở về trần gian. Thứ ba, linh hồn Vũ Nương trở về trên bến sông khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng nói vài lời tỏ minh rồi từ từ biến mất trong sương khói mịt mờ.

Tuyến truyện về Phan Lang với các chi tiết về Linh phi, thuỷ cung, cuộc gặp gỡ của Phan Lang và Vũ Nương, hình ảnh Vũ Nương đi kiệu hoa hiện về trên bến Hoàng Giang… là những sáng tạo của Nguyễn Dữ so với cốt truyện dân gian Vợ chàng Trương.

Trước hết, những chi tiết này đã phủ lên câu chuyện một lớp sương mờ hư ảo, kì quái, đậm chất dân gian, làm cho câu chuyện trở nên lung linh kì ảo, tạo nên sự tò mò, hấp dẫn, lôi cuốn cho người đọc. Cách kết cấu này cũng phức tạp và hấp dẫn hơn cách kết cấu của truyện cổ tích.

Các chi tiết kì ảo có vai trò thúc đẩy kết cấu truyện phát triển, giúp nhà văn triển khai được câu chuyện và đạt được mục đích nghệ thuật của mình. Việc nhờ có phép màu của Linh Phi mà Vũ Nương và Phan Lang được cứu sống để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ sự đó. Phan Lang có thể trở về báo cho Trương Sinh biết sự việc, Vũ Nương có thể trở về giải oan trên bến sông.

Các chi tiết kì ảo góp phần hoàn thiện tính cách và nhân phẩm của nhân vật. Vũ Nương trở về trực tiếp nói lời từ biệt cuối cùng. Nàng hãy còn lưu luyến trần gian nhưng nàng không trở về được nữa vì thế gian này đâu còn chỗ nào để người hiền lành, thủy chung và đức hạnh như nàng dung thân được nữa. Trương Sinh vì thế mà cũng tỏ ra là người biết hối lỗi, khát khao hạnh phúc trong muộn màng.

Nguyễn Dữ đã thành công trong việc sử dụng, sắp xếp hài hòa giữa yếu tố kì ảo và hiện thực. Các yếu tố kì ảo được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, nhân vật và sự kiện lịch sử, những chi tiết thực về trang phục của các mĩ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.

Các chi tiết kì ảo làm tăng thêm giá trị hiện thực và nhân đạo cho tác phẩm. Đó là tiếng nói bênh vực con người, là minh chứng cho đạo lý ở hiền gặp lành của nhân gian. Hình ảnh thuỷ cung nguy nga tráng lệ tượng trưng cho một thế giới tuyệt mĩ, hạnh phúc mà người phụ nữ nết na, giàu phẩm hạnh được sống xứng đáng. Chi tiết này thể hiện ước mơ thầm kín của Nguyễn Dữ trong việc “tích thiện phùng thiện”: Vũ Nương ở hiển, chịu đau khổ tủi nhục nhưng rồi sẽ được đền đáp xứng đáng. Chi tiết này cũng giúp hoàn thiện tính cách của Vũ Nương, làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nàng: nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phẩn mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.

Cách kết thúc truyện – Vũ Nương hiện về đẹp lộng lẫy, huyền ảo rồi biến mất – thể hiện ước mơ về công bằng của người phụ nữ và cũng là của chính tác giả: Vũ Nương được giải oan, sống trong nhung lụa giàu có và được bất tử nơi thuỷ cung.

Chi tiết kì ảo cuối truyện làm cho người đọc nghĩ về một cái kết có hậu nhưng thực ra nó ẩn chứa bi kịch bên trong. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia hai đôi ngả, hạnh phúc vĩnh viễn rời xa. Hạnh phúc gia đình, thiên chức làm mẹ của Vũ Nương đã mãi mãi bị tước đoạt. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ để trở về cõi thực, rằng Vũ Nương không thể trở về hưởng hạnh phúc nơi dương gian được nữa. Sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn tràng giải oan đều không cứu vãn được hạnh phúc cho người phụ nữ. Đây là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.

Nguyễn Dữ đã sáng tạo các yếu tố kì ảo để giải oan cho Vũ Nương, thể hiện ước mơ công bằng cho người bất hạnh, đồng thời làm hoàn thiện thêm vẻ đẹp trong nhân cách của Vũ Nương.

Các chi tiết kì ảo cũng tăng thêm tính chất bi thương cho câu chuyện: Vũ Nương chỉ có thể được giải oan chứ không thể trở về sống hạnh phúc với chồng, nàng cũng mãi mãi không thể gặp con. Nàng chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc ở thế giới bên kia chứ không có trong đời thực. Cách kết thúc truyện đã phơi bày hiện thực và thể hiện nỗi xót xa, đau đớn của Nguyễn Dữ khi hiểu được bi kịch của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chế độ nam quyền, thói hồ đồ của người chồng trong gia đình, chiến tranh phi nghĩa của các tập đoàn phong kiến… đã gây ra bi kịch cho người phụ nữ.

Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, có sự kết hợp giữa tự sự và biểu cảm (trong lời nói của Vũ Nương khi dặn dò chồng, nỗi nhớ khi xa chổng, lời minh oan và tuyệt vọng đẩy xót xa cay đắng của nàng…) cùng với việc sử dụng nhiều điển tích, điển cố, thành ngữ… làm nên một áng văn xuôi tự sự giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, sống mãi với thời gian.

Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên nhân phẩm và hạnh phúc của con người.

Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ.

Các chi tiết kì ảo không những đã phủ một lớp mờ lên câu chuyện, giúp cho nhà văn dễ dàng thể hiện nội dung mà còn thể hiện sâu sắc tấm lòng yêu thương con người, bệnh vực thân phận người phụ nữ và mong muốn họ có được một cuộc sống tốt đẹp của nhà văn. Bởi thế, Chuyện người con gái Nam Xương giống như một sự phản kháng của nhà văn đối với thực tại xã hội đương thời.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 3

Thành công của “Chuyện người con gái Nam Xương” không chỉ bởi sự thực hiện giá trị và nhân đạo sâu sắc mà còn bởi những nhà ảo thuật được Nguyễn Dữ khéo léo đưa vào tác phẩm. Trong phần cuối của tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, sự xuất hiện của các ma thuật yếu tố để lại cho người đọc một ấn tượng hoàn chỉnh.

Nguyễn Dữ liệu sống vào nửa đầu thế kỷ XVI, ông nổi tiếng là tài nguyên rộng rãi. “Chuyện người con gái Nam Xương” một trong những truyện hay nhất trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Truyện có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian Việt Nam đó là “Vợ chàng Trương”.

Vũ Nương là người có sắc, có phúc nhưng phải kết thúc cuộc đời trong nỗi oan khuất khủng khiếp. Nhà văn Nguyễn Dữ liệu đã đưa vào phần cuối của yếu tố ma thuật để giúp Vũ Nương được sống lại và trở về trần thế một lần nữa. Các ảo thuật phần tử đã được tạo ra nên một sức hấp dẫn đầy đủ. Những phần tử đó có thể hiện ra ở các chi tiết như Phan Lang nằm mộng rồi thả vào mai xanh, “Phan Lang đưa vào một cái động ở hải đảo”, Linh Phi cho rằng đây là nhân vật của bà ngày Xưa nên lấy thuốc thần Phan Lang. Không những vậy, Phan Lang còn được tiệc và vô tình gặp lại Vũ Nương, sau đó còn được làm sứ giả Xích lô nước đưa về. Vũ Nương đã nhờ Phan Lang đưa tin cho Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng sẽ trở về và rồi, Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến mất.

Sự kết hợp giữa yếu tố và kỳ ảo yếu tố tạo cho tác động có một sức hút kỳ lạ và vô cùng phù hợp với tâm lý độc giả Việt Nam. Các yếu tố này đã làm nên nét đặc trưng của thể loại truyền kỳ và tạo nên một kết thúc có hậu cho câu chuyện. Người bị oan được minh oan và được trở về trần thế một lần nữa trước khi biến mất. Không những thế, kỳ ảo yếu tố còn tô đậm thêm nét đẹp của chữ Vũ Nương: Nặng tình, nặng nghĩa, yêu thương chồng con, trọng danh dự. Dù có nghi oan đến đâu cũng phải tự tử nhưng nàng vẫn không hề oán trách Trương Sinh, nàng vẫn quan tâm về quê hương, về tổ tiên khi nghe Phan Lang chỉ trong mắt nước, nhất định phải tìm về. Bên cạnh đó, các kỳ ảo yếu tố còn có thể hiện ước tính về công bằng ở đời của nhân dân ta bởi “thiện thiện sẽ tiêu diệt cái ác, chính nghĩa sẽ thắng tà”. Vũ Nương là người tốt nên trải qua bao nỗi niềm, nỗi oan khiên xứng đáng được minh oan và được quay lại trần gian. Đồng thời ảo thuật ngữ yếu tố cũng không làm mất đi tính chất bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về nhưng không ở lại cùng một con mà lựa chọn quay về thủy cung. Tác giả được đưa ra trước mắt người đọc, khi người phụ nữ hạnh phúc được hưởng phúc trọn vẹn và kéo chúng ta đi lên từ tỉnh giấc. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn lại một sự thật cay đắng là người phụ nữ ấy không thể sống lại được, là sự hối hận của người chồng. Dù đã lập đàn giải oan nhưng không thể cứu vãn một nỗi đau kết thúc.

Qua ảo chi tiết ở cuối tác phẩm, tác giả muốn phê duyệt, lên án xã hội bất kỳ, trọng nam khinh nữ lúc này. Có lẽ, trong xã hội xưa, người phụ nữ chưa bao giờ được hưởng hạnh phúc dù chỉ là nhỏ nhoi. Chi tiết ảo thuật giúp Vũ Nương được quay trở lại trong sương khói và cho chúng ta thấy niềm tin yêu của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong phong cách kiến ​​trúc. Như vậy, kỳ ảo yếu tố trong “Chuyện người con gái Nam Xương” còn lại giá trị nhân bản vô cùng sâu sắc với những bài học làm giá cho chúng ta.

Các kỳ ảo yếu tố đã giúp cho câu chuyện trở nên mềm mại hơn với nhiều cung bậc cảm xúc. Tác giả Nguyễn Dữ liệu thành công trong việc xây dựng nhân vật đại diện cho phụ nữ nhỏ của chúng ta trong xã hội xưa. Tuy câu chuyện đã kết thúc nhưng dư âm về Vũ Nương vẫn còn đọng lại trong tâm trí bạn đọc.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 4

Nguyễn Dữ là một gương mặt tiêu biểu điển hình cho nền văn học trung đại Việt Nam ở thế kỉ thứ XVI. Mặc dù, sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Dữ chỉ vẻn vẹn có tập truyện “Truyền kì mạn lục” nhưng tập truyện lại có một vị trí đặc biệt, được đánh giá là “thiên cổ kì bút” (bút lạ nghìn đời), “là áng văn hay của bậc đại gia”. Đây là tập truyện viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16, trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Thông qua bi kịch Vũ Nương, truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn độc đáo, đánh dấu sự thành công về nghệ thuật dựng truyện; khắc họa miêu tả nhân vật và sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình, giữa yếu tố hiện thực và kì ảo.

Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức hấp dẫn của đoạn truyện này, chủ yếu là ở những yếu tố hoang đường, kì ảo: Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh xin tha mạng, rồi thả Rùa mai xanh; Phan Lang lạc vào động Rùa của Linh Phi, được đãi tiệc và gặp Vũ Nương; chuyện Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan. Dù đó chỉ là những yếu tố hoang đường nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực bởi tác giả đã khéo léo kết hợp với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, sự kiện và nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương; câu chuyện của Phan Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất. Sự đan xen giữa yếu tố thực và những chi tiết kì ảo khiến câu chuyện có một sức hấp dẫn và làm thỏa mãn tâm thiện của người đọc. Bởi vì, những yếu tố kỳ ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:

Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi được, để mang tiếng xấu xa. Và chàng, ngựa Hổ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khát khao được phục hồi danh dự: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.”

Bên cạnh đó, những yếu tố kì ảo còn tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm. Nó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng: người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cải thiện bao giờ cũng chiến thắng.

Tuy vậy, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về nhưng chỉ thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi: “Đa tạ tình cành, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi mà chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thật sự đâu có thể tìm lại được nữa. Dự dứt áo ra đi cả Vũ Nương biểu hiện thái độ phê phán đối với xã hội bất công bấy giờ, xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.

Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 5

Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ.

Sự đan xen giữa yếu tố thực và những chi tiết kì ảo khiến câu chuyện có một sức hấp dẫn và làm thỏa mãn tâm thiện của người đọc. Bởi vì, những yếu tố kỳ ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:

Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi được, để mang tiếng xấu xa. Và chàng, ngựa Hổ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày. Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khát khao được phục hồi danh dự: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.” Bên cạnh đó, những yếu tố kì ảo còn tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm. Nó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng: người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cải thiện bao giờ cũng chiến thắng. Tuy vậy, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về nhưng chỉ thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi: “Đa tạ tình cành, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi mà chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thật sự đâu có thể tìm lại được nữa. Dự dứt áo ra đi cả Vũ Nương biểu hiện thái độ phê phán đối với xã hội bất công bấy giờ, xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.

Chi tiết kì ảo cuối truyện làm cho người đọc nghĩ về một cái kết có hậu nhưng thực ra nó ẩn chứa bi kịch bên trong. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia hai đôi ngả, hạnh phúc vĩnh viễn rời xa. Hạnh phúc gia đình, thiên chức làm mẹ của Vũ Nương đã mã mãi bị tước đoạt. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ để trở vê’ cõi thực, rằng Vũ Nương không thể trở về hưởng hạnh phúc nơi dương gian được nữa. Sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn tràng giải oan đều không cứu vãn được hạnh phúc cho người phụ nữ. Đây là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thìa về giữ gìn hạnh phúc gia đình. Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi được, để mang tiếng xấu xa. Và chàng, ngựa Hổ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khát khao được phục hồi danh dự: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.”

Bên cạnh đó, những yếu tố kì ảo còn tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm. Nó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng: người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cải thiện bao giờ cũng chiến thắng.

Tuy vậy, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về nhưng chỉ thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi: “Đa tạ tình cành, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi mà chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thật sự đâu có thể tìm lại được nữa. Dự dứt áo ra đi cả Vũ Nương biểu hiện thái độ phê phán đối với xã hội bất công bấy giờ, xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Qua câu chuyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 6

“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn. Trong đó, các chi tiết kì ảo cũng góp phần thể hiện nội dung ý nghĩa truyện vô cùng đặc sắc.

Yếu tố kì ảo không có trong toàn bộ câu chuyện mà chỉ hiện lên tập trung, đậm nét trong cái kết mới mà Nguyễn Dữ sáng tạo nên. Các chi tiết kì ảo trong truyện làm cho tác phẩm trở nên li kì, hấp dẫn hơn. Trong tác phẩm, tác giả xây dựng 3 chi tiết kì ảo. Thứ nhất là Phan Lang đêm nằm mộng thấy có người xin chàng thả rùa xanh mà chàng vừa bắt được (Linh phi hóa thân). Chi tiết thứ hai, Vũ Nương và Phan lang được Linh Phi cứu sống và cho ở nơi động rùa dưới thủy cung. Sau đó, Phan Lang được hồi sinh và trở về trần gian. Thứ ba, linh hồn Vũ Nương trở về trên bến sông khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng nói vài lời tỏ minh rồi từ từ biến mất trong sương khói mịt mờ.

Tuyến truyện về Phan Lang với các chi tiết về Linh phi, thuỷ cung, cuộc gặp gỡ của Phan Lang và Vũ Nương, hình ảnh Vũ Nương đi kiệu hoa hiện về trên bến Hoàng Giang… là những sáng tạo của Nguyễn Dữ so với cốt truyện dân gian Vợ chàng Trương. Trước hết, những chi tiết này đã phủ lên câu chuyện một lớp sương mờ hư ảo, kì quái, đậm chất dân gian, làm cho câu chuyện trở nên lung linh kì ảo, tạo nên sự tò mò, hấp dẫn, lôi cuốn cho người đọc. Cách kết cấu này cũng phức tạp và hấp dẫn hơn cách kết cấu của truyện cổ tích. Các chi tiết kì ảo có vai trò thúc đẩy kết cấu truyện phát triển, giúp nhà văn triển khai được câu chuyện và đạt được mục đích nghệ thuật của mình. Việc nhờ có phép màu của Linh Phi mà Vũ Nương và Phan Lang được cứu sống để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ sự đó. Phan Lang có thể trở về báo cho Trương Sinh biết sự việc, Vũ Nương có thể trở về giải oan trên bến sông.

Các chi tiết kì ảo góp phần hoàn thiện tính cách và nhân phẩm của nhân vật. Vũ Nương trở về trực tiếp nói lời từ biệt cuối cùng. Nàng hãy còn lưu luyến trần gian nhưng nàng không trở về được nữa vì thế gian này đâu còn chỗ nào để người hiền lành, thủy chung và đức hạnh như nàng dung thân được nữa. Trương Sinh vì thế mà cũng tỏ ra là người biết hối lỗi, khát khao hạnh phúc trong muộn màng. Nguyễn Dữ đã thành công trong việc sử dụng, sắp xếp hài hoà giữa yếu tố kì ảo và hiện thực. Các yếu tố kì ảo được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực vể địa danh, về thời điểm lịch sử, nhân vật và sự kiện lịch sử, những chi tiết thực vể trang phục của các mĩ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.

Các chi tiết kì ảo làm tăng thêm giá trị hiện thực và nhân đạo cho tác phẩm. Đó là tiếng nói bênh vực con người, là minh chứng cho đạo lý ở hiền gặp lành của nhân gian.Hình ảnh thuỷ cung nguy nga tráng lệ tượng trưng cho một thế giới tuyệt mĩ, hạnh phúc mà người phụ nữ nết na, giàu phẩm hạnh được sống xứng đáng. Chi tiết này thể hiện ước mơ thầm kín của Nguyễn Dữ trong việc “tích thiện phùng thiện”: Vũ Nương ở hiển, chịu đau khổ tủi nhục nhưng rồi sẽ được đền đáp xứng đáng. Chi tiết này cũng giúp hoàn thiện tính cách của Vũ Nương, làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nàng: nặng tình, nặng nghĩa, quan tầm đến chồng con, phẩn mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.

Cách kết thúc truyện – Vũ Nương hiện về đẹp lộng lẫy, huyền ảo rồi biến mất,thể hiện ước mơ về công bằng của người phụ nữ và cũng là của chính tác giả: Vũ Nương được giải oan, sống trong nhung lụa giàu có và được bất tử nơi thuỷ cung.

Chi tiết kì ảo cuối truyện làm cho người đọc nghĩ về một cái kết có hậu nhưng thực ra nó ẩn chứa bi kịch bên trong. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia hai đôi ngả, hạnh phúc vĩnh viễn rời xa. Hạnh phúc gia đình, thiên chức làm mẹ của Vũ Nương đã mã mãi bị tước đoạt. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ để trở vê’ cõi thực, rằng Vũ Nương không thể trở về hưởng hạnh phúc nơi dương gian được nữa. Sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn tràng giải oan đều không cứu vãn được hạnh phúc cho người phụ nữ. Đây là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thìa về giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nguyễn Dữ đã sáng tạo các yếu tố kì ảo để giải oan cho Vũ Nương, thể hiện ước mơ công bằng cho người bất hạnh, đồng thời làm hoàn thiện thêm vẻ đẹp trong nhân cách của Vũ Nương. Các chi tiết kì ảo cũng tăng thêm tính chất bi thương cho câu chuyện: Vũ Nương chỉ có thể được giải oan chứ không thể trở về sống hạnh phúc với chổng, nàng cũng mãi mãi không thể gặp con. Nàng chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc ở thế giới bên kia chứ không có trong đời thực. Cách kết thúc truyện đã phơi bày hiện thực và thể hiện nỗi xót xa, đau đớn của Nguyễn Dữ khi hiểu được bi kịch của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chế độ nam quyền, thói hồ đồ của người chổng trong gia đình, chiến tranh phi nghĩa của các tập đoàn phong kiến… đã gây ra bi kịch cho người phụ nữ.

Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, có sự kết hợp giữa tự sự và biểu cảm (trong lời nói của Vũ Nương khi dặn dò chồng, nỗi nhớ khi xa chổng, lời minh oan và tuyệt vọng đẩy xót xa cay đắng của nàng…) cùng với việc sử dụng nhiều điển tích, điển cố, thành ngữ… làm nên một áng văn xuôi tự sự giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, sống mãi với thời gian. Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng,oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên nhan phẩm và hạnh phúc của con người.

Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Các chi tiết kì ảo không những đã phủ một lớp mờ lên câu chuyện, giúp cho nhà văn dễ dàng thể hiện nội dung mà còn thể hiện sâu sắc tấm lòng yêu thương con người, bệnh vực thân phận người phụ nữ và mong muốn họ có được một cuộc sống tốt đẹp của nhà văn. Bởi thế, Chuyện người con gái Nam Xương giống như một sự phản kháng của nhà văn đối với thực tại xã hội đương thời.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 7

Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ.

Sự đan xen giữa yếu tố thực và những chi tiết kì ảo khiến câu chuyện có một sức hấp dẫn và làm thỏa mãn tâm thiện của người đọc. Bởi vì, những yếu tố kỳ ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:

Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi được, để mang tiếng xấu xa. Và chàng, ngựa Hổ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày. Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khát khao được phục hồi danh dự: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.” Bên cạnh đó, những yếu tố kì ảo còn tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm. Nó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng: người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cải thiện bao giờ cũng chiến thắng. Tuy vậy, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về nhưng chỉ thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi: “Đa tạ tình cành, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi mà chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thật sự đâu có thể tìm lại được nữa. Dự dứt áo ra đi cả Vũ Nương biểu hiện thái độ phê phán đối với xã hội bất công bấy giờ, xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.

Chi tiết kì ảo cuối truyện làm cho người đọc nghĩ về một cái kết có hậu nhưng thực ra nó ẩn chứa bi kịch bên trong. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia hai đôi ngả, hạnh phúc vĩnh viễn rời xa. Hạnh phúc gia đình, thiên chức làm mẹ của Vũ Nương đã mã mãi bị tước đoạt. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ để trở vê’ cõi thực, rằng Vũ Nương không thể trở về hưởng hạnh phúc nơi dương gian được nữa. Sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn tràng giải oan đều không cứu vãn được hạnh phúc cho người phụ nữ. Đây là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thìa về giữ gìn hạnh phúc gia đình. Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi được, để mang tiếng xấu xa. Và chàng, ngựa Hổ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khát khao được phục hồi danh dự: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.”

Bên cạnh đó, những yếu tố kì ảo còn tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm. Nó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng: người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cải thiện bao giờ cũng chiến thắng.

Tuy vậy, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về nhưng chỉ thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi: “Đa tạ tình cành, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi mà chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thật sự đâu có thể tìm lại được nữa. Dự dứt áo ra đi cả Vũ Nương biểu hiện thái độ phê phán đối với xã hội bất công bấy giờ, xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Qua câu chuyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 8

Thành công của “Chuyện người con gái Nam Xương” không chỉ bởi giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà còn bởi nghệ thuật kì ảo được Nguyễn Dữ khéo léo đưa vào tác phẩm. Trong phần cuối tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, sự xuất hiện của những yếu tố kì ảo đã để lại cho người đọc một kết thúc đầy ấn tượng.

Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỉ XVI, ông nổi tiếng là người học rộng tài cao. “Chuyện người con gái Nam Xương” một trong những truyện hay nhất trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Truyện có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian Việt Nam đó là “Vợ chàng Trương”.

Vũ Nương là người có nhan sắc, đức hạnh nhưng đã phải kết thúc cuộc đời trong nỗi oan khuất khủng khiếp. Nhà văn Nguyễn Dữ đã đưa vào phần cuối tác phẩm yếu tố kì ảo để giúp cho Vũ Nương được sống lại và trở về trần thế một lần nữa. Những yếu tố kì ảo đã tạo nên một đoạn kết đầy sức hấp dẫn. Những yếu tố ấy được thể hiện ở các chi tiết như Phan Lang nằm mộng rồi đem thả rùa mai xanh, “thây Phan Lang dạt vào một cái động rùa ở hải đảo”, Linh Phi cho rằng đây là ân nhân đã cứu bà ngày xưa nên đã lấy thuốc thần cứu sống Phan Lang. Không những vậy, Phan Lang còn được đãi tiệc và vô tình gặp lại Vũ Nương, sau đó còn được sứ giả Xích Hỗn rẽ đường nước đưa về dương thế. Vũ Nương đã nhờ Phan Lang đưa tin cho Trương Sinh lập đàn giải oan thì nàng sẽ trở về và rồi, Vũ Nương đã hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến đi mất.

Sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố kì ảo đã khiến cho tác có một sức hấp dẫn kì lạ và vô cùng phù hợp với tâm lí độc giả Việt Nam. Các yếu tố này đã làm nên nét đặc trưng của thể loại truyện truyền kì và tạo nên một kết thúc có hậu cho câu chuyện. Người bị oan được minh oan và được trở về trần thế một lần nữa trước khi biến mất. Không những vậy, yếu tố kì ảo còn tô đậm thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: Nặng tình, nặng nghĩa, yêu thương chồng con, trọng danh dự. Dù bị chồng nghi oan dẫn đến phải tự tử nhưng nàng vẫn không hề oán trách Trương Sinh, nàng vẫn quan tâm về quê nhà, về phần mộ tổ tiên khi nghe Phan Lang kể chỉ ứa nước mắt nên nhất định phải tìm về. Bên cạnh đó, những yếu tố kì ảo còn thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta bởi “điều thiện sẽ diệt cái ác, chính nghĩa sẽ thắng gian tà”. Vũ Nương là một người tốt cho nên trải qua bao đắng cay, oan nghiệt nàng xứng đáng được minh oan và được quay lại trần gian. Yếu tố kì ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về nhưng không ở lại cùng chồng con mà lựa chọn quay về thủy cung. Tác giả đã đưa người đọc vào giấc chiêm bao ngắn ngủi, khi người phụ nữ đức hạnh được hưởng hạnh phúc trọn vẹn rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh khỏi giấc chiêm bao ấy. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thật cay đắng là người phụ ấy không thể nào sống lại được, là sự ân hận muộn màng của người chồng. Dù đã lập đàn giải oan nhưng không thể cứu vãn một kết thúc đau lòng.

Qua chi tiết kì ảo ở phần cuối tác phẩm, tác giả muốn phê phán, lên án xã hội bất công, trọng nam khinh nữ lúc bấy giờ. Có lẽ, trong xã hội xưa, người phụ nữ chưa bao giờ được hưởng hạnh phúc dù chỉ là nhỏ nhoi. Chi tiết kì ảo giúp Vũ Nương được quay trở lại trong sương khói còn cho chúng ta thấy niềm thương cảm của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Như vậy, yếu tố kì ảo trong “Chuyện người con gái Nam Xương” còn đem lại giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc với những bài học đắt giá cho chúng ta.

Những yếu tố kì ảo đã giúp cho câu chuyện trở nên mềm mại hơn với nhiều cung bậc cảm xúc. Tác giả Nguyễn Dữ đã thành công trong việc xây dựng nhân vật đại diện cho người phụ nữ bé nhỏ của chúng ta trong xã hội xưa. Tuy câu chuyện đã kết thúc nhưng những dư âm về Vũ Nương vẫn còn đọng mãi trong tâm trí bạn đọc.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 9

Kì ảo là một trong những yếu tố làm nên sự đặc trưng cho những câu chuyện truyền kì. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” tác giả Nguyễn Dữ đã thành công trong việc sử dụng yếu tố thần kì để truyền tải, gửi gắm những nội dung, thông điệp. Yếu tố kì ảo đầu tiên được nhắc tới trong tác phẩm là khi nhân vật Phan Lang nằm mộng ” thấy người con gái áo xanh đến xin tha mạng” thì ngay sáng hôm sau, Phan Lang lại được người trong phường chái “đem vào biếu một con rùa mai xanh”. Thấy vậy, Phan Lang “bèn đem thả con rùa ấy” đi. Chi tiết kì ảo thứ hai trong Chuyện người con gái Nam Xương là khi Phan Lang bị “đắm thuyền” chết đuối ngoài bể lại được Đức Linh Phi “vợ vua biển Nam Hải” cứu sống. Sau đó, Đức Linh Phi còn cử sứ giả đưa Phan Lang trở lại dương gian. Một chi tiết kì ảo nữa đó là Vũ Nương khi “gieo mình xuống sông” chết thì được Linh Phi động lòng thương cứu sống và gặp lại Phan Lang ở chốn thuỷ cung. Chi tiết kì ảo cuối cùng trong truyện là khi Vũ Nương “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng sông” nói những lời tạ từ với chồng nàng là Trương Sinh rồi biến mất. Những chi tiết kì ảo trong truyện chỉ là những chi tiết nhỏ thế nhưng lại mang những ý nghĩa rất lớn, góp phần tạo nên thành công cho Chuyện người con gái Nam Xương. Yếu tố kì ảo không chỉ giúp cho câu chuyện kể mang màu sắc huyền ảo, li kì, làm tăng sự hấp dẫn, cũng như tính sống động của câu chuyện mà còn là “phương tiện” gửi gắm những thông điệp, quan niệm về nhân sinh. Thông qua yếu tố kì ảo, ta thấy được quan điểm của tác giả khi lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến bất công đã đẩy người phụ nữ vào đường cùng đau đớn và phải lấy cái chết để minh oan cho chính mình. Những chi tiết kì ảo trong truyện Chuyện người con gái Nam Xương còn thể hiện ước mơ về lẽ phải, sự công bằng công lý trong xã hội của người dân ta. Việc sử dụng yếu tố kì ảo đã giúp Chuyện người con gái Nam Xương mang thêm màu sắc kì bí cũng như tạo nên sự hấp dẫn, đầy cảm xúc cho câu chuyện.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 10

“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện truyền kì mang màu sắc kì ảo. Sự xuất hiện của những yếu tổ kì ảo trong các tác phẩm đã đem tới cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Vũ Nương là một người phụ nữ đoan trang, đẹp người đẹp nết nhưng lại phải chịu nỗi oan khuất. Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, nhà văn Nguyễn Dữ đã đưa vào đoạn cuối của tác phẩm những yếu tố kì ảo để mang lại một cái kết có hậu cho câu chuyện của nàng Vũ Nương. Đó là hình ảnh khi Vũ Nương sống lại và trở về dương gian “trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng” và “nói vọng vào” lời tạ từ với Trương Sinh, chồng nàng sau đó biến mất. Yếu tố kì ảo còn được thể hiện qua hình ảnh của nhân vật Phan Lang, khi chàng nằm mộng “thấy người con gái áo xanh đến xin tha mang” và ngay sáng hôm sau, chàng được người khác tặng cho “một con rùa mai xanh”. Chàng bèn đem con rùa ấy thả đi xuống biển. Vậy nên khi Phan Lang chạy giặc mà bị “đắm thuyền” chết đuối ngoài biển, được Đức Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải trông thấy, sai người cứu sống chàng và đưa chàng trở lại quê hương. Sự xuất hiện của yếu tố kì ảo trong câu chuyện đã khiến câu chuyện truyền kì như một áng văn cổ tích huyền ảo, li kì, tạo nên sức hấp dẫn vô cùng cho người đọc. Những yếu tố kì ảo còn giúp ta hiểu rõ những quan điểm cho tác giả Nguyễn Dữ. Ông muốn thông qua những yếu tố ấy để lên án xã hội phong kiến bất công, chiến tranh phi nghĩa đã đẩy người phụ nữ vào bi kịch của cuộc đời, đồng thời thể hiện sự thương cảm sâu sắc cho số phận bất hạnh của người phụ nữ xưa. Thêm vào đó, những yếu tố kì ảo còn giúp những người dân “thấp cổ bé họng” bày tỏ niềm mong ước của họ về một xã hội công bằng, công lý khi những người hiền lành có được cái kết tốt đẹp hơn. Bằng việc kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo, nhà văn Nguyễn Dữ đã thành công tái hiện số phận của người phụ nữ xưa đồng thời giúp cho câu chuyện của mình có thêm nhiều cung bậc cảm xúc, sự li kì, hấp dẫn, ấn tượng.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 11

Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, bên cạnh yếu tố tả thực, tác giả Nguyễn Dữ còn đưa vào những yếu tố kì ảo đặc sắc để gửi gắm những quan niệm và bộc lộ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Yếu tố kì ảo được xuất hiện trong phần cuối của tác phẩm, khi Vũ Nương được Linh Phi cứu, nàng trở lại dương gian để tạm biệt chồng con rồi trở về thủy cung. Yếu tố kì ảo còn được thể hiện qua chi tiết Vũ Nương khi nàng trở về sau khi được giải oan. Nàng “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng” nước mênh mông của Hoàng Giang mà “nói vọng vào” những lời tạ từ với Trương Sinh rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần” và biến mất khỏi dòng nước. Những yếu tố kì ảo tuy chỉ là những chi tiết nhỏ nhưng đã làm nên sự hấp dẫn, sự li kì, đặc sắc, cuốn hút người đọc cho những câu chuyện truyền kì. Thông qua những yếu tố kì ảo, tác giả Nguyễn Dữ đã lên án xã hội phong kiến bất công, chiến tranh phi nghĩa đã đẩy con người, đặc biệt là người phụ nữ tới đường cùng. Qua đó, ông cũng bày tỏ sự thương cảm sâu sắc của mình trước những số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Yếu tố kì ảo cũng là một chi tiết mà người dân ta dùng để bày tỏ những ước mơ, nguyện vọng của mình về một xã hội công bằng, công lý cho những người dân nghèo, bé nhỏ trong xã hội. Qua những chi tiết kì ảo trên, tác giả Nguyễn Dữ đã cho ta thấy được cuộc sống, số phận của những con người nhỏ bé, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Từ đó ta càng thêm trân trọng, yêu quý những người phụ nữ truyền thống, xinh đẹp, nết na như Vũ Nương.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 12

“Áng thiên cổ kì bút” trong nền văn học trung đại là lời nhận xét cho tập “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Tác giả đã thu thập, ghi chép lại những câu chuyện được lưu truyền trong dân gian và phủ lên đó màu sắc kì ảo, huyền bí. Yếu tố kì ảo cũng có ở “Chuyện người con gái Nam Xương”. Sau khi Vũ Nương gieo mình xuống sông tự vẫn, tác giả đã viết thêm đoạn kết cho câu chuyện này. Phan Lang là người cùng làng Vũ Nương, một đêm được báo mộng nên đã cứu Linh Phi – vợ vua biển Hải Nam. Sau đó, Phan Lang bị đắm thuyền, chết đuối nhưng được Linh Phi cứu, ở thủy cung vài ngày. Chàng đã gặp lại Vũ Nương tại đây, được nàng nhờ giải oan. Sau khi trở lại dương gian, đàn giải oan được lập, Vũ Nương quay về nói lời cuối với chồng rồi từ biệt. Tuy đoạn kết này chỉ là do Nguyễn Dữ thêm vào nhưng nó đã khiến cho câu chuyện thêm phần kì bí, khơi gợi hứng thú nơi người đọc. Không những thế, chi tiết Phan Lang được cứu sống và Vũ Nương được lập đàn giải oan cũng tiếp thêm cho ta niềm tin về đạo lí “Ở hiền gặp lành”. Từ đó, ta thấy được tấm lòng yêu thương, cảm thông của tác giả dành cho những nhân vật trong câu chuyện. Vì quá giận dữ trước sự bất công của xã hội phong kiến, chiến tranh phi nghĩa đã đẩy con người vào đường cùng nên ông đã viết thêm phần cuối như để thành toàn, an ủi cho Vũ Nương. Những yếu tố kì ảo không phải là thứ giật gân thu hút người đọc. Chúng được viết ra nhằm thể hiện tư tưởng, tình cảm cao đẹp cùng niềm hi vọng của tác giả vào một xã hội công bằng, hạnh phúc.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 13

Trong văn học trung đại, những yếu tố tưởng tượng, hư cấu, huyền ảo rất phổ biến. Đó là phương tiện để thể hiện ước mơ của nhân dân, quan điểm của tác giả về điều gì đó. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, tác giả Nguyễn Dữ cũng đã viết thêm đoạn kết kì ảo nhằm thể hiện nhiều tư tưởng nhân văn. Phan Lang tình cờ cứu được con rùa mai xanh rồi thả nó trở lại biển. Sau này, Phan Lang bị đắm thuyền, chàng được Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải cứu. Trong những ngày ở thủy cung, chàng gặp lại Vũ Nương. Vũ Nương nhờ Phan Lang trở lại nhân gian thì hãy giúp nàng giải oan. Khi đàn giải oan được lập ở bến sông, Vũ Nương trở về nói lời tạm biệt với chồng con rồi biến mất. Những chi tiết kì ảo này đã đem đến cho người đọc rất nhiều thông điệp ý nghĩa.. Đầu tiên, đoạn kết đã giải oan cho nhân vật chính đã gỡ được nút thắt của câu chuyện. Thứ hai, đạo lí “Ở hiền gặp lành” được thể hiện ở nhân vật Phan Lang. Chàng là người tốt nên khi gặp hoạn nạn đã được trả ơn xứng đáng. Thứ ba, đoạn kết cũng thể hiện niềm thương cảm cho tấm lòng thủy chung son sắt của nàng Vũ Nương. Từ đó, tác giả ngầm lên án xã hội phong kiến đầy rẫy bất công đã đẩy những con người nhỏ bé, không có sức phản kháng vào đường cùng; tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến cho hạnh phúc của bao người tan nát. Cuối cùng, những yếu tố kì ảo chính là phương tiện để thể hiện niềm tin, niềm mong ước của con người vào cuộc sống ấm no, bình yên, công bằng.

Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 14

“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam, phỏng theo cổ tích “Vợ chồng Trương”, song có sức hấp dẫn và lôi cuốn hơn nhiều. Song so với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, thì dưới ngòi bút sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn, sáng tạo hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn, các nhân vật được hiện lên là người có đời sống, có tính cách rõ rệt. Trong đó, các chi tiết kì ảo cũng góp phần thể hiện nội dung ý nghĩa truyện vô cùng đặc sắc, tạo nên sức hấp dẫn, những dấu ấn ấn tượng và những giá trị mới cho áng “thiên cổ kì bút”.

Yếu tố kì ảo không có xuất hiện xuyên suốt trong toàn bộ câu chuyện mà nó chỉ hiện lên thi thoảng, tập trung, đậm nét trong cái kết mới mà Nguyễn Dữ sáng tạo nên. Các chi tiết kì ảo trong truyện làm cho tác phẩm trở nên li kì, có sức hút đối với người đọc và khiến cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Trong tác phẩm văn học này, tác giả xây dựng tổng cộng 3 chi tiết kì ảo. Thứ nhất là chi tiết Phan Lang đêm nằm mộng thấy được có người xin chàng thả rùa xanh mà chàng vừa bắt được (do Linh phi hóa thân). Chi tiết thứ hai kì ảo trong truyện là, Vũ Nương và Phan Lang đều được Linh Phi cứu sống và cho ở nơi động rùa dưới thủy cung. Sau đó, Phan Lang được hồi sinh và trở về trần gian. Điều kì ảo thứ ba là, linh hồn Vũ Nương xuất hiện trở về trên bến sông khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng đã nói vài lời thanh minh rồi từ từ biến mất mờ dần trong sương khói mịt mờ. Diễn biến trong tuyến truyện về Phan Lang với các chi tiết về Linh phi, trong thuỷ cung, hay cuộc gặp gỡ của Phan Lang và Vũ Nương, cùng với hình ảnh Vũ Nương đi kiệu hoa hiện về lúc ẩn lúc rõ trên bến Hoàng Giang… là những sáng tạo vô cùng ấn tượng trong truyện của Nguyễn Dữ so với cốt truyện dân gian Vợ chàng Trương.

Trước hết, những chi tiết này đã phủ lên câu chuyện, khiến cho người đọc thấy được một lớp sương mờ hư ảo, vô lý, kì quái, đậm chất dân gian, làm cho câu chuyện trở nên lung linh kì ảo, lúc thì ma quái, sợ sệt tạo nên sự tò mò, hấp dẫn, lôi cuốn, gây hấp dẫn, cuốn hút cho người đọc. Kết cấu này được câu chuyện sử dụng cũng phức tạp và hấp dẫn, thú vị hơn so với cách kết cấu của truyện cổ tích. Các chi tiết kì ảo, vô lý có vai trò dẫn dắt, thúc đẩy kết cấu truyện phát triển, lôi cuốn hơn. Qua đó, giúp nhà văn triển khai được nhiều tình tiết tưởng là nhỏ trong câu chuyện nhưng lại dần thấy hấp dẫn, ấn tượng và đạt được mục đích nghệ thuật của mình. Việc nhờ có phép màu từ Linh Phi đến từ thuỷ cung mà cả Vũ Nương và Phan Lang đều được cứu sống để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ đó. Phan Lang có thể trở về và báo cho Trương Sinh biết sự việc, sau đó lập đàn giải oan và Vũ Nương có thể trở về giải oan trên bến sông Hoàng Giang.

Các chi tiết kì ảo góp phần hoàn thiện tính cách và nhân phẩm, vẻ đẹp tiềm ẩn của mỗi nhân vật. Vũ Nương trở về trực tiếp và nói lời từ biệt cuối cùng. Nàng vẫn còn lưu luyến với trần gian nhưng nàng không trở về thực sự được nữa vì thế gian này đâu còn chỗ nào để người hiền lành, thủy chung, chu toàn và đức hạnh như nàng dung thân được nữa. Trương Sinh vì thế mà cũng tỏ ra là người biết hối lỗi, oán hận và khát khao hạnh phúc trong muộn màng. Nguyễn Dữ đã vô cùng thành công trong việc sử dụng, sắp xếp hài hòa, khéo léo giữa yếu tố kì ảo và hiện thực thực tại. Các yếu tố kì ảo được đưa vào xen kẽ nhưng không rời rạc với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, nhân vật, tình tiết, hoàn cảnh câu chuyện và sự kiện lịch sử, cùng những chi tiết hiện thực về trang phục của các mĩ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… làm cho thế giới kì ảo lung linh, mờ ảo, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực thực tại, làm tăng độ tin cậy, gần như hiện thực, khiến người đọc không cảm thấy hụt hẫng, ngỡ ngàng. Các chi tiết kì ảo càng làm tăng thêm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cho tác phẩm này. Đó là tiếng nói bênh vực cho một bộ phận con người, là minh chứng cho đạo lý ở hiền gặp lành của trời nhân gian. Hình ảnh thuỷ cung dưới nước nguy nga tráng lệ tượng trưng cho một thế giới tuyệt mĩ, một thế giới mới, sẽ đem đến sự hạnh phúc mà người phụ nữ nết na, giàu phẩm hạnh xứng đáng được nhận được, được sống. Chi tiết này thể hiện ước mơ thầm kín của chính tác giả Nguyễn Dữ trong việc “tích thiện phùng thiện”: Vũ Nương ở hiền, ở lành nhưng lại chịu đau khổ tủi nhục tuy nhiên rồi sẽ được ông trời đền đáp lại xứng đáng. Chi tiết này cũng giúp hoàn thiện tính cách, vẻ đẹp tiềm tàng của Vũ Nương, làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nàng là: sự nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phẩn mộ tổ tiên, khao khát lấy được phục hồi lại danh dự.

Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn và có sự kết hợp giữa tự sự và biểu cảm (thể hiện trong lời nói của Vũ Nương khi dặn dò chồng, nỗi nhớ khi xa chồng, lời minh oan và tuyệt vọng, uất ức khi bị mang oan đẩy xót xa cay đắng của nàng…) cùng với việc sử dụng nhiều điển tích, điển cố, từ ngữ, thành ngữ gợi hình gợi cảm… làm nên một áng văn xuôi tự sự giàu cảm xúc, giàu sức gợi hình, gợi cảm, giàu hình ảnh, sống mãi với thời gian. Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý ở một người phụ nữ nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, tủi buồn và oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã thể hiện rõ là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công, nghiệt ngã, tàn bạo, cổ hủ, phi lí đương thời chà đạp lên nhân phẩm và hạnh phúc của con người.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương chọn lọc hay nhất (14 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (106 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *