Phong cách văn học là gì? Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học

Mời các em theo dõi nội dung bài học về Phong cách văn học là gì? Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Mục lục

Phong cách văn học là gì?

+ Phong cách văn học (hay phong cách nghệ thuật) là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể.

+ Yếu tố cốt lõi của phong cách là cái nhìn mang tính phát hiện, in đậm dấu ấn riêng của người nghệ sĩ: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần ne;ười nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập” (M. Pru-xtơ).

+ Phong cách văn học còn mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Trong phong cách riêng của mỗi tác giả, người ta có thể nhận ra diện mạo tâm hồn, tính cách của một dân tộc và “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” (Tô Hoài). Chẳng hạn, qua những biểu hiện của phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, có thể thấy nét riêng của tâm hồn Việt Nam và dấu ấn của một thời “dâu bể”.

Phong cách văn học là gì?
Phong cách văn học là gì?

Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học

Những biểu hiện của phong cách văn học:

  • Cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, giọng điệu riêng biệt của tác giả.
  • Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung của tác phẩm.
  • Phương thức biểu hiện, thủ pháp kĩ thuật lưu lại đậm cá tính sáng tạo của tác giả.
  • Cái thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác.
  • Có phẩm chất thẩm mĩ cao, giàu tính nghệ thuật.

+ Phong cách vãn học trước hết được biểu hiện qua cái nhìn và giọng điệu độc đáo, riêng biệt của tác giả. Ví dụ: Cái nhìn tài hoa, có khả năng khám phá mọi đối tượng từ phương diện thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Qua cái nhìn ấy, thiên nhiên hiện lên như những công trình mĩ thuật hoàn hảo của tạo hoá; con người luôn tiềm ẩn tư chất nghệ sĩ, tài hoa, tài tử. Giọng điệu trào phúng của Nguyễn Khuyên thì hóm hỉnh, thâm trầm trong khi tiếng cười của Tú Xương lại châm biếm sâu cay, đả kích quyết liệt.

+ Các lớp nội dung của tác phẩm như đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật,… cũng là những yếu tố thổ hiện phong cách văn học. Nói đến Nam Cao là người ta nghĩ ngay tới một nhà văn của “những kiếp lầm than”, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở để đón nhận “những vangđộng của đời”. Nhắc tới Xuân Diệu là người đọc nhớ về một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với đời, luôn nồng nàn, say đắm trong tình yêu.

+ Phong cách văn học còn được biểu hiện qua hệ thống các phương tiện nghệ thuật mà nhà văn lựa chọn để tái hiện đời sống, từ cách dùng từ, lối cấu tạo câu đến nghệ thuậtxây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu. Tô Hoài nổi tiếng là nhà văn giỏi miêu tả phong tục, giỏi khắc hoạ nét đẹp riêng trong cảnh vật và tính cách con người của một vùng đất. Nguyễn Tuân xứng đáng với danh hiệu bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ với khả năng sáng tạo những từ ngữ, hình ảnh mới lạ, bất ngờ; nhữngcâu văn giàu chất nhạc, chất hoạ, linh hoạt như “biết co duỗi nhịp nhàng”.

+ Trong biểu hiện của phong cách văn học luôn có sự hoà quyện giữa các yếu tố định hình, thống nhất và sự biến đổi đa dạng, phongphú. Và điều quan trọng nhất là phong cách phải có ý nghĩa thẩm mĩ – mang đến cho người đọc những tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ phong phú.

Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học
Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học

Một số vấn đề lưu ý về phong cách văn học

+ Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách gắn phong cách với cá tính nhà văn. “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Rồi sau đó, trong Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách, ông coi phong cách “phụ thuộc vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Từ đó, “dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ, Nguyên Ngọc là cây bút sử thi – lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ… Rồi Đào Thái Tôn trong Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục, khi đi tìm một cơ sở để lựa chọn thơ nôm truyền tụng của nữ sĩ đã “dùng phong cách Lưu Hương ký để xác định phong cách “thơ nôm truyền tụng” của Hồ Xuân Hương”. Ông dựa vào bài Tựa của Tốn Phong Thị để xác định phong cách thơ bà như học rộng mà thuần thục, vui mà không buông tuồng, buồn mà không đau thương, khốn mà không lo phiền, cùng mà không bức bách… ở đây chưa nói đến việc ông Đào (cũng như vị Chưởng môn của ông, Hoàng Xuân Hãn) chưa chứng minh được tác giả tập Lưu Hương ký và tác giả “thơ nôm truyền tụng” là một (trừ cái tên trùng, và giả thử có là một đi nữa thì cũng không thể lấy phong cách của tác phẩm này để làm khuôn áp vào tác phẩm kia, bởi tuy chung một giàn, nhưng chúng lại khác giống), mà chỉ muốn nói rằng, cách minh định phong cách như vậy, cả ở thầy Đào lẫn “thầy Mạnh”, còn bị lẫn lộn giữa phong cách tác giả và phong cách tác phẩm. Các định ngữ để định nghĩa phong cách như thơ Hồ Xuân Hương vui mà không buông tuồng, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính… có thể đóng vào con người Hồ Xuân Hương, con người Hoàng Cầm cũng được, mà vào thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hoàng Cầm cũng chẳng sao. Chính sự “nhập nhằng” này làm cho các định nghĩa trên không có giátrị khái niệm hóa đã đành, mà cả giá trị thao tác.

+ Chính ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure đã “cứu” cho phong cách học cổ điển một “bàn thua trông thấy”. Cuộc cách mạng ngữ học lần thứ nhất này đã khiến ngôn ngữ thoát khỏi thân phận “đầy tớ” để trở thành “ông chủ”: ngôn ngữ từ nay không chỉ là công cụ của tư duy, cái vỏ chứa tư tưởng, mà còn sản sinh ra tư tưởng. Các nhà thơ làm thơ không phải với các tư tưởng, mà với các con chữ. Là nhân vật chính của văn chương, ngôn ngữ cũng sẽ là nhân vật chính, kiểu một anh hùng thời đại, của phê bình. Phong cách học, nhờ thế, mở một con đường lớn vào tòa lâu đài của nghệ thuật ngôn từ. Phong cách học cổ điển, đứa trẻ song sinh dính liền của từ chương học, từ chỗ là một bộ phận của ngữ học dạy người ta viết hay trở thành phong cách học hiện đại, một lý thuyết văn chương. Phê bình phong cách học trước hết chống lại cái nhìn quy phạm của từ chương học, vượt qua sự tìm kiếm dấu ấn cá nhân nhà văn của thời đại lãng mạn để trở thành một cái nhìn khoa học.

+ Người đầu tiên thực hành phê bình phong cách học ở Việt Nam là Phan Ngọc với công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều(6). Theo Phan Ngọc, mỗi một ký hiệu ngôn ngữ có hai mặt, mặt thông báo và mặt biểu cảm. Phong cách học chính là thứ khoa học chỉ nghiên cứu cái mặt biểu cảm này của ngôn ngữ. Cụ thể hơn, nó nghiên cứu các kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy. Để lựa chọn, ít nhất phải có từ hai phương án trở lên. Vậy nhà nghiên cứu phải làm cái thao tác đối lập để tìm ra các phương án này. Đó là sự đối lập cái âm, cái từ, cái câu, cái kiến trúc ngôn từ, cái thể loại đã có ở văn bản, tức đã được tác giả chọn, với cái âm, cái từ, cái câu, cái kiến trúc ngôn từ, cái thể loại có thể được dùng (và dùng được) mà vắng mặt trong văn bản do tác giả đã không chọn. Và để xác định được phương án tác giả đã chọn là có giá trị biểu cảm tốt nhất, người phê bình phải dùng phương pháp thay thế: lấy một hoặc nhiều phương án bị bỏ qua lần lượt thế vào chỗ phương án được chọn để đánh giá hiệu quả nghệ thuật của nó. Nếu hiệu quả nghệ thuật kém hơn thì sự lựa chọn của tác giả là đúng, còn không thì cái bỏ qua trở thành bỏ lỡ.

+ Một kiểu lựa chọn có giá trị thẩm mỹ thì, theo Phan Ngọc, trước hết nó phải được chuẩn bị về mặt ngữ cảnh, tức tạo ra một môi trường sống cho nó và của nó. Đánh giá một hiện tượng phong cách học chính là nhận xét xem nó có phù hợp với ngữ cảnh hay không. Ví như, từ chuộc (động từ, bỏ tiền ra lấy lại một cái gì đó) trong bài Khóc Tổng Cóc của Hồ Xuân Hương, sở dĩ nó có nghĩa thứ hai, tức trở thành một đồng âm phong cách học (danh từ, con (chão) chuộc, một loại ếch nhái), vì nó đã được chuẩn bị bởi ngữ cảnh gồm có những từ cóc, (nhái) bén, nòng nọc, (chão) chàng. Hoặc câu Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông của Nguyễn Du đã được nhà thơ chuẩn bị ngữ cảnh cho nó thật công phu. Trước hết, câu này lấy ý từ câu Đào hoa y cựu tiếu đông phong của Thôi Hộ và nhờ tính liên văn bản ta có thể hiểu ngay. Cái ngơ ngác của Kim Trọng khi trở về vườn Thúy cũng chính là cái ngơ ngác của chàng thi sĩ đời Đường cách đây trên nghìn năm. Tuy nhiên, ở đây cây đào của Nguyễn Du còn là cây đào cụ thể, cá biệt, kẻ đã từng chứng kiến cuộc gặp gỡ đầu tiên của Kim Kiều và cũng là kẻ đã giữ hộ chiếc thoa của Thúy Kiều đã vô tình mắc (gửi) vào đấy. Bởi vậy, thi sĩ đời Nguyễn nói Hoa đào năm ngoái chứ không nói Hoa đào cười với gió đông như xưa là vì ông muốn chứng minh một sự thực: Kim Trọng ra đi đúng một năm, nay trở về. Hơn nữa, nói hoa đào năm ngoái còn cười với gió đông năm nay là đã xóa bỏ thời gian vật lý và thay vào đó thời gian tâm lý để khẳng định sự thống nhất của sự vật với con người.

+ Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể. Bởi vậy, chỉ cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã chứng minh. Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách.

Một số vấn đề lưu ý về phong cách văn học
Một số vấn đề lưu ý về phong cách văn học

Thông tin thêm về phong cách văn học

Phong cách là những nét riêng độc đáo về tư tưởng và nghệ thuật, những phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của một nhà văn, một giai đoạn, một thời đại, một nền văn học. Phong cách là một sự khẳng định thành tựu của văn học.

Về lịch sử, từ nguyên phong cách có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ là stylos nhằm để chỉ một cái que có đầu nhọn và đầu tù. Người La Mã thì gọi là stylus cũng để chỉ cái que, nhưng đầu nhọn dùng để viết, đầu tù dùng để xóa trên một đầu bảng nhỏ có thoa sáp. Đến người Pháp thì dùng chữ style, ban đầu có nghĩa là một nét chữ, sau đó là bút pháp (mang đặc điểm về ngôn ngữ và văn thể). Trong Bàn về phong cách, Buffon cho rằng: “Phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn chúng ta bóc đi những cái không phải của bản thân anh ta, và tất cả những thứ mà anh ta giống với người khác”. (Dẫn theo Phương Lựu, Lý luận văn học, Sđd, tr.88) Nghĩa là, phong cách chính là cá tính, nhưng không phải cá tính trong đời sống, mà là cá tính trong sáng tạo nghệ thật.

Phong cách văn học là một phạm trù thẩm mỹ chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương diện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà văn, của một nền văn học dân tộc. Quá trình sáng tạo không chỉ là quá trình phản ánh mà còn biểu hiện, hay nói như Lê Ngọc Trà, là quá trình “nghiền ngẫm” hiện thực; không chỉ tái hiện hoặc tái tạo mà còn gửi gắm bao nhiêu tâm tư, tình cảm, bao nỗi niềm xúc động, là hoạt động của nội tâm mãnh liệt, tâm huyết gan ruột. M. Duras, tác giả tiểu thuyết Người tình nổi tiếng, từng nói rằng: “Viết là tự giết mình, nhưng không phải bằng cái chết”. Đó cũng chính là quá trình đi tìm chính mình. Các nghệ sĩ lớn xưa nay thường nhấn mạnh tầm quan trọng của nét riêng, những nét độc đáo cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật. Phạm Văn Đồng tâm sự với các nhà văn rằng: “Phải lắng nghe cái gì sâu xa nhất trong con người mình, bồi dưỡng cho mình một bản lĩnh vững vàng, một phong cách độc đáo, vì nghệ thuật không phải là sản xuất hàng loạt như sản xuất công nghiệp. Hãy suy nghĩ lời khuyên của M.Gorki: “Bạn hãy giữ lấy cái gì là của riêng mình, làm sao cho nó phát triển tự do.” Lúc một người không có cái gì là riêng của mình thì phải thấy ở người đó chẳng có cái gì hết” ( Bàn về văn hóa văn nghệ, Nxb Văn hóa nghệ thuật, H. 1963, tr.267). Vì vậy, nói đến phong cách văn học là khẳng định đóng góp riêng, thành tựu riêng của một nền văn học, nhất là của những nhà văn cụ thể. Nhà văn có phong cách là người tạo ra được nét khu biệt rất rõ cho mình. Các yếu tố ngỡ như mâu thuẫn lại hoàn toàn thống  nhất với nhau, đó là vừa độc đáo lại vừa đa dạng, phong phú, vừa bền vững lại luôn vận động, đổi mới. Nhưng tất cả những yếu tố đó, chưa đủ để tạo nên một phong cách. Độc đáo, đa dạng, bền vững, đổi mới, nhưng còn phải hay, phải thức tỉnh đời sống thẩm mỹ trong bản chất người của con người, đem đến cho con người nội dung mỹ cảm mới. Vì vậy, xét cho cùng, người sáng tạo nào cũng có những đặc điểm riêng, nhưng không phải ai cũng có phong cách. Phong cách không chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một tác giả, mà còn hơn thế nữa, khi nó thu hút nhiều người cùng vươn lên thể hiện chính mình, thì đó chính là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành, đã tự khẳng định được mình.

Phong cách văn học khác với phong cách ngôn ngữ với tư cách là một khoa học với tên gọi là phong cách học tiếng Việt hoặc là một thứ tiếng nào đó. Trong thực tế sử dụng, ngôn ngữ được dùng trong phạm vi các tập đoàn người, các thành phần xã hội khác nhau, vì thế nó có mang những phong cách khác nhau. Đó chính là phong cách chức năng của ngôn ngữ trong giao tiếp của con người. Văn học là nghệ thuật ngôn từ, nó biểu hiện thông qua hệ thống ngôn ngữ, nó cũng mang những phong cách nhất định, đó chính là vấn đề thuộc phạm vi hình thức của tác phẩm. Mỗi người viết có thể có sự độc đáo ở những hệ thống tu từ khác nhau, không tìm thấy ở người khác. Những yếu tố mang sắc thái tu từ ấy lặp đi lặp lại, mang giá trị ổn định, bền vững làm nên thế giới nghệ thuật của bản thân nhà văn đó, nghĩa là đã chuyển hóa từ hình thức trở thành nội dung. Phong cách văn học không chỉ đòi hỏi ở phạm vi hình thức mà còn biểu hiện ở phẩm chất nội dung. Trong thực tế, có bao nhiêu yếu tố trong cả nội dung lẫn hình thức tác phẩm, thì có bấy nhiêu thành tố tùy thuộc vào cái “tạng” của mỗi người, tạo ra dấu vết cho phong cách nhà văn biểu hiện. Phong cách biểu hiện ở việc chọn đề tài. Có người thích những đề tài nên thơ, nhẹ nhàng, lại có những người thích những đề tài rắc rối, phức tạp, éo le như “cây tre trăm đốt”. Phong cách biểu hiện ở cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Có người tuôn trào theo cảm hứng chủ đạo thì lay động lòng người, nhưng phê phán, lên án, tố cáo thì lại thất bại. Ngược lại, có người phê phán thì đầy sức thuyết phục, nhưng ca ngợi thì lại nhạt nhẽo vô duyên. Phong cách còn biểu hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mỗi người viết thường quen thuộc, qua lại với một số nhân vật nhất định, khi miêu tả loại nhân vật khác, ngòi bút trở nên gượng ép, hời hợt. Phong cách còn biểu hiện ở thể loại. Mỗi nhà văn có thể viết được nhiều thể loại nhưng chỉ thành công ở một vài thể văn nhất định. Cũng là văn xuôi nhưng có người chỉ hợp với ký mà không thể viết truyện ngắn hay tiểu thuyết. Có người, chỉ viết được tiếu thuyết mà không viết được truyện ngắn. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết truyện dài, truyện ngắn, bình luận văn học, chân dung tác giả… nhưng anh viết cái gì cũng thành ký mà thôi. Thành công để lại dấu ấn và nhất quán thành một phong cách ở nhiều thể văn, nhiều loại hình nghệ thuật như Nguyễn Đình Thi (tiểu thuyết, thơ, kịch bản văn học và cả âm nhạc) là trường hợp hiếm trong lịch sử văn học. Cái hay của Lịch triều hiến chương loại chí chính là ở chỗ, sau khi giới thiệu từng tác giả, Phan Huy Chú đã lẩy ra được phong cách của từng người qua một vài từ vài câu: Trần Thái Tông “lời thơ thanh nhã”, Trần Nguyên Đán “cảm khái thế sự, thân tuy ở ẩn nhưng lòng không quên việc nước”, Trần Quang Khải “lời thơ thanh thoát, nhàn nhã, xem có thể thấy tướng mạo, phong thái con người”… Những chấm phá tài hoa trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân cũng nêu được hơi thở và nhịp đập tâm hồn thể hiện một cách chuẩn xác phong cách thơ của các thi nhân, có thể sánh ngang với Phan tiên sinh của Lịch triều hiến chương loại chí.

Phong cách văn học có thể thiên về nội dung, nhưng phải trên cơ sở một hình thức nhất định. Cũng có thể thiên về hình thức nhưng cũng phải bắt nguồn từ một nội dung nhất định. Nguồn gốc của phong cách chính là cá tính sáng tạo, chủ yếu thuộc về nội dung, nhưng sự biểu hiện của phong cách, có thể hoặc thiên về nội dung, hoặc thiên về hình thức.

Thông tin thêm về phong cách văn học
Thông tin thêm về phong cách văn học

Phong cách văn học cũng khác với phương pháp sáng tác, khác với cả phương pháp riêng của từng cá nhân. Phương pháp sáng tác là thành tố bên trong thuộc tầng sâu của tác phẩm, với nguyên tắc tư tưởng – nghệ thuật chịu sự chi phối của một thế giới quan nhất định. Trong khi đó, phong cách văn học thiên về các dấu hiệu biểu hiện qua hình thức có thể cảm nhận được bởi nó vốn nổi lên trên về mặt của tác phẩm. Phong cách là dấu hiệu thành công, trưởng thành của tác giả thì phương pháp riêng là sở hữu tất yếu của bất kỳ tác giả nào. Ai cũng có một phương pháp riêng của mình, bởi vì khi đã tìm đến với việc sáng tạo nghệ thuật, tác giả vốn đã có một thế giới quan nhất định, hướng tới một lý tưởng xã hội – thẩm mỹ nhất định, trên cơ sở trình độ tư tưởng của họ. Và, tất nhiên, suy cho cùng, tác giả nào cũng có những đặc điểm thế hiện trong sáng tác, nhưng có khi đặc điểm còn mờ nhạt chưa đủ phẩm chất cần thiết làm nên phong cách. Sự khác nhau giữa nhiều phong cách và phương pháp riêng cụ thể được xem xét trên nhiều khía cạnh.

– Thứ nhất, về thế giới quan, là yếu tố quyết định hình thành phương pháp riêng, nhưng cá tính không có một tác dụng nào cả. Ngược lại, đối với sự hình thành phong cách thì toàn bộ đời sống tinh thần bao gồm tâm lý, khí chất, hứng thú, cảm quan, đặc biệt là cá tính, giữ vai trò quyết định, còn thế giới quan chỉ là cái bóng mờ, có đấy nhưng chỉ giữ vai trò “cảnh giới”. Trong Phê bình văn học, Chế Lan Viên cho rằng nhờ có cái đậm đà chất “suy nghĩ” của Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, cái “nhẹ nhõm tươi mát” của Bàng Sĩ Nguyên, “cái trục trặc gân guốc” của Trần Mai Ninh, “cái giản dị đáng mến” của Trần Hữu Thung, Anh Thơ, mà người đọc có thêm một cách riêng để nhìn sự vật” (Phê bình văn học, Nxb Văn học, H. 1962, tr.141) Tuy xuất phát cùng một thế giới quan, nhưng mỗi người có một cá tính sáng tạo khác nhau, mới có thể tạo ra sự đa dạng của màu sắc thẩm mỹ. Cũng chính vì thế, khi thế giới quan thay đổi thì phương pháp sáng tác sớm muộn gì cũng thay đổi, nhưng cũng có thể không thay đổi, hoặc chỉ thay đổi từng phần, từng bộ phận.

– Thứ hai, về đối tượng miêu tả, xét cho cùng không tác động gì đến phương pháp riêng, nhưng có tác động nhất định đối với phong cách. Đề tài càng được mở rộng bao nhiêu càng góp phần  làm cho phong cách trở nên đa dạng bấy nhiêu. Đề tài, đối với chủ nghĩa cổ điển luôn hạn chế, phong cảnh không được phong phú, đối với chủ nghĩa lãng mạn có được mở rộng nhưng do cách nhìn chủ quan, đối tượng miêu tả cũng hạn chế, phong cách cũng hạn chế, chỉ với chủ nghĩa hiện thực mới có sự phong phú tương ứng giữa đề tài và phong cách.

– Thứ ba, đối với trào lưu văn học xuất phát từ tính tự giác và tính chiến đấu cao, mọi trào lưu cần phương pháp chung, càng nhất trí cao bao nhiêu thì trào lưu đó càng có thêm sức mạnh, nhưng đối với phong cách thì hoàn toàn ngược lại, trong một trào lưu càng đa dạng về phong cách bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.

Có ba loại hình phong cách văn học chủ yếu: phong cách cá nhân, phong cách thời đại, phong cách dân tộc. Mỗi con người đều có một cá tính riêng, mỗi tác giả phải có một phong cách riêng, mới có chỗ đứng trong lòng người đọc. Mỗi thời đại thường ẩn dấu trong sáng tác của một nhà văn hoặc toàn bộ nền văn học, tạo nên phong cách của một thời đại văn học. Tố Hữu tiêu biểu cho phong cách văn học thời đấu tranh giải phóng dân tộc, Nguyễn Huy Thiệp tiêu biểu cho văn học thời đại đổi mới. Mỗi nhà văn đều thuộc một dân tộc cụ thể, sáng tác của họ tất yếu đều ít nhiều mang phong cách dân tộc. Phong cách dân tộc còn là phẩm chất của một nền văn học đấu tranh cho lịch sử và vận mệnh của dân tộc mình, thể hiện qua tâm lý, lối sống, ngôn ngữ, thể loại và quan niệm mang tính truyền thống. Vì vậy có thể có sự kế thừa và phát huy những nét giống nhau của nền văn học dân tộc tạo nên một dòng phong cách.

Các yếu tố chủ yếu tạo thành một phong cách văn học tập trung ở cái nhìn, giọng điệu và thủ pháp nghệ thuật. Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của tác giả. Chính vì thế nó thể hiện cách nhìn, cách cảm nhận của chủ thế trong đó có những cá tính độc đáo, để chuyển hóa vào trong tác phẩm. Nơi xuất phát của cái nhìn là điểm nhìn nghệ thuật, nơi gắn bó chặt chẽ với người viết, nó cho ta thấy quan điểm, thái độ, tình cảm của người viết đối với thế giới nghệ thuật do mình sáng tạo ra. Điểm nhìn là điểm rơi của cái nhìn, là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả. Cái nhìn thể hiện trong tất cả các loại hình, loại thể, thể hiện ở điểm nhìn của người trần thuật, của tác giả, của nhân vật; đối với văn xuôi tự sự gọi là điểm nhìn trần thuật.

Phong cách còn biểu hiện rõ nhất ở giọng điệu văn chương. Nếu trong đời sống mỗi người có một giọng nói khác nhau, thì mục tiêu cuối cùng trong sáng tạo văn chương chính là mỗi người tìm thấy một giọng điệu riêng cho mình. Giọng điệu không phải là ngôn ngữ. Giọng điệu lớn hơn nhiều so với ngôn ngữ. Thông qua giọng điệu, người ta cảm nhận được khẩu khí, ngữ điệu, âm thanh, màu sắc, cao hơn là thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng của tác giả đối với các hiện tượng miêu tả. Những tác gia lớn bao giờ cũng tạo ra một giọng điệu riêng không trộn lẫn với bất kỳ ai. Một giọng điệu kiêu bạc của Nguyễn Tuân, bên cạnh một giọng điệu đằm sâu chất suy tư của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bên cạnh giọng thơ đắm say giao hòa của Xuân Diệu, lại có một giọng điệu suy tư nặng đầy trí tuệ của Chế Lan Viên. Hãy cứ hình dung, các tác giả sau thời chống Mỹ đến nay, mấy ai đã tìm ra một giọng điệu riêng. Đối với một bài thơ, nếu che tên tác giả, đọc lên khó nhận ra là của ai. Trong khi đó, chỉ cần đọc vài câu có thể nhận ngay ra đó là Chế Lan Viên, là Hàn Mặc Tử, là Bích Khê không trộn lẫn, mặc dù họ cùng viết về một đề tài, ra đời cùng một thời điểm:

Trăng nằm sóng soải trên cánh liễu 

(Hàn Mặc Tử)

Vừa dâm tục ôm trăng vờ vật ngủ 

(Chế Lan Viên)

Chén trăng vừa tầm với

Chàng ơi, vàng ròng đây Kề môi say ân ái… 

(Bích Khê)

Cùng một câu nói, giọng điệu khác nhau, nội dung cũng đã khác nhau. Trong tác phẩm tự sự, giọng điệu biểu hiện chủ yếu ở ba phương thức: giọng điệu trần thuật, giọng điệu miêu tả, giọng điệu nhân vật.

Phong cách còn biểu hiện ở các thủ pháp, các biện pháp nghệ thuật với tư cách là những yếu tố kỹ thuật về mặt hình thức nhằm thể hiện nội dung.

Tóm lại, phong cách văn học là những nét riêng độc đáo, lặp đi lặp lại mang giá trị ổn định bền vững về tư tưởng, – nghệ thuật thể hiện trong sáng tác của một nhà văn, một thời đại, một dân tộc, là những phẩm chất góp phần tạo nên tiến trình văn học.

***

Trên đây là nội dung bài học Phong cách văn học là gì? Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (11 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *