Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội lớp 9 (9 Mẫu)

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội bao gồm hướng dẫn viết cùng 9 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 9 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.

Đề bài: Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội.
Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội.

Mục lục

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 1

Người ta nhắc tới Tản Đà với nhiều ấn tượng sâu đậm: là thi sĩ khởi đầu cho nền thơ lãng mạn, là người chắp viên gạch nối thơ cổ đại với thơ hiện đại. Trong chất lãng mạn đó ẩn chứa tư tưởng, tình cảm và tấm lòng yêu nước sâu sắc của ông. Bài thơ: “Muốn làm thằng Cuội” là một ví dụ tiêu biểu. Như ta đã biết – xã hội ông đang sống quá coi trọng đồng tiền và địa vị. Tài năng – sức lao động – tình cảm sâu đậm không đem lại hạnh phúc cho con người. Bao trùm bên trong là nỗi buồn về thực tại. Tản Đà đã bật lên một lời gọi, lời nhắn gửi chị Hằng – người bạn muôn đời của những kẻ cô đơn:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết. Giọng điệu thân thiết pha chút mỉa mai bởi cuộc đời ngột ngạt, bon chen vì công đanh dang dở: “Tài cao, phận thấp, chí khí uất”. Là thi sĩ nên nỗi buồn đã kết thành nỗi sầu. Đây là thái độ không chấp nhận thực tại, bất hoà thực tại, bất hoà với trần thế.

Ông khát khao một cuộc sống đẹp hơn, vượt lên trên cái thấp hèn:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Những bài Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội hay

Đó là thế giới mà ông mơ ước, là cõi đời trong sáng, tinh khiết, không vướng bẩn, không lo lắng, bon chen.

Hai câu thơ là câu hỏi, là lời đề nghị, là lời cầu xin được lên cung trăng, nơi thanh cao, không phải chịu cảnh đời trần thế nhố nhăng tù hãm. Nỗi sầu của Tàn Đà là nỗi sầu của người nô lệ. Bất lực trước thực tại, Tản Đà muốn lẩn trốn vào thiên nhiên bằng mộng tưởng:

Có bầu có bạn, can chi tủi

Cùng gió cùng mây thế mới vui

Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản, và giải toả được nỗi buồn – ông đã “vui” đã “cười” – ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, “cười” sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sống thần tiên thoát tục.

Hai câu thơ:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông thấy thế gian cười

Thật độc đáo và lãng mạn. Rằm tháng tám là khi trăng trong nhất, đẹp nhất và cũng là sáng nhất. Vào lúc tuyệt vời nhất của trăng ấy, nhân vật trữ tình ước muốn cùng chị Hằng; ngồi bên chị Hằng tựa vào nhau mà nhìn xuống trần thế để cười.

Câu thơ là đỉnh cao của cái ngông rất phù hợp với tính chất Tản Đà. Ngồi bên cạnh người đẹp, đó đã là một niềm hạnh phúc. Hơn thế nữa thi sĩ còn tự đặt mình lên một địa vị cao để mà cười cợt. Cái ngông này thật hiếm có, đáng yêu, đáng trân trọng ở trong giai đoạn này. Bởi các thi sĩ lãng mạn yêu nước nhưng không đủ dũng khí để chiến đấu – thường tìm đến thiên nhiên hoặc trốn vào mộng tưởng để trốn đời.

Cả bài thơ là giấc mộng kỳ thú, là niềm khao khát về cuộc đời đẹp, về một cõi mơ trong sáng, không vướng bận sự đời.

Tóm lại, tâm trạng bao trùm cả bài thơ là tâm trạng buồn chán thất vọng với cuộc đời. Đó là thái độ không dung hoà với thực tại, là sự phản kháng gián tiếp với cuộc đời. Thi sĩ khát khao một xã hội tự do, tươi đẹp và trong sạch. Hình ảnh chị Hằng với cung quế, cây đa là những hình ảnh của cõi tiên đầy lãng mạn. Cõi tiên ấy là cả một thế giới mà Tản Đà mong muốn có. Thực ra, sự chán chường và niềm khát khao ấy xuất phát từ lòng yêu nước thầm kín của Tản Đà – nỗi buồn xuất phát từ nỗi nhục của người nô lệ và ước muốn xuất phát từ khát vọng được tự do.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 2

Nước gợn sông Đà con cá nhảy

Mây trùm non tản cánh diều bay.

Tản Đà là bút danh của nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu, được ghép tên núi Tản (núi Tản Viên hay còn gọi là núi Ba Vì) và sông Đà, thuộc địa phận Sơn Tây cũ, quê hương của tác giả. Trên văn đàn đầu thế kỉ XX tên tuổi của Tản Đà nổi lên như một hiện tượng đột xuất, dồi dào năng lực sáng tạo. Ông đã đem lại cho thi ca Việt Nam một sức sống mới, một khẳng định cho sự cách tân mạnh mẽ cuả trào lưu thơ Mới lúc đó và mãi mãi sau này.

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa Tây nửa ta, thơ Tản Đà phản ánh sự bất bình trước xã hội rối ren, ngột ngạt, đồng thời thể hiện một hồn thơ vừa bay bổng vừa phóng khoáng trong trái tim đa tình của người nghệ sĩ.

Thoát trần lên trăng là chủ đề của bài thơ Muốn làm thằng Cuội in lần đầu trong tác phẩm Khối tình con vào năm 1917. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi cõi đời ô trọc đương thời để đến với một thế giới đẹp đẽ tự do. Bài thơ đã bộc lộ nét đặc trưng về phong cách thơ Tản Đà, điều mà người ta quen gọi lãng mạn phong tình và “ngông”.

Muốn làm thằng Cuội được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú của thơ Đường, niêm luật rõ ràng, đôi ý đối thanh rất chuẩn, giọng điệu chung của bài thơ thể hiện tâm tình tha thiết của thi sĩ. Ngay ở hai câu đề:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Đã bộc bạch tâm trạng của nhà thơ trong đêm thu trăng sáng. Thi sĩ một mình than thở với vẻ đẹp huyền ảo của cảnh vật mà cũng không khoả lấp được nỗi buồn canh cánh trong lòng. Nhà thơ bất bình trước thực tại xã hội đen tôi bế tắc. Cuộc sống ngột ngạt tù túng, bế tắc làm sao dung nạp được một tâm hồn phóng khoáng yêu tự do như Tản Đà? Trái tim muốn cất cánh bay xa, nhưng đi đâu khi xã hội thực dân phong kiến đương thời như một nhà tù lớn giam hãm con người. Để cách biệt hẳn với cõi tù trần gian lắm nhiễu nhương, buồn khổ thi sĩ đã chọn mặt trăng, một địa điểm tuyệt vời và hoàn toàn tĩnh lặng để tha hồ giãi bày tâm sự.

Nhà thơ gọi trăng là chị Hằng xưng em nghe mới êm ái và dịu ngọt làm sao! Nếu chị Hằng nghe được chắc hẳn cũng xao xuyến, bồi hồi bởi giọng điệu tha thiết của nhà thơ khi ướm hỏi có kẻ nào chán đời đã trôn lên cõi tiên trước mình:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Rồi mới khẩn khoản thỉnh cầu:

Cành đa xin chị nhắc lẽn chơi.

Dường như nhà thơ ước muôn trở lại làm trẻ con như thuở nào để cứ mồi đêm Trung Thu rước đèn, phá cỗ trông trăng, lại thi nhau tìm cây đa, chú cuội và thầm mong ước được chị Hằng “nhắc lên chơi” để vui vầy thoả thích với trăng sao, mây gió. Ước trở lại tuổi ấu thơ hồn nhiên trong sáng là để giũ sạch bụi trần, gỡ bỏ ngoài tai ngoài mắt “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong suốt nửa đời người. Bỗng chốc nhà thơ trở lại với tuổi thơ với giọng điệu nũng nịu, thiết tha lời thỉnh nguyện đặc biệt có một không hai này. Cảnh và tình trong hai câu đề là nỗi buồn thấm thìa nhưng giọng điệu lại lộ ra nét hóm hỉnh.

Nếu ở câu thực, nỗi buồn chỉ còn phảng phất thì đến hai câu luận niềm vui được bộc lộ khá rõ khi nhà thơ tưởng tượng mình đang sông cùng tiên nữ Hằng Nga ở trong cung trăng:

Có bầu có bạn can chi tủi

Cùng gió cùng mây thế mới vui.

Nhà thơ muốn làm thằng cuội để giải thoát nỗi buồn tích tụ bấy lâu nay. Sông trên cung trăng thi sĩ vừa thoát khỏi cảnh đục trong của chốn nhân gian, vừa thoả mãn thú tiêu dao được bầu bạn “cùng mây cùng gió”. Nhưng thích nhất vẫn là được kề vai sát cánh với người đẹp Hằng Nga để cùng tựa vai nhau nhìn ngắm thế gian ngạo nghễ:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Tâm trạng nhà thơ khi đã thoát tục lên tiên, nhìn xuống trần gian thấy thế giới thật nhỏ bé, chật chội, tù túng với đủ mọi chuyện nực cười. Nhà thơ muôn được thành tiên để cười vào thói bon chen danh lợi và cảnh lo toan miếng cơm manh áo chật vật của kiếp người nơi trần thế.

Hai câu luận giống như một lời tự nhủ: “Có bầu có bạn can chi tủi” thì cái cười ở đây đã bật lên thành tiếng. “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”. Sau chuỗi cười dài ấy, thi sĩ từ cõi mộng trở về cõi thực thì nỗi buồn lại đầy ắp trái tim; mong được lên tiên chỉ là niềm vui tinh thần để được tự do của Tản Đà. Nó là ảo giác là khát vọng ám ảnh bởi nhà thơ suốt đời phải sông trong thực tế phũ phàng. Bài thơ không gây ra cảm giác bi quan, yếu thế mà gợi lên nỗi buồn man mác, thôi thúc người đọc đến với tự do, đến với những gì đẹp đẽ nhất hoàn mĩ nhất.

Muốn làm thằng cuội là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Tản Đà, một nhà thơ nổi tiếng là “ngông”. Cùng thời với ông và muộn hơn một chút, Chế Lan Viên tìm đến “Điêu tàn”, đổ nát sống cô đơn với quá khứ đau thương; còn Xuân Diệu say đắm với tình yêu đôi lứa; Huy Cận giấu mình vào “Vũ trụ ca”, Vũ Hoàng Chương triền miên với thơ “Say”,… thì Tản Đà lại xin chị Hằng cho trôn lên cung Quảng để vui thú với cõi tiên.

Tản Đà “ngông” vì muôn dược làm bạn với Hằng Nga, với gió, với mây và được thành tri âm tri kỉ với chị Hằng. Trong xã hội thối nát đương thời bao kẻ vì ham chữ “danh” và chữ “lợi” mà đánh mất hết nhân cách, nhà thơ “ngông” của chúng ta muốn thoát tục để giữ mình được trong sạch, để hướng tới một sự tự do cao cả. Đó là cái trái khoáy đáng quý đáng trân trọng về nhân cách của thi sĩ.

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội hay về nội dung ý nghĩa, độc đáo về sáng tạo nghệ thuật. Nó tiêu biểu cho phong cách tài hoa của nhà thơ núi Tản sông Đà. Bài thơ được dệt lên bằng bút pháp lãng mạn bằng trái tim nhân hậu của nhà thơ. Tuy được viết theo thể thơ Đường luật nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được nét tự nhiên của bài thơ, đồng thời bài thơ còn phảng phất âm hưởng của ca dao dân ca như một sự Việt hoá thành công.

Đọc Muốn làm thằng Cuội, chúng ta thấy toát lên một nỗi buồn chán trước toàn cảnh thực tại của xã hội đương thời. Nhà thơ muôn thoát li khỏi hiện thực đen tối băng mộng tưởng. Đây là giấc mộng táo bạo, hợp với tính cách của con người nhà thơ. Nỗi buồn của Tản Đà không dừng lại ở nỗi buồn thời thế của riêng ai mà là nỗi buồn cho thời đại, cho viễn cảnh của xã hội, cho tâm trạng chung của tầng lớp tri thức, nghệ sĩ trong xã hội thời bấy giờ.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 3

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889 – 1939) là gương mặt đặc biệt trên thi đàn Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, người đã mang đến một làn gió lạ cho thơ ca Việt Nam, với cái ngông nghênh khinh bạc của nhà Nho cuối cùng và người tiên phong cho thi ca vào con đường chuyên nghiệp. Tình say, ý lạ, tứ mới chưa làm nên một Tản Đà, mà điều chủ yếu là sự thành thực tự nhiên trong cảm xúc, ngay cả khi thi nhân chìm đắm vào cõi mộng. Những “khối tình”, những “giấc mộng” làm nên một phần văn nghiệp Tản Đà. Muốn làm thằng Cuội là một sự kết hợp của mộng và tình, để ta nhận rachân dung của con người dám lấy cái ngông như một sự thách thức với cuộc đời ô trọc.

Tản Đà đã có vinh dự là người “dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tần kì đang sắp sửa” (Hoài Thanh, Hoài Chân – Thi nhân Việt Nam). Cung bậc của tiếng đàn ấy là của một tâm hồn phóng túng không bị câu thúc trong lối văn trường ốc, có cái bay bổng của vị “trích tiên” tự coi mình là người lạc bước chốn trần gian, Thơ Tản Đà có một không gian riêng với Tây Thi, Dương Quý Phi, Chức Nữ, Hằng Nga, những giai nhân “hồng nhan tri kỉ” với khách tài tử phong lưu, Người đời đã cho Tản Đà là “ngông”, nhưng cần phải hiểu đó cũng chính là thái độ của ông phản ứng lại xã hội thực dân phong kiến vốn có quá nhiều điều khiến ông chán ngán buồn bực. Muốn làm thằng Cuội chính là một phản ứng như vậy.

Dường như đối với Tản Đà, mùa thu cũng tạo nên nhiều duyên nợ. Từ khoảnh khắc “Vèo trông lá rụng đầy sân” để nhận ra công danh như một thoáng chốc, đến đêm thu chìm đắm trong mối sầu, thi nhân đã để cho những tâm tình bộc bạch cùng trời đất:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Lại một đêm thu, lần này nhà thơ tìm đến với “chị Hằng”. Mà lạ, không phải với cái cuồng vọng đòi cưới Hằng Nga mà lại là một chút khép mình xưng “em” rất ngọt! Cậu ấm Hiếu đã mỏi mệt với những muộn phiền trần thế, nên thở ra một giọng chán đời chăng? Cái buồn cố hữu của mùa thu khiến nhà thơ buồn, hay ánh trăng đối diện với con người gợi ra cảm giác lẻ loi đến mênh mông? Tản Đà đã đến với trăng không phải bằng tư thế “đối diện đàm tâm” – nhìn nhau chuyện trò trong im lặng bằng sự cảm thông của đôi lòng, ông đã thốt lên Lời tha thiết nhắn nhủ “chị Hằng ơi!”. Nỗi buồn trần thế tràn ngập đêm thu, từ trong tỏa ra chứ không phải do “gió thu lạnh – sương thu bạch – khói thu xây thành” như câu thơ trong “Cảm thu, tiễn thu” mà thi sĩ chạnh lòng. Điều khiến người đọc lưu tâm ở câu thơ thứ hai là kiểu “chán nửa rồi” với “trần thế” chứ không phải là “chán hết rồi”. Chán nửa có nghĩa là chưa chán hẳn, còn thiết tha với cõi đời. Vậy là thi nhân mâu thuẫn với chính mình, giữa ước muốn thoát li hẳn đời như các thi nhân xưa muốn về với cõi tiên “lánh đục tìm trong” và tâm nguyện ở lại với đời để làm tròn “thiên lương” giúp ích cho dân chúng. Đã có lần nhà thơ băn khoăn với câu hỏi “Đời đáng chán hay là không đáng chán?” với bạn tri âm. Nhưng phút này đây, tri âm vắng bóng để nhà thơ vọng về trắng tâm sự với chị Hằng.

Trí tưởng tượng phong phú và mãnh liệt của nhà thơ đã làm nên một ước vọng cao vời:

Cung quế có ai ngồi đó chửa

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Hai câu thực làm rõ cho ước muốn của Tản Đà: muốn làm thằng Cuội. Cung quế, cành đa để gợi nhắc câu chuyện cổ tích nhưng dường như có sự so sánh ngầm trong ý thơ: ở cõi trần gian, “trích tiên” Tản Đà đang cô đơn trong nỗi buồn của chính mình, còn nơi cung Quảng, Hằng Nga cũng đang cô đơn như khách trần gian. Hành trình tưởng tượng của nhà thơ đã ngược về với thời gian cổ tích, để nhà thơ hóa thân vào chú Cuội. Duy chỉ có khác một chi tiết nhỏ: ngày xưa Cuội bám cành đa thần để bay lên trăng, còn hiện tại thì cành đa ấy lại là chiếc thang đón hồn thi nhân lên cung quế. Nghĩa là Tản Đà đến với Hằng Nga để thay thế vai trò chú Cuội. Câu thơ có một chút hóm hĩnh trong ý tứ, nhưng đó là cách cắt nghĩa cho tính chất cuộc gặp gỡ đặc biệt này: giữa Hằng Nga và Tản Đà là mối quan hệ của hai tâm hồn cô đơn đang cần tìm đến nhau. Tản Đà “xin” mà không cầu lụy, bởi lẽ khi hướng về “cung quế”, có lẽ thi nhân cũng hiểu thấu nỗi niềm Hằng Nga chăng?

Bởi thế, hai cầu luận là sự sẻ chia của đôi hồn cô đơn:

Có bầu có bạn can chi tủi

Cùng gió cùng mây thế mới vui.

Bản chất đa tình của thi sĩ đã hé lộ. Câu thơ không phải chỉ diễn tả tâm trạng từ một phía, vì nếu như vậy chẳng hóa ra thi sĩ lên trăng chỉ là giải thoát cho nỗi buồn bực của riêng mình? Cái nồng nàn trong tình ý câu thơ chính là ở chỗ nhà thơ cùng lúc diễn tả hai tâm trạng: một là của Hằng Nga – người cung Quảng Hàn, một là của Tản Đà – người trần thế. Nét phóng khoáng tâm hồn thi nhân đâu chỉ là cái ước vọng lên trăng để vượt thoát cảnh trần đầy chán ngán, mà chính là khi được làm chú Cuội nghĩa là đượclàm bạn cùng san sớt nỗi buồn với giai nhân cung quế. Có như vậy mới thật sự là tri âm tri kỉ! Cái độc đáo Tản Đà chính là ở chỗ cảm nhận được nỗi u buồn của Hằng Nga trong không gian quạnh quẽ chốn Quảng Hàn. Cũng như đã có lần nhà thơ phát hiện giữa cõi tiên tấm lòng trần gian của tiên nữ:

Lá đào rơi rắc chốn Thiên Thai

Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi

(Tống biệt)

Cảnh tiên cũng buồn, nên thi nhân lên với cõi tiên là để chia sẻ cùng người tiên chút tình nồng dương gian của người – cõi – tục. Đồng thời, khi được “cùng gió cùng mây” không vướng bận những lo toan trần thế, con người cũng được giải thoát khỏi nỗi sầu vô hình đè nặng. Tìm về cõi mộng là cách để phá tan thành sầu ở cõi thực, nỗi sầu như thi nhân đã từng cảm nhận: “Từ độ sầu đến nay, ngày nào cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu. sầu không có mối, chém làm sao cho đứt; sầu không có khối, đập sao cho tan…” .(Giải sầu). Trong nỗi sầu của nhà thơ, ta nhận ra những ám ảnh thời thế, nhân thế và trần thế. Bầu bạn cùng chị Hằng, phải chăng là lúc nhà thơ thật sự thoát khỏi những ám ảnh ấy khi được cận kề hồng nhan tri kỉ:

Rồi đến mỗi năm rằm tháng Tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Bài thơ được mở đầu bằng lời than “buồn lắm”, kết lại bằng nụ cười đêm rằm tháng Tám. Niềm vui thay thế nỗi buồn khi những tấm lòng tri kỉ đã gặp gỡ được nhau. Cảm hứng của bài thơ trọn vẹn với hình ảnh trăng thu tuyệt đẹp lay thức giấc mơ của bao kẻ muôn lánh đời thoát tục. Nhưng nếu chỉ có vậy thì cảm hứng bài thơ chưa vượt thoát khỏi khuôn sáo cũ mòn của thơ xưa. Cái tình tứ “tựa nhau” đã làm hiện rõ chất lãng mạn độc đáo của tâm hồn nhà thơ. Có lẽ chưa ai trước Tản Đà lại có sự liên tưởng táo bạo đến thế! Câu chữ khéo léo, ý tình dào dạt của Tản Đà đã làm nên nét nghĩa mới của hình tượng: chú Cuội — Hằng Nga trong cổ tích đã hóa thân thành đôi lứa khăng khít Tản Đà tài tử và Hằng Nga giai nhân. Nhưng cõi trần “chán nửa” vẫn hiện diện cùng khoảnh khắc “trông xuống thế gian” của đôi lứa tâm đầu ý hợp, làm nên nụ cười “rất Tản Đà”. Cười cho trò đời bon chen, cười trước tình đời nhạt nhẽo, và trên hếtlà nụ cười của kẻ vẫn còn nặng lòng trần thế, canh cánh trong hồn thiên chức nhà văn: “Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ”. Phải chăng nụ cười ấy ẩn chứa một thông điệp hướng về tương lai rạng rỡ niềm vui? Và cũng vì thế mà trăng phải là “rằm tháng Tám”, vằng vặc, tròn đầy, trong trẻo. Tắm mình trong ánh sáng dịu dàng giữa nơi cung quế là cả một tâm hồn thi nhân bay bổng tuyệt vời, thăng hoa cùng vẻ đẹp tuyệt đối của “nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi”.

Bài thơ cho ta nhận ra một chân dung tâm hồn Tản Đà: phóng khoáng, đa tình, nhiều mộng tưởng mà vẫn vướng vít những ưu tư trần thế. Con người ấy muốn giữ trọn “thiên lương” giữa cuộc đời ô trọc nên phải đắm chìm trong những “giấc mộng con” để sống thành thực với chính mình và với cuộc đời. Ta chợt nhận ra một nhân cách cao quý không bị vẩn đục bởi những toan tính vụ lợi tầm thường, một con người “đi qua cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX” mà vẫn giữ trọn “linh hồn cao khiết”.

Muốn làm thằng Cuội cũng như bao bài thơ bộc bạch tâm tư của Tản Đà giúp ta hiểu thêm về một con người đã dám phô bày cái tôi đầy cá tính của mình với người đời không cần giấu giếm, như là một cách để đối lập với cả một xã hội thực dân – phong kiến. Tác phẩm góp thêm luồng sinh khí cho cảm hứng lãng mạn, với trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc mãnh liệt, sẽ phát triển mạnh mẽ trong phong trào Thơ mới 1932 – 1945.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 4

Tản Đà là một nhà thơ sớm nổi tiếng. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những sáng tạo mới mẻ. Có thể nói thơ Tản Đà là một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Muốn làm thằng cuội là bài thơ đặc sắc của ông.

Bài thơ được viết theo thể thơ Đường luật thất ngôn bát cụ. Bài thơ mở đầu là lởi kể tự nhiên, là lời tâm sự với nỗi buồn man mác:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Nhà thơ có nỗi buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với chị Hằng vào một đêm thu. Nhà thơ buồn vì người đời ở thế gian, hoặc cũng có thể buồn vì chí hướng của ông không thực hiện được. Cái trần thế mà nhà thơ đang sống có lẽ là bất công, ngột ngạt đến khó chịu. Nhưng dù buồn chán, nhà thơ vẫn tâm sự ngọt ngào với chị Hằng, thổ lộ cho chị biết cuộc sống ở trần thế. Lời tác giả với chị Hằng cũng là lời tâm sự thân thiết. Lời tâm tình ấy đã tạo nên một khoảng cách rất gần giữa trần thế và vũ trụ. Vầng trăng từ xưa đến nay vốn là nguồn cảm xúc của thi sĩ. Nhưng hôm nay, vầng trăng là người để nhà thơ san sẻ nỗi niềm tâm sự. Nhà thơ muốn xin chị Hằng giúp đỡ để thoát khỏi cái thực tại tầm thường, xấu xa nơi trần thế. Tản Đà đã thể hiện rõ nguyện vọng của mình:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Nhà thơ hỏi thẳng có ai ngồi trên cung quế đó chưa rồi mới bám vào cây đa xin chị Hằng đưa lên cung trăng. Tản Đà muốn làm thằng Cuội là muốn thoát li cuộc sống bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng. Ở đây ta cảm nhận cái ngông của Tản Đà, nhưng cái “ngông” ấy không phải để người ta ghét bỏ mà cái “ngông” thật đáng yêu vì nó thật sự thanh cao. ông muốn sống ẩn dật để thoát li khỏi xã hội tầm thường, xấu xa để đời mình không vướng bụi mờ, không mắc phải cái tầm thường nơi trần thế.

Nhà thơ đã thể hiện mục đích của mình khi lên cung quế, nó không những thoát li cuộc sống thực tại, vứt bỏ cái buồn của mình mà còn tìm đến với bầu bạn, tìm đến với thiên nhiên khoáng đạt của đất trời:

Có bầu, có bạn, can chi tủi

Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.

Nhà thơ thật lãng mạn pha chút ngông nghênh rất đáng yêu, ông muốn đổi mới cuộc sống mình, muốn tìm đến cái tốt đẹp, tìm đến cuộc sống có ý nghĩa.

Kết thúc bài thơ đã nêu bật ra ý nguyện của Tản Đà. Ông muốn làm thằng Cuội để không bao giờ sống dưới trần gian bế tắc ấy nữa. Ông sẽ mãi mãi ở trên cung trăng:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Tiếng cười của Tản Đà khi được ở cung trăng có nhiều ý nghĩa. Vui cười với các em thiếu nhi ở thế gian nhân ngày Tết trung thu, cười cái bon chen ở trần thế, cười cái xã hội bế tắc ở buổi giao thời. Cũng có thể là cái cười chua xót trong lòng “như mảnh vỡ thủy tinh” và cũng có thể là tiếng cười hả hê vì đã đạt ý nguyện thoát li được xã hội đen tối. Thấp thoáng trong tiếng cười ấy cổ sự ngạo mạn về cảnh đời ở thế gian, những việc làm nực cười của xã hội dưới con mắt của nhà thơ.

Bài thơ là một khát vọng lãng mạn đầy ý nghĩa. Lời thơ có sức tưởng tượng dồi dào, phóng túng, táo bạo nhưng rất duyên dáng, tế nhị. Bài thơ có sức hấp dẫn người đọc, giúp người đọc đồng cảm với con người phải sống trong xã hội giao thời “nửa cười nửa khóc”. Hồn thơ lãng mạn pha chút ngông nghênh, nó vừa mang tính chất cổ điển vừa mang tính hiện đại. Tất cả những yếu tố đó tạo nên cái hay của bài thơ và cái hay của nhà thơ.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 5

Bài thơ có sức hấp dẫn do lời thơ tự nhiên, giản dị, có nhiều hình ảnh bắt nguồn từ trong các tác phẩm dân gian hoặc các điển tích thông dụng, do tình thơ buồn chán mà chân thành,

Hai câu đề đã diễn tả tâm trạng của nhà thơ trước cảnh đời:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

rần thế em nay chán nữa rồi.

Đã “buồn”, đã “chán”, lại gặp cảnh “đêm thu”, tâm trạng ấy dường như nhân lên gấp bội. Nhà thơ buồn chán vì chí hướng của mình không thực hiện được hay vì cuộc đời nghèo khổ, túng quẫn. Câu thơ cứ buồn trĩu xuống bằng những thanh bằng liên tiếp. Nhà thơ không chỉ chán một cảnh đời đang sống mà chán cả trần thế. Có lẽ vì thế mới nảy sinh cái ý “muốn làm thằng Cuội” muốn bỏ quách trần gian để lên ở trên cung quế với chị Hằng.

Tản Đà chán đời nhưng vẫn không quên đời, Lên với chị Hằng, ông vẫn tìm cách hướng về đời:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Đây là cái cười gì? Cười tình, cười sảng khoái, hả hê hay cười mỉa mai, khinh thị? Có lẽ phải hiểu đây là cái cách biểu lộ thái độ khinh bạc với đời. Vì sao ông lại chọn ngày rằm tháng tám chứ không phải ngày khác để biểu thị sự khinh bạc đó? Chắc vì ông muốn nhân lên nhiều lần thái độ bất cần của mình với đời.

Tóm lại, tâm sự của Tản Đà là tâm sự kẻ buồn chán cuộc sống muốn tìm một nơi ẩn náu. Ông muốn tìm đến với thiên nhiên (ở đây là cung quế và chị Hằng), ẩn mình trong thiên nhiên để giễu cợt lại đời bằng sự kiêu bạc của mình.

Qua thơ Tản Đà ta còn thấy cái “ngông” thể hiện khá rõ:

Trước tiên, ngay đề bài đã lóe lên một cái gì không bình thường. Ai cũng biết thằng Cuội trong văn học dân gian, trong ấn tượng của người Việt Nam gắn liền với cái thói nói dối (cho nên mới có câu: “Nói dối như Cuội”). Thế mà ở đây, Tản Đà lại “Muốn làm thằng Cuội”, cái ý muốn ấy thật khác thường, thật coi thường tất cả. Nó là một điều ngông.

Nhà thơ gọi Hằng Nga là chị, xưng em ngọt xớt. Song trong bốn câu thơ sau, ông lại có phần lả lơi với chị Hằng:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Có bầu, có bạn, can chi tủi

Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.

Câu “Cành đa, xin chị nhấc lên chơi” vừa nói cách lên cung trăng lạ đời của ông, vừa có ý vị cười cợt của Xuân Hương. Chất đùa cợt lúc ẩn lúc hiện trong những câu thơ này khiến bài thơ lấy lại thế cân bằng, không lao sâu vào nỗi buồn chán giãi bày trong hai câu thơ mở đầu của bài. Trong cách xưng hô, trò chuyện của ông với chị Hằng, có ẩn chứa chút hơi ngông.

Ởhai câu cuối, tư thế nhà thơ và chị Hằng cùng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” cũng là tư thế khác thường với quan niệm nam nữ thời ông đang sống. Nó cũng là cử chỉ ngông nghênh của ông dưới con mắt các nhà nho đương thời.

Vì sao Tản Đà lại có cái ngông, lại thể hiện cái ngông đó trong thơ mình? Có lẽ đây là một cách phản ứng lại với cuộc sống. Nó gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Nó tạo cho thơ ông có một giọng điệu khác thường.

Bài thơ hấp dẫn người đọc trước tiên do lời thơ giản dị, tự nhiên. Có câu như một tiếng than, có câu lại như một lời hỏi. Câu nào cũng không thấy dấu vết đẽo gọt của bàn tay thơ nhưng câu nào cũng điêu luyện.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 6

Trong rất nhiều giấc mộng, Tản Đà có một giấc mộng rất độc đáo mang đậm phong cách ngông nghênh của một kẻ ‘tài cao, phận thấp, chí khí uất’, đó là giấc mộng ‘muốn làm thằng Cuội’.

Tản Đà ‘muốn làm thằng Cuội’ bởi chán ngán cảnh thần thế. Ông muốn lên tiên, thoát khỏi cuộc đời trước mắt để cười cợt cái bát nháo, nhố nhăng của một xã hội bất như ý trong cái nhìn của ông. Cái cuộc đời mà trong bài thơ ‘Năm hết hữu cảm’, ông đã cho rằng:

Sự nghiệp nghìn thu xa vút mắt Tài tình một gánh nặng trên vai.

Mở đầu bài thơ ‘Muốn làm thằng Cuội’ Tản Đà đã thổ lộ tâm trạng của mình không quanh co, giấu giếm:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Thoạt nhìn, câu thơ như một lời tự hào, thế nhưng nghĩ kĩ ta thấy lời thơ trĩu nặng tâm sự của Tản Đà. Quả vậy, cuộc đời của ông là những khối mâu thuẫn lớn, mâu thuẫn giữa ‘tài cao’ với ‘phận thấp’, mâu thuẫn giữa khát vọng vươn lên với sự trì trệ của xã hội nô lệ. Trong một bài thơ khác, Tản Đà đã chua chát:

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Những mâu thuẫn đó bị dồn nén trong tâm trạng ông, chúng đòi hỏi được giải thoát. Từ đó ta càng hiểu vì sao cuộc đời của Tản Đà có những giấc mộng, những giấc mộng buồn, chán:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Trong cái buồn chán của Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu ta còn cảm nhận cả một nỗi cô đơn không người bày tỏ. Bởi không người bày tỏ nên nhà thơ đành tìm đến với chị Hằng. Tìm đến chị Hằng để giãi bày mà không phải ai khác, vừa bộc lộ nỗi cô đơn vừa thể hiện cái ngông của chính mình. Cái ngông của Tản Đà trong hoàn cảnh xã hội đầy ngang trái lúc bây giờ là một cách tự phản ứng, ở một chừng mực nào đó nó thể hiện nhân cách của kẻ sĩ ‘sinh bất phùng thời’ (sống không gặp thời). Câu thơ tưởng như tự trào nhưng chất chứa tâm sự.

Ông hỏi:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Và ước mong:

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

‘Nhắc lên chơi’, ước mong của Tản Đà là ‘lên chơi’ trên cung quế, với ông cuộc đời giống như những cuộc chơi lớn, nhỏ. Trong một bài thơ khác nhà thơ cũng nói đến cuộc chơi, lời thơ rất đẹp và mang đậm phong cách của Tản Đà.

Cửa động

Đầu non

Đường lối cũ

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.

Nhưng cho dù ước muốn có được thực hiện, chắc chắn Tản Đà sẽ không ngồi lâu ở cung quế. Tính cách phóng khoáng, tài trí của ông sẽ khiến ông đi tìm kiếm một nơi chốn khác, bởi cuộc đời với ông mãi mãi là một cuộc lãng du bất tận, không có một miền đất hứa nào cho con người luôn khinh đời ngạo thế ây.

Ông nói với chị Hằng: ‘Xin chị nhắc lên chơi’, một giọng đùa vui hóm hỉnh ngay cả trong cách xưng hô: ‘chị’, ’em’. Tản Đà ‘muốn làm thằng Cuội’ thực chất chỉ là để chơi ngông với cuộc đời. Từ đó ta nên hiểu giấc mộng của Tản Đà như một thái độ phản ứng của một kẻ sĩ trước cuộc đời điên đảo. Phản ứng ấy hết sức chân thành và đây cũng là phản ứng của cả một lớp người có thành tâm nhưng bất lực trước vận nước.

Tản Đà chán đời ‘muốn làm thằng Cuội’ để quên đời, nhưng dù có ở nơi cung quế ông vẫn hướng về với cuộc đời trần thế:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Ông muốn tìm một chỗ đứng khác, từ trên cao nhìn xuống thế gian để cười cợt. Ngông nghênh là một phản ứng, cười cợt cũng là một cách phản ứng. Thái độ của Tản Đà ‘trông xuống thế gian cười’ biểu thị một cách khinh bạc đối với đời.

Đọc bài thơ ‘Muôn làm thằng Cuội’ ta thông cảm với tâm sự buồn chán của Tản Đà trước một cuộc sống trần gian. Ông muốn chạy trốn cuộc đời để nhìn đời khinh bạc nhưng ước muốn cũng chỉ là ước muốn, nhà thơ vẫn sống với tâm trạng giằng xé, xót xa.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 7

Được mệnh danh là dấu gạch nối giữa hai thời đại văn học, thơ Tản Đà phóng túng, ngông nghênh với nội dung nhiều lần khiến độc giả bất ngờ, ngỡ ngàng. Một trong những bài thơ rất nổi tiểng của ông đó là bài thơ: “Muốn làm thằng Cuội”.

Ngay từ những câu mở đầu bài thơ, Tản Đà đã làm cho độc giả phải thích thú:

Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Hai câu thơ hiện lên với tưởng tượng về một đêm mùa thu với trăng sáng soi xuống trần thế. Nhà thơ trong tư thế ngắm trăng sáng mà liên tưởng tới câu chuyện cổ tích trên cung trăng có chị Hằng mà thốt lên với trăng, với chị Hằng trong hai dấu chấm than nặng trĩu. Cách gọi “chị Hằng” that thân mật, tự nhiên, gần gũi”. Nhà thơ như đang tâm sự về cảnh “buồn” của mình đồng thời bộc lộ tâm trạng trước cuộc sống thực tại “chán nửa”. Phải chăng, sống trong một xã hội tù hãm, uất ức, khi mà đất nước mất chủ quyền, con người mất tự do, những kẻ hãnh tiến thì thi nhau ganh đua bỏ mặc vận mệnh giang sơn, ông buồn chán vì phận tài hoa mà lận đận, không đủ sức thay đổi hiện thực bi kịch.

Tản Đà bộc lộ ước muốn của mình:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Phong cách của Tản Đà có thể tóm gọn trong một chữ “ngông” trong một thái độ phóng túng coi thường khuôn phép trói buộc cá tính, ông luôn khiến cho độc giả phải bất ngờ bởi những ý tưởng trong những vần thơ của mình. Ông đã bộc lộ ước muốn của mình qua một câu hỏi rất bất ngờ cùng lời “xin” hết sức tự nhiên, chân thành, xin chị Hằng dùng cành đa để nhấc ông lên cung trăng để ông giống chú Cuội. Và ông đưa ra lí do đó là:

Có bầu, có bạn, can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.

Tản Đà đã đề nghị kết bạn với chị Hằng, bộc lộ một mong muốn có bạn để bớt tủi, có lẽ dưới trần thế ông đang rất cô đơn, khó mà tìm được tri âm tri kỉ nên chỉ có thể lên chốn cung trăng, chốn mộng tưởng để mong vơi nỗi cô đơn ấy. Điều này còn bộc lộ mong muốn phiêu diêu cùng mây cùng gió trong không gian thơ mộng, rộng lớn, không bị bó buộc. Khi ấy:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.

Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.

Vào rằm tháng tám, khi ấy trăng là sáng nhất, tròn nhất, có người cho rằng vào khi ấy, người ta thậm chí có thể nhìn thấy cây đa và chú Cuội ngồi dưới. Tản Đà muốn mình được lên cung trăng sống trong cảnh bồng lai, thoát li hiện thực, tránh xa tất cả hiện thực đen tối âm u lên chốn tiên cảnh vô tư thanh tao rồi để khi nhìn xuống trần gian thì sáng khoải cười lũ người quyền thế phàm phu trang giành, ganh đua nhau, cười sự vô vị, trống rỗng của một thế gian mà ông đã “chán nửa”. Hơn thế, đay còn là cái cười mãn nguyện khi đã thoát li khỏi trần thế, thoát khỏi hố đen mà ông bất hào sâu sắc bấy lâu. Chữ “cười” được tách ra bởi dấu phẩy chính là để nhấn mạnh ý nghĩa ấy.

Với thể thơ thất ngôn bát cú mà không hề khuôn khổ, bài thơ mang đến cho người đọc sự dễ dàng trong việc tiếp cận và hiểu. Tuy rằng ước muốn làm thằng Cuội có vẻ như hoang đường nhưng Tản Đà cũng giống đa phần các trí thức đương thời, chỉ muốn thoát li khỏi thực tại tù túng, héo hon bởi họ là nhưng người có tài, có chí nhưng chỉ đành bó tay bất lực trước thời cuộc và chỉ biết gửi nỗi chán chường ấy vào thi ca, vào những ước muốn thoát li.

Bài thơ là cái ngông đáng trân trọng của Tàn Đà trong một thế cuộc vần xoay đen tối của đất nước. Đọc bài thơ, người đọc có tâm thế thoải mái trong sự tiếp thu tâm tư của tác giả nói riêng và các trí thức đương thời nói chung.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 8

Những năm hai mươi của thế kỉ XX, Tản Đà là thi bá trên thi đàn Việt Nam. Tài hoa, lãng mạn, thoát li và ngông là phong cách nghệ thuật của thi sĩ Tản Đà. Trong bài “Thú ăn chơi”, thi sĩ viết:

“Trời sinh ra bác Tản Đà,

Quê hương thời có, cửa nhà thời không.

Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông,

Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt li.

Túi thơ đeo khắp ba kĩ,

Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng…”.

Bài “Muốn làm thằng Cuội” là bài thơ kiệt tác, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Tản Đà:

“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Có bầu có bạn can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây thế mới vui?

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau trông xuống thế gian cườỉ”

Mở đầu bài thơ là một tiếng kêu “buồn lắm chị Hằng ơi!”. Một tiếng kêu đầy ắp tâm sự. Thi sĩ Xuân Diệu đã nhận xét như vậy.

“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi”

Nỗi buồn đến mức “buồn lắm”; trong cô đơn chỉ còn biết gọi chị Hằng để dãi bày tâm sự. Ba tiếng “chị Hằng ơi!” rất biểu cảm, ý vị làm cho giọng thơ thiết tha thân mật. Câu thơ man mác sự buồn và chán. Tản Đà đã từng viết: “Đời đáng chán hay không đúng chán?”, nay thì đã “chán nửa rồi”. Bài thơ in trong tập “Khối tình con” xuất bản năm 1916, qua đó ta thấy rõ nguyên cớ sâu xa, buồn và chán vì trần thế, vì cuộc đời xấu xa, vì chế độ thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, thối nát, tù hãm. Vì công danh dở dang: “Tài cao, phận thấp, chí khí uất”. Buồn vì non nước đang bị ngoại bang thống trị “Lệ ai giàn giụa với giang san”. Đó là nỗi buồn của một thế hệ trong vòng nô lệ lầm than. Là một thi sĩ đa cảm, đa tình, nỗi buồn đã kết thành mối sầu:

“Nửa ngòi bút ngỗng bao sinh lụy,

Một mối tơ tầm mấy đoạn vương”.

(Đề khối tình con thứ nhất)

Một chữ “xin” rất chân thành thiết tha, như nài nỉ:

“Cung quế đã ngồi đó chửa

Cành đa xin chị nhắc lên chơi”

Hai câu thực đã làm rõ đề bài “Muốn làm thẳng Cuội” ở nơi cung trăng, cung quế. Câu hỏi tu từ gợi nhiều man mác bâng khuâng. “Cành đa” đã trở thành cái thang bắc lên chín tầng mây xanh để “chị nhắc lên chơi” cung quế. Đó là giấc mộng thoát li. Mộng vì chán đời, ngán đời. Mộng có tính phủ định:

“Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng,

Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán dời”

(Nhớ mộng)

Có lên được cung quế mới đỡ “tủi”, mới thỏa thích “thế mới vui”. Có chị Hằng làm bầu bạn. Có gió, có mây cùng chơi vơi. Điệp ngữ (có, cùng) và phép đối được vận dụng sáng tạo, có cả tiểu đối và bình đối. Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên giọng thơ nhún nhảy lâng lâng. Thấm đẫm vần thơ là chất phong tình lãng mạn. Đọc lên nghe rất thú vị:

“Có bầu, có bạn can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây thế mới vui”

Đúng như nhà phê bình văn học Lê Thanh trong cuốn ‘Tán Đủ thi sĩ” (1939) đã nhận xét: “Thơ của ông (Tán Đà) là chất thơ trong như lọc với những cảnh tượng không rõ rệt, những hình ảnh mờ mờ, ông vẽ những bức tranh tuyệt bút; với những tư tưởng lâng lâng, với những cảm giác mơ mộng, ông làm liên những câu thơ tuyệt mĩ…”.

Cái ngông, cái phong tình của thi sĩ đã dâng lên cực điểm. Đêm rằm tháng tám, là đêm Trung thu đẹp nhất. Chẳng còn buồn vì cô đơn nữa, thi sĩ được cùng chị Hằng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”. Cái cử chỉ “tựa nhau” và nụ cười ấy cũng là một giấc mộng đẹp. Thoáng một chút mỉa mai (cho trần thế) nhưng đầy thú vị vì được thoát li, được thỏa thích nơi cung quế:

“Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhan trông xuống thế gian cười”

Cái kết thoát li. Một cách nói phong tình, tài hoa. Có đọc bài thơ “Hầu Trời” mới thấy được, cảm được cái hay, cái thú vị của bài “Muốn làm thằng Cuội”. Nửa đêm, Tản Đà tỉnh dậy đun nước pha trà, rồi ngâm thơ… Trời nghe giọng ngâm bèn sai hai tiên nữ xuống cõi trần rước thi sĩ bay lên. Thi sĩ đọc thơ cho Trời và bầy tiên nghe. Tất cả đều tấm tắc khen:

“Văn đã giàu thay, lại lắm lối

Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!

Chư tiên ao ước tranh nhau luận

Anh gánh lên đây bán chợ Trời”.

(Hầu Trời)

Bài “Muốn làm thằng Cuội” là một bài thơ có thi đề độc đáo, thú vị. Giọng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát, chơi vơi. Trí tưởng tượng phong phú, kì diệu. Chất mộng áo, sắc màu lãng mạn thấm đẫm bài thơ.

Tuy có nói đến buồn, nói đến chán, có nói đến thoát li, có thấm vị phong tình… nhưng toàn bài thơ toát lên một tinh thần phú định thực tại xã hội thực dân nửa phong kiến xấu xa, khao khát được sống trong sạch hơn, thanh cao hơn, để mãi mãi giữ trọn thiên lương cao đẹp. Giá trị đích thực của bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” là ở đó.

Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Mẫu 9

Muốn làm thằng Cuội là một bài thơ nổi tiếng của Tản Đà trích từ tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây vẫn có chút Ngông của tác giả và lối thơ gian dị, dễ đi vào lòng người.

Đi vào phần nhan đề của bài thơ:” muốn làm thằng Cuội”, nhà thơ sử dụng một chất giọng suồng sã, rất tự nhiên như là đã thỏa mãn nói hết được lòng mình, cái thẳng thắn của nhà thơ cùng cái ” ngông”: thể hiện sự một ước muốn thực tế, không một chút che đậy. “Muốn làm cuội” tức là muốn thoát lên trời, muốn rời khỏi thế giới thực tại. Tưởng chừng mong muốn thật cao sa nhưng trong bài thơ nghe thật dễ dàng thành sự thật.

Bản chất nghệ sĩ vốn là đa tình và giàu trí tưởng tượng. Tản Đà có thêm cái ngông nghênh: muốn làm thằng Cuội, thằng chứ không phải một cách xưng hô nào khác, cách xưng hô ấy giản dị mà ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Bài thơ là mong muốn lên cung trăng của thi sĩ mộng mơ:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,

Trần thế em nay chán nửa rồi!

Chị Hằng vốn dĩ là tiên nữ ở cung trăng. Ngay từ đầu thi sĩ muốn làm thàng Cuội để có thể giãi bày lòng mình với tiên nữ xinh đẹp. Hai câu mở đầu tứ thơ như một lời than phát ra từ trần thế. Không dùng những hình ảnh, sự vật để diễn ta nỗi buồn, thi sĩ bộc bạch chính những cảm xúc chân thật. Hai chữ “buồn lắm” ngay đầu khổ thơ làm cho nỗi buồn miên man, dàn trải trong từ nỗi lòng đến từng câu chữ. Chúng ta thường gặp những nỗi buồn, cái buồn lan ra tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới “muốn làm thằng Cuội”. Nhưng có lẽ đó không phải là cái buồn vu vơ, không có căn cứ. Cái buồn ở đây chính là cái buồn đời, buồn chán cuộc sống thực tại, mọi thứ như quay cuồng đảo điên. Đó là trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến vào thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng thi sĩ chối bỏ thực tại, tìm về cõi tiên mà cái buồn đã trở thành nỗi buồn của thời đại. Không gian tù túng, u uất của một đất nước bị rơi vào tay giắc ngoại xâm bao chùm hết thảy, làm trĩu nặng lòng người. Sinh ra trăm ngàn vẻ buồn khác nhau được gửi gắm vào những vần thơ nhưng chúng đều xoay quanh thời đại, mang một nét chung là sự bế tắc và bất mãn trước cuộc đời.

Nỗi buồn và cái chán nản trần thế của Tản Đà có căn nguyên từ đó. Và thế là thi sĩ đi tìm cho mình một sự giải thoát bằng cách thoát li khỏi thực tại, sống trong một thế giới biệt lập, đó là thế giới thần tiên. Để rồi Tản Đà bật lên câu hỏi nghi vấn:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Bản chất thái độ “Ngông” của Tản đà là một cách ông dùng để đáp trả lại cuộc đời, sự thế hiện của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc của xã hội. Trong nội tâm mâu thuẫn của thi nhân, có lẽ ông phải là một nhà thơ si mê hương đời lắm để rồi khi đời không còn như trong những giấc mơ, nó trở nên tù túng thì sự bẩ mãn cũng theo đó mà dâng cao. Câu thơ thứ ba đặt ra một lời ướm hỏi kín đáo, sau đó là một lời đề nghị thẳng thắn mong muốn lên cung trăng của mình. Vả chăng, tác giả chẳng có một ai cùng sẽ chia và giải tỏa nỗi buồn newn phải tìm đến trăng làm bạn, chị Hằng làm tri kỉ:

Có bầu có bạn, cùng tri kỷ

Cùng gió cùng mây, thế mới vui.

Dù ngông, nhưng ông vẫn có cái lí của riêng mình, chính nỗi cô đơn, buồn bã khiến ông bật lên những lời thơ tràn đầy những mong muốn được xa lánh cuộc đời, lẩn tránh những rối ren ở cõi trần. Khát vọng lên cung trăng thực ra bộc lộ nỗi lòng đang chơi vơi mong muốn sự cảm thông, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Đến hai câu cuối, thi nhân còn vẽ ra một viễn cảnh trong tương lai:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Chất lãng mạn cùng cái ngông được bộc lộ rõ ở hai câu thơ cuối này. “Tựa nhau” như một sự gần gũi độc đáo của tác giả, ông đang ngồi trên cung trăng, bật lên tiếng cười trước cuộc đời đen tối, đó cũng là nụ cười hả hê của một kẻ sĩ đã thành công lánh đời, ông nhìn đời với cái khinh những đau khổ, những tăm tối của hiện thực.

Bài thơ bao chùm một cảm hứng thoát tục quen thuộc trong thơ cổ nhưng sự khác biệt, bài thơ pha chút ngông nghênh của thi sĩ. Vần thơ giản dị mà giàu sức gợi cùng cách biểu đạt độc đáo đã làm cho bài thơ có sức hút và lôi cuốn người đọc.

*****

Trên đây là 9 bài mẫu Cảm nhận của em về tâm trạng Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội lớp 9 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.

Đăng bởi: THCS Bình Chánh 

Chuyên mục: Học tập, Lớp 9

5/5 - (1 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *