Nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov) là ai?

Mời các em theo dõi nội dung bài học về Nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov) là ai? do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Mục lục

Nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov) là ai?

Chingiz Aitmatov (1928-2008) là một nhà văn, nhà văn học và chính trị gia người Kyrgyzstan. Ông được biết đến là một trong những nhà văn hàng đầu của Kyrgyzstan và đã viết nhiều tác phẩm văn học có ảnh hưởng lớn tới văn hóa và xã hội Kyrgyzstan và nhiều nước khác trên thế giới.

Nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov) là ai?
Nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov) là ai?

Ai-ma-tốp (1928 – 2008) là nhà văn Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ờ vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây.

– Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư- xtan. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông học Trường viết văn M. Goóc-ki ở Mát- xcơ-va. Sau khi tốt nghiệp (1959), Ai-ma-tốp làm phóng viên báo Sự thật thường trú tại Cư-rơ-gư-xtan.

– Tác phẩm đầu tiên khiến Ai-ma-tốp nổi tiếng là tập truyện Núi đồi và thảo nguyên (được tặng giải thưởng Lê-nin về văn học năm 1963).

– Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh, thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu.

– Nhiều tác phẩm của ông từ lâu đã rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Cây phong non trùm khăn đỏ, Người thầy đầu tiên, Con tàu trắng…

Tiểu sử của nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp

Chingiz Aitmatov sinh ra tại một ngôi làng ở Kyrgyzstan, trong một gia đình có truyền thống làm nông dân.

Aitmatov học tại trường trung học ở Bishkek và sau đó theo học tại Đại học Đông Âu tại Moscow. Ông đã trở thành một nhà văn nổi tiếng từ những năm 1950 và viết nhiều tác phẩm văn học có ảnh hưởng lớn đến văn hóa và xã hội Kyrgyzstan và nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Ngoài việc viết văn, Aitmatov cũng là một nhà hoạt động chính trị và là một trong những nhân vật quan trọng trong sự phát triển của Kyrgyzstan sau khi nước này giành độc lập vào những năm 1990. Ông đã giữ chức vụ Đại sứ Kyrgyzstan tại Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và Cộng hòa Pháp.

Aitmatov cũng đã được trao nhiều giải thưởng văn học quốc tế, trong đó có Giải thưởng Leninc (1963), Giải thưởng Nhà nước Liên bang Nga (1994) và Giải thưởng Quốc tế Hồ Chí Minh (2001).

Ông qua đời vào ngày 10 tháng 6 năm 2008 tại Đức, sau một cuộc đấu tranh dài với căn bệnh tim mạch. Aitmatov được tôn vinh là một trong những nhân vật lớn nhất của văn hóa Kyrgyzstan và là một trong những nhà văn có tầm ảnh hưởng nhất trong văn học thế giới.

Tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp

  • Mặt đối mặt (1955)
  • Kình địch (1957)
  • Giamilia (1958)
  • Mắt lạc đà (1960)
  • Cây phong non trùm khăn đỏ (1961)
  • Người thầy đầu tiên (1962)
  • Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963)
  • Vĩnh biệt Gyulsary (1966)
  • Con tàu trắng (1970)
  • Lên núi Phú Sĩ
  • Sếu đầu mùa (1975)
  • Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977)
  • Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980)
  • Đoạn đầu đài (1986)
  • Trò chuyện với Feyzolla Namdar (1998)

Nhà văn Ai mà-tốp đã từng nói: “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.”

Tiểu sử của nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp
Tiểu sử của nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp

Tác phẩm Người thầy đầu tiên của nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp

Tác phẩm “Người thầy đầu tiên” (tiếng Kyrgyz: “Жазууңун эң биринчи устазы”) là tác phẩm đầu tay của Chingiz Aitmatov. Được xuất bản năm 1952, đây là một câu chuyện ngắn kể về một thầy giáo trẻ tên Asan, người đã tới một ngôi làng xa xôi để giảng dạy cho các em học sinh nơi đó.

Tác phẩm này đã trở thành một trong những tác phẩm đầu tiên của văn học Kyrgyz được viết bằng tiếng Kyrgyz. Nó đã giúp Aitmatov đạt được danh tiếng và được đánh giá cao về mặt văn học. Tác phẩm này cũng đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ và được đọc rộng rãi trong văn học thế giới.

“Người thầy đầu tiên” miêu tả cuộc đời và những khó khăn của một giáo viên mới bắt đầu, đồng thời tôn vinh nghề giáo dục và những người làm nghề giáo dục. Câu chuyện tuy đơn giản nhưng sâu sắc, lôi cuốn người đọc vào thế giới tâm hồn của nhân vật chính và giúp đọc giả hiểu rõ hơn về văn hóa và truyền thống của Kyrgyzstan.

Hoàn cảnh sáng tác

Người thầy đầu tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của đại văn hào Aitmatov sáng tác năm 1962. Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.

Thể loại

Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu chuyện kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dài như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi đó tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó.

Bố cục

Văn bản Người thầy đầu tiên được chia thành 4 phần:

– Phần 1 (từ “Mùa thu năm ngoái” … “kể hết chuyện này”)

– Phần 2 (tiếp theo đến “rảo bước về làng”)

– Phần 3 (tiếp theo đến “nghe thầy Đuy-sen giảng bài”)

– Phần 4 (còn lại)

Tác phẩm Người thầy đầu tiên của nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp
Tác phẩm Người thầy đầu tiên của nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp

Tóm tắt

Nội dung truyện được đặt vào bối cảnh vùng quê hẻo lánh của Kyrgyzstan vào giữa những năm 20 thế kỉ trước. Thời đó, trình độ phát triển ở đây còn thấp, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường, trẻ mồ côi bị rẻ rúng.

Cô bé Altynai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Kurkureu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Dyuyshen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường, đã kịp thời cứu giúp, cho em đến trường học. Sau này Altynai trở thành nữ viện sĩ Altynai Xu-lai-ma-nô-va, còn thầy Dyuyshen về già đi đưa thư. Khi Altynai còn đang học ở trường làng, có hôm thầy Dyuyshen mang về trường hai cây phong non và bảo em: ”Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chờ chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt… Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này…”.

Giá trị nội dung

– Tác phẩm cho người đọc cảm nhận được niềm tin vào cuộc sống, đó là câu chuyện không chỉ của người thầy mà còn của người cha có tấm lòng cao cả.

– Người thầy đầu tiên đã thành công khắc học nên một câu chuyện tuyệt đẹp về tình thầy cũng như phản ánh được chế độ phong kiến lạc hậu với những quan niệm sai trái, không kém phần nặng nề.

Đặc sắc nghệ thuật

– Lựa chọn ngôi kể, người kể tạo nên hai mạch kể lồng ghép độc đáo.

– Sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm với ngòi bút đậm chất hội họa, truyền sự rung cảm đến người đọc.

– Nghệ thuật nhân hóa với những liên tưởng tác bạo đầy chất thơ tại nên sức hấp đẫn cho văn bản.

Tác phẩm Người thầy đầu tiên

Tác phẩm Người thầy đầu tiên
Tác phẩm Người thầy đầu tiên

Mùa thu năm ngoái tôi nhận được một bức điện từ làng tôi gửi đến. Bà con trong làng mời tôi vẽ dự buổi khánh thành ngôi trưởng mới do nông trường xây dựng. Tôi lập tức quyết định về làng, vì làm sao tôi có thể ngồi nhà trong một ngày vui của quê hương như thế được. Tôi còn vẻ trước vài ngày nữa là khác. Tôi định bụng vẻ sẽ dạo quanh, ngắm cảnh vả vẽ ít bức kí hoạ. Trong số những người được mời về dự hoá ra có cả bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va (Sulaimanova). Tôi nghe nói bảo vẻ đây một hai hôm rồi đi thẳng lên Mát-xcơ-va (Moskva)

[…] Thế là bả An-tu-nai Xu-lai-ma-nô-va ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Mát-xcơ-va lâu hơn dự định và viết:

“Tuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh… Nếu anh thấy điều tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh ng] xem làm thế nào cho mọi người cũng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bả con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cản biết câu chuyện này.” [….]

Tôi đã mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bả An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va để kể hết chuyện này.

[….] Có lần, những túi đựng đầy ki – giắc nhặt ở chân núi mé bên làng trở về chúng tôi vòng vào trường xem thử thầy giáo đang làm gì ở đây.

[…] Lúc chúng tôi đặt các bao ki-giắc xuống đất để nghỉ một lát, Ðuy-sen từ trong cửa bước ra, người bê bết đất. Trông thấy chúng tôi, anh ngân người ra một lát, nhưng rồi lại núm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt

– Đi đâu về thể các em gái?

Chúng tôi ngồi cạnh những bao ki-giắc then thò nhìn nhau, Đuy-sen hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bến lến nên nháy mắt động viên:

– Những cải bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thủ có thể nói là đã xong đến nơi rồi. Thầy vừa đắp lò sưởi ở góc nhà vả bắc cả ống khói trên mái, các em thử nhìn xem! Giờ chỉ còn phải trữ sẵn củi để sưởi trong mùa đông nữa thôi nhưng không sao, chung quanh thiêu gi củi khô. Dưới nên nhà ta sẽ trải rơm thật nhiều, thể là có thể bắt đầu học được rồi. Thẻ bảo, các em thích học không, các em sẽ đi học chứ?

Tôi lớn hơn các bạn gái khác nên đánh bạo trả lời

– Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi

– Sao thím em lại không cho, thế nào cũng cho chứ. Vậy tên em là gì?

– An-tư-nai – Tôi vừa đáp vừa lấy tay che chỗ gấu váy thủng hở một mảng đầu gối

– An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không? – Ðuy-sen mỉm cười hiền từ khiến tôi thấy lòng ấm hẳn lại

– Thế em con ai?

Tôi lặng thinh tôi vốn không thích có ai thương hại tôi:

– Chị ấy mồ côi ạ, chị ấy ở với chú thím. – Mấy đứa bạn tôi đỡ lời.

– Thế này nhé – Đuy-sen lại mỉm cười nói với tôi – An-tơ-nai ạ, em sẽ dẫn các em khác đi học được chứ?

– Thưa chú được ạ

– Các em cứ gọi thầy là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, đừng ngại gì cả

– Không, chúng em phải về nhà đây. – Chúng tôi rụt rè nói.

– Thôi được, các em chạy về nhà đi. Khi nào đến học các em sẽ xem sau vậy. Giờ chưa tối, thầy đi lấy rạ khô lần nữa đã.

Cầm lấy chiếc liêm và sợi dây, Ðuy-sen bước ra đông. Chúng tôi cũng đứng dậy cống những bao ki-giắc lên lưng và rảo bước về làng, [… ]

Tiết trời đã sắp sang đông

Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học, chúng tôi phải lội qua một con suôi lòng đá chảy róc rách dưới chân đôi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khô nhất là những em nhỏ, thậm chỉ chúng phải phát khỏe lên. Những lúc ấy, thấy Ðuy-sen đã bè Lưng thì cõng, tay thì bẻ và cứ như thể thay lần lượt đưa hết các em sang, quan tâm, chăm sóc các học trò của thầy Đuy-sen.

Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, tôi thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thật. Những lúc bảy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuy-sen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên lưng những con ngựa hung dữ no căng, giương mắt nhìn thầy Đuy-sen rồi bỏ đi. Một tên trong bọn cười nắc lên và huých tay tên đi bên cạnh nói:

– Đứa thì cõng, đứa thì bề, trông đã hay chưa!

[…] Rồi họ quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung toé lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.

Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm.”

Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi?

Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trảo lên, nóng hỏi. Còn thầy Đuy-sen thì đường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui não đỏ khiến lũ chúng tỏi phá lên cười, quên mắt mọi sự.

Thầy Đuy-sen có cố gắng bao nhiêu cũng chưa kiểm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường vẻ, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuy-sen dừng lại bên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cổ đắp thành các u nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.

Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng được thầy Đuy-sen làm thế nào chịu nổi – vì thầy đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chửng như dòng suối rải đây than hồng – nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa vả từ từ ngã xuống nước. Thầy Đuy-sen lẳng tảng đá đi, nhảy ngày lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bể tôi chạy lên bờ vả lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đấy. Thảy hết xoa hai chân đã tìm bằm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ám cho tôi.

Thầy Đuy-sen khẽ nói:

– An-tư-nai, em ngồi đây cho âm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ.

Cuối cùng khi những chỗ đặt chân xếp đã xong. Ðuy-sen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi

~ Thê này, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choảng lên, thẻ… thẻ! =

‘Thây yên lặng một lát rồi hỏi:

– An-tư-nai, lần ấy có phải em trút lại ki-giắc ở trường không?

– Vâng ạ. – Tôi đáp

Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: Mình đoán đúng mà!”

Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thây đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi và Đuy-sen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi

– Dòng suối trong trẻo của thầy – thầy âu yếm nhìn tôi nói – em thông minh lắm Ôi, ước gì thấy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.

Đuy-sen bước nhanh lên bờ.

Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bây giờ thầy đã đứng giữa dòng suối đá đang réo lên cảm âm, hai tay đề sau gáy và đôi mắt sáng long lanh đăm đắm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thỏi cuồn qua các ngọn núi.

Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuy-sen. Tôi thầm nghĩ: “Ước gì thấy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bà cô thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thây những lời đẹp để nhât! Trời ơi, ước gì thầy Đuy-sen là anh ruột tôi!”

Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vi tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những tóc mơ của thì tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những. điều ấy. Còn cỏ cải gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những côn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyên đến trường. không ai phải xua chúng tôi đền cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo. Tuy ngôi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xóa cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đảnh ngồi tại chỗ nghe thầy Đuy-sen giảng bài.

[..] Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần tôi nhìn kỹ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công. Những bức vẽ ấy đã nhiều lẫn vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói vẻ toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính… Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ.

Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn vẻ tác phẩm đở đang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi đành cho Người thầy đầu tiên của làng chúng tôi. […] Tôi không thể không vẽ bức tranh nảy, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: Tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ái! Lại cỏ khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi đời sống tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: Hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuy-sen và An-tư-nai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, đa rắm năng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kỳ ảo.

Hay là vẽ bức tranh để là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuy-sen bế trẻ con qua con suối và cạnh đây, trên những con ngựa no nê hung đữ, những con người đần độn, mũ lông cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông.

Nếu không, thì hãy về người thầy giáo tiễn An-tư-nai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi An-tư-nai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đuy-sen mà đến nay An-tư-nai vẫn còn nghe vắng lại, sẽ vang đội mãi trong lòng mỗi người.

***

Trên đây là nội dung bài học Nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov) là ai? do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (9 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *