Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ (70 Mẫu)

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ bao gồm dàn ý chi tiết cùng 70 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học sinh lớp 7 có thêm nhiều gợi ý mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ
Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ

Mục lục

Dàn ý Viết đoạn văn khoảng 200 chữ chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ

– Mở đoạn: Giới thiệu nhan đề bài thơ, tên tác giả và nêu cảm xúc chung về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em đã chọn.

– Thân đoạn: Trình bày chi tiết các ý thể hiện cảm xúc của em về bài thơ.

– Kết đoạn: Khẳng định lại cảm xúc về bài thơ và ý nghĩa của nó đối với bản thân.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 1

Đồng dao mùa xuân là một bài thơ đã phác họa chân dung người lính rất gần gũi và chân thực. Họ là người anh hùng gan dạ, sẵn sàng hi sinh tuổi xuân của mình để bảo vệ độc lập tổ quốc. Nhưng ở họ cũng có những nét rất đời thường. Bởi các anh cũng là những chàng trai mới lớn, chưa một lần yêu ai, vẫn còn mê thả diều, chưa dám uống cốc cà phê đắng ngắt. Cách miêu tả ấy của nhà văn giúp em thêm yêu mến và ngưỡng mộ sự hi sinh to lớn của các anh. Đồng thời cũng càng thêm đau xót, thương tiếc vô cùng trước sự ra khi còn quá trẻ ấy. Mùa xuân của các anh đã thắp nên mùa xuân của đất nước. Sự hi sinh vĩ đại ấy, chúng em sẽ mãi khắc ghi trong lòng, và cố gắng học tập, rèn luyện sao cho xứng đáng với công lao của các anh.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 2

Bài thơ bốn chữ Đồng dao mùa xuân của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mà em vô cùng ấn tượng. Bài thơ như một câu chuyện kể về cuộc đời của một người lính trẻ. Với bao hi vọng về tương lai và một tâm hồn trẻ tuổi, còn mê thả diều, sợ cà phê đắng, anh ra chiến trường. Gác lại mọi thứ ở sau lưng, anh chiến đấu kiên cường rồi hi sinh anh dũng. Anh ra đi khiến bao người tiếc thương, đau khổ, nhưng sự ra đi ấy không phải là dấu chấm hết. Anh hóa thành ngọn lửa, thành nhiệt huyết cho những người đồng đội cùng mang theo tiếp tục chiến đấu. Anh hóa thành mùa xuân cho cánh rừng, cho làng quê, cho tổ quốc. Dù bao nhiêu năm tháng trôi qua, nhân dân vẫn luôn yêu quý và kính trọng anh, luôn nhớ đến công lao to lớn của anh – người bộ đội cụ Hồ. Chính nhờ có các anh, mà đất nước mới có mùa xuân như hôm nay. Chắc chắn, mùa xuân ấy sẽ kéo dài và xuân mãi, trường tồn với thời gian.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 3

Bài thơ bốn chữ Đồng dao mùa xuân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã kể về những người lính bộ đội cụ Hồ, với một góc nhìn khác. Qua bài thơ, em nhìn thấy những chàng thanh niên trẻ đang độ tuổi đẹp nhất, với tâm hồn trẻ con. Tuy vẫn còn ham chơi, còn sợ đắng nhưng họ lại có một trái tim dũng cảm, quyết hi sinh tuổi xuân của mình vì mùa xuân của đất nước. Những chàng lính ấy, có người trở về quê hương, nhưng cũng có người phải mãi mãi nằm lại trên chiến trường. Sự hi sinh ấy khiến em vô cùng đau lòng và thương tiếc. Các anh ra đi nhưng không hề biến mất, mà chắc chắn sẽ còn mãi trên vai những người đồng đội, trong trái tim của nhân dân, của mẹ Việt Nam. Ngày hôm nay, chúng em càng thêm quyết tâm học tập và rèn luyện để tiếp bước các anh xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Để mùa xuân mà các anh đã dành lại từ kẻ thù sẽ ngày càng xuân hơn.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 4

Bài thơ Đồng dao mùa xuân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ đã để lại cho em rất nhiều những cảm xúc khó tả. Trong bài thơ em gặp được hình ảnh những người lính bộ đội Cụ Hồ mà mình vẫn luôn kính trọng. Họ vẫn hiện lên mạnh mẽ, kiên cường và vĩ đại như thế. Nhưng bên cạnh đó, em còn được nhìn thấy họ ở một khía cạnh khác. Em hiểu được những người lính trẻ ấy cũng chỉ là những cậu thanh niên còn rất trẻ, chưa dám uống cà phê, chưa một lần yêu ai, vẫn còn mê thả diều. Chính vì vậy, sự ra đi của các anh khiến em càng thêm thương tiếc. Suốt những năm tháng qua, những người đồng đội và toàn thể nhân dân ta vẫn luôn nhớ đến các anh. Nhờ các anh hi sinh mùa xuân của đời mình mà mùa xuân của đất nước đã được thắp lên. Chính bài thơ Đồng dao mùa xuân đã giúp em thêm thấu hiểu và kính trọng những con người vĩ đại ấy, và càng thêm quý trọng độc lập tự do mà mình đang được sống ngày hôm nay.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 5

Bài thơ Đồng dao mùa xuân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ gây ấn tượng mạnh với em về hình tượng người lính. Người lính trong bài thơ vẫn là người lính dũng cảm, chiến đấu kiên cường vì độc lập của tổ quốc. Nhưng cùng với đó, em được thấy một mặt “trẻ con” hơn, “đời thường” hơn của những người anh hùng ấy. Các anh cũng mê trò thả diều, cũng sợ vị đắng chát của cà phê. Chao ôi, ấy thế mà khi tổ quốc gọi tên, các anh đã dũng cảm gác lại tất cả để ra chiến trường. Các anh hi sinh tuổi xuân của mình trong những năm tháng ác liệt ấy, để thắp nên mùa xuân cho quê hương. Em vô cùng đau lòng và thương tiếc trước sự ra đi của các anh. Đồng thời càng thêm kính trọng và biết ơn những người lính trẻ ấy. Chắc chắn, em sẽ tiếp bước các anh, dựng xây quê hương ngày càng phát triển hơn nữa.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 6

Đọc bài thơ “Đồng dao mùa xuân” của Nguyễn Khoa Điềm, em lại càng thêm yêu mến những người lính – bộ đội cụ Hồ – những người đã bảo vệ non sông gấm vóc của dân tộc. Hình ảnh anh lính với tuổi xuân xanh “chưa một lần yêu” nhưng quyết tâm “đi vào rừng xanh” trong những năm tháng khói lửa đã làm chúng ta thêm cảm phục bởi lí tưởng sống cao đẹp. Trong khó khăn gian khổ của cuộc chiến, bị căn bệnh sốt rét hành hạ, người lính trẻ vẫn luôn nở nụ cười trên môi. Anh hi sinh nơi núi rừng Trường Sơn nhưng mãi được đồng đội, nhân dân thương nhớ. Những hình ảnh hào hùng mà cũng giản dị của anh “Ba lô con cóc/Tấm áo màu xanh” còn in mãi trong tâm trí nhân gian. Với hình ảnh thơ gần gũi cùng cách gieo vần chân, nhà thơ đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lính cụ Hồ. Bằng các biện pháp so sánh “mắt như suối biếc”, điệp từ “anh không về nữa” đã góp phần bày tỏ tình cảm, tấm lòng biết ơn của đồng đội, của nhân dân. Bài thơ là khúc đồng dao về tuổi trẻ nhiệt huyết, về sự bất tử của những người lính – những người đã góp phần tạo nên Việt Nam hòa bình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 7

Bài thơ “Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh đã để lại trong em nhiều cảm nhận sâu sắc về tình bà cháu. Từ tiếng gà trưa nghe được được trên bước đường hành quân “Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục… cục tác cục ta” đã khơi dậy dòng cảm xúc trong lòng người cháu. Nghe tiếng kêu thân thuộc ấy, lòng cháu lại thổn thức, bồi hồi, nhớ về kỉ niệm tuổi thơ tươi đẹp bên bà. Cháu nhớ tới những hình ảnh thân thuộc, bình dị ở làng quê Việt Nam “Ổ rơm hồng những trứng/ Này con gà mái mơ…”. Cháu nhớ tới người bà tần tảo, chắt chiu từng quả trứng “Cho con gà mái ấp”. Cháu còn nhớ những tháng ngày sống trong tình yêu thương của bà. Bà cần mẫn chăm sóc đàn gà nhỏ để cháu được mặc bộ quần áo mới “Khi gió mùa đông tới/ Bà lo đàn gà toi/ Mong trời đừng sương muối/ Để cuối năm bán gà”. Cảm nhận được tình thương bao la, thắm thiết mà bà dành cho cháu, cháu vẫn luôn vững lòng chiến đấu nơi chiến trường khói lửa. Tình yêu cháu dành cho bà như hòa cùng tình yêu quê hương đất nước, là động lực để cháu tiến bước về phía trước “Vì lòng yêu Tổ quốc/ Vì xóm làng thân thuộc/ Bà ơi, cũng vì bà/ Vì tiếng gà cục tác”. Bằng biện pháp điệp ngữ “tiếng gà trưa”, so sánh “Lông óng như màu nắng” cùng thể thơ năm chữ ngắn gọn đã mang đến những kỉ niệm đẹp về tuổi thơ và tình bà cháu. Bài thơ mãi để lại đấu ấn trong lòng bạn đọc bởi những hình ảnh giản dị, thân thuộc cùng tình cảm bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước thiêng liêng, cao cả.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 8

Đọc bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, em lại càng thêm trân trọng tình cảm bà cháu thắm thiết, sâu đậm. Trên bước đường hành quân, cháu nghe được tiếng gà trưa từ xóm nhỏ “Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục… cục tác cục ta”. Và lòng cháu lại dâng lên niềm xúc động, thao thức khi nhớ về tuổi thơ bên những ổ trứng hồng, nhớ về những tháng ngày sống cùng bà. Tiếng gà “Cục… cục tác cục ta” đã xua tan những bước chân mệt nhọc, gian khổ khi làm nhiệm vụ và đưa cháu trở về kỉ niệm tuổi thơ. Miên man hồi tưởng theo tiếng gà trưa, cháu nhớ hình ảnh con gà mái mơ “Khắp mình hoa đốm trắng”, con gà mái vàng “Lông óng như màu nắng” mang đến một ổ trứng hồng. Nổi bật trên những hình ảnh đẹp đẽ, bình dị ấy, cháu thấy đôi tay bà cần mẫn, tần tảo chăm chút từng quả trứng. Đó còn là ngày đông giá rét, bà chăm sóc, nuôi nấng đàn gà cẩn thận để “Cháu được quần áo mới/ Ôi cái quần chéo go/ Ống rộng dài quét đất…” Tất cả sự dịu dàng, yêu thương, bà dành hết cho cháu. Và tình yêu ấy mãi in sâu trong kí ức của cháu, theo cháu trên mọi nẻo đường xa xôi. Tình yêu của cháu dành cho bà như hòa vào tình yêu lớn lao trước non sông đất nước, là động lực để cháu vững tay súng chiến đấu. Những câu thơ năm chữ ngắn gọn kết hợp với hình ảnh gần gũi, các biện pháp tu từ so sánh “lông óng như màu nắng”, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục… cục tác cục ta/ Nghe xao động nắng trưa…” mang đến hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam cùng tình cảm bà cháu sâu nặng. Bài thơ “Tiếng gà trưa” đã khắc họa nên những kí ức đẹp của tuổi thơ và tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước tha thiết.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 9

“Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng về tình bà cháu. Trong hoàn cảnh đặc biệt, người cháu đang “trên đường hành quân xa”, nghe thấy tiếng gà trưa “Cục… cục tác cục ta” mà nhớ về tuổi thơ sống bên bà. Tiếng gà nhảy ổ như phá vỡ sự yên bình của nắng trưa và tâm hồn cháu, làm lòng cháu thêm xao động, bồi hồi “Nghe bàn chân đỡ mỏi/ Nghe gọi về tuổi thơ”. Xuôi dòng kí ức, tiếng gà trưa gợi nên hình ảnh ổ rơm hồng của con gà mái mơ “Khắp mình hoa đốm trắng”. Hình ảnh đẹp đẽ, quen thuộc ấy là hình ảnh gắn liền với tuổi thơ cháu được bên bà. Cháu nhớ tới bóng dáng người bà hiền từ, chắt chiu, dành dụm từ quả trứng để con gà mái ấp. Đó còn là những giây phút bà chăm sóc đàn gà trong thời tiết khắc nghiệt “Khi gió mùa đông tới/ Bà lo đàn gà toi/ Mong trời đừng sương muối/ Để cuối năm bán gà” để có thể mua cho cháu bộ đồ mới. Bà như người mẹ dạy bảo, nuôi dưỡng cháu trong suốt quãng thời gian ấu thơ. Bà dành tất cả tình yêu thương, chăm sóc cho người cháu bé bỏng của mình. Để rồi, hình bóng bà luôn song hành cùng non sông, đất nước trên con đường cháu đi, trở thành điểm tựa tinh thần để cháu chiến đấu. Những lời thơ giàu cảm xúc, hình ảnh thơ gần gũi cùng các biện pháp điệp ngữ “tiếng gà trưa”, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục… cục tác cục ta/ Nghe xao động nắng trưa…” góp phần khắc họa tình cảm bà cháu thắm thiết, sâu nặng. Qua đó, bài thơ đã khơi gợi trong ta những tình cảm thiêng liêng trong cuộc đời mỗi người – tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 10

Một bài thơ năm chữ mà em rất yêu thích là bài thơ Bắt nạt của nhà thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh. Bài thơ với giọng điệu của một cậu học sinh vừa hồn nhiên lại dũng cảm, đã giúp đề tài bài thơ bớt phần căng thẳng. Cậu bé trong bài thơ đã mạnh dạn đứng lên, đối diện với những “kẻ bắt nạt”. Nói cho những kẻ đó bắt nạt là xấu lắm, là không nên chút nào. Cậu còn khuyên nhủ các bạn ấy hãy tìm những việc có ý nghĩa khác để làm. Nếu không thì cứ đến gặp mình, đừng bắt nạt bạn nhỏ yếu đuối. Tinh thần trượng nghĩa ấy khiến em rất ngưỡng mộ và khâm phục bạn nhỏ. Cuối bài thơ, bạn nhỏ khẳng định rằng “bắt nạt rất hôi”. Chính chi tiết đó đã làm cho bài thơ kết thúc nhẹ nhàng, vui vẻ và rất ấn tượng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 11

Nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, em vô cùng ấn tượng trước sáng tác “Mẹ và quả” của ông. Đây quả là một tác phẩm hay và sâu sắc khi viết về tình mẫu tử cao đẹp, thiêng liêng, sâu nặng. Trong toàn bộ văn bản, điều khiến em yêu thích nhất chính là khổ cuối cùng: “Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/ Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái/ Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh”. Ở hai dòng thơ đầu: “Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/ Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái”, tác giả đã đem đến cho em những cảm nhận về sự trân trọng, biết ơn của người con dành cho mẹ. Nhân vật trữ tình coi mình như một loại quả. Thứ quả ấy lớn lên nhờ tình yêu thương, chăm sóc, chở che của mẹ. “Bảy mươi tuổi” chính là cột mốc quan trọng của đời người. Mẹ đã đi quá nửa cuộc đời, đã trở nên già yếu. Đây cũng là lúc mẹ mong chờ được “hái” loại quả mà mình thương yêu nhất. Mẹ muốn nhìn thấy các con khôn lớn, trưởng thành. Đặc biệt, em vô cùng ấn tượng trước tình cảm chân thành, da diết của người con ở hai dòng cuối cùng: “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh”. Câu thơ ấy khơi gợi sự xúc động, sâu lắng trong lòng người đọc bởi tình cảm và tấm lòng hiếu thảo của nhà thơ. Với biện pháp hoán dụ, lấy hình ảnh “bàn tay mẹ mỏi”, tác giả muốn diễn tả sự già yếu của mẹ. Tiếp đó là biện pháp ẩn dụ “mình vẫn còn một thứ quả non xanh?”, đối lập với tuổi cao, sức yếu của mẹ là sự non nớt, chưa trưởng thành của con. Con lo sợ mẹ già rồi mà mình vẫn còn vụng dại, chưa kịp trưởng thành, lớn khôn. Như vậy, bằng các biện pháp tu từ độc đáo như ẩn dụ, hoán dụ, tác giả đã diễn tả được tình cảm sâu nặng dành cho người mẹ kính yêu. Từ đây, em càng thêm trân trọng, yêu thương mẹ của mình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 12

Với tác phẩm “Mẹ và quả”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho độc giả rất nhiều xúc cảm. Bằng việc sử dụng những hình ảnh giản dị, thân thuộc cùng giọng điệu đằm thắm, sâu lắng, nhà thơ đã tái hiện lại bức chân dung người mẹ tảo tần, lam lũ. Một tay mẹ nuôi lớn đàn con thơ, chăm lo cho những mùa quả “lặn rồi lại mọc”. Hai câu thơ: “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/Còn bí và bầu thì lớn xuống” đã sử dụng rất thành công biện pháp đối lập. Nhờ sự nuôi dưỡng của mẹ, những đứa con trở nên ngày một cao lớn, trong khi những quả bí, quả bầu lại dần trĩu nặng, chạm xuống mặt đất. Với hình dáng “giọt mồ hôi mặn”, những thứ quả đó đã nói lên sự vất vả, cực nhọc mà người mẹ phải trải qua. Tuy nhiên, “thứ quả” mẹ mong muốn được hái nhất lại là các con: “Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái”. Bao công sức, hi sinh đều chỉ để đổi lại sự trưởng thành, khôn lớn của con. Nhìn bóng lưng mẹ ngày một còng xuống, số tuổi thì ngày càng cao lên, người con khéo léo bày tỏ nỗi sợ trong lòng: “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/Mình vẫn còn một thứ quả non xanh”. Nhân vật trữ tình giật mình thảng thốt, lo lắng rằng đến khi mình “chín” thì mẹ lại không còn ở bên. Qua tác phẩm, ta thấy được tình cảm và sự hi sinh cao cả của mẹ cũng như sự biết ơn sâu sắc của những đứa con với đấng sinh thành.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 13

“Gặp lá cơm nếp” của Thanh Thảo là bài thơ viết về tình cảm, nỗi nhớ thương của người con tới mẹ. Hình ảnh người con đi hành quân và “xa nhà đã mấy năm”, bắt gặp lá cơm nếp nên nghĩ về bát xôi mùa gặt vấn vương nơi làn khói đã khơi gợi nhớ thương về người mẹ già. Hình ảnh người mẹ dần xuất hiện sống động trong ký ức của con. Đó là người mẹ hiền từ, chịu thương chịu khó trong những buổi chiều “nhặt lá về đun bếp”. Đó còn là hình ảnh mẹ đảm đang nhóm bếp nấu những bữa cơm gia đình. Những tình cảm nhớ thương ấy càng thêm xúc động khi con thèm cái “mùi vị quê hương”. Mùi vị ấy đã theo con trong suốt những năm tháng bé bỏng được mẹ che chở và nuôi lớn. Người con sẽ mãi dành cho mẹ tình yêu sâu sắc, thiêng liêng như tình yêu với Tổ quốc “Mẹ già và đất nước/ Chia đều nỗi nhớ thương”. Hình ảnh mẹ già sẽ mãi song hành cùng đất nước, là điểm tựa để con tiến về phía trước. Với những hình ảnh thơ gần gũi, nhịp điệu thơ linh hoạt và thể thơ năm chữ ngắn gọn đã mang đến cho người đọc những cảm xúc về tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Bài thơ không chỉ khắc họa nỗi nhớ của người con tới mẹ mà khẳng định tình cảm gia đình đáng quý và tình yêu quê hương, đất nước mà mỗi người cần trân trọng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 14

Bài thơ Gặp lá cơm nếp của nhà thơ Thanh Thảo là một tác phẩm thơ tự sự rất hay và ý nghĩa. Bài thơ là dòng suy tư, hồi ức của người lính trẻ khi đang ở tận rừng Trường Sơn. Giữa không khí chiến trận khốc liệt, một chiếc lá cơm nếp xuất hiện, đã trở thành chìa khóa mở ra vùng kí ức ngọt ngào trong anh. Đó là những ngày tháng anh ở quê nhà, được cùng mẹ ăn những nắm xôi nếp thơm bùi, ngọt dẻo. Anh nhớ mãi dáng mẹ tần tảo sớm hôm, nuôi dạy anh nên người. Chính vì thế, anh càng thêm vững tay súng, chắc bước chân để bảo vệ vùng trời bình yên có người mẹ đang chờ anh trở về. Anh yêu mẹ, yêu nhà nên càng yêu đất nước. Tình yêu cao cả ấy đã làm nên người lính cụ Hồ vĩ đại mà em luôn kính trọng và nể phục.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 15

Gặp lá cơm nếp là một bài thơ năm chữ rất hay của nhà thơ Thanh Thảo. Bài thơ đã khắc họa được dòng cảm xúc của người lính bộ đội cụ Hồ rất sâu sắc và cảm động. Trên đường hành quân ở một nơi xa xôi, người lính đã bắt gặp một hình dáng quen thuộc – chiếc lá cơm nếp. Chiếc lá ấy đã khiến anh nhớ về bao kỉ niệm đẹp bên nắm xôi nếp. Đó chính là những kỉ niệm đẹp đẽ bên người mẹ tần tảo, luôn yêu thương, chịu khó và hi sinh vì con cái. Những hình ảnh ấy, anh ghi khắc trong tim, không bao giờ quên. Chúng là hành trang cũng là cội nguồn của sức mạnh cho anh chiến đấu mỗi ngày. Tình yêu mẹ, yêu quê hương to lớn ấy của người lính khiến em vô cùng xúc động và ngưỡng mộ.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 16

Gặp lá cơm nếp là một bài thơ năm chữ rất hay và đặc biệt của nhà thơ Thanh Thảo. Bài thơ là dòng hồi ức của chàng lính khi tình cờ gặp lại hình ảnh quen thuộc – chiếc lá cơm nếp ở một nơi xa. Chiếc lá ấy trở thành cầu nối, dẫn anh nhớ về những kỉ niệm bên mẹ ở quê nhà. Anh nhớ hình dáng mẹ nhặt lá đun bếp, thổi nên những nồi cơm nếp thơm dẻo suốt tuổi thơ. Cái mùi vị quen thuộc ấy anh không sao quên được, cũng như anh chẳng bao giờ quen được hình dáng yêu thương của mẹ, tình yêu và sự chở che của mẹ. Chính điều đó tiếp thêm cho anh sức mạnh và sự kiên cường để chiến đấu nơi rừng Trường Sơn, để bảo vệ mẹ, bảo vệ quê hương, đất nước. Tấm lòng hiếu thảo, đầy tình yêu thương ấy của người lính trẻ khiến em vô cùng xúc động và kính phục.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 17

Nhà thơ Thanh Thảo đã viết về nỗi nhớ thương của người con tới mẹ hết sức cảm xúc qua bài thơ “Gặp lá cơm nếp”. Trong hoàn cảnh đặc biệt, người con “xa nhà đã lâu năm” đang trên đường hành quân thì nhìn thấy chiếc lá cơm nếp. Từ chiếc lá quen thuộc ấy, người con lại thao thức nhớ đến “bát xôi mùa gặt” mẹ làm. Tuy rời xa vòng tay chăm sóc, yêu thương của mẹ nhưng sâu trong trái tim và tiềm thức người con, hình bóng mẹ vẫn luôn hiện hữu. Trong ký ức con, mẹ luôn là người đảm đang, chất phác, chắt chiu khi “nhặt lá về đun bếp” để nấu những bữa cơm ấm nóng, thơm ngon cho gia đình. Mỗi giây phút nhớ về mẹ, con lại thấy trào dâng cảm xúc với “dư vị quê hương” – ngọn nguồn nâng đỡ tuổi thơ con lớn lên. Con sẽ mãi chẳng quên hương vị của khói bếp đun, của xôi nếp mẹ nấu. Và chính nhờ tình yêu quê hương, yêu mẹ, con lại càng thêm yêu đất nước “Mẹ già và đất nước. Chia đều nỗi nhớ thương”. Hình ảnh người mẹ và đất nước trở nên gắn bó trong mối quan hệ mật thiết. Tình yêu gia đình đã hòa vào tình yêu đất nước. Tình cảm thiêng liêng dành cho mẹ, cho cội nguồn, cho non sông vẫn sẽ theo con trong suốt hành trình của cuộc đời, là động lực tiếp bước để con vượt qua khó khăn và gian khổ. Những cảm xúc đẹp đẽ được khơi gợi trong tâm hồn bạn đọc còn được nhân lên từ nét đặc sắc trong nghệ thuật của bài thơ. Nhịp điệu thơ linh hoạt, thể thơ năm chữ ngắn gọn, cách gieo vần chân quen thuộc cùng ngôn ngữ mộc mạc mang đến cho tác phẩm giọng điệu chân thành, da diết của một tấm lòng tràn đầy yêu thương. Bài thơ đã khơi gợi và in sâu trong lòng bạn đọc tình cảm gia đình thiêng liêng và tình yêu quê hương đất nước.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 18

Bài thơ “Gặp lá cơm nếp” của nhà thơ Thanh Thảo đã thể hiện tình cảm yêu thương, kính mến cùng nỗi nhớ thương của người con tới mẹ của mình. Mở đầu bài thơ, ta thấy được hoàn cảnh gợi nhắc người con nhớ về mẹ hết sức đặc biệt. Người con xa mẹ, xa quê hương, xa bát cơm mùa gặt đã “mấy năm” rồi. Ngày hôm nay, khi “thèm” cái hương vị của xôi nếp, lòng con lại thêm bồi hồi nhớ về hình bóng mẹ già nơi chôn rau cắt rốn. Trong ký ức của con, mẹ vẫn dịu dàng, đảm đang với đôi bàn tay cần mẫn. Mỗi chiều đến, mẹ vẫn thường “nhặt lá về đun bếp” để bếp hồng luôn bập bùng khói lửa, luôn thơm mùi cơm nếp. Và rồi, chính những bữa cơm nếp thân quen ấy đã làm thơm những nẻo đường mà con đi. Giây phút trào dâng nỗi nhớ về mẹ, người con lại thấy tháo thức trong lòng mùi vị quê hương giản dị, lại thêm yêu thương người mẹ già như tình yêu với cội nguồn, với đất nước “Mẹ già và đất nước. Chia đều nỗi nhớ thương”. Mẹ cũng giống như non sông tổ quốc, là người nuôi dưỡng và che chở con từng ngày. Tình yêu của con dành cho mẹ đã hòa cùng tình yêu non sông đất nước, tạo nên sức mạnh để con vượt qua khó khăn. Với những đặc sắc trong nghệ thuật như ngôn từ mộc mạc, hình ảnh gần gũi, nhịp điệu thơ linh hoạt đã mang đến cho người đọc những cảm xúc dạt dào về tình yêu mẹ, yêu cội nguồn, yêu đất nước thiêng liêng mà sâu sắc. Và nhà thơ Thanh Thảo không chỉ khắc họa nỗi nhớ của người con dành cho mẹ mà thay lời bạn đọc cảm ơn tới tấm lòng bao la của người mẹ hiền.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 19

Nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, em vô cùng ấn tượng trước sáng tác “Mẹ và quả” của ông. Đây quả là một tác phẩm hay và sâu sắc khi viết về tình mẫu tử cao đẹp, thiêng liêng, sâu nặng. Trong toàn bộ văn bản, điều khiến em yêu thích nhất chính là khổ cuối cùng: “Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/ Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái/ Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh”. Ở hai dòng thơ đầu: “Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/ Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái”, tác giả đã đem đến cho em những cảm nhận về sự trân trọng, biết ơn của người con dành cho mẹ. Nhân vật trữ tình coi mình như một loại quả. Thứ quả ấy lớn lên nhờ tình yêu thương, chăm sóc, chở che của mẹ. “Bảy mươi tuổi” chính là cột mốc quan trọng của đời người. Mẹ đã đi quá nửa cuộc đời, đã trở nên già yếu. Đây cũng là lúc mẹ mong chờ được “hái” loại quả mà mình thương yêu nhất. Mẹ muốn nhìn thấy các con khôn lớn, trưởng thành. Đặc biệt, em vô cùng ấn tượng trước tình cảm chân thành, da diết của người con ở hai dòng cuối cùng: “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh”. Câu thơ ấy khơi gợi sự xúc động, sâu lắng trong lòng người đọc bởi tình cảm và tấm lòng hiếu thảo của nhà thơ. Với biện pháp hoán dụ, lấy hình ảnh “bàn tay mẹ mỏi”, tác giả muốn diễn tả sự già yếu của mẹ. Tiếp đó là biện pháp ẩn dụ “mình vẫn còn một thứ quả non xanh?”, đối lập với tuổi cao, sức yếu của mẹ là sự non nớt, chưa trưởng thành của con. Con lo sợ mẹ già rồi mà mình vẫn còn vụng dại, chưa kịp trưởng thành, lớn khôn. Như vậy, bằng các biện pháp tu từ độc đáo như ẩn dụ, hoán dụ, tác giả đã diễn tả được tình cảm sâu nặng dành cho người mẹ kính yêu. Từ đây, em càng thêm trân trọng, yêu thương mẹ của mình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 20

Chuyện cổ tích về loài người của nhà thơ Xuân Quỳnh là một bài thơ năm chữ rất đặc biệt. Cả bài thơ là một câu chuyện cổ tích được kể lại bằng điệu thơ, vừa dễ đọc lại dễ nhớ. Theo bài thơ, trẻ em chính là điều đầu tiên xuất hiện trên trái đất này, là cội nguồn, là khởi đàu, là hi vọng của mọi thứ. Vì trẻ em cần nên có cây có ánh sáng, có sắc màu. Vì trẻ không có ai chăm sóc, nên mới có bố mẹ, ông bà, bè bạn. Vì trẻ cần được học tập nên có trường lớp, sách vở, thầy cô. Thật là đặc biệt! Chính từ bài thơ, em hiểu được nỗi lòng của tác giả. Nhà thơ đã gửi cho chúng ta niềm yêu thương và quý trọng đối với những đứa trẻ. Các em chính là tương lai của đất nước. Các em cũng còn quá bé nhỏ và mong manh. Vì vậy, hãy yêu thương, che chở và dạy dỗ các em bằng tình yêu thương xuất phát từ tận trái tim mình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 21

Mặc dù đã được đọc và học không ít bài thơ viết về mẹ nhưng em đặc biệt ấn tượng với tác phẩm “Mẹ và quả” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ đã đem đến cho em những cảm nhận sâu sắc về tình cảm yêu thương, biết ơn của người con dành cho mẹ. Mẹ hiện lên thật giản dị, gần gũi với hình ảnh chăm bón cho “bí” và “bầu”. “Những mùa quả lặn rồi mọc” như sự tuần hoàn, lặp lại không ngừng của thời gian. Quanh năm suốt tháng, mẹ vẫn cần mẫn gieo trồng, chăm bón cho bí và bầu lớn lên. Bởi vậy, “bí” và “bầu cứ dần dần “lớn xuống”, “mang dáng giọt mồ hôi mặn”. Đó chính là công sức của mẹ bỏ ra để ươm mầm những loài cây. Mẹ mang vẻ đẹp của người phụ nữ tần tảo, rất giàu đức hi sinh. Bên cạnh hình ảnh người mẹ, điều khiến em ấn tượng nhất đó chính là tình cảm của nhân vật trữ tình. Chứng kiến sự vất vả của mẹ, người con luôn ghi nhớ, biết ơn “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên”. Nhờ sự chăm chút, nuôi dưỡng ấy mà những đứa con mới có thể trưởng thành, khôn lớn. Cũng giống như quả bí, quả bầu phát triển là nhờ những giọt mồ hôi, nhọc nhằn của mẹ. Để rồi, hoảng hốt, sợ hãi một “ngày bàn tay mẹ mỏi” mà “Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?”. Chủ thể trữ tình lo sợ một ngày mẹ già yếu còn mình thì chưa đủ chín chắn, chưa làm được những điều xứng đáng với chờ mong của mẹ. Như vậy, bằng hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc với đời sống thường nhật, nhịp thơ linh hoạt, cùng biện pháp tu từ độc đáo như: so sánh “Như Mặt Trời, khi như Mặt Trăng”; đối lập “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống”; hoán dụ, nói giảm nói tránh “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi”; ẩn dụ “Mình vẫn còn một thứ quả non xanh”, tác giả đã thể hiện một cách đầy tinh tế, sâu sắc tình cảm thương yêu dành cho mẹ của mình. Qua bài thơ, em càng thêm trân trọng những phút giây bên mẹ và cố gắng học tập để mẹ vui lòng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 22

Nắng hồng là một bài thơ năm chữ hay và ý nghĩa của nhà thơ Bảo Ngọc. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh một mùa đông lạnh lẽo và ảm đạm qua các hình ảnh nhân hóa thú vị. Từ Mặt Trời, hàng cây, bầu trời đến chim sẻ, chú ong đều phải thu mình lại vì gió rét. Nổi bật lên trong bức tranh mùa đông ảm đạm ấy, là hình dáng của mẹ với chiếc áo choàng màu đỏ, bước chân mang theo nắng hồng cùng nụ cười ấm áp. Mẹ xuất hiện mang theo hơi ấm, mang theo niềm vui xua tan đi buốt giá. Mẹ chính là mùa xuân của người con. Những hình ảnh thơ ấy, giúp em cảm nhận được tình cảm trong sáng, yêu thương quấn quýt mà người con dành cho mẹ của mình. Đó là thứ thình cảm thiêng liêng, trong sáng vô cùng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 23

Có nhiều bài thơ hay viết về vẻ đẹp thiên nhiên, nhưng bài thơ để lại trong em ấn tượng khó phai là “Con chim chiền chiện” của nhà thơ Huy Cận. Hình ảnh chú chim chiền chiện nhỏ bé vỗ cánh bay giữa không gian rộng lớn là hình ảnh đẹp biết bao. Dưới bầu trời cao rộng hay trên cánh đồng bát ngát, chim chiền chiện vẫn sải đôi cánh mà cất lên những khúc hát ngọt ngào, trong trẻo”. Tiếng hót ấy được tác giả tinh tế ví như cành sương chói long lanh rực rỡ, làm lòng người vừa bối rối vừa vui sướng. Tiếng chim ấy còn giống như hạt ngọc trong veo, góp vui cho đời, làm xanh mây trời, làm đẹp hồn quê, làm cây lúa thêm tròn bụng sữa. Với thể thơ bốn chữ ngắn gọn, nhịp điệu 2/2 và biện pháp tu từ nhân hóa “Chim ơi, chim nói” đã giúp hình ảnh chim chiền chiện quen thuộc hiện lên thật đẹp và ý nghĩa. Qua hình ảnh chim chiền chiện, Huy Cận ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Ở đó, cả thiên nhiên và con người giao cảm, vun đắp những tươi đẹp của cuộc sống. Đọc bài thơ, em thấy thêm yêu vạn vật xung quanh, có thể đó là cánh đồng xanh, những ngọn cỏ bông hoa. Vì vậy, hãy giao hòa với cuộc sống để cảm nhận muôn vàn sắc màu mà thiên nhiên mang lại.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 24

Bài thơ năm chữ Nắng hồng của nhà thơ Bảo Ngọc là một áng thơ hay và đặc sắc. Các khổ đầu của bài thơ tái hiện lại khung cảnh trời đông giá rét, dưới góc nhìn của bạn nhỏ. Cái rét ấy được khẳng định qua việc mặt trời, bầy ong, chim sẻ rồi cả hàng cây phải co ro mình lại. Tất cả đều dừng việc rong chơi, ca hát để tránh gió lạnh, nên bức tranh thiên nhiên trở nên thật ảm đạm. Bỗng, một nguồn sáng ấm áp từ xa chiếu lại, vẽ lên màu sắc cho bức tranh. Đó chính là mẹ. Mẹ là mùa xuân, là mặt trời, là tia nắng, xua đi băng giá, sưởi ấm cho con. Niềm vui sướng hồn nhiên của bạn nhỏ khi thấy mẹ về, đã giúp người đọc cảm nhận được tình mẫu tử thiêng liêng và ấm áp.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 25

Trong các bài thơ viết về tình cảm mẹ con, em đặc biệt yêu thích bài thơ Nắng hồng của Bảo Ngọc, bởi các hình ảnh trong sách, liên tưởng thú vị của bài thơ. Trong các khổ thơ đầu, tác giả tái hiện lại một mùa đông lạnh lẽo và ảm đạm khi mọi con vật, cây cối đều thu mình lại để tránh rét. Ấy vậy mà, trong cái rét tê tái của lối quê đến cóng cả bàn tay, bạn nhỏ vẫn chờ mẹ đi chợ về. Và từ màn sương xa ấy, người mẹ xuất hiện với chiếc áo choàng đỏ tươi, ấm áp. Mẹ đem đến tia nắng hồng của mùa xuân ấm áp, xua tan đi lạnh giá. Một nụ cười của mẹ thôi cũng sáng bừng cả không gian mùa đông ảm đạm xung quanh mình. Chỉ bằng chừng ấy chi tiết thôi, mà cũng đủ để em cảm nhận được tình yêu thương tha thiết mà bạn nhỏ dành cho mẹ của mình. Điều đó khiến em cảm phục và thấu hiểu được sức mạnh vĩ đại của tình mẫu tử thiêng liêng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 26

Bài thơ “Lời của cây” của Trần Hữu Thung đã để lại trong em nhiều ấn tượng sâu đậm. Với thể thơ bốn chữ quen thuộc cùng cách ngắt nhịp 2/2 đều đặn, âm điệu nhẹ nhàng đã khắc họa sinh động quá trình ra đời và lớn lên của mầm cây. Tác giả đã thể hiện những cảm xúc trìu mến thương yêu khi khắc họa quá trình sinh trưởng của cây. Từ khi còn là một chiếc hạt được “cầm trong tay mình” rồi gieo xuống đất, nhú lên những chiếc mầm non và lớn lên bằng sự chở che, yêu thương của mẹ thiên nhiên. Thể thơ bốn chữ ngắn gọn cùng biện pháp nghệ thuật nhân hoá qua những câu thơ “Mầm đã thì thầm”, “Nghe mầm mở mắt” đã diễn tả những nét trạng thái, hoạt động của mầm xanh một cách sinh động. Qua đó, ta cảm nhận được thiên nhiên cũng có tiếng nói, tâm hồn của riêng mình. Đọc bài thơ, em thêm yêu quý thiên nhiên, biết lắng nghe, bảo vệ những mầm xanh, những chồi non góp xanh cho đất trời.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 27

Bài thơ Lời của cây là bài thơ bốn chữ mà em rất yêu thích. Nhà thơ Trẫn Hữu Thung đã tái hiện lại quá trình phát triển của một cây non, từ lúc mới chỉ là một chiếc hạt nhỏ. Được chăm bón, vun trồng, chiếc hạt bé nhỏ dần trổ mầm, hé những chiếc lá non đầu tiên, rồi dần dần cao lớn, trưởng thành. Cây con vui sướng tự hào nói với mọi người rằng, mình sẽ giúp ích cho cuộc đời, đem màu xanh đến cho trái đất. Các hình ảnh thơ ấy được diễn đạt bằng các ngôn từ trong sáng, mộc mạc, đã gợi lên trong em niềm yêu thương dành cho những chiếc cây con nhỏ bé. Và cảm nhận được sâu sắc sự liên kết giữa con người và cỏ cây, thiên nhiên. Những tình cảm đó đã được bài thơ Lời của cây khơi lợi lên trong em.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 28

Trong những bài thơ đã được học, em yêu thích nhất bài “Lời của cây” của Trần Hữu Thung. Tác giả đã khéo léo sử dụng thể thơ bốn chữ, cách ngắt nhịp 2/2 quen thuộc, gieo vần chân làm cho người đọc dễ nhớ, dễ thuộc. Năm khổ thơ đầu là lời của nhân vật trữ tình cất lên khi nghe lời tâm tình của mầm cây. Khổ cuối bài là lời của mầm cây khi đã trưởng thành, cây xanh cất tiếng nói của chính mình vào bản hòa ca cuộc sống. Bằng sự gần gũi, giao cảm đầy tinh tế với thiên nhiên, tác giả đã thể hiện tình cảm yêu thương, nâng niu, trân trọng của mình với sự sống. Những câu thơ tha thiết yêu thương đã đem lại cho em biết bao xúc cảm. Thiên nhiên và con người như hoà làm một, gần gũi và gắn bó. Biện pháp nhân hóa được sử dụng trong các câu thơ “Mầm đã thì thầm”, “Nghe mầm mở mắt” khiến những hoạt động, trạng thái của mầm cây càng trở nên sinh động. Lời mời gọi tự nhiên mà thân thuộc “rằng các bạn ơi” và cách ngắt nhịp 1/3 trong khổ cuối bài thơ đã thể hiện khao khát mãnh liệt, mong muốn được mọi người thấu hiểu của loài cây. Tác phẩm “Lời của cây” tuy ngắn gọn nhưng đã gửi gắm tới mỗi chúng ta một thông điệp đầy sâu sắc: Hãy lắng nghe lời của thiên nhiên để biết yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ. Mỗi loài cây, mỗi mầm sống dù là nhỏ bé đều mang trong mình một sứ mệnh, nó góp phần tạo nên sự sống, tạo nên màu xanh đất trời.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 29

Bài thơ Lời của cây do nhà thơ Trần Hữu Thung sáng tác là một bài thơ hay, với ngôn ngữ hồn nhiên và trong sáng. Tác giả đã sử dụng các hình ảnh nhân hóa, so sánh để kể về sự nảy mầm của một cây nhỏ thật đáng yêu, ngộ nghĩnh. Từ khi nó mới là một chiếc hạt nhỏ bé, đến khi vừa nảy mầm, rồi hé những chiếc lá biếc non đầu tiên và trở thành cây cao đón gió. Từ đó, em cảm nhận được mầm cây như là một đứa trẻ nhỏ. Nó cũng có một cuộc đời của riêng mình với những chặng phát triển khác nhau. Nó cũng cần được yêu thương, được che chở vì sợ mưa giông, gió bấc. Ở khổ thơ cuối, cây non tự hào mà sung sướng khoe với mọi người rằng nay mai mình sẽ trưởng thành, cao lớn hơn, góp sức mình lan tỏa màu xanh cho đất trời. Từ đó, bài thơ Lời của cây đã gợi lên trong em những yêu thương, trìu mến dành cho cây xanh nói chung. Và giúp em hiểu được rằng, cây cối cũng cần được quan tâm, chăm sóc thì mới trưởng thành được. Giống như những đứa trẻ cần dược bố mẹ yêu thương, nuôi nấng thì mới có thể thành người.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 30

Bằng những hình ảnh mộc mạc, ngôn từ trong sáng, giản dị, bài thơ Lời của cây của nhà thơ Trần Hữu Thung đã đem đến cho em những cảm xúc thú vị. Trong bài thơ, quá trình phát triển của một cây con được tái hiện lại từ lcus mới chỉ là một chiếc hạt nhỏ trong lòng bàn tay, đến lúc trổ ra mầm lá bé. Cây lúc còn nhỏ cũng sợ mưa giông, gió bấc, cũng cần người chở che. Như một đứa trẻ, cây cũng có ước mơ khi trưởng thành được góp sức mình làm xanh cho đất nước. Từ đó, hình ảnh cây xanh trở nên thân thương gần gũi đến lạ lùng. Nó khiến em thêm yêu quý và hòa mình hơn vào thiên nhiên. Đồng thời đánh thức trong em ý thức về việc bảo vệ thiên nhiên và trồng thêm nhiều cây xanh hơn nữa.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 31

Bài thơ “Lời của cây” của tác giả Trần Hữu Thung đã để lại cho em những rung động sâu sắc. Với cách dẫn dắt thú vị cùng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, tác giả đã gợi lên quá trình sinh trưởng và phát triển của mầm cây, qua đó bày tỏ tình cảm của mình với cỏ cây thiên nhiên. Bài thơ có 6 khổ, được viết theo thể thơ bốn chữ, mỗi khổ thơ là mỗi bước sinh trưởng của mầm cây. Khổ thơ thứ nhất là hình ảnh chiếc hạt gieo mình xuống đất, nằm lặng thinh trong hơi ấm của đất mẹ. Qua khổ thơ thứ hai, hạt bắt đầu nảy mầm, nhú lên những giọt sữa trong ngần. Ta như nghe thấy những thanh âm thầm thì của mầm non. Rồi chiếc mầm non nớt dần lớn lên dưới sự ưu ái, chăm sóc, nâng niu của mẹ thiên nhiên và những tia nắng mặt trời dịu nhẹ, ấm áp. Theo thời gian, cây đã trưởng thành hơn, mầm non thành lá bé xanh tươi, “bập bẹ” tiếng nói. Đến khổ thơ cuối cùng, cây trưởng thành và cất tiếng nói của mình, hoà vào mẹ thiên nhiên nhiên, hiểu được vai trò của mình trong việc tạo nên màu xanh cuộc đời. Biện pháp nghệ thuật nhân hoá được tác giả vận dụng tinh tế “hạt nằm lặng thinh”, “mầm mở mắt”,… kết hợp cùng các động từ “nghe”, “ghé tai”,… không chỉ tạo nên nét sinh động của thiên nhiên mà còn thể hiện được những cảm xúc thương yêu trìu mến của tác giả với những mầm cây. Bài thơ với những vần thơ hồn nhiên, trong sáng, hình ảnh thơ gần gũi đã gợi lên trong em nhiều cảm xúc khó tả. Gấp trang sách lại, những vần thơ “Lời của cây” vẫn còn đọng mãi trong tâm trí em. Em thấy mình cần phải biết trân trọng và bảo vệ thiên nhiên, nâng niu những mầm xanh sự sống của cuộc đời.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 32

Con chim chiền chiện là một bài thơ bốn chữ của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ với các hình ảnh trong sáng, từ ngữ mộc mạc đã xây dựng nên một bầu không khí thoải mái, tươi sáng. Chú chim chiền chiện nhỏ trong bài thơ vui sướng chao liệng trên bầu trời, hót khúc ca của sự tự do, hạnh phúc. Niềm vui sướng của sự tự do, của cuộc sống ấy lan thảng đến trái tim em. Làm cho em cũng yêu đời, cũng rộn rã, cũng thích thú với thế giới tươi đẹp này đến lạ.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 33

Bài thơ Con chim chiền chiện của nhà thơ Huy Cận là một bài thơ rất hay và ấn tượng. Trong bài thơ, hình ảnh chú chim chiền chiện hiện lên trên nền trời xanh bao la và rộng lớn, cùng đôi cánh tự do bay lượn. Tất cả đã gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác tự tại, thoải mái đến lạ. Trong niềm hân hoan ấy, chú chim chiền chiện cất tiếng hót vang. Tiếng hót của chú được so sánh với cành sương chói long lanh, với tiếng ngọc trong veo. Những hình ảnh đó giúp em cảm nhận được sự trong trẻo, sáng ngời của chính tiếng hát từ chú chim nhỏ. Đó là tiếng hót, là tiếng ca của niềm vui tự do, của cuộc sống hạnh phúc. Kết hợp với những hình ảnh những bông lúa tròn bụng sữa – hứa hẹn một mùa màng bội thu, êm ấm của bà con nông dân. Bài thơ đã đem đến cho người đọc sự thanh bình, hạnh phúc, tự do. Đồng thời đánh thức lên, gây nên niềm yêu đời, yêu cuộc sống trong mỗi tâm hồn.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 34

Bài thơ Con chim chiền chiện của nhà thơ Huy Cận là một bài thơ bốn chữ với các hình ảnh thơ mộc mạc, hồn nhiên. Tác giả đã xây dựng hình ảnh chú chim chiền chiện bé nhỏ mang theo niềm vui sướng to lớn chao nghiêng trên nền trời xanh. Bầu trời xanh ấy rộng lớn đến như vậy, chú chim có thể mặc sức bay lượn chẳng phải lo nghĩ điều gì cả. Đó là niềm vui sướng của tự do, được thoải mái tận hưởng cuộc sống. Chú chim nhỏ cứ thế cất tiếng hót thánh thót, trong veo, long lanh mà ca ngợi cuộc sống này. Niềm vui ấy lan tỏa cả vào trong trái tim em, khiến em cũng cảm thấy vui lây, cảm thấy yêu quý cuộc sống này hơn bao giờ hết.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 35

Cánh chim chiền chiện từ lâu đã đi vào thơ ca một cách thật tự nhiên qua ngòi bút của các nhà thơ. Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận là một tác phẩm tiêu biểu trong số đó. Những hình ảnh độc đáo của chim chiền chiện cùng tiếng hót long lanh, sáng chói làm lòng người rộn vàng, xao xuyến. Tác giả đã rất tinh tế khi so sánh tiếng hót như “tiếng ngọc trong veo” gieo thành từng chuỗi âm thanh như một bản nhạc đồng quê. Cánh chim cùng tiếng ca của chim chiền chiện vang giữa không trung, trên những cánh đồng xanh gợi ra một bầu không gian thật yên bình. Bức tranh quê hương được tô điểm bởi những hình ảnh, âm thanh bình dị của tiếng chim chiền chiện cùng trời xanh cao vút, cây lúa trổ bông và cánh đồng quê hương. Tất thảy tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp làm làm lòng người tưng bừng. Bằng thể thơ bốn chữ cùng các biện pháp tu từ so sánh “Tiếng hót long lanh/ Như cành sương chói” và cách gieo vần chân quen thuộc, bài thơ đã khắc họa tài tình hình ảnh chú chim chiền chiện dù nhỏ bé nhưng lại vô cùng nổi bật trong không gian rộng lớn của đất trời. Qua bài thơ, em càng cảm nhận rõ hơn tình cảm thiết tha của tác giả dành cho thiên nhiên. Chắc hẳn, Huy Cận phải là người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế thì mới có thể viết nên những vần thơ đẹp, trong ngần như vậy. Bài thơ đã giúp em biết yêu thương và trân quý thiên nhiên quanh mình, biết lắng nghe và giao hòa cảm nhận những vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 36

Huy Cận là một trong những nhà thơ hiện đại nổi bật với các sáng tác về thiên nhiên và con người. Trong đó, “Con chim chiền chiện” là bài thơ mà em yêu thích nhất. Bằng ngôn ngữ trong trẻo, Huy Cận đã gợi lên hình ảnh cánh chim chiền chiện bay trong khoảng trời tự do, cất tiếng hót góp vui cho đời. Cánh chim bay giữa trời xanh bao la, sà xuống những cánh đồng lúa thơm mùi sữa rồi vụt biến trong phút chốc và để lại tiếng hót long lanh, trong veo của mình. Tiếng hót của chim chiền chiện được ví như sương chói làm xanh thêm bầu trời, làm lòng người thêm bối rối, bâng khuâng “Tiếng hót long lanh/ Như cành sương chói”. Tiếng ca ấy còn trong veo như “tiếng ngọc”, mang theo ước vọng về một cuộc sống đủ đầy ấm no, hạnh phúc, về những năm tháng bình yên tươi đẹp. Hình ảnh cánh chiền chiện bé nhỏ không mờ nhạt trước không gian rộng lớn mà trở thành trung tâm của cảnh vật. Bằng cách cảm nhận độc đáo bằng cả thính giác và thị giác cùng biện pháp nghệ thuật nhân hoá “chim ơi, chim nói” đã góp phần thể hiện vẻ đẹp của thanh âm chiền chiện. Tiếng hót khiến mọi vật như bừng sáng, khiến lòng người thêm tưng bừng, vui sướng. Phải chăng qua hình ảnh chim chiền chiện, tác giả muốn gửi gắm những giá trị về sống giao hòa với thiên nhiên, lắng nghe lòng mình để cảm nhận tất thảy vẻ đẹp của thiên nhiên.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 37

Sang thu của Hữu Thỉnh là một bài thơ năm chữ mà em đặc biệt yêu thích. Hình ảnh trong bài thơ tuy mộc mạc nhưng lại rất đặc sắc, giàu ý nghĩa tượng hình. Bằng sự tinh tế của mình, ông cảm nhận được những biến chuyển nhỏ nhặt nhất trong thiên nhiên. Đó là những nắng, những mưa, những sấm bất ngờ của mùa hạ còn vương lại trên hàng cây đứng tuổi. Là những hương ổi phảng phất trong gió se se, là những hàng sương dăng mờ các lối của mùa thu. Cảm giác lưng chừng giữa hai mùa ấy được lột tả đắt giá qua hình ảnh đám mây mùa hạ đang vắt nửa mình sang thu. Tất cả các chi tiết ấy đã thành công tái hiện lại được những biến đổi của đất trời trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Đem đến cho người đọc những cảm xung chơi vơi, bâng khuâng khó tả.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 38

Đối với em, Sang thu của Hữu Thỉnh là bài thơ thành công nhất trong việc khắc họa lại những biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa. Nhà thơ tinh tế bắt được những thay đổi vốn là rất nhỏ nhặt nhưng lại thực sự tạo nên hương vị riêng của những ngày chuyển mùa. Đó là những ngập ngừng của mùa thu vừa gõ cửa. Với hương ổi chín thơm quyện trong làn gió se lạnh phảng phất, với những màn sương dày giăng mắc dọc các con đường đi. Nhưng đó cũng là những ngày mà hạ vẫn còn len lỏi chưa rời đi. Nó hiện diện qua những đợt mưa rào, những tia nắng nóng trên hàng cây. Những đặc trưng của hai mùa ngỡ là đối chọi nhưng lại thực sự hiện diện trong cùng thời điểm. Điều thú vị ấy chỉ có thể có trong những ngày giao mùa mà thôi.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 39

Khi đọc bài thơ “Con là…” của nhà thơ Y Phương, em vô cùng xúc động trước tình cảm chân thành mà người cha dành cho đứa con. Tác phẩm là tiếng nói thành thật, xuất phát từ đáy lòng của người cha – nhân vật trữ tình trong văn bản. Người cha định nghĩa tầm quan trọng của đứa con trong cuộc đời mình thông qua những hình ảnh hết sức gần gũi: “to bằng trời”, “nhỏ bằng hạt vừng”, “sợi tóc”. “Nỗi buồn”, “niềm vui”, “sợi dây hạnh phúc” những từ dùng để diễn tả các cung bậc trạng thái cảm xúc khác nhau của con người. Việc người cha ví con với các cung bậc này đã cho thấy tình yêu vô bờ mà cha dành cho con. Con chính là nguồn sống vô tận, đem đến cho cha những điều tuyệt vời, ý nghĩa trong cuộc sống. Bên cạnh nét hấp dẫn, độc đáo về nội dung, yếu tố nghệ thuật cũng góp phần tạo nên sức hút, thành công cho văn bản. Điểm đặc biệt này đến từ hình thức thơ ngắn gọn cùng cách sử dụng các biện pháp tu từ độc đáo: điệp cấu trúc “con là”, “dù”; biện pháp so sánh “to bằng trời”, “nhỏ bằng hạt vừng”, “mảnh hơn sợi tóc”; tương phản đối lập “nhỏ bằng hạt vừng/ Ăn mãi không bao giờ hết”. Đối với em, bài thơ đã gợi những suy nghĩ sâu sắc về tình cảm gia đình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 40

Bài thơ “Con là…” của tác giả Y Phương tuy ngắn gọn nhưng lại mang đến rất nhiều ý nghĩa sâu sắc. Tác phẩm chính là sự giãi bày những tâm tư, tình cảm của người cha dành cho đứa con thân yêu của mình. Tác giả đã sử dụng hàng loạt những hình ảnh so sánh vô cùng sinh động và ý nghĩa. Người con được ví với “nỗi buồn của cha”, nhưng chỉ cần có con thì nỗi buồn ấy có “to bằng trời” cũng sẽ “được lấp đầy”. Con là “niềm vui”, luôn hiện hữu, duy trì ngọn lửa trong trái tim người làm cha mẹ. Chỉ với vài hình ảnh đơn giản như vậy, ta đã cảm nhận được sự yêu thương, cưng chiều của người cha với đứa con bé bỏng. Không chỉ vậy, người con còn được so sánh với “sợi dây hạnh phúc” để buộc cuộc đời của cha lại với mẹ. Sợi dây ấy dù “mảnh hơn sợi tóc” nhưng lại hết sức bền chặt, giúp gia đình thêm thấu hiểu, gắn kết hơn. Với biện pháp tu từ so sánh kết hợp cùng điệp ngữ “con là”, nhà thơ Y Phương đã làm nổi bật lên vị trí, vai trò của người con, đồng thời cho người đọc thấy được tình cảm cha con thiêng liêng, sâu nặng. Người cha đã bộc bạch, bày tỏ tình yêu thương của mình với đứa con bé bỏng. Qua bài thơ, em lại càng thấy biết ơn công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và càng thêm trân quý gia đình thân yêu.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 41

Bài thơ “Con là…” do Y Phương sáng tác là một tác phẩm vô cùng xuất sắc. Bằng những dòng thơ ngắn gọn, cô đọng mà tràn đầy xúc cảm, tác giả đã cho độc giả thấy được suy nghĩ, tâm tư của một người cha gửi đến con mình. Đầu tiên, hình ảnh người con được so sánh với “nỗi buồn của cha”. Vì mái ấm, vì đứa con thơ, người cha đã không ngần ngại vượt qua, “lấp đầy” những khó khăn, áp lực, nỗi buồn “to bằng trời” trong cuộc sống. Tiếp theo, người cha so sánh con mình với “niềm vui”. Nó có thể bé nhỏ, không đáng kể, chỉ như “hạt vừng” nhưng đối với cha, đứa con hay chính niềm vui ấy lại vô cùng quan trọng, là một thứ vững bền, bất diệt. Và cuối cùng, người cha đã ví con mình với “sợi dây hạnh phúc”, thứ đã “buộc cuộc đời cha vào với mẹ”. “Sợi dây” ấy tuy “mảnh hơn sợi tóc” nhưng lại vô cùng bền chặt, chắc chắn. Nó là thứ đã kết nối hai mảnh ghép cuộc đời của cha mẹ, kéo cả gia đình lại gần nhau hơn. Sự kết hợp giữa biện pháp tu từ điệp ngữ cùng so sánh đã giúp cho người con hiện lên thật nổi bật. Với lời thơ chân thành, tha thiết cùng ngôn từ đơn giản, gần gũi, tác giả đã đem đến cho người đọc những xúc cảm chân thành nhất về tình phụ tử. Đó là tình yêu lớn lao nhưng lại rất đỗi dung dị. Qua đây, ta lại càng thêm trân quý, yêu thương gia đình, biết ơn công lao sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 42

Mỗi lần đọc bài thơ “Con là…”, em lại cảm thấy xúc động trước những lời bộc bạch, giãi bày của người cha. Đó là tình cảm gắn bó, chân thành mà người cha dành cho đứa con thân yêu của mình. Cha ví con với nỗi buồn, với niềm vui. Khổ một và khổ hai nằm trong thế đối sánh với nhau. Nếu như nỗi buồn to bằng trời thì niềm vui lại chỉ nhỏ như một hạt vừng. Thế nhưng, nỗi buồn dù lớn cũng sẽ qua đi, còn niềm hạnh phúc dẫu cho nhỏ bé thì cũng sẽ được nhân lên gấp nhiều lần nhờ sự có mặt của con. Chính sự xuất hiện của con đã đem đến niềm vui to lớn cho cha. Không những thế, đối với người cha trong tác phẩm, đứa con còn là sợi dây gắn kết bền chặt, nối liền hai tâm hồn, hai mảnh ghép khác nhau là cha và mẹ. Bài thơ tuy ngắn nhưng lại có thể diễn tả hết tình cảm của tác giả. Tác phẩm ghi dấu trong lòng người đọc không chỉ bằng ý nghĩa sâu sắc mà còn bởi nét hấp dẫn trong các yếu tố nghệ thuật. Bằng biện pháp tu từ độc đáo như điệp cấu trúc “Con là”, so sánh “Con là nỗi buồn của cha/ Dù to bằng trời”, “Con là niềm vui của cha/ Dù nhỏ bằng hạt vừng”, tác giả đã đem đến cho em những cảm nhận sâu sắc về tình cảm của người cha dành cho con. Từ đây, em càng thêm trân trọng, yêu mến người cha của mình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 43

Với tác phẩm “Con là…”, nhà thơ Y Phương đã đem đến cho người đọc lời tâm sự của người cha dành cho đứa con bé bỏng của mình. Trong bài, tác giả đã sử dụng rất thành công biện pháp nghệ thuật điệp ngữ để nhấn mạnh, làm nổi bật vị trí, vai trò quan trọng của con đối với cuộc đời cha. Một loạt sự so sánh đã được đưa ra. Người con lúc này đây được ví như nỗi buồn, niềm vui, như sợi dây kết nối giữa cha và mẹ. Là người gánh vác gia đình, người cha đã phải chịu rất nhiều áp lực, gặp vô vàn khó khăn, biến cố. Nhưng vì đứa con thân yêu, nỗi buồn ấy dù có “to bằng trời” thì cũng dễ dàng “được lấp đầy”. Niềm vui cho dù chỉ nhỏ như hạt vừng nhưng chỉ cần có con thì hạt vừng ấy “ăn mãi không bao giờ hết”. Không chỉ vậy, sự xuất hiện của đứa con còn như một “sợi dây hạnh phúc”. Nó đã “buộc cuộc đời cha vào với mẹ”, kết nối, kéo gia đình lại gần với nhau. Trong cuộc đời nhiều biến động, vì sự an toàn và hạnh phúc của con, cha mẹ sẽ luôn ở bên, cùng nhau che chở và bảo vệ cho con. Với giọng thơ tha thiết, tràn đầy tình cảm, tác giả đã làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng, cao quý. Qua đó, với vị trí của một người con, ta lại càng thêm yêu thương và trân trọng gia đình mình hơn.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 44

Tình cảm sâu sắc mà người cha dành cho đứa con của mình đã được tác giả Y Phương thể hiện đầy khéo léo qua bài thơ “Con là…”. Tác phẩm của ông đã đem đến cho em niềm rung cảm mãnh liệt và sâu sắc. Bằng những hình ảnh hết sức quen thuộc, gần gũi như “to bằng trời”, “nhỏ bằng hạt vừng”, “sợi tóc”, người cha đã định nghĩa sự quan trọng của đứa con đối với bản thân mình. Tình yêu vô bờ mà người cha dành cho con cũng được thể hiện qua từ ngữ diễn tả các cung bậc trạng thái cảm xúc khác nhau: “nỗi buồn”, “niềm vui”, “hạnh phúc”. Nỗi buồn ấy thật đặc biệt khi to bằng trời còn niềm vui lại bé xíu như hạt vừng. Thế nhưng điều quan trọng là nỗi buồn ấy sẽ mau chóng qua đi trong khi niềm vui lại được nhân lên gấp bội lần nhờ sự xuất hiện của con trên cuộc đời. Con cũng chính là sợi dây gắn kết giữa cha và mẹ. Dẫu cuộc đời có thăng trầm thì cha và mẹ vẫn luôn bên nhau để yêu thương, chăm sóc, bảo vệ con. Bằng những hình ảnh hết sức giản dị, gần gũi, từ ngữ trau chuốt, tinh tế và biện pháp tu từ so sánh “Con là nỗi buồn của cha/ Dù to bằng trời”, “Con là niềm vui của cha/ Dù nhỏ bằng hạt vừng”, điệp cấu trúc, tác giả đã ca ngợi tình cảm thiêng liêng mà người cha dành cho đứa con thân yêu của mình. Có thể nói, “Con là…” là bài thơ hay và đặc sắc viết về đề tài gia đình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 45

Nhà thơ Đỗ Trung Lai đã để lại cho em nhiều cảm xúc sâu lắng qua bài thơ “Mẹ”. Mẹ với tấm lưng nhỏ bé trái ngược với hình dáng cây cau trong vườn “Lưng mẹ còng rồi/ Cau thì vẫn thẳng” làm con càng thêm đau xót. Theo dòng chảy của thời gian, cây cau ấy ngày càng lớn cao nhưng mẹ của con lại “ngày một thấp”. Con nhớ những ngày thơ bé, miếng cau bổ tư vẫn mẹ vẫn móm mém nhưng hôm nay miếng cau ấy bổ thành tám miếng nhỏ mà “Mẹ còn ngại to!”. Nhìn miếng cau khô quen thuộc, con lại liên tưởng đến bóng hình mẹ già đi mỗi ngày “Một miếng cau khô/ Khô gầy như mẹ”. Chứng kiến mẹ thêm già yếu, con lại thấy quặn thắt, trầm mặc trong lòng mà đôi tay run run “nâng” với cả tấm lòng kính trọng. Nhưng cuối cùng, đứng trước khuôn mặt quen thuộc đang mất đi sức xuân ấy, con “không cầm được lệ”. Câu hỏi tự vấn “Sao mẹ ta già?” như càng khẳng định sự bất lực, đau xót khi không thể níu kéo dòng thời gian đang trôi để níu kéo mẹ ở lại bên con mãi mãi. Với thể thơ bốn chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ đối lập cùng biện pháp so sánh “Khô gầy như mẹ” đã khắc họa chân thực hình ảnh người mẹ. Qua đó, bài thơ đã nói lên sự vất vả, tần tảo của cuộc đời mẹ, đồng thời khẳng định tình yêu thương sâu sắc mà con dành cho mẹ.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 46

Đọc bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai, em thấy rung động sâu sắc về tình cảm của người con dành cho người mẹ kính yêu. Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp hình ảnh người mẹ với tấm lưng gầy “Lưng mẹ còng rồi/ Cau thì vẫn thẳng”. Hai hình ảnh thơ trái ngược đã nhấn mạnh tâm trạng thảng thốt và nỗi đau thầm lặng trong lòng người con khi nhận ra mẹ đã già. Quy luật khắc nghiệt của thời gian một đi không trở lại làm lòng con càng thêm quặn thắt “Cau gần với trời/ Mẹ thì gần đất”. Hình ảnh “cau bổ tám” càng ngày càng nhỏ gợi nên tuổi già móm mém của mẹ. Khi con dần trưởng thành cũng là lúc mẹ trở nên gầy yếu theo năm tháng: “Một miếng cau khô/ Khô gầy như mẹ”. Và con càng thêm kính trọng nâng niu tình mẹ “con nâng trên tay” nhưng lại không cầm được những giọt nước mắt yêu thương xót xa. Câu hỏi ở cuối bài thơ “Sao mẹ ta già?” như là lời tự vấn chính mình, đồng thời cũng gợi nỗi cô đơn trống trải trong lòng người con. Bằng hình ảnh thơ đối lập, ngôn ngữ mộc mạc và thể thơ 4 chữ ngắn gọn đã khắc họa cho chúng ta hình ảnh người mẹ già luôn tần tảo, đảm đang. Bài thơ như lời nhắc nhở mỗi người hãy biết yêu thương, quan tâm tới mẹ cùng những người thân trong gia đình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 47

Bài thơ “Mẹ” của nhà thơ Đỗ Trung Lai là một bài thơ hay viết về hình ảnh người mẹ mà em thấy ấn tượng. Mượn hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam – cây cau, tác giả đã khắc họa rõ nét hình bóng người mẹ đang già đi năm tháng. Nếu như cây cau trong vườn ngày một cao thẳng thì tấm lưng của mẹ lại thêm còng “Lưng mẹ còng rồi/ Cau thì vẫn đứng”. Thời gian làm cau xanh tốt thì cũng làm mẹ già đi “Cau ngày càng cao/ Mẹ ngày một thấp”. Lòng con như quặn thắt, đau xót khi chứng kiến mẹ ngày một già yếu. Tác giả mượn hình ảnh miếng trầu “Cau mẹ bổ tư/ Giờ cau bổ tám” như để khắc họa tuổi già móm mém. Biện pháp tu từ so sánh “Một miếng cau khô/ Khô gầy như mẹ” giúp ta cảm nhận được sâu sắc nỗi buồn và sự trầm mặc in sâu trong lòng con. Câu hỏi cuối bài thơ “Sao mẹ ta già?” đâu chỉ để hỏi trời cao mà còn là câu hỏi người con đặt ra cho chính mình. Bằng lời thơ giản dị, tự nhiên, thể thơ bốn chữ ngắn gọn cùng các biện pháp đôi “còng – thẳng”, so sánh “Khô gầy như mẹ” góp phần thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình. Nhan đề bài thơ chỉ gói gọn trong một từ “Mẹ” nhưng đã gợi cho người đọc bao cảm xúc về tình yêu thương của người con dành cho mẹ và nỗi buồn tủi khi thấy mẹ thêm già đi.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 48

Với lời thơ mộc mạc, gần gũi, “Mẹ và quả” của Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho em những rung cảm và niềm xúc động sâu sắc. Bài thơ là lời giãi bày chân thành, dạt dào cảm xúc của người con dành cho mẹ. Hình ảnh mẹ hiện lên thật chân thực, rõ nét. Trong trái tim con, mẹ là người phụ nữ tảo tần, giàu đức hi sinh. Mẹ luôn vun vén bồi đắp cho những cây quả lớn lên. Quanh năm suốt tháng, mồ hôi mẹ cứ vậy mà nhỏ xuống để những mùa quả “lặn” rồi lại “mọc”. Chính điều đó đã khiến cho người con thêm trân trọng, nâng niu, biết ơn sự hi sinh thầm lặng của mẹ. Ở hai câu thơ “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống”, tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập, tương phản. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Cả con và bầu, bí đều lớn lên từ đôi bàn tay cần mẫn và tình yêu thương của mẹ. Người con muốn bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho mẹ, người đã vì con mà vất vả, nhọc nhằn. Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình “hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi”. Tác giả lấy hình ảnh “bàn tay mẹ mỏi” để chỉ người mẹ đã già yếu, đến cái tuổi “gần đất xa trời”. Hai dòng thơ cuối: “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh” đã diễn tả được tâm trạng lo lắng, trăn trở, pha chút ân hận của nhân vật trữ tình. Chủ thể trữ tình lo rằng mẹ già rồi mà mình vẫn còn vụng dại, chưa kịp khôn lớn, trưởng thành. Để thể hiện một cách sâu sắc nội dung, tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ độc đáo như ẩn dụ, so sánh, hoán dụ, nói giảm nói tránh và hình ảnh gần gũi, giản dị. Qua tác phẩm, em càng thêm trân trọng những phút giây được ở bên mẹ của mình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 49

Bài thơ “Mẹ và quả” của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm vô cùng ý nghĩa. Với những hình ảnh vô cùng giản dị, thân thuộc cùng giọng điệu tha thiết, nhẹ nhàng, tác giả đã đem đến cho chúng ta những thông điệp đầy xúc động về tình mẫu tử. Nhân vật chính của tác phẩm là người mẹ – một người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó, luôn hết mình để nuôi các con khôn lớn, trưởng thành. Hình ảnh mẹ hiện lên gắn liền với “những mùa quả” nối tiếp nhau, cứ “lặn” rồi lại “mọc” như Mặt Trăng, Mặt Trời. Điều đó khiến ta liên tưởng tới sự chảy trôi vô tận, phũ phàng của thời gian. Nó khiến cho những đứa con “lớn lên”, những quả bầu, quả bí “lớn xuống”, đồng thời cũng phủ một lớp sương trắng xóa lên mái tóc mẹ. Bờ vai mẹ đã gồng gánh cả một gia đình suốt bao năm qua, nhưng bà không cần bất cứ điều gì cho riêng bản thân mình. Ước mong lớn lao nhất của mẹ “Bảy mươi tuổi đợi chờ được hái” chính là sự khôn lớn, trưởng thành của các con. Nhắc đến đây, nội tâm nhân vật trữ tình bắt đầu hoảng sợ thời gian sẽ cướp đi đấng sinh thành, hoảng hốt vì không biết liệu đến khi “bàn tay mẹ mỏi” thì mình đã “chín” chưa hay vẫn chỉ là “một thứ quả non xanh”. Với bổn phận và tấm lòng biết ơn, chủ thể trữ tình luôn mong muốn được báo đáp người mẹ đáng kính. Chắc chắn, ai trong chúng ta cũng đều có thể đồng cảm và thấu hiểu cho cảm xúc đó. Tình cảm dạt dào, sự hi sinh cao cả mà không cần hồi đáp của người mẹ đã khiến độc giả vô cùng xúc động. Qua đây, ta lại càng cảm nhận được sự thiêng liêng của tình mẫu tử, thêm biết ơn về những gì mà gia đình đem đến.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 50

Hình ảnh ông đồ già trong bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu đậm. Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp không khí ngập tràn sắc xuân của Tết Nguyên đán “hoa đào nở”. Nổi bật trong khung cảnh tấp nập của phố đông người, ông đồ già xuất hiện cùng những vật dụng quen thuộc như “mực tàu, giấy đỏ”. Với đôi tay tài hoa của mình, ông đã viết nên những nét chữ “Như phượng múa, rồng bay” làm người đời ngưỡng mộ mà tấm tắc khen ngợi. Nhưng khi Nho học lụi tàn, con người dần quên đi những truyền thống tốt đẹp thì ông đồ vẫn kiên trì ngồi nơi góc phố cùng “giấy đỏ”, “mực”, “nghiên”. Tiếc rằng, trong không khí nhộn nhịp của phố phường ngày Tết, người ta đã lãng quên đi ông đồ già viết câu đối đỏ. Hình ảnh “Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay” không chỉ khắc họa khung cảnh lạnh lẽo, buồn bã mà còn là gợi nên tâm trạng cô đơn, tủi buồn khi thời thế thay đổi. Câu hỏi tu từ “Hồn ở đâu bây giờ” như một lời tiếc thương cho số phận của ông đồ, cho những tàn lụi của những giá trị Nho học. Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, giọng điệu trầm lắng cùng biện pháp tu từ nhân hóa “Giấy đỏ buồn không thắm”,… đã bộc lộ niềm tiếc thương chân thành trước một lớp người tài năng nhưng do thời cuộc mà đi vào dĩ vãng. Bài thơ như lời nhắc nhở mỗi người về việc trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 51

Đọc bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên, em lại thêm ấn tượng với hình ảnh ông đồ già. Theo sự tuần hoàn, khi hoa đào mùa xuân nở, ta lại thấy hình ảnh ông đồ xuất hiện bên “mực tàu, giấy đỏ”. Trong không khí náo nhiệt, tưng bừng của Tết, người đi chơi xuân dừng bước, ghé lại thưởng thức và ngưỡng mộ, tấm tắc trước nét chữ “Như phượng múa, rồng bày” của ông đồ già. Nhưng thời thế thay đổi, Nho học suy vi và đi vào quá khứ, con người cũng theo đó mà quên đi những giá trị tốt đẹp khi xưa. Xuân lại đến, ông đồ ngồi cô đơn, lẻ loi cùng “giấy đỏ”, “mực tàu”, “nghiên bút”. Cảnh vật như nhuốm màu tâm trạng, trở nên lạnh lẽo, đìu hiu, buồn bã “Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay”. Không còn ai nhớ tới hình bóng ông đồ già bên những cành đào hồng thắm. Câu hỏi tu từ “Hồn ở đâu bây giờ?” như lời thương xót, tiếc nuối cho một lớp người tài hoa nhưng do thời thế thay đổi mà dần đi vào lãng quên. Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa “Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu”, so sánh “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” mang đến hình ảnh hoài niệm về ông đồ già. Qua đó, bài thơ đã bộc lộ niềm tiếc thương chân thành trước những con người tài hoa, những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 52

Bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên đã mang đến cho em những rung cảm sâu sắc. Với hai khổ thơ đầu, trong không khí hân hoan, vui tươi của Tết, ông Đồ xuất hiện với “mực tàu, giấy đỏ”. Mỗi khi hoa đào nở, người đi chơi xuân lại thấy hình bóng ông đồ già viết câu đối. Họ thưởng thức và tấm tắc khen ngợi những nét chữ “như phượng bay, rồng múa” của ông. Tuy nhiên, thời Nho học ngày một suy tàn khiến người ta dần lãng quên hình bóng ông đồ già ngồi trên phố với “giấy đỏ”, với “nghiên mực”. Hình bóng của ông hiện lên thật cô đơn, buồn tủi trong tiết trời lạnh lẽo, ảm đạm “Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay”. Đối lập khung cảnh tươi vui, náo nhiệt ở hai khổ thơ đầu, hai khổ thơ sau đã cho ta thấy những xót thương của tác giả trước cảnh ông đồ tài năng nhưng lại lẻ loi, đìu hiu “Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay”. Thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi. Mùa xuân đến trong sắc hồng của hoa đào nhưng lại thiếu vắng hình bóng thân thuộc xưa kia. Câu hỏi tu từ cuối bài thơ như một lời đau xót trước số phận, cuộc đời của ông đồ, cho những giá trị Nho học đang dần mai một. Với ngôn ngữ trong sáng, nhịp điệu linh hoạt cùng các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh đã mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu lắng về một thế hệ tài hoa không được coi trọng do thời thế thay đổi. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh ông đồ già trong thời kì hoàng kim và suy tàn của Nho học, từ đó bày tỏ mong muốn thế hệ sau hãy biết giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 53

Có biết bao bài thơ viết về tình cha con nhưng em đặc biệt yêu thích và ấn tượng với bài thơ “Những cánh buồm” của tác giả Hoàng Trung Thông. Đây là tác phẩm viết rất hay về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm cha con gắn bó, thiêng liêng, sâu sắc. Trong văn bản, điều khiến em rung cảm là tình yêu thương và sự ân cần của người cha dành cho con. Lòng cha dâng lên nỗi niềm hạnh phúc khi dắt tay con đi trên bãi cát “dưới ánh mai hồng”. Thấy con bước đi trên bờ biển, lòng cha “vui phơi phới”. Từ “phơi phới” đã diễn tả được hết sự vui sướng của cha. Cha luôn nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc bên con. Cụm từ “cha dắt con đi” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh vào tình cảm yêu thương và sự đồng hành của cha trên bước đường cùng con chinh phục tương lai. Cha giống như cánh buồm, luôn đồng hành, dẫn bước. Đối với con, cha luôn âu yếm, nhẹ nhàng. Cha xoa đầu, mỉm cười nhìn con. Cha từ tốn giải thích cho con sự bao la, rộng lớn của đất trời: “Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa/ Sẽ có cây, có cửa, có nhà,/ Vẫn là đất nước của ta,/ Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.”. Để rồi khi đứng trước mong ước được khám phá thế giới của con, người cha dâng lên niềm hạnh phúc, vui sướng “Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận/ Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con”. Có thể nói, bằng cách kết hợp giữa yếu tố tự sự với miêu tả, sử dụng từ ngữ giàu sức gợi và hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống hàng ngày, tác giả Hoàng Trung Thông đã thể hiện một cách đầy tinh tế nỗi lòng, tình cảm của người cha. Từ đây, em càng thêm yêu và trân trọng những giây phút được ở bên gia đình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 54

Đối với em, một trong những tác phẩm hay viết về tình cha con là bài thơ “Những cánh buồm” do Hoàng Trung Thông sáng tác. Qua bài thơ, tác giả muốn ca ngợi tình cảm gia đình gắn bó. Trước hết, điều mà em ấn tượng nhất trong văn bản là sự ân cần, quan tâm của người cha dành cho con. Sau trận mưa đêm, cha và con cùng nhau đi dạo “dưới ánh mai hồng”. Nhìn thấy con bước đi, lòng cha dâng lên một niềm vui sướng, hạnh phúc “Nghe con bước lòng cha vui phơi phới”. Có lẽ, một khoảnh khắc bên con, cha luôn nâng niu, trân trọng. Đứng trước câu hỏi đầy ngô nghê, non nớt, cha có hành động rất dịu dàng, nhẹ nhàng: “mỉm cười xoa đầu con nhỏ”. Đồng thời, từ tốn giải thích cho con về sự rộng lớn của biển khơi, trời đất “Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa/ Sẽ có cây, có cửa, có nhà,/ Vẫn là đất nước của ta,/ Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.”. Hình ảnh “cha dắt con đi” xuất hiện hai lần ở khổ hai và khổ bốn đã diễn tả tình yêu thương cũng như gợi lên sự đồng hành, dẫn dắt của cha trên hành trình cùng con đi đến tương lai. Để rồi, khi thấy con mơ ước đến khám phá, đi đến chân trời mới, cha hạnh phúc khôn nguôi. Ước mơ ấy của con cũng chính là hoài bão, khát vọng của cha ngày nào: “Lời của con hay tiếng sóng thầm tì/ Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm”. Bên cạnh hình ảnh người cha giàu tình yêu thương là tình cảm sâu sắc và niềm tin yêu của đứa con bé nhỏ. Trong mắt đứa trẻ ấy, cha là người có thể giải đáp mọi thắc mắc, băn khoăn: “Sao xa kia chỉ thấy nước, thấy trời/ Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?”. Con mong “Cha mượn cho con buồm trắng nhé,/ Để con đi…”. Dòng thơ cho thấy sự tin tưởng tuyệt đối mà con dành cho cha. Đối với con, cha chính là người bạn, người đồng hành tin cậy, sẵn sàng giúp đỡ, yêu thương vô điều kiện. Ngoài nội dung, nét đặc sắc về nghệ thuật cũng góp phần tạo nên thành công cho văn bản. Tác giả đã vận dụng các biện pháp tu từ độc đáo như điệp ngữ “không”, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Ánh nắng chảy đầy vai” cùng hệ thống từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm. Việc đan xen, kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện chủ đề, cảm hứng của bài thơ. Có thể nói, tác phẩm đem đến cho em những ấn tượng khó phai về tình cảm cha con thắm thiết.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 55

Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã để lại cho em những ấn tượng mạnh mẽ qua bài thơ “Những cánh buồm”. Tác phẩm của ông là tiếng lòng của người cha chan chứa tình yêu thương dành cho con. Bên cạnh hình ảnh người cha ân cần, luôn quan tâm, che chở, đồng hành cùng con trên bước đường hướng đến tương lai thì hình ảnh người con lại cho em thấy được sự tin tưởng, yêu thương dành cho cha của mình. Cha và con đi dạo trên bờ biển. Con hướng mắt về phía đằng xa rồi cất lên câu hỏi đầy thơ ngây: “Cha ơi/ Sao xa kia chỉ thấy nước, thấy trời/ Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?”. Từ câu hỏi của đứa con, em có thể thấy, trong lòng con, cha là người có thể giải đáp mọi băn khoăn, thắc mắc. Đồng thời, dòng thơ còn cho thấy người con luôn muốn học hỏi, tìm tòi mọi thứ. Tiếp đến, con còn là đứa trẻ mang trong mình hoài bão, khát vọng được tìm hiểu thế giới, đi đến những chân trời, vùng đất bao la, rộng lớn. Con “trỏ cánh buồm xa nói khẽ”: “Cha mượn cho con buồm trắng nhé,/ Để con đi…”. Câu nói ấy thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối mà con dành cho cha mình. Khát vọng của con chính là ước mơ của cha thuở nào. Hình ảnh cánh buồm vì thế cũng trở nên thật sâu sắc, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Nó không chỉ biểu trưng cho hoài bão của bao thế hệ mà còn đại diện cho tinh thần, ý chí sẵn sàng đối mặt, đương đầu với phong ba bão táp để vươn tới thành công. Như vậy, với lời thơ dạt dào cảm xúc, chan chứa tình yêu thương và hình ảnh thơ gần gũi, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã thể hiện một cách đầy tinh tế tình cảm của hai cha con. Qua văn bản, em càng thêm cảm phục, ngưỡng mộ trước tài năng của tác giả.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 56

Bài thơ “Những cánh buồm” của tác giả Hoàng Trung Thông đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều xúc cảm. Đến với tác phẩm, ta đã được chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc với “Ánh Mặt Trời rực rỡ biển xanh”, “Sau trận mưa đêm rả rích/Cát càng mịn, biển càng trong”, “Ánh nắng chảy đầy vai”. Trong khung cảnh đó, hai cha con hiện lên vô cùng ấm áp, gắn bó. Hình ảnh “cha dắt tay con” xuất hiện rất nhiều lần khiến ta cảm nhận được tình yêu thương vô bờ, sự che chở, bao bọc của người cha với đứa con bé bỏng của mình. Chỉ cần nghe tiếng bước chân của con trên cát mịn, lòng cha đã “vui phơi phới”. Qua cuộc trò chuyện giữa hai cha con, ta còn thấy được ước mơ khám phá những vùng đất mới của người con hay chính là khát vọng thời trẻ của người cha. Lời nói ngây thơ, hồn nhiên của đứa con đã tác động lớn đến cảm xúc của cha, khiến ông bồi hồi, xúc động. Người cha giờ đây như thấy được chính bản thân mình khi xưa trong hình hài bé nhỏ kia. Cùng tình yêu thương vô bờ bến, ông đã gửi gắm những ước mơ còn dang dở của mình lên đôi vai của con, mong ước đứa con sẽ mang nó theo trên cánh buồm trắng tiến tới tương lai. Đó vừa là sự hi vọng, vừa là niềm tự hào của người cha. Ông tự hào vì đứa con bé bỏng giờ đây đã có cho mình ước mơ cao đẹp, mong chờ được khám phá, tìm hiểu thế giới bên ngoài. Với những hình ảnh giản dị, gần gũi cùng giọng thơ tha thiết, cảm động, tác phẩm đã thể hiện tình cảm thiêng liêng, gắn bó và vô cùng sâu sắc giữa hai cha con.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 57

Đối với em, “Những cánh buồm” của Hoàng Trung Thông là một bài thơ vô cùng ý nghĩa, cảm động. Với những vần thơ giản dị, tác phẩm đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp với ánh nắng Mặt Trời rực rỡ, biển xanh rì rào sóng vỗ và bãi cát mịn sau cơn mưa. “Bóng cha dài lênh khênh/Bóng con tròn chắc nịch”, hai hình ảnh hiện lên tuy đối lập nhưng lại góp phần làm nổi bật lẫn nhau. Người cha cao lớn, vững chãi cùng đứa con ngây thơ, bé nhỏ cứ thế dạo trên bờ biển. Khung cảnh được miêu tả tinh tế, nhẹ nhàng, mang đến cho người đọc cảm giác hết sức bình yên. Tiếp đó, ta được nghe cuộc trò chuyện của hai cha con. Nó chủ yếu xoay quanh sự mô tả về “nơi xa”, cái nơi “có cây có cửa có nhà” nhưng “cha chưa hề đi đến”. Ông cũng từng hi vọng, từng gửi những ước mơ theo cánh buồm trắng với mong muốn một ngày được đặt chân đến nơi xa kia, khám phá những điều mới mẻ, kì thú. Việc nhắc lại những kỉ niệm xưa đã đưa người đọc vào dòng hồi tưởng cùng nhân vật, mang theo cảm giác hụt hẫng, nuối tiếc. Và đến khi câu hỏi ngây thơ của đứa con vang lên: “Cha mượn cho con buồm trắng nhé/Để con đi…”, sự xúc động trong lòng người cha mới thực sự dâng trào. Lời hỏi nhỏ nhẹ tựa “tiếng sóng thì thầm” đã đánh thẳng vào cảm xúc của cha cũng như của độc giả. Lời thơ hết sức giản dị, gần gũi mà đong đầy tình yêu thương, sự mong chờ và niềm hi vọng. Giờ đây, hình ảnh đứa con bé bỏng còn mang theo cả ước mơ thuở xa xăm của cha. Rồi một ngày, đứa bé ấy sẽ theo những cánh buồm trắng đi xa, thực hiện những điều mà cha còn dang dở. Qua đây, ta thấy được tình cảm cha con thật thiêng liêng, gắn bó, sâu nặng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 58

Với tác phẩm “Những cánh buồm”, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đem đến cho em rung cảm sâu sắc về tình cảm gia đình. Đó là tình cảm cha con ấm áp, gắn bó, tràn đầy yêu thương. Hình ảnh cha và con hiện lên trái ngược: “Bóng cha dài lênh khênh/Bóng con tròn chắc nịch” đã hòa cùng khung cảnh thiên nhiên hết sức tươi đẹp: “ánh mặt trời rực rỡ”, “biển xanh”, “ánh mai hồng”, “ánh nắng chảy đầy vai”. Tất cả cùng tạo nên một bức tranh tràn đầy màu sắc và thấm đượm tình yêu thương. Bước vào khung cảnh như mơ ấy, ta được nghe cuộc trò chuyện của hai cha con về vùng đất phía xa kia. Đó là nơi “có cây có cửa có nhà”, có những “cánh buồm trắng” rong ruổi đó đây. Nơi ấy là chốn mà cha từng rất mong ước được đặt chân đến, được khám phá và tìm hiểu mà chưa có cơ hội. Giờ đây, ước mơ đó lại một lần nữa được thắp lên trong tâm trí người cha qua câu hỏi ngây ngô của đứa con thơ: “Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé/Để con đi…”. Người cha như vỡ òa trong cảm xúc, vừa vui, vừa tự hào lại vừa lo lắng. Đôi vai bé nhỏ của con đã mang thêm ước mơ thuở xưa của cha. Với giọng văn đầy cảm xúc kết hợp cùng ngôn ngữ thơ giản dị, ta thấy được những hình ảnh về hai cha con hiện lên thật gần gũi, chân thực biết bao nhiêu. Sự tự hào hiện lên qua từng cử chỉ, hành động của người cha. Ông vui sướng vì đứa con bé bỏng ngày nào giờ đã có cho mình một ước mơ cao cả, giống hệt như ông của những ngày xa cũ. Trong tương lai, người con sẽ đem theo ước mơ thời trẻ của cha, cùng cánh buồm trắng lướt trên mặt biển để khám phá vùng đất mới. Không chỉ đề cao tình cảm gia đình thiêng liêng, đáng quý, bài thơ còn ngợi ca những khát vọng, hoài bão của con người. Bài thơ đã để lại trong lòng độc giả những dấu ấn vô cùng sâu đậm.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 59

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm với bài thơ “Đồng dao mùa xuân” đã để lại ấn tượng sâu đậm trong em về hình ảnh người lính anh hùng. Bài thơ như một khúc hát ca về cuộc đời anh bộ đội cụ Hồ. Anh lính trẻ rời xa cuộc sống hồn nhiên, vô tư “mê thả diều” để nghe theo tiếng gọi của trái tim, của Tổ quốc thân yêu. Đời người lính gian khổ, thiếu thốn với quân tư trang ít ỏi “Ba lô con cóc/ tấm áo màu xanh”, bệnh tật giữa rừng “làn da sốt rét” nhưng anh vẫn giữ vững sự lạc quan, niềm tin vào tương lai. Ta càng thêm khâm phục ý chí, quyết tâm chiến đấu của anh để rồi biết ơn trước hi sinh anh dũng vì độc lập dân tộc. Những câu thơ bốn chữ ngắn gọn cùng cách ngắt nhịp 2/2 giúp nhà thơ dễ dàng bày tỏ được tấm lòng biết ơn, ghi nhớ của đồng đội và nhân dân. Đó là niềm cảm phục, tự hào, biết ơn tới những người lính đã hi sinh tuổi xuân và cuộc đời vì độc lập dân tộc. Khúc đồng giao trong bài thơ không chỉ là mùa xuân tuần hoàn của tự nhiên mà còn là mùa xuân của những người lính. Hình ảnh những người anh hùng, kiên trung, bất khuất sẽ mãi in đậm trong tâm trí người dân Việt Nam.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 60

“Mẹ và quả” là một tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ngay từ nhan đề bài thơ, ta đã thấy được những ẩn ý sâu xa của người nghệ sĩ. Hình ảnh về “những mùa quả” được lặp lại nhiều lần tượng trưng cho sự chảy trôi của thời gian. Chúng cứ nối đuôi nhau “lặn rồi lại mọc”, như Mặt Trời và Mặt Trăng, khiến ta cảm nhận được thời gian trôi qua với một tốc độ khủng khiếp. Điều đó đồng nghĩa với việc mẹ đang ngày một già đi, dần dần “mỏi” và không còn có thể ở mãi bên các con được nữa. Nó khiến cho nhân vật trữ tình vô cùng hoảng sợ. Cả đời mẹ vất vả, tần tảo, không màng khó khăn để nuôi các con “lớn lên”, chăm giàn bầu, giàn bí “lớn xuống”. Hình ảnh đối lập hết sức độc đáo kia làm cho bài thơ trở nên ấn tượng hơn rất nhiều. Những quả bí, quả bầu mang hình dáng “giọt mồ hôi mặn” hay chính công sức, thời gian mẹ đã hi sinh để nuôi lớn đàn con. Vậy mà “thứ quả” duy nhất mẹ mong lại đơn giản là sự trưởng thành, khôn lớn của đứa con ấy. Chủ thể trữ tình đã hoảng sợ, không phải vì áp lực phải thành công, mà là sợ mình sẽ không “chín” kịp lúc để báo đáp, phụng dưỡng mẹ. Mẹ vất vả vì ta suốt bao nhiêu năm, liệu ta có thể đỡ đần, lo lắng cho người trước khi tay người “mỏi”? Đó là câu hỏi, là nỗi trăn trở khôn nguôi trong lòng người con cũng như độc giả. Và giờ đây, ta mới hiểu rõ ràng hơn về nhan đề “Mẹ và quả”. “Quả” có thể là bí, là bầu, là loài cây được tay mẹ vun trồng, chăm sóc và cũng là đứa con bé bỏng, ngây dại. Hai hình ảnh đặt cạnh nhau khiến cho cảm xúc của bài thơ dâng trào mãnh liệt. Qua đó, người đọc lại càng thêm yêu quý, biết ơn và trân trọng người mẹ đáng kính của mình hơn.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 61

Mỗi khi đọc bài thơ “Đồng dao mùa xuân” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, em lại thêm cảm phục và biết ơn những người lính cụ Hồ đã chiến đấu dũng cảm cho độc lập dân tộc. Mặc dù tuổi đời còn rất trẻ, vẫn đang rong ruổi chạy theo những cánh diều và chưa một lần biết đến tình yêu nhưng nghe theo tiếng gọi Tổ quốc, anh lên đường ra mặt trận. Người lính làm em càng thêm kính mến với sự dũng cảm, kiên cường chiến đấu “Mỗi lần bom nổ… Anh thành ngọn lửa”. Trong trận chiến ác liệt, anh đã hi sinh anh dũng, nằm lại nơi núi rừng Trường Sơn, nhưng tên tuổi, chiến công của anh sẽ mãi sáng ngời với non sông đất nước. Và khi mùa xuân nhân gian, mùa xuân của đất nước đến với bao nhớ thương, đồng đội và nhân dân vẫn luôn in sâu hình bóng anh trong tâm trí. Những hình ảnh thơ gần gũi, ngôn ngữ mộc mạc cùng biện pháp so sánh “mắt như suối biếc”, điệp từ “anh ngồi” đã góp phần truyền tải những tình cảm, cảm xúc của bài thơ tới bạn đọc. Bài thơ chính là lời hát ca tự hào về những người lính đã hi sinh tuổi xuân và xương máu đất nước trọn vẹn, là khúc tưởng nhớ, biết ơn của toàn thể dân tộc tới những con người anh hùng.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 62

Bài thơ “Hoa bìm” của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã để lại trong em biết bao rung động về bức tranh thiên nhiên của chốn làng quê. Câu thơ đầu gợi ra hình ảnh những bông hoa bìm có sắc tím đang tươi cười trong gió “Rung rinh bờ giậu hoa bìm”. Đây là loài hoa có hình dáng giống chiếc chuông, mang vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ. Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả tái hiện hình ảnh tươi đẹp gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ. Đó là thế giới loài vật phong phú và thường bắt gặp ở mỗi vùng quê như chuồn chuồn, nhện, cào cào, dế mèn, đom đóm. Hay còn là sự xanh mát của cây cối “cây hồng trĩu cành sai”, “cánh bèo”, “mắt lá lim dim”, “bụi lau”. Không chỉ vậy, tác giả còn khắc họa hình ảnh con người với các hoạt động thú vị. Cánh diều bay cao trên bầu trời xanh cùng mấy chiếc thuyền giấy lững lờ trôi theo dòng nước “đục sông gầy” như chất chứa bao mộng mơ trẻ thơ. Không khí làng quê trở nên sống động nhờ bản hòa tấu âm thanh của “ri ri tiếng dế mèn”, “trưa yên ả rụng vài một vài tiếng chim”. Với sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh, màu sắc và hình ảnh, cuộc sống chốn thôn quê hiện lên thật tươi đẹp. Thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ bình dị kết hợp với biện pháp điệp từ, liệt kê,… đã góp phần khắc họa không khí bình yên, trong lành của vùng nông thôn nước ta. Qua bài thơ, em cảm nhận được tình yêu, nỗi nhớ da diết cùng mong ước được trở về quê hương của tác giả.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 63

Bài thơ “Hoa bìm” của tác giả Nguyễn Đức Mậu là một bài thơ hay viết về vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên thôn quê Việt Nam. Mở đầu bài thơ, em ấn tượng với hình ảnh sắc hoa bìm bên bờ giậu “Rung rinh bờ giậu hoa tím”. Những bông hoa bìm màu tim tím hòa mình trong gió đã gợi lại dòng chảy kí ức tuổi thơ của nhân vật trữ tình. Xuôi theo dòng chảy ấy, em thấy được khung cảnh thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Khu vườn với ánh nắng dịu êm bao trùm như ru con người vào giấc trưa yên ả. Sự phong phú, đa dạng của thế giới loài vật nhỏ bé “con chuồn ớt lơ ngơ”, “con nhện giăng tơ”, “ri ri tiếng dế mèn”,… đã gợi lên những hình ảnh quen thuộc với tuổi thơ. Tác giả còn tiếp tục phác họa bức tranh thiên nhiên qua âm thanh tươi vui, nhộn nhịp “ri ri tiếng dế mèn”, “trưa yên ả rụng vài một vài tiếng chim”. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của con người cùng các trò chơi thân thuộc như đưa người đọc trở về năm tháng tuổi thơ hồn nhiên, nhí nhảnh. Cánh diều cùng con thuyền giấy bên dòng nước sông đã chất chứa bao ước mơ non trẻ. Bằng ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi, các biện pháp liệt kê và điệp từ, tác giả đã lột tả vẻ đẹp yên bình của làng quê Việt Nam. Bài thơ cũng thể hiện tình yêu quê hương thiết tha cùng sự trân quý những kỉ niệm tuổi thơ ấm áp của tác giả.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 64

“Hoa bìm” của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã mang đến cho em những rung động sâu sắc về khung cảnh nông thôn Việt Nam tươi đẹp. Bài thơ mở ra bức tranh thiên nhiên hài hòa giữa hình ảnh, âm thanh, màu sắc của cảnh vật. Trước hết, em thấy được thế giới của các loài vật nhỏ bé “con chuồn ớt lơ ngơ”, “con nhện giăng tơ”, “dế mèn”,… Tiếp đó, tác giả còn khắc họa hình ảnh khu vườn “cây hồng trĩu cành sai” đang đắm mình trong ánh nắng dịu nhẹ. Không gian yên bình của cuộc sống thôn quê trở nên sống động, nhộn nhịp nhờ những giai điệu tự nhiên với “ri ri tiếng dế mèn”, “trưa yên ả rụng vài một vài tiếng chim”. Tất cả âm thanh ấy đã tạo nên bản đồng ca tươi vui, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Bên cạnh đó, nhà thơ còn tinh tế khi để con người xuất hiện với các hoạt động thú vị. Đó là ngày tháng mải mê thả diều rồi cùng nhau ngắm nhìn cánh diều bay cao trên bầu trời xanh. Hay còn là trò chơi gấp thuyền giấy và thả trôi lững lờ theo dòng nước “đục sông gầy”. Tất cả như đưa chúng ta trở về năm tháng tuổi thơ êm đềm, mộng mơ. Những hình ảnh thơ gần gũi, ngôn ngữ giản dị kết hợp với các biện pháp tu từ như điệp ngữ “có”, nhân hóa “Có bầy đom đóm thắp đèn đêm thâu” đã mang đến cảnh sắc gần gũi, thân thuộc của chốn thôn quê. Từ bài thơ, em cảm nhận được tình yêu cùng nỗi nhớ thầm kín mà tác giả dành cho quê hương. Qua đây, em càng thêm trân trọng và yêu mến những vẻ đẹp thiên nhiên bình dị, mộc mạc.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 65

Em rất thích bài thơ “Sang thu”, một trong những tác phẩm tiêu biểu của tác giả Hữu Thỉnh. Bài thơ đã đem đến khoảnh khắc đẹp đẽ và trong ngần của đất trời trong thời điểm cuối hạ, đầu thu. Những hình ảnh thiên nhiên vào thời khắc giao mùa được tác giả cảm nhận tinh tế bằng tất cả các giác quan. Biện pháp nhân hoá kết hợp cùng các động từ giàu sức gợi đã vẽ nên thời khắc chuyển mình của thiên nhiên “Sương chùng chình”, “chim bắt đầu vội vã”, đám mây “vắt nửa mình”, cơn mưa “đã vơi dần”… Cách ngắt nhịp đều đặn 2/3, 3/2 cùng cách gieo vần chân “sẽ-về”, “vã-hạ” không chỉ tạo nên sự liên kết giữa các dòng thơ mà còn tạo nên nhạc điệu cho bài thơ, đồng thời góp phần bộc lộ những bâng khuâng, xao xuyến của tác giả trước những biến chuyển của cảnh vật. Đặc biệt hình ảnh ẩn dụ cuối bài thơ “Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi” giúp em cảm nhận rõ hơn về những chiêm nghiệm, triết lý mà nhà thơ gửi gắm. Khi con người ta từng trải thì sẽ trở nên vững vàng, bình tĩnh hơn trước bão tố cuộc đời. Với việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật và thể thơ năm chữ ngắn gọn tác giả đã làm nổi bật bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Qua đây, ta cũng thấy được tình yêu thiên nhiên tha thiết cùng những triết lý sâu sắc về cuộc đời mà nhà thơ Hữu Thỉnh muốn gửi gắm.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 66

“Sang thu” của Hữu Thỉnh là bài thơ hay viết về thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa. Bài thơ giúp em cảm nhận rõ hơn những nét đẹp của thiên nhiên quanh mình. Tác giả đã gợi nên một bức tranh đất trời sang thu với hương ổi phả trong làn gió se se lạnh, vương vấn nơi màn sương đầu ngõ,,… Dường như tác giả đã đánh thức tất cả giác quan của mình để cảm nhận từng hơi thở, chuyển động của thiên nhiên đất trời. Khổ cuối bài thơ là hình ảnh đầy ý nghĩa về những hàng cây đứng tuổi không còn bất ngờ trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Qua hình ảnh ấy, tác giả muốn gửi gắm một thông điệp, một triết lí sống về cuộc đời. Thời gian có thể làm phai nhoà mọi thứ nhưng sẽ tôi luyện cho con người bản lĩnh để đối mặt với những thử thách bất ngờ và gian khó trong cuộc đời. Chỉ với 3 khổ thơ ngắn, sử dụng kết hợp biện pháp tu từ nhân hóa “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”, ẩn dụ “Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi” cùng ngôn ngữ giản dị đã gợi trong em biết bao cảm xúc khó tả về khoảnh khắc thiên nhiên bước vào giây phút giao mùa. Em thấy mình thêm trân quý và cần dành thời gian cảm nhận những điều bình dị để không bỏ lỡ bất kì vẻ đẹp nào của cuộc sống. Thiên nhiên chính là người bạn chân thành, chung thủy, luôn bên cạnh ta.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 67

Có người đã từng nói rằng mùa thu là mùa của thi ca. Thật vậy, có biết bao bài thơ viết về mùa thu trong suốt dòng chảy của văn học Việt Nam, mỗi tác phẩm đều mang những nét độc đáo và riêng biệt. Đặc biệt, chúng ta không thể nào bỏ qua bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Bài thơ đã để lại trong em những cảm xúc khó phai mỗi khi đọc. Những tín hiệu đầu tiên báo hiệu khoảnh khắc thu sang được tác giả miêu tả đầy tinh tế: ” Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về”. Hương ổi nồng nàn là mùi hương đặc trưng của mùa thu, được phả trong tiết trời se se lạnh. Hòa vào không gian ngọt ngào ấy là hình ảnh màn sương giăng mắc qua những ngõ làng, chuyển động chầm chậm “chùng chình”. Bên cạnh đó, dòng sông nhỏ cũng mượn cớ thu về mà “dềnh dàng”, trái ngược với đàn chim đang bắt đồi vội vã đi tránh rét. Khung cảnh thiên nhiên đất trời càng trở nên đẹp hơn qua hình ảnh “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Đám mây như dải lụa mềm mại, thướt tha đang vắt ngang trên bầu trời. Một nửa còn vương vấn trong tia nắng vàng của mùa hạ, một nửa đang háo hức trong tiết trời mát mẻ của mùa thu. Dường như tất thảy sự vật đều đang cố ý chậm lại để cảm nhận rõ hơn giây phút chuyển mình của thiên nhiên đất trời. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi cuối bài thơ là hình ảnh đẹp, mang nhiều ý nghĩa. Đó không chỉ gợi tả vẻ đẹp kiên cường trước sự khắc nghiệt của thời tiết mà còn ẩn dụ cho vẻ đẹp, bản lĩnh của con người khi đứng trước những giông tố của cuộc đời. Những con người đã trải qua thách thức sẽ không còn sợ hãi, chùn chân mà trở nên vững vàng, bình tĩnh. Biện pháp nhân hóa “Sương chùng chình qua ngõ” cùng cách gieo vần chân, thể thơ 5 chữ ngắn gọn đã phác họa nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp khi bước vào thời điểm giao mùa thu. Đọc bài thơ, em thấy mình càng thêm trân trọng, yêu quý thiên nhiên, sự sống quanh mình. Thật cảm ơn tác giả đã mang đến cho người đọc một bài thơ hay và ý nghĩa như vậy .

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 68

Là một trong những bài thơ viết về tình cảm gia đình, “Những cánh buồm” của tác giả Hoàng Trung Thông đã để lại cho em ấn tượng đậm sâu, khó phai mờ. Trong văn bản, hình ảnh “cha dắt con đi” trở đi trở lại nhiều lần vừa thể hiện tình cảm đong đầy, ân cần của người cha vừa gợi lên sự bảo vệ, dẫn dắt của cha trên bước đường cùng con hướng đến tương lai. Cha như cánh buồm kia, luôn đồng hành, dẫn dắt con đến những chân trời mới, ở đó, con được khám phá, được thỏa mãn niềm yêu thích, đam mê của riêng mình. Nếu hình ảnh người cha đem đến cho em cảm nhận về sự ân cần, quan tâm thì hình ảnh đứa con lại cho thấy sự yêu thương, tin cậy dành cho cha. Đứng trước cảnh biển rộng lớn, con lắc tay cha và hỏi về những điều con băn khoăn, chưa biết “Sao xa kia chỉ thấy nước, thấy trời/ Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?”. Lời đề nghị thơ ngây của con dành cho cha “Cha mượn cho con buồm trắng nhé,/ Để con đi…” đã cho thấy sự tin tưởng tuyệt đối của con. Đối với con, cha luôn là người bạn, người đồng hành tin cậy, luôn ủng hộ, giúp đỡ con trên mọi chặng đường. Bên cạnh nội dung, em còn ấn tượng với nét đặc sắc về mặt nghệ thuật. Để làm nổi bật chủ đề của văn bản, nhà thơ đã kết hợp hài hòa, nhuẫn nhuyễn giữa yếu tố tự sự với miêu tả. Đồng thời, vận dụng từ ngữ một cách linh hoạt cùng các biện pháp nghệ thuật độc đáo. Qua bài thơ, em cảm nhận được tình cảm cha con gắn bó, khăng khít. Tình cảm ấy khiến em nghĩ đến người cha luôn yêu thương, chăm sóc mình.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 69

Khi đọc các sáng tác của nhà thơ Hoàng Trung Thông, em đặc biệt ấn tượng với tác phẩm “Những cánh buồm” của ông. Bằng giọng thơ giản dị, chân thành cùng cách xây dựng đoạn hội thoại giữa hai cha con, tác giả muốn ca ngợi tình cảm gia đình thiêng liêng, gắn bó. Sự ân cần, yêu thương của người cha dành cho con chính là điểm khiến em đặc biệt yêu thích. Khi dắt tay con đi trên bãi biển vào buổi sớm, lòng cha ngập tràn hạnh phúc. Đó chính là xúc cảm của một người cha luôn trân trọng, nâng niu từng khoảnh khắc bên đứa con thân yêu của mình. Đứng trước những câu hỏi ngây thơ của con, cha có những cử chỉ hết sức nhẹ nhàng, âu yếm: “mỉm cười xoa đầu con nhỏ” và giải thích “Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa/ Sẽ có cây, có cửa, có nhà,/ Vẫn là đất nước của ta,/ Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.”. Tình cảm sâu sắc và sự chở che của cha trên con đường chinh phục ước mơ được thể hiện qua hình ảnh “cha dắt con đi”. Người cha hạnh phúc khi gặp lại mình trong mơ ước của con. Ước mơ của con cũng chính là khát vọng, lí tưởng cao đẹp của cha ngày trước. Bên cạnh người cha, em còn thấy được tình cảm yêu thương và sự tin cậy của đứa con nhỏ dành cho cha. Con muốn “cha mượn cho con buồm trắng nhé,/ Để con đi”. Lời đề nghị ấy thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối. Đối với con, cha luôn là người đồng hành, giúp đỡ con trên mọi chặng đường. Bằng từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm: “lênh khênh”, “rực rỡ”, “rả rích”, “phơi phới”, “thầm thì”,… cùng các biện pháp tu từ độc đáo điệp ngữ “không”, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Ánh nắng chảy đầy vai”, nhà thơ đã mang đến cho em những cảm nhận sâu sắc về tình cảm cha con. Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố miêu tả với tự sự đã khiến cho bài thơ trở nên hay và hấp dẫn hơn.

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ – Mẫu 70

Bằng ngòi bút tài hoa của mình, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đem đến cho chúng ta một tác phẩm hết sức ý nghĩa về tình cảm gia đình thiêng liêng: “Những cánh buồm”. Mở đầu bài thơ, ta đã được chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp và rực rỡ. Trên khung cảnh đó, bóng hai cha con nổi bật lên với sự đối lập: “dài lênh khênh”, “tròn chắc nịch”. Những bước đi trên bãi cát mịn tràn đầy háo hức của đứa con khiến cho người cha cảm thấy “vui phơi phới”. Trước câu hỏi ngây thơ của người con về nơi xa, cha đã nhẹ nhàng xoa đầu rồi mỉm cười và giải thích. Đối diện với lời đề nghị “Cha mượn cho con buồm trắng nhé/Để con đi…”, tâm trạng của người cha đã dao động mãnh liệt. Ông như thấy được bản thân mình thuở xưa trong ước mơ của đứa con nhỏ. Giờ đây, cha lại có cơ hội gửi gắm những chuyến đi chưa kịp thực hiện lên vai con. Trong tương lai, người con sẽ đem theo ước mơ thời trẻ của cha, cùng cánh buồm trắng lướt trên mặt biển đi khám phá những vùng đất mới. Không chỉ đề cao tình cảm gia đình thiêng liêng, đáng quý, bài thơ còn ngợi ca những khát vọng, hoài bão của con người. Với lời thơ giản dị, mộc mạc mà giàu cảm xúc, “Những cánh buồm” đã lưu lại dấu ấn vô cùng sâu đậm trong lòng người đọc.

*****

Trên đây là 70 bài mẫu Viết đoạn văn khoảng 200 chữ để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ lớp 7 ngắn gọn, chi tiết do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng, dựa vào đây các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình.

Bài học được biên soạn bởi thầy cô trường THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học Tậplớp 7

5/5 - (59 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *