Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8 (12 Mẫu)

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu bao gồm hướng dẫn viết cùng 12 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 8 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.

Mục lục

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 1

Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 2

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một tác phẩm thơ trào phúng nổi bật của nhà thơ Trần Tế Xương. Em ấn tượng nhất trong bài thơ là hình ảnh những sĩ tử và quan trường được nhà thơ khắc họa bằng giọng điệu mỉa mai, châm chọc. Vốn lẽ, những sĩ tử đến đây đều là các thanh niên tài giỏi, thấu hiểu lễ nghĩa, là tương lai của đất nước. Nhưng lại xuất hiện với dáng vẻ lôi thôi, xộc xệch như những kẻ lang thang. Còn các quan trường vốn là người giữ chức vụ coi thi, phải là người học rộng, hiểu sâu, hành xử lịch sự, từ tốn với dáng vẻ oai nghiêm. Thì lại được nhà thơ gợi lên với dáng vẻ ậm oẹ thét loa. Từ gợi tả âm thanh ấy đã khắc họa dáng vẻ hèn mọn, kệch cỡm của những kẻ cầm trịch trong hội thi năm đó. Sự kết hợp của người thi kẻ quản đó tạo nên một trường thi thật là nhếch nhác. Mỗi từ được nhà thơ Trần Tế Xương sử dụng đều góp phần tô đậm sự trào phúng, chê cười của những đối tượng xuất hiện trong khoa thi.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 3

Trong bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”, Tú Xương đã xây dựng nhiều chi tiết trào phúng. Nhưng tôi cảm thấy ấn tượng nhất với chi tiết khắc họa hình ảnh sĩ tử và quan trường. “Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” – những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 4

Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là tác phẩm có tính trào phúng mà em ấn tượng nhất nhất là 2 câu “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 5

Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu của Tú Xương đã khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến. Trong bài thơ, tôi đặc biệt ấn tượng với chi tiết về sự xuất hiện của ông Tây và mụ đầm: “Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;/Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”. Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây – “lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” – lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ. Tiếng cười trước cảnh tượng lố lăng nơi trường thi nhưng cũng là tiếc khóc cho cảnh ngộ mất nước lúc bấy giờ.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 6

Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì “vai đeo lọ” trông thật nhếch nhác, “lôi thôi”. Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử “lôi thôi” sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ “lôi thôi” lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn “vai đeo lọ”. Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo – Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi” nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” ấy.

Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”. Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm hoạ độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 7

Tú Xương là một nhà văn sáng trong thời kỳ đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Có lẽ vì vậy mà ông thấu hiểu được tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ. Ông đã thể hiện nỗi niềm xót thường và căm thù tội ác tàn bạo của thực dân Pháp bằng những câu thơ đanh thép qua bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”. Bài thơ gửi gắm nỗi suy tư, trăn trở của tác giả với ca từ mang tính trào phúng ấn tượng. Hai câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Âm oe quan trường miệng thét loa”. Tác giả đảo từ “lôi thôi” lên đầu cầu giúp ta hình dung ngay được bối cảnh lếch thếch, kém gọn gàng của các sĩ tử. Vốn xưa nay sĩ tử đi thi đều là những người tài giỏi, có học thức cao rộng với dung mạo điểm tĩnh, tao nhã của người chăm chỉ đèn sách. Ấy thế mà sĩ tử trong thơ của Tú Xương lại trở nên bôi bác, tủi nhục khi đi thi mà không thấy cầm sách bút. Chỉ thấy “vai đeo lọ”, cái lọ nước để cảm theo trên đường đi thi. Bên cạnh đó, từ “Ậm oe” cũng được đảo lên đầu câu đạp vào mắt ta cảnh quan trường nhốn nháo, mất đi vẻ trang nghiêm của lũ quan bất tài. Vì các sĩ tử họ phải “thét loa” không khác gì chợ búa, từng câu nói uy nghi nay cũng trở nên “âm oe” chẳng thốt nên lời. Toàn bộ bối cảnh trên cho ta thấy rõ được sự xuống cấp, mục nát của xã hội thời bấy giờ.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 8

Hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướnq danh khoa Đinh Dậu” bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa, các ông tú mền, tu kép… phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lay mụ đầm “váy lê quét đất”, “ghế trên, ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:

Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra.

Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lẽ quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:

Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt

Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng.

Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: “Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục”.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 9

Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của Tú Xương à bài thơ phản ánh rõ nét hiện thực suy tàn của đời sống nhân dân Việt Nam ta dưới thời thống trị của thực dân Pháp. Với nghệ thuật trào phúng đặc sắc, Tú Xương cho độc giả thấy được bố cảnh nhố nhăng, mất quy củ của kì thi quốc gia lúc bầy giờ. Ấn tượng nhất chính là hai câu thơ: “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Âm oe quan trường miệng thét loa” với thủ pháp đối làm nổi bật hình ảnh trốn trường thi như một cái chợ. “Lôi thôi” được đặt lên đầu câu để nhấn mạnh sư vô kỉ luật, không có ý thức của các sĩ tử. Đáng nhẽ sĩ tử phải là người học xa trông rộng, trang nghiêm, nho nhã mà nay lại trở nên lôi thôi, đi thi không đem theo sách vở mà chỉ có cái lọ trên vai. Các sĩ tử không còn vẻ thư sinh tri thức thì những vị quan cũng không còn giữ được nét tôn nghiêm. Chính vì sự nhốn nháo của các sĩ tử, quan trường phải dùng loa “thét” lên, giọng nói “ậm oe” không còn uy nghiêm như trước. Toàn cảnh cho ta thấy những con người vốn là tiếng thơm muôn đời nên trở nên ô uế, hống hách, điển hình cho xã hội suy tàn, xuống cấp trầm trọng.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 10

Bài thơ Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu đã miêu tả lễ xướng danh khoa thi tại trường Nam 1897, thể hiện thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ khoa cử nhốn nháo:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ

Ậm ọe quan trường miệng thét loa”

Chỉ một từ “lôi thôi” được đảo ra phía trước, nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. Sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhố nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa, sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đối với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 11

Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,… ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng “nào ai đó” phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ “ngoảnh cổ” gợi lả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. “Cảnh nước nhà” là cái cảnh nhục nhã:

Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu…

(…) Kẻ chức bồi người tước cu li

Thông ngôn, kí lục chi chi

Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang

(Á tế Á ca)

Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,… Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ…

Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Mẫu 12

Tú Xương là một nhà thơ sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đau thương nhất của đất nước khi phải đối mặt với cuộc xâm lược và thống trị của Pháp. Thơ của ông không chỉ là lời than vãn về những đau khổ của người dân miền Nam mà còn là lời tố cáo một cách sâu sắc những tội ác đen tối của bọn thực dân. Trong đó, bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một tác phẩm trào phúng mà em ấn tượng nhất. Từ “lôi thôi” ở đầu câu thể hiện được vẻ lềch thếch, không gọn gàng của các thí sinh đi thi đều đeo trên vai lọ chai lỉnh kỉnh. Trong khi những người đọc sách, những người thường xuyên đến thư viện lại luôn tao nhã, chỉn chu. Điều đó cho thấy sự xuống cấp của xã hội nơi mà cả quan trông thi lẫn sĩ tử đi thi đều mất đi vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước đây. Thay vì trang trọng, đứng đắn như lễ tang, đám quan thí sinh lại hỗn loạn, ồn ào trong trường thi. Sĩ tử đi thi với lội thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Còn quan trông thi thì với miệng hống hách, quát tháo, không ai thèm để ý đến tinh thần trang trọng của một kì thi quan trọng như thế. Từ miêu tả “ậm ọe” được đặt lên đầu câu, cho thấy được sự bất tài của đám quan trông trường thi, chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Bài thơ của Tú Xương không chỉ đơn thuần là tố cáo sự suy đồi của xã hội, mà còn là lời mỉa mai châm biếm đến đám quan thí sinh thiếu trách nhiệm, vô trung, đối với truyền thống văn hóa của đất nước.

*****

Trên đây là 12 bài mẫu Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.

Đăng bởi: THCS Bình Chánh 

Chuyên mục: Học tập, Lớp 8

5/5 - (34 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *