Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích lớp 6 hay nhất (31 Mẫu)

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích lớp 6 bao gồm dàn ý chi tiết cùng 31 bài mẫu hay nhất được thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và chọn lọc từ các bài văn đạt điểm cao sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em có thêm nhiều gợi ý mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích 

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích lớp 6
Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích lớp 6

Mục lục

Dàn ý viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích

1. Mở bài: Giới thiệu:

  • Tên truyện
  • Lý do muốn kể lại truyện

2. Thân bài

– Trình bày:

  • Các nhân vật chính
  • Hoàn cảnh xảy ra câu chuyện

– Kể lại các sự việc xảy ra theo trình tự thời gian

3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về câu chuyện vừa kể

Xem thêm Lập dàn ý kể lại một truyện cổ tích lớp 6

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 1

Một câu chuyện cổ tích nước ngoài mà em rất yêu thích chính là truyện Non-bu và Heng-bu.

Truyện kể về hai anh em ruột nhưng lại có tính cách trái ngược nhau. Người anh lười biếng lại tham lam, còn người em thì tốt bụng, chăm chỉ. Một ngày nọ, Heng-bu gặp một chú chim nhạn nhỏ bé bị gãy chân, rơi xuống trước thềm nhà. Thấy thương con vật tội nghiệp, Heng-bu đưa chú vào nhà và chăm sóc chu đáo đến khi chú khỏi bệnh mới thả đi. Mùa xuân năm sau, chim nhạn trở về mang theo cho Heng-bu một hạt bầu thần kì. Những quả bầu mọc ra từ cây này cho anh nhiều vàng bạc châu báu. Từ đó vợ chồng anh sống cuộc sống giàu có.

Người anh biết tin, vội đến hỏi thăm câu chuyện. Nghe xong, hắn liền tìm một chú chim nhạn rồi bẻ chân của nó. Xong xuôi hắn giả vờ chăm sóc chú chim tội nghiệp và đòi nó phải báo ơn. Lần này, chim nhạn cũng mang cho Non-bu một hạt bầu. Nhưng nhưng trái bầu khi bổ ra chỉ đem đến cướp bóc, tai họa cho hắn mà thôi. Kết cục, hắn mất đi tất cả, trở thành một kẻ ăn mày.

Câu chuyện với cách kể rất thú vị và các chi tiết thần kì đã thu hút em ngay từ lần đọc đầu tiên. Bài học mà câu chuyện muốn gửi gắm cũng thật sâu sắc và ý nghĩa vô cùng.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 2

Cây tre trăm đốt là câu chuyện cổ tích mà em yêu thích nhất.

Câu chuyện kể về một anh chàng nông dân hiền lành, tốt bụng, thật thà lại chăm chỉ, chịu khó. Để mưu sinh, anh đến làm việc cho nhà phú ông. Phú ông thấy anh khỏe mạnh, chịu khó làm việc nên nghĩ mưu lừa tiền anh. Hắn nói rằng nếu anh làm việc chăm chỉ cho hắn, không lấy tiền công, thì sau ba năm sẽ gả con gái cho anh. Thế là, suốt ba năm, anh nông dân ra sức cày cuốc, làm việc cả ngày lẫn đêm, giúp cho lão phú ông có thêm rất nhiều của cải.

Đến hẹn, lão phú ông tìm cách lừa gạt anh nông dân. Đòi sính lễ là cây tre có một trăm đốt. Trong lúc anh nông dân vất vả tìm kiếm trong bất lực, ở nhà, lão phú ông đã làm đám cưới gả con mình cho con trai của một phú hộ khác. Ngờ đâu, anh nông dân được ông bụt hiện lên giúp đỡ. Dạy cho câu thần chú “khắc nhập, khắc nhập” để ghép một trăm đốt tre thành cây tre trăm đốt. Trở về nhà, nhìn thấy đám cưới linh đình, biết mình bị lừa, anh nông dân tức giận lắm. Anh đọc câu thần chú, dính cả phú ông vào cây tre, bắt ông ta phải thực hiện lời hứa mới thả ra.

Cuối truyện, anh nông dân khổ tận cam lai, cưới được vợ như mong ước. Qua đó, câu chuyện dạy cho em bài học “ở hiền gặp lành” mà ông cha ta luôn tin tưởng.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 3

Truyện cổ tích chính là suối nguồn mát lành về lòng nhân hậu và những bài học làm người bao la. Hòa trong dòng chảy mát lành ấy, có tác phẩm Cây vú sữa là câu chuyện khiến em nhớ mãi về sự hi sinh của đấng sinh thành.

Ngày xưa, có một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, mẹ cậu ở nhà không biết cậu ở đâu nên buồn lắm. Ngày ngày mẹ ngồi trên bậc cửa ngóng cậu về. Một thời gian trôi qua mà cậu vẫn không về. Vì quá đau buồn và kiệt sức, mẹ cậu gục xuống và hóa thành một cái cây.

Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ. “Phải rồi, khi mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, khi mình bị đứa khác bắt nạt, mẹ vẫn bên mình, về với mẹ thôi.” Cậu liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ:

– Mẹ ơi, mẹ đi đâu rồi, con đói quá! – Cậu bé gục xuống, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc.

Kỳ lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Cây nghiêng cành, một quả to rơi vào tay cậu bé. Cậu bé cắn một miếng thật to. Chát quá! Quả thứ hai rơi xuống. Cậu lột vỏ, cắn vào hạt quả. Cứng quá. Quả thứ ba rơi xuống. Cậu khẽ bóp quanh quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi khẽ nứt ra một kẽ nhỏ. Một dòng sữa trắng sóng sánh trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ.

Cây rung rinh cành lá, thì thào:

– Ăn trái ba lần mới biết trái ngon. Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ.

Cậu oà lên khóc. Mẹ đã không còn nữa. Cậu nhìn lên tán lá, lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu ôm lấy thân cây mà khóc, thân cây xù xì, thô ráp như đôi bàn tay làm lụng của mẹ. Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa.

“Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ”. Câu chuyện về cây vú sữa đã gửi gắm đến chúng em bài học về đạo làm con và công ơn trời biển của đấng sinh thành. Cảm ơn vườn cổ tích, cảm ơn những câu chuyện nhân văn đã dạy dỗ chúng em nên người trong suốt hành trình lớn lên.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 4

Ngày xưa, có đôi vợ chồng già hiếm muộn, phải đi ở cho nhà phú ông. Một hôm bà vợ vào rừng hái củi, uống nước trong cái sọ dừa, về nhà có mang, ít lâu sau sinh ra một đứa bé kì dị, không chân không tay, tròn như một quả dừa. Thấy đứa bé biết nói, bà giữ lại nuôi và đặt luôn tên là Sọ Dừa.

Thương mẹ vất vả, Sọ Dừa nhận chăn đàn bò nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào cũng béo mượt. Ba cô con gái nhà phú ông thay nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kênh kiệu thường hắt hủi, chỉ có cô út đối đãi với cậu tử tế.

Phát hiện ra vẻ đẹp bên trong cái vẻ kì dị của Sọ Dừa, cô út đem lòng thương yêu. Sọ Dừa nhờ mẹ đến nhà phú ông hỏi vợ. Phú ông thách cưới thật to nhưng thấy Sọ Dừa mang đủ đồ thách cưới đến, đành phải gả cô út cho chàng. Ngày cưới, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai trẻ đẹp khiến hai cô chị vô cùng ghen tức.

Nhờ chăm chỉ đèn sách, Sọ Dừa thi đỗ trạng nguyên và được nhà vua cử đi, sứ nước ngoài. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để đề phòng tai hoạ.

Sọ Dừa đi vắng, hai người chị tìm cách hãm hại cô út, đẩy cô xuống biển hòng cướp chồng em. Nhờ có các đồ vật chồng đưa cho, cô út thoát chết, được chồng cứu trên đường đi sứ về. Hai vợ chồng đoàn tụ. Hai cô chị xấu hổ bỏ nhà đi biệt tích.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 5

Trong kho tàng truyện cổ tích của dân tộc ta, em rất thích các câu chuyện về những nhân vật có tài trí hơn người. Trong đó, em thích nhất là câu chuyện Em bé thông minh.

Câu chuyện bắt đầu tại một làng nọ, có hai cha con tuy nghèo nhưng sống rất hạnh phúc. Đặc biệt là người con trai, không chỉ ngoan ngoãn mà còn vô cùng thông minh. Một hôm, khi hai cha con đang cày ruộng thì gặp sứ giả đến hỏi chuyện. Thì ra, ông ấy được nhà vua phái đi tìm kiếm người những người hiền tài để xây dựng đất nước. Trước câu đố hóc búa của sứ giả, rằng con trâu kia một ngày có thể cày được mấy đường, thì cậu bé đã dễ dàng hóa giải khi thách đố ngược lại ông ta rằng hãy nói xem ngựa của sứ giả một ngày đi được bao nhiêu bước. Sự tài trí đó của cậu bé đã khiến cậu nhanh chóng được nhà vua chú ý đến.Tuy nhiên, nhà vua vẫn chưa yên tâm nên tiếp tục thử tài cậu. Lần thứ nhất, vua đưa cho làng cậu bé ba con trâu đực cùng ba thúng gạo nếp, yêu cầu sau một năm giao nộp chín con trâu.

Thật bất ngờ, cậu bé đã lên kinh, đố ngược lại nhà vua, rằng hãy làm cho cha cậu sinh em bé. Còn số trâu và gạo nếp kia, cậu đã cùng ca rlangf đem ra ăn uống no say rồi. Sự thông minh, nhanh nhạy của cậu làm vua rất thích thú. Tuy nhiên, ngài vẫn quyết định thử tài cậu thêm lần nữa. Lần này, nhà vua đã yêu cầu cậu bé mổ một con chim sẻ để làm ra ba mâm cỗ. Nhưng yêu cầu này chẳng làm khó được cậu. Ngay lập tức, cậu bé đem ra một chiếc kim khâu và nhắn nhủ, nhờ nhà vua mài nó thành một con dao để mổ thịt chim. Đến lần này, thì nhà vua hoàn toàn thán phục trước trí tuệ cao siêu của cậu.

Đúng thời gian đó, có sứ giả của nước láng giềng sang thăm. Mục đích là tra tim xem nước ta có người tài hay không, để tiến hành xâm lược. Hắn đưa ra một câu hỏi vô cùng hóc búa để thực hiện mục đích. Cả triều trình cùng nhau căng não nhưng không ai biết cách nào để đưa sợi chỉ mảnh qua đường ruột ốc cả. ẤY vậy mà, ngay khi vừa nghe câu đố, em bé đã đưa ra được câu trả lời ngay. Biết vậy, tên sứ giả vội trở về nước bẩm tấu, rằng không nên tấn công nước ta vì nước ta có người rất tài giỏi. Sau lần đó, cậu bé được phong làm trạng nguyên, và thường xuyên được nhà vua mời sang hỏi về chuyện nước nhà.

Sau khi đọc câu chuyện “Em bé thông minh”, em rất khâm phục trí tuệ cao siêu, vốn hiểu biết sâu rộng của cậu bé nhỏ tuổi. Và lấy đó làm động lực để cố gắng phấn đấu học tập tốt hơn nữa.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 6

Sáng nay, lúc ở thư viện em đã được đọc câu chuyện cổ tích Em bé thông minh rất hay và thú vị.

Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta vào thời xa xưa, khi nhà vua rất trọng hiền tài. Ngài đã ra lệnh cho sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài về giúp mình việc nước. Khi đi đến một làng nọ, sứ giả đã gặp được một cậu bé – nhân vật chính trong câu chuyện. Tất cả, cậu đã vượt qua bốn lần thử thách để chứng minh trí thông minh của mình.

Lần thứ nhất, cậu bé đã đố ngược lại sứ giả rằng “Con ngựa của ông một ngày đi được mấy đường?”, để đối lại câu hỏi khó nhằn “Con trâu kia một ngày cày được mấy đường?” của ông. Lần thứ hai, câu vượt qua thử thách của nhà vua. Khi ngài ban cho ba con trâu đực và ba thúng xôi nếp, yêu cầu phải đẻ thành chín con. Cậu đã mời cả làng thịt trâu, đồ xôi ăn uống no say. Rồi lên kinh thành, giả vờ yêu cầu vua bắt cha mình phải sinh em cho. Khi nhà vua khó xử vì không thể yêu cầu đàn ông sinh con được, thì cậu hỏi ngược lại rằng vậy sao ngài yêu cầu nuôi trâu đực để sinh ra nghé con. Sự thông minh ấy của cậu khiến vua phải kinh ngạc. Nhưng chưa chắc lắm, vua lại thử cậu lần thứ ba. Yêu cầu làm thịt con chim sẻ để làm ba mâm cỗ. Cậu liền nhanh trí đưa một cây kim nhờ nhà vua cho rèn thành con dao để xẻ thịt chim. Lần này, vua thực sự tin rằng cậu bé là người tài. Ngay sau đó, sứ giả nước láng giềng mang sang một câu hỏi khó, rằng phải xỏ sợi dây qua đường ruột ốc. Cả triều đình đều bó tay, mà cậu bé vừa nghe đã giải được, còn hát thành một bài nhạc. Vậy là, cả triều đình đều khâm phục tài năng của cậu. Nên nhà vua đã phong cậu làm trạng nguyên.

Qua câu chuyện, em được biết thêm những câu đố dân gian thú vị. Và hiểu được ý nghĩa, sự quý trọng của người xưa đối với kiến thức, kinh nghiệm dân gian.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 7

Trong những câu chuyện cổ tích đã được đọc, được nghe, em thích nhất là chuyện Thạch Sanh.

Truyện kể về về một đôi vợ chồng già, sau bao năm tháng mong ngóng, cũng sinh được một người con là Thạch Sanh. Thế nhưng, hạnh phúc ngắn ngủi, Thạch Sanh sớm phải mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống cảnh tứ cố vô thân, trong túp lều rách nát dưới gốc đa. Cả gia tài của chàng chỉ là một chiếc rìu sắt. Sau này, chàng được thiên thần dạy cho nhiều phép biến hóa thần thông.

Thấy Thạch Sanh chăm chỉ, hiền lành, Lý Thông lừa chàng về sống cùng để làm việc cho hắn. Vốn khao khát tình thân, Sanh đồng ý ngay. Nào ngờ, lại bị hắn lừa đi nộp mạng cho Chằn Tinh. Chưa hết, khi Thạch Sanh tiêu diệt được kẻ ác, thì Lý Thông lại lừa chàng thêm lần nữa để cướp công. Nhờ vậy, Lý Thông được vua ban thưởng hậu hĩnh, còn Thạch Sanh thì lại trở về sống lầm lũi dưới gốc đa.

Một lần đi hội, Thạch Sanh nhìn thấy con đại bàng tinh bắt cóc một người con gái. Vội đuổi theo giải cứu hết mình. Khi đang loay hoay, chàng gặp Lý Thông, và đề nghị cùng hắn phối hợp giải cứu công chúa. Ngờ đâu, sau khi cứu được công chúa, Lý Thông gian xảo lại lần nữa cướp công chàng, cho lấp cửa hang lại. Bị nhốt, Thạch Sanh vẫn không nản chí, chàng cố tìm lối ra ngoài, nhờ vậy mà cứu được con trai vua Thủy Tề đang bị nhốt. Sau lần đó, chàng nhận được một món quà là cây đàn thần kì.

Hoạn nạn qua đi, vừa trở lại nhà, thì Thạch Sanh lại bị nhốt vào ngục tối, do hồn Chằn Tinh và đại bàng tinh hãm hại. Đau buồn, chàng lấy đàn ra và trút hết nỗi lòng mình. Tiếng đàn bay xa, bay vào cung cấm, giúp công chúa bị câm có thể nói lại được. Nhờ vậy, Thạch Sanh có cơ hội minh oan cho mình, còn mẹ con Lý Thông gian ác bị vạch mặt. Chàng có cho mẹ con chúng được về quê, nhưng giữa đường chúng bị sét đánh chết. Sau này, Thạch Sanh trở thành phò mã. Khi chư hầu mười tám nước đem quân sang đánh, chàng đã thông minh, dũng cảm dùng chiếc đàn thần và niêu cơm thần để đánh bại sĩ khí của kẻ địch. Giúp quân ta chiến thắng mà không có ai phải hi sinh. Thế là, dưới sự tin phục của bao người, Thạch Sanh lên ngôi vua.

Câu chuyện cổ tích Thạch Sanh không chỉ hay và hấp dẫn. Mà nó còn ẩn chứa những bài học quý giá về cách sống, cách làm người.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 8

Trong dân gian ta, những nhân vật thông minh, tài trí luôn được yêu thích hơn cả. Vì vậy, câu chuyện Em bé thông minh đã thu hút em ngay từ lần đọc đầu tiên.

Câu chuyện xoay quanh những lần giải đố nhanh trí của cậu bé thông minh. Lúc ấy, nhà vua cử người đi khắp cả nước để tìm người tài giúp nước. Thế là, viên quan đã gặp cậu bé đang cùng cha cày ruộng. Viên quan đưa ra một câu hỏi hóc búa là “Con trâu kia một ngày cày được bao nhiêu đường?”. Cậu bé lập tức đố ngược lại ông ta rằng “Ngựa của ông một ngày đi được mấy bước?”. Điều đó khiến viên quan tin rằng cậu chính là nhân tài, vội về bẩm tấu cho đức vua.

Nghe báo, vua mừng lắm, nhưng chưa tin hẳn, nên quyết định thử thách cậu bé. Ông sai người ban cho làng cậu ba thúng xôi nếp, ba con trâu đực, yêu cầu phải nuôi làm sao có nghé con nộp lên. Nhận lời đố, cậu bé không hoang mang, mà mời dân làng đồ xôi, thịt trâu ăn uống. Sau đó lên kinh gặp vua. Đến đó, cậu khóc lóc um sùm đòi vua bảo bố sinh em trai cho mình. Hành động ấy khiến vua tin tưởng tài trí của cậu.

Lần thử thách tiếp, nhà yêu cầu cậu làm thịt một con chim sẻ để làm cỗ. Ngay lập tức, cậu bé đưa cho viên quan một cái kim, nhờ vua rèn kim thành dao để mổ thịt chim. Lần này, thì vua thực sự tin tưởng vào tài trí hơn người của cậu bé rồi.

Đúng lúc ấy, nước láng giềng sang nước ta dò thám xem có người tài hay không, bằng một câu đố siêu hóc búa: xâu sợi chỉ qua đường ruột của vỏ ốc. Điều này cả triều đình đều bó tay. Ấy thế mà cậu bé nghĩ ra cách giải ngay, lại còn hát lên thành ca khúc nữa. Thật là thông minh, thật là tài tình. Lần này, cả triều đình và sứ giả, ai cũng nể phục trí tuệ của cậu bé.

Qua những thử thách thú vị, câu chuyện Em bé thông minh vừa khẳng định được trí tuệ dân gian, lại vừa đem đến những tiếng cười giải trí, thú vị cho người đọc.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 9

Có một vị vua nọ, để tìm được người tài giỏi giúp nước đã cho người đi đến khắp nơi trong đất nước để tìm kiếm. Viên quan đã đến nhiều nơi, đưa ra nhiều câu hỏi khó thử tài nhưng không ai giải được.

Một ngày nọ, khi dừng chân nghỉ ngơi bên cánh đồng, thấy hai cha con đang cày ruộng, viên quan bèn hỏi về số đường cày trong ngày của con trâu. Thấy cha không trả lời được, người con trai bèn nhanh trí hỏi ngược lại vị quan rằng một ngày ngựa của ông đi được bao nhiêu bước khiến vị sứ giả thua cuộc. Biết gặp được người tài, vị quan bèn quay về bẩm báo với nhà vua.

Để thử tài cậu bé thông minh, nhà vua đã ban cho ngôi làng của cậu bé 3 thúng gạo nếp và 3 con trâu đực và yêu cầu 1 năm sau phải để cho 3 con trâu đực đẻ thành 9 con. Nhận được lệnh vua, ai nấy trong làng đều lo lắng, sợ hãi nhưng cậu bé lại nói mọi người lấy gạo, giết trâu ăn, còn một phần để cậu bé và cha làm lộ phí vào cung gặp vua. Gặp vua cậu bé đã nhanh trí chứng minh với nhà vua rằng 3 con trâu không thể đẻ.

Thấy được sự nhanh trí của cậu bé, nhà vua đưa thêm một thử thách khi ra lệnh cho cậu bé xẻ thịt một con chim sẻ để làm thành 3 mâm cỗ. Cậu bé đã không hề lo lắng mà yêu cầu nhà vua rèn cho mình cây kim thành con dao để mình xẻ thịt. Qua thử thách lần này nhà vua đã hoàn toàn tin tưởng vào tài trí của cậu bé.

Bấy giờ nước ta có giặc ngoại xâm nhăm nhe xâm lược, để thăm dò nước ta, chúng đã cho người sang thăm dò. Sứ giả của quân giặc đã đưa ra một câu hỏi hóc búa: làm sao để xâu được chỉ qua chiếc vỏ ốc. Cậu bé thông minh đã nhanh trí buộc sợi chỉ vào người con kiến càng, thoa mỡ bên kia vỏ ốc để kiến bò sang. Hoàn thành thử thách, cậu bé không chỉ khiến sứ giả quân địch tâm phục khẩu phục mà còn được nhà vua phong làm trạng nguyên.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 10

Ngày xưa có hai vợ chồng già, vừa nghèo lại chẳng có con, ấy thế mà đến lúc chỉ uống nước từ cái sọ dừa mà lại mang thai, sinh ra một cậu con trai tròn y như trái dừa, không tay không chân, nhưng vẫn biết nói, liền đặt tên là Sọ Dừa.

Dù không chân tay nhưng Sọ Dừa rất thông minh và ngoan ngoãn. Trong lúc đi chăn bò cho phú ông, nhân lúc không có người Sọ Dừa lại trở lại hình dáng con người, thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, vừa chăn bò vừa thổi sáo rất hay. Nhà phú ông có ba cô con gái thì chỉ có cô út là thương và đối xử tử tế với Sọ Dừa, còn lại hai cô kia vì hình dáng kì lạ của Sọ Dừa nên thường hắt hủi.

Do một lần nhìn trộm nên cô út biết Sọ Dừa chính là chàng trai khôi ngô, hình dáng kì lạ kia chỉ là phép thử vì thế đem lòng yêu mến. Đến cuối mùa ở, Sọ Dừa hỏi cưới con gái phú ông, dù phú ông đòi lễ vật rất khó nhưng Sọ Dừa đều mang đến đủ cả và cưới được cô út. Hai vợ chồng Sọ Dừa sống rất vui vẻ và hạnh phúc, cho đến khi Sọ Dừa thi đỗ Trạng Nguyên phải đí sứ. Nhân lúc Sọ Dừa đi sứ, hai cô chị của cô út đã hãm hại em của mình nhằm thay thế muốn làm bà Trạng. Cô út nhờ những vật dụng mà Sọ Dừa để lại là con dao, cục đá và hai quả trứng gà nên dù có bị rơi xuống biển, cá nuốt vào bụng vẫn sống sót trên đảo hoang. Đến một ngày thuyền quan trạng của Sọ Dừa đi qua, gà trống gáy lên báo hiệu Sọ Dừa hãy vào đảo hoang đón vợ. Hai vợ chồng đoàn tụ trong vui mừng, còn hai người chị đành phải bỏ đi biệt xứ.

Nói chung, cốt truyện có thể ly kỳ nhưng vẫn hướng đến những ước mơ giản dị, niềm tin vào chiến thắng của cái thiện trước cái ác, sự công bằng cho con người.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 11

Chuyện kể rằng, ngày xưa có hai vợ chồng già, đã ngoài năm năm mươi tuổi mà chưa có con. Ấy thế mà người vợ chỉ uống nước mưa trong cái sọ dừa lại liền mang thai. Thế nhưng sinh ra lại người chẳng ra người, vật chẳng ra vật, tròn lông lốc như trái dừa, không chân không tay, liền đặt tên là Sọ Dừa.

Suốt nhiều năm trời, Sọ Dừa chỉ ăn rồi lăn đi lăn lại chẳng giúp đỡ được việc gì, đến khi thấy mẹ bảo đi chăn bò, Sọ Dừa liền xin mẹ đi chăn bò cho phú ông. Cứ tưởng Sọ Dừa không được việc nhưng không, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, đều đặn ngày nắng ngày mưa đưa bò đi, lùa bò về con nào cũng căng no, khiến phú ông rất thích. Cô út nhà phú ông có tính thương người, đối với Sọ Dừa rất tử tế, đã thế cô còn biết bí mật của Sọ Dừa. Vì đã có lần cô nhìn lén thấy chàng trai khôi ngô ngồi võng thổi sáo cho bò gặm cỏ biến thành Sọ Dừa. Hết mùa ở, Sọ Dừa muốn cưới con gái phú ông, phú ông ra điều kiện rất khó, phải có đủ: một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mới được cưới. Ai ngờ những lễ vật trên đều được Sọ Dừa chuẩn bị đủ cả, hai cô chị chẳng ai thèm lấy Sọ Dừa, chỉ có cô út là đồng ý.

Ngày đám cưới, Sọ Dừa hiện thân trở lại thành chàng trai khôi ngô tuấn tú, cả nhà ai cũng sững sờ, hai cô chị kai chỉ còn biết tiếc ghen. Mấy năm sau, Sọ Dừa thi đỗ Trạng Nguyên, được vua cử đi sứ, không yên tâm để vợ ở nhà, Sọ Dừa đưa cho vợ hòn đá lửa, con dao và hai quả trứng phòng thân. Hóa ra Sọ Dừa đã biết trước mưu đồ hại vợ mình của hai người chị. Họ đem vợ Sọ Dừa lên thuyền, chở ra biển rồi thả xuống, nhờ có con dao nên khi bị cá chình nuốt, vợ Sọ Dừa đã mổ bụng cá chui ra sau đó bơi lên đảo mài đá ra lửa nướng cá ăn sống qua ngày. Hai quả trứng cũng nở ra hai con gà, đến một ngày con gà nhìn thấy thuyền quan Trạng đi qua liền gáy ” Ò ó o! Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”, Sọ Dừa biết vợ mình gặp nạn ở đó liền vào đón về nhà. Vợ chồng Sọ Dừa đoàn tụ mở tiệc linh đình, chỉ có hai cô chị là chẳng còn mặt mũi nào đành phải cao chạy xa bay.

Bài học rút ra qua truyện Sọ Dừa chính là tình thương người, không nên phân biệt đối xử, kì thị với những người có vẻ ngoài kì lạ. Hãy đối xử công bằng và giàu lòng nhân ái với nhau chúng ta sẽ nhận lại được những điều tốt đẹp.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 12

Sọ Dừa là câu chuyện cổ tích đầu tiên em được đọc, và đó cũng là câu chuyện em yêu thích nhất.

Chuyện kể về một người đàn bà, vì uống nước trong cái gáo dừa, mà mang thai và sinh ra đứa con có ngoại hình xấu xí, kì lạ. Thế là bà đặt tên cho con là Sọ Dừa. Tuy vẻ ngoài xấu xí, đi lại bất tiện, nhưng Sọ Dừa vẫn rất chăm chỉ, chịu khó. Chàng đã nhờ mẹ xin cho được đi chăn bò của nhà phú ông. Đáp lại sự nghi ngờ của mọi người, chàng không chỉ trông được đàn bò, mà còn chăm chúng béo tốt. Trong thời gian ấy, con gái út của phú ông không ngại vẻ ngoài của Sọ Dừa, mà vẫn mang cơm đến cho chàng. Cảm động, chàng nhờ mẹ đến hỏi cưới cô. Ngày cưới, Sọ Dừa trở về hình dáng bình thường, khôi ngô tuấn tú, lại có nhà rộng, gia nhân tấp nập khiến ai cũng ngạc nhiên. Không chỉ thế, sau khi kết hôn, Sọ Dừa còn chăm chỉ dùi mài kinh sử, thi đỗ Trạng Nguyên. Điều đó khiến cho hai chị gái của vợ chàng hết sức ghen ghét.

Nhân lúc Sọ Dừa đi sứ, hai cô chị rủ cô em ra biển chơi, rồi đẩy cô xuống nước, hòng cướp đoạt vị trí vợ Trạng Nguyên. Nhưng may mắn, nhờ vào hòn đá lửa, con dao và mấy quả trứng gà Sọ Dừa dặn mang theo, mà cô em gái sống sót được. Cuối cùng, khổ tận cam lai, hai vợ chồng đoàn tụ được với nhau, sống hạnh phúc đến cuối đời. Còn hai cô chị xấu xa thì tủi hổ mà bỏ đi biệt xứ.

Qua câu chuyện Sọ Dừa, tác giả dân gian đã gửi gắm chúng ta bài học về cách đối nhân xử thế, không nên quan trọng vẻ bề ngoài, mà phải chú trọng đến phẩm chất. Một người có trái tim nhân hậu, tốt bụng, thông minh thì mới là người đáng quý.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 13

Đọc truyện Tấm Cám chúng ta cảm nhận được đây không chỉ là một câu chuyện cổ tích đơn thuần. Đó còn là câu chuyện về hạnh phúc gia đình, đức tính con người, công bằng xã hội và cái thiện cái ác.

Ở làng nọ có hai chị em cùng cha khác mẹ, người chị tên Tấm hiền lành, hiếu thảo, chăm làm; người em tên Cám ham chơi, lười làm, xấu tính xấu nết. Hai chị em cùng phải đi bắt tép, ai bắt nhiều hơn sẽ có thưởng, Tấm chăm chỉ bắt được đầy một giỏ nhưng cuối cùng lại bị Cám cướp hết. Tấm chỉ biết khóc nhưng ở hiền sẽ gặp lành, Tấm đã được bụt giúp đỡ, bụt biến ra con cá bống trong giỏ của Tấm, Tấm đem về nuôi dưới giếng, mỗi lần cho ăn lại gọi vang:

“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”

Chẳng may mẹ con Cám đã thuộc câu gọi này, có lần họ lấy cơm ra gọi cá bống như thế và đã bắt được cá làm thịt ăn với nhau. Tấm khi đi chăn trâu về chẳng thấy cá bống đâu, sau khi được Bụt giúp đỡ chỉ tìm lại được nắm xương của cá. Những nắm xương cá được Tấm cho vào bốn cái lọ chôn dưới bốn chân giường.

Đến ngày vua mở hội, Tấm cũng muốn đi trẩy hội như bao người nhưng dì ghẻ vì không muốn cho Tấm đi nên đem thóc gạo đổ lẫn vào nhau, bắt Tấm nhặt riêng ra xong mới được đi. Lần này Bụt lại hiện lên, sai đàn chim sẻ nhặt thóc gạo cho Tấm, sau đó Tấm lại lấy ra từ bốn lọ xương cá nào là yếm lụa, giày thêu, yên cương lại cả một con ngựa đẹp. Tấm lên đường đi trẩy hội không may làm rơi một chiếc giày xuống hồ, khi vua đi ngang qua đây lại nhặt được giày của Tấm.

Nhìn chiếc giày nhỏ đẹp vua biết chắc đây là người con gái đẹp nên ra lệnh nếu ai đi vừa chiếc giày này vua sẽ cưới làm hoàng hậu. Tấm lên thử giày, giày vừa như in vì là cùng một đôi của Tấm, thế là trước sự ghen tức của mẹ con Cám, Tấm đã trở thành hoàng hậu. Trong một lần về giỗ cha, Tấm bị dì ghẻ hại chết nhằm đưa Cám vào cung thay Tấm. Tấm sau đó hiện thân thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, khung cửi và quả thị. Cuối cùng bà lão hàng nước, người đã đem quả thị về nhà đã giúp tấm trở lại thành người. Hàng ngày Tấm têm trầu, phụ bà lão bán nước, một ngày vua đi ngang qua nhìn miếng trầu têm liền nhớ đến vợ, sau khi nhìn thấy Tấm liền đưa trở lại hoàng cung. Cám thấy Tấm trở về xinh đẹp hơn trước liền bất chấp nghe theo lời Tấm mà tắm nước sôi, kết cục là chết và bị làm thành mắm. Hũ mắm được gửi về nhà mụ dì ghẻ, ban đầu mụ ăn còn khen ngon, sau khi biết con gái chết cùng chết theo.

Những người độc ác, luôn bày mưu tính kế hại người như mẹ con Cám cuối cùng cũng phải nhận cái chết. Còn người tốt lương thiện như Tấm cuối cùng cũng được bình an và hạnh phúc.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 14

Câu chuyện kể về một đôi vợ chồng già đã ngoài năm mươi không có con cái, trong một lần người vợ uống nước mưa trong cái sọ dừa thì liền mang thai. Sinh ra một cậu con trai có hình dáng quái dị, không tay, không chân chỉ biết lăn lóc, người ta gọi nó là Sọ Dừa.

Sọ Dừa tuy có vẻ ngoài quái dị nhưng vẫn rất ngoan ngoãn, biết chăn bò cho phú ông giúp đỡ mẹ già. Sọ Dừa đi chăn bò cho phú ông rất giỏi, còn nào con nấy căng no, phú ông rất thích. Phú ông có ba cô con gái thay nhau đưa cơm cho Sọ Dừa, hai cô chị thì khinh thường, hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô út là thương người và đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Có lần cô út nhìn thấy Sọ Dừa biến thành một chàng trai khôi ngô ngồi trên võng thổi sáo cho bò gặm cỏ. Cô đã đem lòng yêu Sọ Dừa từ đó. Đến khi Sọ Dừa xin hỏi cưới vợ, sắm đủ lễ vật theo ý của phú ông gồm: một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm, cũng chỉ có cô út đồng ý lấy Sọ Dừa.

Ngày đám cưới, Sọ Dừa với dáng hình con người cùng cô út đi ra ai nấy đều ngỡ ngàng, sửng sốt còn hai chị của cô út thì vừa tiếc, vừa ghen. Hai vợ chồng đang sống vui vẻ hạnh phúc thì Sọ Dừa thi đỗ Trạng Nguyên được vua cử đi sứ. Trước khi đi Sọ Dừa đưa cho vợ ba thứ: hòn đá lửa, con dao và hai quả trứng gà. Nhân lúc Sọ Dừa đi vắng, hai cô chị liền bày kế hãm hại cô út, cho cô út lên thuyền rồi thả xuống biển. Vợ Sọ Dừa bị cá chình ăn thì lấy dao mổ bụng cá chui ra, lạc lên đảo hoang thì lấy đá tạo ra lửa, nướng cá ăn, quả trứng nở ra đôi gà làm bạn. Đến khi Sọ Dừa đi sứ về, thuyền đi qua đảo liền nghe tiếng gà gáy ” Ò ó o! Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”. Thế là hai vợ chồng được đoàn tụ sum vầy sống hạnh phúc, còn hai người chị kia vì xấu hổ mà phải bỏ đi biệt xứ.

Câu chuyện không chỉ phản ánh những ước mơ của nhân dân trong cuộc sống đầy khó khăn mà còn đề cao giá trị chân chính của con người và tình thương đối với những người bất hạnh.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 15

Em đã từng được đọc rất nhiều câu chuyện cổ tích thú vị. Nhưng câu chuyện khiến em ấn tượng nhất, vẫn là câu chuyện Cây tre trăm đốt.

Truyện kể về một anh chàng nông dân chăm chỉ lại thật thà. Vì đem lòng yêu mến con gái phú ông, mà anh làm việc quần quật hết lòng cho ông ta, không lấy tiền công. Thế mà đến lúc cô gái chuẩn bị lấy chồng, phú ông lại bắt anh phải tìm được một cây tre trăm đốt. Tuy biết khó khăn, anh vẫn phải đồng ý đi tìm. Suốt bao ngày vất vả, khó khăn lặn lội trong rừng tre, anh nông dân tội nghiệp vẫn chẳng tìm được cây tre nào có đủ trăm đốt cả. Bất lực, buồn đau, anh ngồi bệt xuống đất mà khóc.

Thấy vậy, bụt hiện lên và hỏi thăm anh. Biết rõ ngọn nguồn sự tình, bụt bảo anh đi chặt đủ một trăm khúc tre về đây, rồi sẽ dạy anh thần chú. Nghe vậy, anh mừng lắm, vội vàng đi chặt tre ngay. Đủ khúc tre, bụt dạy anh hai câu thần chú “khắc nhập khắc nhập” và “khắc xuất khắc xuất” để ghép các đốt tre lại với nhau. Mừng rỡ vô cùng, anh cảm ơn bụt và vội vàng trở về nhà. Ngờ đâu, ở nhà, tên phú ông lại đang làm đám cưới cho con gái mình và một tên phú ông khác. Tức giận quá, chàng liền đọc thần chú, dính tên địa chủ và tên nhà giàu vào khúc tre, không sao gỡ được. Phải đến lúc ông ta chịu thực hiện lời hứa, anh mới thả ra. Cuối cùng, sau bao nhiêu cực khổ, anh nông dân cũng cưới được người mình thương.

Câu chuyện Cây tre trăm đốt đã được các tác giả dân gian gửi gắm vào ước mơ về một xã hội công bằng. Những người hiền lành, chăm chỉ thì chắc chắn sẽ được hạnh phúc, còn kẻ tham lam thì sẽ bị trừng trị thích đáng.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 16

Ở trước nhà em có trồng rất nhiều tre. Khi rảnh rỗi, em thường ngồi đếm các đốt của từng cây tre. Mỗi lần như vậy em lại nhớ về truyện cổ tích Cây tre trăm đốt mà mẹ từng kể.

Chuyện kể về một anh chàng đầy tớ nghèo khó nhưng chịu khó làm lụng. Anh làm việc cho lão phú ông trong làng, và được ông ta hứa là nếu chịu khó làm thì lão sẽ gả cô con gái xinh đẹp của mình cho. Nghe vậy, anh vui lắm, nên ra sức làm những việc phú ông yêu cầu, không quản mệt nhọc, vất vả.

Tuy nhiên, đời nào mà lão phú ông lại gả con gái của mình cho một kẻ nghèo khổ, đi làm thuê cơ chứ. Đến khi cô con gái đủ tuổi kén rể thì ông ta đã vội vàng đồng ý, gả cô cho tên nhà giàu ở làng bên.

Vì để dấu diếm chàng đầy tớ nhà mình, phú ông nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một cây tre trăm đốt về làm sính lễ thì mới gả con gái cho. Thế là chàng trai vội vàng lên rừng tìm kiếm cây tre trăm đốt. Thế nhưng chàng tìm mãi, tìm mãi vẫn không tìm được cây tre trăm đốt nào cả. Quá mệt mỏi và tuyệt vọng, chàng ngồi xuống bật khóc tức tưởi. Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre và dạy cho anh hai câu thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre tự rời nhau ra.

Thế là chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về đến nơi, chàng thấy trên sân là đám cỗ linh đình thì nhận ra là mình bị lừa. Thế nhưng chàng vẫn gọi phú ông ra xem cây tre trăm đốt. Khi lão ta vừa lại gần, chàng đọc ngay thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” khiến lão bị dính luôn vào cây tre. Cả nhà hỗn loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn không gỡ lão ra được. Mãi sau, lão đồng ý gả con gái cho chàng đúng như đã hứa. Chàng không tin ngay, mà bắt lão thề thốt nhiều lần mới thả cho lão xuống.

Từ đó, mọi người ai càng nể phục chàng. Chàng cưới được cô vợ xinh đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 17

Truyện cổ tích Tấm Cám chắc hẳn ai cũng đã từng đọc hoặc nghe đến ít nhất một lần. Câu chuyện tuy có nhiều yếu tố hoang đường, không có thật nhưng để lại cho chúng ta rất nhiều bài học vì thế vẫn được lưu truyền đến ngày hôm nay.

Tấm và Cám là hai chị em nhưng là cùng cha khác mẹ. Mẹ Cám chỉ biết quan tâm, lo lắng và chiều chuộng con gái mình, ngược lại luôn hành hạ, sai khiến và chửi mắng Tấm, bắt Tấm làm mọi việc trong nhà. Cả buổi chiều Tấm hì hụi lội bùn bắt được một giỏ đầy tép lại bị Cám cướp trắng chỉ còn lại một chú cá bống nhỏ. Đó là con cá bống mà bụt ban cho Tấm, Tấm đem cá về nuôi dưới giếng, hàng ngày cho cá ăn.

Một hôm hai mẹ con Cám đã lừa tấm làm thịt cá bống vứt tro vào bếp. Nhờ có Bụt mà Tấm tìm được đống xương cá trong tro bếp sau đó bỏ vào bốn cái lọ chôn dưới chân giường. Ngày nọ, vua cho mở hội linh đình, ai nấy đều sắm sửa đi trẩy hội, Tấm cũng muốn đi nhưng lại bị mụ dì ghẻ bắt ở nhà. Khi ấy bụt lại hiện lên, khiến đàn chim sẻ nhặt thóc và gạo thành hai đống khác nhau lại còn biến hóa đống xương cá thành áo lụa, giày thêu, ngựa và yên cương đẹp đẽ.

Tấm trên đường đi trẩy hội đã làm rơi chiếc giày, Vua nhặt được bèn ra lệnh nếu ai đi vừa chiếc giày này sẽ làm vợ vua. Vì chính là chiếc giày Tấm đánh rơi nên Tấm đã đi vừa nên trở thành vợ vua. Tuy nhiên ngay sau đó mẹ con Cám đã hại chết Tấm. Lừa Tấm trèo lên cây cau cao rồi chặt cây khiến Tấm chết. Về sau Tấm hóa thân thành nhiều thứ khác nhau để luôn được bên cạnh vua lại có thể trừng phạt mẹ con Cám. Lúc thì hóa thân thành con chim vàng anh hót bên cạnh nhà vua, lúc lại là hai cây xoan đào che mát, lúc là khung cửi và cuối cùng là quả thị.

Quả thị được bà lão hàng nước đem về để trong nhà, hàng ngày Tấm bước ra từ quả thị dọn dẹp nhà cửa nấu cơm cho bà lão, bà lão khi phát hiện ra Tấm liền không cho Tấm trở lại vào quả thị nữa. Nhờ miếng trầu têm của Tấm mà nhà vua phát hiện ra vợ mình sau đó đón Tấm trở về cung. Lần này Tấm về, Cám bèn xin cách làm sao lại càng trẻ đẹp ra như thế. Tấm liền chỉ cách tắm nước sôi, thế là Cám chết. Sau đó Tấm gửi lọ mắm về cho mụ dì ghẻ, mụ ta khi biết hũ mắm được làm từ con gái liền lăn ra chết.

Kết thúc chuyện chúng ta thấy Cám và mẹ Cám vẫn chưa chịu nhiều khổ đau bằng Tấm. Tuy nhiên chân lý “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” không bao giờ sai, làm người phải luôn nhớ gieo nhân nào sẽ gặp quả đó.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 18

Cứ ngỡ truyện cổ tích thường giống như thế giới phép màu đẹp đẽ như thiên đường. Thế nhưng cổ tích Việt Nam lại chân thực và mang tính giáo dục, nhận thức nhiều hơn. Và truyện Tấm Cám chính là một truyện cổ tích như thế.

Ở một nhà kia có hai chị em tên Tấm và Cám. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ hai. Bố mẹ Tấm đều mất sớm, Tấm phải ở chung hai mẹ con dì ghẻ. Tuy cùng được sai làm công việc bắt tép như nhau nhưng Tấm thì lội bùn khắp nơi xúc tép còn Cám chỉ ngồi trên bờ. Chờ cho Tấm bắt đầy một giỏ Cám liền lừa Tấm đi gội đầu rồi đổ hết tép vào giỏ của mình xách về nhà nhận thưởng của mẹ. Tấm mất hết cá nhưng lại được Bụt giúp đỡ cho con cá bống, Tấm nuôi cá dưới giếng, hàng ngày gọi lên cho ăn cơm. Đến một ngày mẹ con Cám gọi cá bống của Tấm lên rồi bắt làm thịt, vứt xương vào đống tro bếp. Tấm về gọi không thấy cá lại khóc, lúc này bụt giúp Tấm tìm lại xương cá, bày cho Tấm bỏ xương vào lọ chôn xuống đất sau này mở ra sẽ có thứ cần.

Nhà vua cho mở hội linh đình, khắp nơi mọi người kéo về kinh đô trẩy hội, Tấm rất muốn đi nhưng lại bị dì ghẻ trộn một đống thóc gạo lẫn lộn rồi bắt ngồi nhặt. May thay bụt lại hiện lên giúp đỡ, đàn chim sẻ đã nhặt thóc gạo giúp Tấm. Sau đó Tấm đào bốn lọ đựng xương dưới đất lên, mở ra toàn là áo yếm lụa, còn có cả ngựa, yên ngựa và đặc biệt là đôi giày thêu rất đẹp. Tấm bước lên ngựa đi về phía kinh đô, khi đi qua cầu thì bị rơi một chiếc giày. Lúc sau Vua nhặt được chiếc giày bèn sai lính đưa tin “tất cả đàn bà con gái nếu chân ai đi vừa chiếc giày này vua sẽ lấy làm vợ”.

Biết bao người thử không vừa, đến lượt Tấm thì vừa như in vì đó chính là giày Tấm làm rơi. Sau khi Tấm làm vợ vua có lần về giỗ cha liền bị dì ghẻ hại chết. Tấm chết nhưng lại hóa thân thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, vừa để bên cạnh vua vừa trông chừng Cám.

Tấm từ quả thị bước ra, nàng sống cùng bà lão bán nước. Tấm không chỉ dọn dẹp nhà cửa cho bà lại giúp bà têm trầu. Một lần tình cờ nhà vua đi ngang qua biết vợ mình chính là người têm trầu cho bà lão liền đón Tấm trở lại về cung. Sau khi Tấm trở về, Cám liền sinh lòng đố kỵ, muốn được xinh đẹp như chị, Tấm liền bày cách đào hố sâu rồi bào Cám xuống hố dội nước sôi lên, kết quả là Cám chết. Tấm đem xác Cám làm thành mắm gửi về cho dì ghẻ, mụ ta sau khi ăn gần hết hũ mắm mới nhận ra chính là con gái mình liền lăn đùng ra chết.

Truyện cổ tích Tấm Cám khuyên răn con người ta nên sống lương thiện và nhân ái, không nên ghen ghét đố kỵ và hãm hại người khác.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 19

Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi mà vẫn chưa có con. Một hôm nọ, trời nắng rất to, người vợ vào rừng lấy củi cho chủ, khát nước quá không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên cạnh gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì có mang. Chẳng bao lâu sau, bà sinh ra một đứa bé không chân không tay, tròn như một quả dừa nhưng lại biết nói. Bà toan vứt đi thì bỗng nhiên đứa bé cất tiếng nói:

– Mẹ ơi, con là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.

Thương con, bà lão giữ lại nuôi. S au khi lớn lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Nhà phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt kiêu kỳ, chỉ có cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.

Cuối mùa ở, Sọ Dừa đòi mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy, vì thương con nên đành đến nhà phú ông hỏi cưới. Phù ông nghe bà lão nói thì cười lớn rồi nói:

– Muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.

Bà lão trở về nhà nói với con. Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Đến ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang sang nhà phú ông. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.

Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa rất hạnh phúc. Sọ Dừa học hành chăm chỉ đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trong thời gian đó, hai cô chị sinh lòng đố kị, bày mưu hãm hại em gái. Hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt chửng vào bụng. Sẵn có con dao mà Sọ Dừa đưa cho cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo. Nhờ có những đồ vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út sống sót trên đảo hoang.

Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:

– Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 20

Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, em thích nhất là câu chuyện Cây khế.

Câu chuyện kể về hai anh em trai cùng chung sống trong một gia đình, nhưng có tính cách trái ngược nhau hoàn toàn. Người anh tham lam, xảo trá, người em hiền lành, lương thiện lại chăm chỉ. Sau khi người cha qua đời, người anh xấu xa đã cướp hết toàn bộ gia sản, đuổi vợ chồng người em ra ngoài, chỉ để cho họ một cây khế già và một túp lều nhỏ. Thế là hai vợ chồng người em đành bắt đầu cuộc sống mưu sinh vất vả.

Năm nọ, cây khế ra nhiều trái ngon, hai vợ chồng định bụng đem bán kiếm thêm thu nhập. Ngờ đâu, có một con chim lớn từ nơi khác bay đến, ăn rất nhiều trái. Người em than thở với chim, mong chim đừng ăn nữa. Ngờ đâu, chim hiểu tiếng người, đã chở người em ra một hòn đảo để lấy vàng đổi cho số khế mình đã ăn. Nhờ vậy, gia đình người em trở nên giàu có, sung túc. Biết được, người anh tham lam nằng nặc xin đổi gia sản để lấy cây khế của người em. Hắn bắt chước em mình than thở để được chim chở ra đảo vàng, nhưng vì tham lam, lấy quá nhiều nên chim không chở nổi, rớt xuống biển và mất tích.

Kết thúc câu chuyện, người em hiền lành được hưởng cuộc sống hạnh phúc, còn người anh xấu xa thì nhận cái kết thích đáng. Bài học ở hiền gặp lành trong câu chuyện ấy đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 21

Tuổi thơ của chúng ta ai chẳng được nghe kể về những câu chuyện cổ tích thú vị và Thạch Sanh là một truyện rất hay mà em luôn nhớ rõ.

Chuyện kể về đôi vợ chồng già nhưng chưa có con, họ rất tốt bụng, hay giúp đỡ người khác. Thấy thương cảm Ngọc Hoàng phái Thái tử đầu thai làm con, gọi là Thạch Sanh. Hai vợ chồng tuổi cao sức yếu đã sớm qua đời chỉ còn Thạch Sanh vừa khôn lớn phải sống một mình cạnh gốc đa hành nghề kiếm củi.

Một hôm người hàng rượu Lý Thông thấy Thạch Sanh khỏe như voi nên đã gạ kết nghĩa anh em. Thạch Sanh cảm động, vui vẻ đồng ý.

Bấy giờ có con chằn tinh, có nhiều phép lạ, chuyên ăn thịt người, mỗi năm phải cúng mạng người cho nó. Lần này đến lượt Lý Thông, hắn bèn lừa Thạch Sanh đi canh miếu thờ thay mình. Thạch Sanh thật thà nhận lời, đến đêm thì chằn tinh xuất hiện, bằng tài nghệ chàng dễ dàng hạ nó. Nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Chàng chặt đầu nó và nhặt bộ cung tên xách về. Lý Thông thấy vậy liền cướp công, nhà vua phong hắn chức Quận công.

Vua mở hội kén rể cho công chúa, đột nhiên nàng bị đại bàng bắt đi. Thạch Sanh thấy đại bàng quắp người bèn lấy cung bắn nó bị thương, lần theo vết màu tìm được hang ổ. Lý Thông lại tìm đến nhờ Thạch Sanh dẫn đường đi cứu công chúa. Khi cứu được người, hắn ta sai người lấp hang nhốt chàng hòng cướp công. Ở trong hang, chàng lại cứu được con vua Thủy Tề, nhà vua tặng cho cây đàn thần. Chàng lại trở về gốc đa.

Hồn chằn tinh và đại bàng báo thù Thạch Sanh bằng cách ăn cắp của cải mang đến gốc đa, chàng bị bắt vào ngục.

Công chúa từ khi về cung bỗng bị câm, không ai chữa khỏi được. Trong ngục tối Thạch Sanh lấy đàn ra gảy, công chúa lập tức khỏi bệnh. Chàng được minh oan, mẹ con Lý Thông được tha cho về quê làm ăn nhưng trên đường về bị sét đánh hóa thành thạch bọ hung.

Lễ cưới công chúa và Thạch Sanh diễn ra long trọng. Hoàng tử các nước chư hầu thấy thế rất tức giận đem quân đến đánh. Thạch Sanh mang đàn ra đánh, đẩy lùi được quân 18 nước chư hầu. Thiết đãi cơm niêu thần ăn mãi không hết khiến người người cúi lạy. Về sau, nhà vua không có con trai đã nhường ngôi cho Thạch Sanh, chàng và công chúa sống hạnh phúc bên nhau.

Đây là một câu chuyện kết thúc có hậu, và nó còn dạy cho em bài học: ở hiền thì gặp lành, ác giả thì ác báo – một bài học mà ông cha muốn truyền cho con cháu sau này.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 22

Ngày xưa có hai anh em nhà nọ cha mẹ mất sớm để lại cho một ngôi nhà ngói và một số ruộng vườn. Mấy năm sau, hai anh em đều lấy vợ, không thể ở chung với nhau được nữa. Người anh bèn chia gia tài. Vốn tham lam, người anh giành hết ruộng vườn nhà cửa, chỉ chia cho người em một mái nhà gianh và một cây khế.

Vợ chồng người em hiền lành và cần cù, cày thuê cuốc mướn kiếm sống. Cây khế được vun gốc, bón phân, tưới nước, bắt sâu, ngày một tươi tốt, cành lá sum suê tỏa bóng mát một góc sân. Mùa hè năm ấy, cây khế ra hoa rồi kết quả. Ngày qua tháng lại, trái khế trĩu cành. Những quả khế to năm cánh bóng mượt, vàng óng dần lên. Vợ chồng người em khấp khởi mừng thầm: tiền bán khế sẽ mua được ít nhiều lúa gạo.

Nhưng một buổi sáng tinh mơ, có con chim Đại Bàng ở đâu bay đến cây khế. Chim ăn hết quả chín này đến quả chín khác. Vợ chồng người em lo lắm, không biết làm thế nào. Cả hai vợ chồng cùng thốt lên lời than:
– Cơ nghiệp vợ chồng tôi chỉ có ngần ấy! Chim ăn hết thì biết trông cậy vào đâu khi ngày ba, tháng tám!

Kì lạ thay, con chim lạ cất tiếng nói:

– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Biết là con chim thần, người vợ may cho chồng một cái túi ba gang. Họ thấp thỏm đợi chờ. Mấy ngày sau, đại bàng lại bay đến, xòe rộng đôi cánh, rồi đỗ xuống sân. Chim cất tiếng gọi rối rít. Người em mang theo cái túi ba gang, nhẹ nhàng leo lên mình chim, ôm lấy cổ chim. Đại bàng vỗ cánh bay lên cao.

Chim chở người em bay qua những cánh đồng xanh bát ngát, vượt qua những ngọn đồi, dãy núi điệp trùng, bay dọc theo những dòng sông như dải thát lưng xanh xa dài tít tắp. Lúc bay thấp, lúc bay cao lẩn vào những cồn mây trắng như bông. Rồi chim sải cánh vút qua biển rộng, nước xanh biếc một màu mênh mông. Đại Bàng bay mải miết. Người em say sưa và xúc động trước cảnh đất trời mây nước bao la. Đến non trưa, chim lượn ba vòng rồi đậu xuống một hòn đảo lấp lánh giữa biển.

Một cảnh tượng vô cùng kì lạ hiện ra. Cả một kho báu rực rỡ lấp lánh sác màu. Bạch ngọc, hồng ngọc, ngọc tị trân chân, ngọc lam,… đủ hình dáng to nhỏ. Còn vàng khối thì có không biết bao nhiêu mà kể. Như lạc vào cõi thần tiên, người em chỉ biết say sưa ngắm nhìn gần xa. Và khi nghe chim giục, người em chọn mỗi thứ một ít vàng ngọc bỏ vào cái túi ba gang.

Lại trèo lên mình chim, người em một tay giữ lấy túi vàng, một tay ôm lấy cổ chim. Đại bàng vút bay qua biển rộng sông dài, băng qua những dãy núi đồi, vượt qua những cánh đồng lúa xanh rì… Trước mắt anh, làng cũ thân thuộc đã hiện ra. Đại bàng lượn ba vòng xung quanh cây khế, nhẹ đáp xuống sân. Khi người vợ trẻ chạy ra đón chồng, xách hộ cái túi ba gang đựng đầy châu báu đưa vào nhà, thì đại bàng cũng vút bay lên chín tầng mây xanh.

Vợ chồng người em trở nên giàu có từ đó.

Người anh biết chuyện, đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy cây khế và mái lều gianh. Mùa khế năm sau, đại bàng lại bay đến ăn quả. Vợ chồng người anh đã chực sẵn bao tháng ngày, vội vàng chạy ra kêu to lên.

Đại bàng cất tiếng:

– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.

Vợ chồng người anh bàn bạc mãi. Cuối cùng may một cái túi rõ to, rõ dài, một cái túi chín gang. Rồi đại bàng đúng hẹn bay đến chở người anh bay thẳng một mạch đến đảo vàng. Người anh lóa mắt lên trước núi vàng, núi ngọc. Anh ta nhặt và nhét đầy cái túi to. Anh ta còn nhặt nhiều thỏi vàng dắt vào xung quanh cạp quần. Chim giục mãi, anh ta mới chịu trèo lên lưng chim. Chim đập cánh ba, bốn lần mới bay lên được. Khi ra đến giữa biển, gió mạnh thổi lên, chim mỏi quá nghiêng cánh. Cả cái túi vàng nặng trĩu rơi xuống kéo theo kẻ tham lam xuống đáy biển.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 23

Con người thông minh thì làm việc gì cũng dễ dàng vì họ nghĩ ra các phương pháp tốt và hiệu quả nhất để giải quyết những đề đó. Người thông minh nếu có nhân cách và đạo đức tốt thì sẽ trở thành những nhân tố giúp đất nước phát triển. Dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu chuyện nói về người thông minh nhưng câu chuyện mà tôi ấn tượng nhất là câu chuyện “Em bé thông minh” sau đây tôi xin kể lại câu chuyện.

Ngày ấy, đất nước ta đang đứng trước nguy cơ bị xâm lược, ở bên ngoài kia bọn giặc nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Nhà vua lo lắng cho đất nước cho muôn dân thiên hạ nên đã cử một viên quan đi khắp đất nước để tìm người tài. Viên quan ấy đã đi khắp nơi, đến nhiều chỗ, gặp qua rất nhiều người và ra những câu hỏi hóc búa nhưng ông vẫn không tìm được người nào cả.

Một hôm ông đi qua một cánh đồng thấy hai cha con nọ đang đi cày ruộng ông đứng lại hỏi “Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?” đây là một câu hỏi khó bởi nào có ai đếm lại xem mình đã cày bao nhiêu đường, người cha loay hoay không biết trả lời làm sao thì đứa con đã của người nông dân kia đã hỏi ngược lại: Con sẽ trả lời câu hỏi của ngài nếu ngài cho con biết chính xác một ngày đường ngựa của quan đi được bao nhiêu bước? Viên quan nghe cậu bé hỏi vậy thì sửng sốt ông ngạc nhiên với tài năng của cậu bé ông nghĩ đây nhất định là thiên tài rồi và ông liền hỏi lại tên địa chỉ quê quán rồi về tâu lại với nhà vua.

Về đến cung ông đã kể lại chuyện này cho nhà vua nghe và ông khẳng định với nhà vua đây chính là nhân tài của đất nước. Nghe thấy viên quan khẳng định chắc nịch như thế vua mừng lắm, nhưng ông vẫn muốn thử tài năng của cậu bé nữa để xác minh lại. Vua liền hạ chỉ ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp, ba con trâu đực và yêu cầu dân làng phải dùng số gạo ấy để nuôi trâu, một năm sau ba con trâu ấy phải đẻ thành chín con. Nếu không nộp đủ thì làng phải chịu tội”. Thấy thế dân làng ai nấy đều lo lắng lắm vì trâu đực là sao mà đẻ được con, dân làng đã họp bàn rất nhiều lần nhưng vẫn không tìm được giải pháp. Cậu bé nghe được chuyện này liền thưa với cha: Cha ơi, đây chẳng phải lộc vua ban ư? cha hãy nói với dân làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người cùng ăn. Còn lại một trâu và thúng gạo cha xin làng bán để lấy lộ phí cho hai cha con ta vào cung. Nghe lời con nói người cha ra đình làng nói với làng cả làng sửng sốt nhưng không tìm được giải pháp nào nên đánh chấp nhận.

Ngày hôm sau, hai cha con bắt đầu lên đường để vào kinh, khi đã đến cổng vua, cậu bé bảo cha đứng ngoài đợi còn mình thì lẻn vào sân vua để khóc. Nghe thấy tiếng trẻ con khóc nhà vua liền sai lính ra đưa cậu bé vào hỏi “Thằng bé kia, có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc ầm ĩ, làm kinh động đến ta?” Nghe thấy vua hỏi cậu bé liền nói: “Thưa đức vua, sự tình là như vậy, mẹ con mất từ sớm mà cha thì mãi không chịu đẻ thêm em bé để cùng chơi đùa với con. Dám mong nhà vua hạ lệnh để cha con đẻ em cho con chơi”. Vua nghe xong liền bật cười và nói: ” Ngươi muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha chứ cha ngươi là đàn ông thì sao mà đẻ được” cậu bé nghe thấy thế liền đáp lại “Thế sao làng của con lại bị lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”

Trước cách ứng xử nhạy bén của cậu bé cả vua và chiều thần đều trầm trồ khen ngợi. Nhà vua chưa dừng ở đó ông vẫn muốn thử cậu bé thêm lần nữa. Hôm sau khi hai cha con đang ngồi ăn cơm thì sứ giả đến ông ta mang theo một con chim sẻ và bảo cậu làm ra ba mâm cỗ đầy. Em bé ngồi nghĩ một lúc và cậu đưa cho sứ giả một cây kim và bảo mang cây kim này đi rèn thành một con dao để sẻ chim.

Sứ giả về tâu với nhà vua và vua rất vui mừng vì đã tìm ra nhân tài liền ban thưởng cho hai cha con họ.

Nước láng giềng đang lăm le xâm lược nước ta nhưng chúng vẫn chưa hành động vì sợ nước ta có nhân tài nên chúng đã gửi sứ giả sang để thám thính. Sứ thần mang lên một vỏ ốc dài và một sợi dây đố dùng sợi dây xuyên qua ruột ốc. Câu hỏi của nước bạn của thật rất khó, các bá quan trong triều thử hết mọi cách nhưng không làm được. Không tìm được cách nhà vua liền sai sứ giả trở về quê cậu bé xem tìm được cách nào không đến nơi sứ giả trình bày câu chuyện cho cậu bé nghe và cậu bé bật cười và hát :

Tang tình tang, tình tính tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang
Tang, tình tang…

Và em bé bảo cứ làm theo cách đấy là được. Viên sứ giả vội về tâu với nhà vua cả triều đình vui sướng sứ giả nước láng giềng thán phục. Nhà vua đã phong cho em bé là trạng nguyên đưa vào cung để tiện hỏi han.

Nước ta từ xưa đến nay có rất nhiều người tài giỏi họ thông minh bẩm sinh nhưng cũng nhờ chăm chỉ học hỏi. Là thế hệ trẻ của tổ quốc chúng ta cần chăm chỉ học tập rèn luyện cố gắng trở thành người có ích cho đất nước.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 24

Ngày xưa, có ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước, liền sai viên quan đi khắp nơi. Một hôm, viên quan đi đến một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền đến gần. Viên quan hỏi người cha:

– Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?

Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi đã hỏi lại:

– Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan vô cùng sửng sốt không biết trả lời ra sao. Ông mừng lắm, nghĩ thầm đã tìm được người tài, liền trở về bẩm báo với nhà vua.

Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Cả làng lo lắng. Biết chuyện, cậu bé nói với cha hãy bảo dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp lên để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh lo liệu việc của làng.

Dân làng nghe vậy, tuy có ngờ vực nhưng vẫn làm theo, còn bắt họ viết giấy cam đoan. Sau đó, hai cha con cậu bé sửa soạn lên đường. Đến hoàng cung, người cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhân lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc lóc. Nhà vua nghe thấy liền sai lính điệu cậu vào, phán hỏi:

– Cậu bé kia, sao lại đến đây mà khóc?

Lúc đó, cậu bé mới trả lời:

– Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Nghe cậu bé nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua nói:

– Muốn có em thì phải bảo cha lấy vợ khác, chứ đàn ông làm sao mà để con được?

Nghe vậy, cậu bé liền thưa với vua:

– Thế sao vua lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!

Lúc đó, vua cười và bảo: “

– Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?

Em bé thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi. Nghe nói vậy, nhà vua chỉ cười.

Một hôm, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ giả nhà vua mang đến một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé đưa cho sứ giả một cái kim rồi nói:

– Ông cầm cái kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu. Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta có nhân tài hay không, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.

Các đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi người dùng nhiều cách nhưng vô hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời gian tìm người giải câu đố.

Một hôm, cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà thì có chỉ dụ của vua. Nghe viên quan nói đầu đuôi câu chuyện, cậu hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:

“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…”

Viên quan sung sướng trở về triều đình và thực hiện như lời cậu bé nói. Nhờ vậy, sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách dễ dàng. Nghe vậy, sứ giả nước láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong cho em bé thông minh làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 25

Xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng đã lớn tuổi mà vẫn chưa có một mụn con. Mặc dù nhà nghèo, nhưng họ vẫn thường xuyên giúp đỡ mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, bèn sai thái tử đầu thai xuống làm con. Từ đó, người vợ có mang nhưng mấy nay không thấy sinh nở. Người chồng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Mãi về sau, người vợ mới sinh ra được một cậu con trai.

Khi cậu bé vừa khôn lớn thì người mẹ cũng mất. Từ đó, cậu sống lủi thủi trong một túp lều dựng dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi búa cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh. Năm Thạch Sanh bắt đầu biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho đủ loại võ nghệ, các phép thần thông.

Một lần nọ, có người hàng rượu là Lí Thông tình cờ đi qua. Thấy Thạch Sanh gánh một bó củi lớn, hằn thầm nghĩ: “Người này khỏe mạnh, nếu về ở cùng sẽ có lợi biết bao!”. Rồi Lí Thông lân la gợi chuyện, gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em. Vốn mồ côi cha mẹ, nay lại có người săn sóc đến mình, Thạch Sanh cảm động, vui vẻ nhận lời. Sau đó, Thạch Sanh dọn về sống cùng mẹ con Lí Thông.

Bấy giờ, trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan quân nhiều lần vây bắt, nhưng đều thất bại. Kể từ đó, dân phải lập miếu thờ, hằng năm nộp cho chằn tinh một mạng người để nó đỡ phá phách. Băm ấy, đến lượt nhà Lý Thông. Mẹ con hắn nghĩ kế để lừa Thạch Sanh đi thay. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi trở về, Lí Thông dọn một mâm rượu thịt, rồi bảo với Thạch Sanh:

– Đêm nay, đến lượt anh đi cánh miếu thời. Ngặt còn mẻ rượu chưa xong, vậy em chịu khó thay anh, sáng mai lại về.

Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng đang lim dim ngủ thì chằn tinh xuất hiện, giơ nanh vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh lấy búa đánh nhau với con quái vật. Chỉ một lúc, lưỡi búa của chàng đã xả xác con quái vật làm hai. Chằn tinh hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ, nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật mang về. Mẹ con Lí Thông đang ngủ, nghe tiếng gọi cửa, ngỡ là Thạch Sanh trở về báo thù. Mẹ con hắn hoảng sợ, van lạy rối rít. Đến khi Thạch Sanh vào nhà kể rõ mọi chuyện, họ mới hoàn hồn. Lí Thông liền nghĩ ra kế khác, bảo với Thạch Sanh:

– Con trăn ấy nhà vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi. Mọi chuyện đã có anh lo liệu.

Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ. Chàng vội vàng từ giã mẹ con Lí Thông, trở về gốc đa cũ, lại kiếm củi để nuôi thân. Còn Lí Thông nhân cơ hội đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn phong hắn làm Quận công.

Nhà vua có công chúa đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước sai sứ đến hỏi vợ nhưng nàng không vừa ý. Nhà vua phải mở một hội lớn, mời các hoàng từ và con trai trong thiên hạ đến dự, để công chúa đứng trên lầu cao ném quả cầu may. Hễ quả cầu rơi trúng người nào, công chúa sẽ lấy người đó làm chồng. Khi công chúa sắp ném quả cầu, nàng bỗng bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Nó bị thương nhưng vẫn gắng sức bay về hang. Thạch Sanh lần theo vết máu, tìm được hang của đại bàng.

Từ ngày công chúa bị mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua liền sai Lí Thông đi tìm công chúa, hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lí Thông bèn cho mở hội hát xướng để nghe ngóng. Nhiều ngày trôi qua vẫn không có tin tức. Đến ngày thứ mười, Lí Thông gặp Thạch Sanh đi xem hội. Nghe Lí Thông kể đến việc đi tìm công chúa, Thạch Sanh kể lại chuyện bắn trúng đại bàng. Lí Thông mừng rỡ nhờ Thạch Sanh đến hang của đại bàng.

Đến nơi, Thạch Sanh xin được xuống hang cứu công chúa. Thạch Sanh đánh nhau với đại bàng, cuối cùng cứu được công chúa. Sau khi đưa được công chúa lên, Lí Thông sai người lấp kín cửa hang lại. Biết mình bị lừa, Thạch Sanh cố tìm lối lên. Chàng đi đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Thì ra đó chính là con trai của vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Khi chàng về, vua Thủy Tề biếu nhiều vàng bạc, nhưng chàng không nhận, chỉ xin một cây đàn.

Hồn của đại bàng và chằn tinh lang thang, một hôm gặp nhau bàn cách báo thù. Chúng vào kho nhà vua ăn trộm của cải mang tới giấu ở gốc đa. Thạch Sanh bị bắt vào ngục. Còn về c ông chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì bỗng không nói, không cười. Nhà vua phải hoãn việc cưới xin lại. Lí Thông tìm mời thầy thuốc về chữa, nhưng cũng không được.

Một hôm, trong ngục tối, Thạch Sanh đem đàn ra đánh. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Nàng xin vua cho gọi người đánh đàn vào. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh đến gặp, chàng kể hết mọi oan khuất. Mọi người bây giờ mới biết được sự thật. Nhà vua cho bắt giam mẹ con Lí Thông, giao cho Thạch Sanh trừng trị. Chàng nể tình tha cho họ về quê, nhưng đi đến nửa đường thì mẹ con Lí Thông bị sét đánh chết, rồi hóa kiếp làm bọ hung.

Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn rất tức giận. Họ đem binh lính sang giao chiến. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay, rồi xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi những kẻ thua trận. Cả mấy vạn tướng lĩnh, quân sĩ thấy chỉ có một niêu cơm bé xíu, tỏ vẻ coi thường, không muốn ăn. Thạch Sanh đố họ ăn hết được niêu cơm và hứa sẽ trọng thưởng. Niêu cơm ăn hết lại đầy, họ cúi đầu tạ an vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước. Về sau, nhà vua không có con trai nên đã nhường ngôi cho Thạch Sanh.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 26

Ngày xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng đã lớn tuổi nhưng chưa có con. Tuy cuộc sống vất vả, nhưng họ vẫn thường xuyên giúp đỡ mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng liền sai Thái tử đầu thai xuống làm con. Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, về sau người mẹ cũng qua đời. Cậu sống một mình ở gốc đa, dân làng thường gọi là Thạch Sanh. Khi lớn lên, Thạch Sanh được thiên thần dạy cho đủ loại võ nghệ và mọi phép thần thông.

Một hôm, có người hàn rượu là Lí Thông đi ngang qua gốc đa. Thấy Thạch Sanh có sức khỏe, hắn liền lân la đến gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh đồng ý, rồi dọn về ở cùng mẹ con Lí Thông.

Trong vùng có một con chằn tinh có nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan quân đã nhiều lần diệt trừ nhưng không làm gì được. Dân làng phải lập miếu thờ, hằng năm lại nộp cho nó một mạng người. Năm ấy đến lượt nhà Lí Thông, hắn liền nghĩ kế khiến Thạch Sanh đi nộp mạng thay mình. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi về đã thấy một bàn tiệc rượu. Lí Thông liền nói:

– Đêm nay, anh phải đi canh miếu thờ. Nhưng mẻ rượu mới cất vẫn chưa xong, nên phiền em đi thay, đến sáng thì về.

Thạch Sanh chẳng nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Đêm ấy, Thạch Sanh đang lim dim ngủ thì chằn tinh hiện ra định vồ lấy chàng. Chàng dùng nhiều võ thuật giết chết con quái vật. Nó hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ. Nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Chàng chặt đầu con quái vật đem về. Lúc bấy giờ, mẹ con Lí Thông hãy còn đương ngủ. Nghe tiếng gõ cửa, tưởng Thạch Sanh về đòi mạng thì sợ hãi, van lạy rối rít. Đến khi Thạch Sanh vào nhà, kể rõ sự tình, chúng mới hoàn hồn. Lí Thông liền nghĩ ra kế lừa Thạch Sanh:

– Đấy là con vật vua nuôi. Em giết nó ắt phải chịu tội. Bấy giờ em hãy trốn đi, mọi chuyện để anh lo liệu.

Một lần nữa, Thạch Sanh chẳng chút nghi ngờ, trốn về gốc đa cũ. Còn Lí Thông thì mang đầu con quái vật đến lĩnh thưởng. Nhà vua có con gái đến tuổi lấy chồng, liền cho tổ chức lễ kén rể. Trong lễ kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quặp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền dùng cung tên bắn nó rồi lần theo vết máu biết được hang của đại bàng. Từ ngày công chúa mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua sai Lí Thông đi tìm và hứa gả công chúa cho. Lí Thông lo lắng, không biết làm thế nào. Sau hắn cho dân mở hội hát xướng để nghe ngóng tin tức. Tình cờ, Thạch Sanh đến xem, biết được chuyện đi cứu công chúa. Chàng nói mình biết hang của đại bàng và xin được đi cùng. Đến hang, Thạch Sanh xin xuống hang cứu công chúa, nhưng sau đó bị Lí Thông nhốt lại dưới hang. Ở đây, chàng cứu được con trai Vua Thủy Tề, được mời xuống thủy phủ chơi và tặng cho một cây đàn thần.

Sau khi trở về, Thạch Sanh bị oan hồn chằn tinh và đại bàng hãm hại, bị bắt vào ngục tối. Trong ngục, Thạch Sanh đánh đàn để bày tỏ nỗi oan khuất. Lại nói đến công chúa, sau khi trở về cung thì chẳng nói chẳng cười. Nhà vua cho hoãn việc cưới xin, tìm người chạy chữa không khỏi. Một hôm, công chúa nghe thấy tiếng đàn liền nói cười được. Nhà vua thấy lạ bèn cho gọi Thạch Sanh vào gặp. Chàng liền đem hết nỗi oan kể cho vua nghe. Lí Thông thì bị trừng trị thích đáng, còn Thạch Sanh được vua gả công chúa cho.

Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi không hết niêu cơm bé xíu liền cảm ơn rồi kéo nhau về nước. Về sau, vua không có con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 27

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Vốn được mẹ nuông chiều, Cám chẳng phải động tay đến một công việc nào. Còn Tấm phải làm lụng từ sáng đến tối mà vẫn không hết việc.

Một hôm, mẹ gọi cả hai chị em đến rồi đưa cho mỗi đứa một cái giỏ và bảo:

– Hai con nếu ai bắt được đầy tôm tép sẽ được thưởng một chiếc yếm đào.

Hai chị em đi ra đồng. Tấm chăm chỉ lại quen tay nên chẳng mấy chốc giỏ đã đầy tôm tép. Còn Cám , vì mải chơi mà đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Chợt Cảm chạy lại và bảo Tấm:

– Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng.

Tấm tin thật, liền hụp xuống ao sâu tắm rửa sạch sẽ. Cám liền trút hết tôm tép ở giỏ của Tấm sang giỏ của mình, rồi chạy về gặp mẹ để lấy yếm đào. Còn Tấm ở dưới ao lên, nhìn vào giỏ không còn gì, liền ngồi khóc. Bụt liền hiện lên và bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì không. Tấm nhìn vào thì thấy một chú cá bống nhỏ. Bụt bảo chị đem cá bống về thả xuống giếng, hàng ngày cho ăn. Mỗi lần cho ăn lại gọi:

“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”

Từ hôm đó, Tấm thường giấu một phần cơm mang ra giếng. Thấy kỳ lạ, Cám bèn rình xem rồi về mách mẹ. Dì ghẻ lấy lý do làng đã bắt đầu cấm đồng để bắt Tấm chăn trâu ở đồng xa. Còn ở nhà, mẹ con Cám bắt cá bống đem đi giết thịt để nấu ăn. Về đến nhà, như mọi ngày Tấm lại đem cơm ra giếng nhưng gọi mãi không thấy cá bống đâu. Tấm lại ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm hãy đi tìm xương cho vào bốn chiếc lọ rồi đem chôn ở bốn chân giường. Nhờ sự giúp đỡ của gà trống, Tấm tìm được xương cá bống.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội cho người dân khắp nơi đến dự. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mới để đi dự hội. Tấm thưa với dì ghẻ muốn đi. Nhưng dì ghẻ lại trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt Tấm ở nhà nhặt cho xong. Nói xong, hai mẹ con xúng xính trong quần áo đẹp lên đường đến kinh đô. Tấm tủi thần ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai đàn chim sẻ đến giúp. Sau đó, bụt còn bảo chị đào bốn lọ xương cá bống lên sẽ có điều kỳ lạ. Khi Tấm đào lên bốn cái lọ biến ra một bộ quần áo đẹp, một đôi hài đẹp và một con ngựa để chị đi dự hội. Ít lâu sau, nghe đồn rằng nhà vua đi qua con sông thấy ngựa không chịu đi liền sai người xuống sông xem có điều gì lạ thì vớt được một chiếc hài. Vua nhìn thấy liền đem lòng yêu mến người đi hài, ra lệnh ai mang vừa sẽ được làm vợ vua. Mẹ con Cám cũng kéo nhau đến thử nhưng chẳng đi vừa. Đến lượt Tấm ướm thử thì vừa như in. Tấm được vua rước vào cung làm hoàng hậu.

Đến ngày giỗ cha, Tấm về ăn giỗ. Dì ghẻ bảo chị Tấm trèo cây cau, hái cau cúng cha. Nhân lúc nàng không để ý mà ở dưới chặt đổ cây cau. Tấm ngã xuống ao chết đuối. Mẹ con dì ghẻ vào cung khóc lóc kể lể sự tình và xin cho Cám ở lại thay Tấm hầu hạ vua.

Một hôm, có một con chim vàng anh ở đâu bay đến đang lúc Cám giặt quần áo cho vua. Vàng anh kêu lên: “ Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Rồi chim vàng anh bay vào cung vua, ngày ngày quấn quýt khiến nhà vua không thèm ngó ngàng đến tôi. Cám tức lắm, tìm cách giết chết vàng anh, đem lông chim vứt ngoài vườn. Khi vua hỏi thì Cám nói dối là mình có mang thèm ăn thịt chim nên vua không hỏi gì nữa. Từ chỗ lông chim vàng anh, một cây xoan đào mọc lên, cành lá xum xuê tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng nằm nghỉ ở đây. Cám thấy vậy thì về nhà liền mách mẹ. Cám làm theo lời mẹ sai người chặt cây làm thành khung cửi. Vua có hỏi thì Cám lại nói dối là do cây bị đổ vì bão, sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho vua. Nhưng lúc Cám ngồi dệt, bỗng vang lên một giọng nói:

“Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.”

Cám sợ quá, về nhà mách mẹ. Dì ghẻ cho người đến đốt khung cửi đi, đổ ra xa khỏi hoàng cung.

Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà lão đi qua nhìn thấy liền nói:

– Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.

Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.

Tấm theo nhà vua về cung. Lại nói đến Cám sau khi thấy Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:

– Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?

Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:

– Có muốn đẹp không để chị giúp?

Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 28

Ngày xưa, có hai cha con nọ cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, em bé đang phụ cha cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:

– Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?

Người cha chưa biết trả lời thế nào, cậu bé mới nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:

– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Sau đó ông ta hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch đi.

Một thời gian sau, nhà vua sai ban cho làng ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Nhận lệnh vua, cả làng đều lo lắng. Cậu bé nghe chuyện liền bảo với cha:

– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.

Ngày hôm sau, người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói ban đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con họ phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.

Sau đó mấy hôm, hai cha con cậu bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, cậu bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu cậu bé vào, phán hỏi nguyên nhân.

– Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:

– Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!

Thấy mọi chuyện đều đúng như dự đoán, em bé tươi tỉnh đáp:

– Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!

Vua cười bảo:

– Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?

– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.

Vua và đình thần gật gù rồi sai người đưa hai cha con đi sắp xếp chỗ ăn ở. Qua hôm sau, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, em bé liền bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:

– Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con cậu bé vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, có nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả sang thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng miệng hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi ý kiến cậu bé. Nghe chuyện, cậu bé chỉ liền hát một câu:

“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”

Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Vua cho người làm theo lời cậu bé. Quả nhiên con kiến đã mang sợi chỉ xuyên qua vỏ ốc trước cặp mắt thán phục của sứ giả láng giềng. Sau đó, nhà vua liền gọi hai cha con cậu bé vào cung, phong làm trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 29

Từ xưa, tôi đã được nghe những câu chuyện cổ tích qua lời kể của bà, của mẹ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn yêu thích và nhớ mãi về truyện cổ tích Tấm Cám.

Câu chuyện kể về hai chị em Tấm và Cám. Cha mất sớm, Tấm phải ở cùng với dì ghẻ. Mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc đồng áng đề do một tay Tấm làm hết.

Một hôm, dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ và bảo ra đồng bắt con tôm cái tép, hứa rằng:

– Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ.

Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, đến cuối buổi vẫn chưa bắt được gì. Cám liền nói với Tấm:

– Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.

Tấm tin ngay, bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Thừa dịp đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước để nhận chiếc yếm đào. Tấm lên bờ thấy giỏ không còn cá, sợ về nhà bị dì ghẻ đánh liền ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì không, thì trong giỏ còn một con cá bống. Bụt liền bảo Tấm đem cá về nuôi, khi cho ăn thì gọi:

“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”

Từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Cám lại thấy Tấm để dành một phần cơm. Thấy kì lạ, Cám mách mẹ. Hai mẹ con rình xem thì phát hiện ra Tấm đang nuôi một con cá bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm được ném xuống. Biết chuyện, dì ghẻ gọi Tấm lại rồi bảo chị ta sáng mai dậy sớm đi chăn trâu, và dặn rằng:

– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tấm không chút nghi ngờ, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà mẹ con Cám liền ra giếng, gọi y hệt lời Tấm. Cá bống hiện lên thật, hai mẹ con Cám liền bắt lấy nó rồi đem giết thịt.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm ngày. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Hai mẹ Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, dì ghẻ liền lấy một thúng gạo và một thúng thóc với nhau, rồi bảo chị:

– Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.

Một thời gian sau, nhà vua hạ lệnh cho rao mời tất cả phụ nữ đi xem hội đến ướm thử giày. Và hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Cám cũng đếm thử nhưng không vừa. Nhìn thấy Tấm từ xa, Cám liền nói với mẹ:

– Mẹ ơi, hình như chị Tấm nhà ta cũng đến thử giày đấy!

Dì ghẻ liền bĩu môi, nói:

– Chuông khánh còn chẳng ăn ai. Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.

Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Tấm còn lấy ra một chiếc giày khác giống y hệt. Thế rồi, nàng được vua đón vào cung làm hoàng hậu.

Tuy sống trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nhân đó, mụ con Cám bày mưu hại Tấm:

– Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.

Tấm vâng lời mẹ tôi, trèo lên cây. Thấy cây rung chuyển liền hỏi:

– Dì làm gì dưới gốc thế?

– Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.

Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, ngã lộn cổ xuống ao và chết. Dì ghẻ liền đưa Cám vào hoàng cung để thay cho Tấm.

Một hôm, Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, thì có con chim vàng anh ở đâu bay đến, dừng lại trên một cành cây, kêu lên:

– Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.

Sau đó, chim vàng anh bay thẳng vào cung điện đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Nhà vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Cám liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám trả lời rằng:

– Thiếp có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.

Nhà vua nghe vậy thì không nói gì cả. Thật kì lạ là ở chỗ lông chim vàng anh mọc lên một cây xoan đào, cành lá xum xuê, tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng, ngày ngày nằm ở đó nghỉ ngơi. Cám thấy vậy thì tức lắm, sai thợ chặt cây làm khung cửi. Khi vua hỏi, tôi lại nói dối:

– Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.

Khung cửi đóng xong, Cám vừa ngồi dệt vào dệt thì nghe thấy tiếng kêu:

“Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị,

Chị khoét mắt ra”

Cám sợ hãi lắm, liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ khuyên Cám đốt quách khung cửi rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Cám sai người đem đốt khung cửi rồi đổ tro ra thật xa hoàng cung.

Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà lão đi qua nhìn thấy liền nói:

– Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.

Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.

Lại nói đến Cám sau khi thấy chị Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:

– Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?

Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:

– Có muốn đẹp không để chị giúp?

Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.

Qua truyện Tấm Cám, nhân dân ta đã gửi gắm khát vọng công bằng, cái thiện chiến thắng cái ác. Cô Tấm hiền lành cuối cùng sống hạnh phúc bên nhà vua, còn mẹ con Cám độc ác thì bị trừng phạt.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 30

Kho tàng truyện cổ tích có rất nhiều truyện đặc sắc. Một trong những câu chuyện hay, là truyện cổ tích Sọ Dừa.

Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo đi ở cho phú ông. Họ chăm chỉ, hiền lành mà ngoài năm mươi vẫn chưa có một mụn con. Một hôm, người vợ vào trong rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bỗng nhìn thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. Về nhà, bà có mang.

Chẳng bao lâu, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo:

– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.

Vì thương con, bà để con lại nuôi, đặt cho cái tên là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Bà mẹ buồn phiền nói với con:

– Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì.

Sọ Dừa nói với mẹ:

– Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.

Nghe con nói, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý.

Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Phú ông mừng lắm.

Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị độc óc, thường hắt hủi Sọ Dừa. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với Sọ Dừa rất tốt.

Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.

Cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm, nhưng thấy con năn nỉ mãi bà cũng chiều lòng.

Mẹ Sọ Dừa đến hỏi, phú ông cười mỉa mai:

– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.

Bà lão ra về, nghĩ chắc con mình sẽ từ bỏ ý định. Nhưng Sọ Dừa lại bảo mẹ yên tâm, mình sẽ sắm đủ lễ vậy. Bà lão nửa tin nửa ngờ. Đến ngày hẹn, bà hết sức ngạc nhiên khi trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt, nói với bà cụ:

– Để ta hỏi con gái, xem có đứa nào đồng ý lấy Sọ Dừa không đã?

Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út là cúi đầu tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô gái út cho Sọ Dừa.

Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.

Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn rất thông minh, ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai chàng đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.

Ganh tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa vắng nhà, rắp tâm giết hại em để thay làm bà Trạng. Hai cô chị sang nhà chơi, rủ cô em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út vào bụng. May có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.

Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:

– Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.

Truyện Sọ Dừa đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một chàng Sọ Dừa thông minh, tốt bụng. Qua đó, truyện còn thể hiện tấm lòng nhân ái với những con người hiền lành, tốt bụng và niềm thương cảm với những con người bất hạnh. Đây chính là câu chuyện mà tôi yêu thích nhất.

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích – Mẫu 31

Truyện cổ tích luôn có sức sống mãnh liệt theo thời gian. Trải qua bao năm tháng, truyện cổ tích vẫn luôn là nguồn sữa mát lành nuôi dưỡng tâm hồn mỗi chúng ta. Mặc dù đã được nghe rất nhiều những truyện cổ tích từ bà, từ mẹ, nhưng em vẫn vô cùng yêu thích và ấn tượng với truyện “Em bé thông minh”.

Chuyện kể rằng, có viên quan nọ được nhà vua sai đi tìm người giỏi. Dù đã đi rất nhiều nơi, nhưng ông vẫn chưa thể tìm ra người tài giúp nước.

Một lần nọ, khi đang đi trên đường, ông gặp hai cha con đang làm ruộng, buột miệng hỏi rằng:

– Này, lão kia! Một ngày trâu của hai cha con lão cày được bao nhiêu đường?

Em bé nhanh nhẹn trả lời thay cha:

– Ông hãy cho tôi biết một ngày ngựa của ông đi được mấy bước?

Viên quan sửng sốt trước câu hỏi của cậu bé và cảm thấy lúng túng trong việc trả lời. Biết dây chính là người tài, viên quan nhanh chóng phi ngựa về tâu vua. Nhà vua nghe chuyện thì vô cùng mừng rỡ, sai người đem ba thúng gạo nếp, ba con trâu đực lệnh cho ba con trâu ấy phải đẻ thành chín con trâu, hẹn năm sau nộp đủ nếu không cả làng phải chịu tội. Ai nấy đều vô cùng lo lắng trước lời yêu cầu của nhà vua. Em bé vẫn vui vẻ bảo cha và mọi người nên thịt trâu, nấu gạo ăn mừng. Còn một trâu và một thúng gạo thì để lại làm phí tổn đi trẩy kinh.
Đến hạn, hai cha con lên đường về kinh đô. Đến nơi, em bé bảo cha đứng chờ bên ngoài cổng rồi tự mình lẻn vào sân rồng nhân lúc lính canh không để ý. Em bé khóc um lên khiến nhà vua phải cho lính điệu vào hỏi:

– Thế làm sao mà nhà ngươi lại to gan làm loạn chốn này?

– Tâu đức vua, mẹ con chết đã lâu mà cha chẳng chịu đẻ em bé để con có bạn chơi cùng. Mong đức vua phán bảo cha con để cho con được nhờ.

Nghe thấy câu nói ấy, vua và các quan vị thần cười phá lên, vua hỏi:

– Mày muốn có em bé thì mày phải bảo cha lấy vợ. Chứ cha mày là giống đực làm sao mà đẻ được?

Chỉ chờ có thế, em bé liền tâu lại với nhà vua:

– Vậy, tại sao nhà vua lại bắt làng của chúng con phải nuôi cho ba con trâu đực này đẻ thành chín con? Giống đực làm sao mà đẻ được con?

Nhà vua cười và bảo:

– Ta thử tài ngươi xem sao, hóa ra ngươi thông minh hơn ta nghĩ. Thế làng ngươi sao không biết mổ trâu mà ăn với nhau?

– Dạ bẩm vua, biết đó là lộc vua ban, làng con đã mổ trâu, đồ gạo ăn mừng với nhau rồi.

Chưa bằng lòng với những thử thách đã đề ra, nhà vua vẫn quyết tâm thử cậu thêm lần nữa. Ngài cho người đem con chim sẻ và lệnh bắt hai cha con phải dọn thành ba mâm thức ăn. Em bé nhờ cha lấy kim khâu rồi kêu sứ giả về tâu đức vua rèn kim thành dao để xẻ thịt. Lần này, nhà vua không thể nghi ngờ trí thông minh của cậu nữa.

Hồi đó, có nước láng giềng muốn xâm chiếm bờ cõi nước ta. Họ đưa sang một vỏ ốc vặn, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu sợi chỉ mảnh qua đường ruột ốc. Thử thách này nhằm dò la xem nước ta có người tài hay không. Nhà vua và quan thần trong triều đều vò đầu suy nghĩ mà không giải được, đành phải sai người mang dụ chỉ đến hỏi em bé. Nghe việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên rằng:

“Tang tình tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang….”

Viên quan vội vàng về tâu vua. Làm theo lời chỉ dẫn của em bé, con kiến đã xâu chỉ thành công trước sự chứng kiến của sứ giả nước láng giềng. Nhà vua vui mừng khôn xiết và phong em bé làm trạng nguyên.

Câu chuyện “Em bé thông minh” đã cho em thấy được bài học về lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bên cạnh kiến thức trong sách vở, chúng ta có thể học hỏi, tích lũy kinh nghiệm từ thực tế cuộc sống.

*****

Trên đây là 31 bài mẫu Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích lớp 6 hay, ngắn gọn do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng, dựa vào đây các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình.

Bài học được biên soạn bởi thầy cô trường THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học Tập, lớp 6

5/5 - (701 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *