Học TậpLớp 9

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (22 bài mẫu)

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 22 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích
Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích

Mục lục

Dàn ý Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (22 bài mẫu)

Khái quát về sáu câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều.

2. Thân bài

Cảnh lầu Ngưng Bích:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Không gian: rộng lớn với “non xa”, “trăng gần” ⇒ sự bát ngát của không gian càng làm cho con người trở nên cô đơn, lẻ loi.

Từ “xa trông”: biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi.

⇒ Không gian, vũ trụ bao la.

Từ “khóa xuân”: Kiều ý thức được mình không còn trẻ tuổi, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xa.

Tâm trạng của Thúy Kiều trước không gian bát ngát, mênh mông.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Từ láy “bẽ bàng”: sự hổ thẹn, sự tự vấn, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều.

3. Kết bài

Sáu câu thơ đầu khắc họa sâu sắc tâm trạng cô đơn, vô vọng của Thúy Kiều.

22 bài mẫu Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 1

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những trích đoạn hay thể hiện rõ tâm trạng cô đơn, buồn tủi và nỗi nhớ thương của Kiều khi lâm vào nghịch cảnh. Trong trích đoạn, sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên mang màu tâm trạng của nhân vật.

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Hai từ “Khóa xuân” diễn tả tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam lỏng, chôn vùi tuổi xuân tại lầu Ngưng Bích.Tú Bà hứa hẹn với Kiều đủ điều mật ngọt để rồi giam lỏng nàng chốn không người. Còn gì đau đớn hơn khi đang độ sắc xuân, hương xuân, tuổi của những mộng mơ, căng tràn nhựa sống lại phải chịu cảnh giam mình, thiếu tự do. Ba câu thơ tiếp tác giả khắc họa một bức tranh thiên nhiên bát ngát, mênh mông nhưng hiu quạnh, không một bóng người. Các sự vật “non’, “tấm trăng”, “cát vàng”, “bụi hồng”,… kết hợp cùng các tính từ “xa”, “gần”, để diễn tả không gian rộng lớn mà hiu hắt của cảnh vật. Tất cả đều gợi lên nét hoang vắng, buồn bã của thiên nhiên. Biện pháp liệt kê kết hợp với phép đối lập tương phản được sử dụng tài tình đã thành công tái hiện khung cảnh thiên nhiên mênh mông, rợn ngợp nhưng buồn vắng, không một bóng người trước lầu Ngưng Bích.

Thiên nhiên càng rộng lớn, con người càng cô đơn. Kiều như chơ vơ, trơ trọi giữa không gian mênh mông, một màu hoang vắng đượm trên cảnh, một màu buồn thương nhuốm trên thân người. Từ trên lầu cao, trông ra xa chẳng thấy nổi một tin lành hay bóng người tâm giao, chỉ thấy những dãy núi mờ xa, mấy bụi hồng hắt hiu, đôi ba cồn cát vàng trên sông…Dường như, tất thảy mọi điều đều ngoài tầm với, xa vời với thực tại nghiệt ngã nàng đang chịu. Tìm đến mảnh trăng gần bầu bạn, nghĩ chăng Kiều có thể được vơi đi nỗi lòng. Nhưng rồi trăng nào có thấu! Là trăng không hiểu hay lòng người đa mang?

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.

Không gian buồn thương, thời gian cũng nào dừng lại, sớm khuya, ngày đêm nàng vẫn một mình lẻ bóng. Suốt ngày “thui thủi quê người một thân”nào có ai để bầu bạn, tỏ bày. Nàng chỉ đành làm bạn với đèn khuya, mây sớm trong “bẽ bàng”. Tính từ láy “bẽ bàng” được đặt đầu câu đặc tả nỗi chán ngán, tủi hổ, xót xa cho thân phận mình của Kiều. Thành ngữ “Mây sớm đèn khuya” : Thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa.. Cả thời gian và không gian dường như đang kìm hãm con người, khiến tâm trạng kẻ trong chốn Ngưng Bích nào được chút niềm vui dẫu là ít ỏi. Nàng đang lâm vào bi kịch cô đơn tuyệt đối, nỗi nhớ ngày một thêm dài và nỗi buồn ngày một thêm lớn.

Sáu câu thơ lục bát ngắn gọn đầu đoạn trích đã gợi tả được bức tranh tâm cảnh của Kiều trong những ngày tháng ở lầu Ngưng Bích. Kiều thật đáng thương biết bao! Một người con hiếu thảo, có tấm lòng vị tha ấy đáng ra phải được sống trong hạnh phúc, ấm êm nhưng nàng thật đáng thương biết bao. Phải chăng đúng như câu nói của tác giả “tài hoa bạc mệnh” đã gắn với thân phận Kiều?

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 2

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc với nhiều tác phẩm đồ sộ để lại cho đời. Ông vốn sinh ra trong gia đình giàu có, đại quý tộc làm quan nhiều đời. Tuy nhiên vì biến cố mà bố mẹ mất sớm, ông phải sống khổ sở và lưu lạc 10 năm. Chính những năm tháng không nơi nương tựa, tứ cố vô thân mà ông đã có cái nhìn sâu sắc về xã hội, cảm thương cho số phận con người trong đó có số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Nổi bật nhất trong các tác phẩm văn chương của ông chính là Truyện Kiều. Truyện có vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc với cốt truyện là Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du đã chuyển thể sang thơ lục bát bằng chữ nôm, với bút pháp tài hoa và tài năng thiên phú, ông đã cho ra đời tác phẩm Truyện Kiều chữ nôm vang danh thiên sử. Trong đó, trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích là đỉnh cao nghệ thuật tả cảnh ngụ tình nói lên hoàn cảnh, tâm trạng của Kiều.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Hai câu thơ trên ngầm diễn tả về tuổi xuân của Kiều, trước lầu ngưng bích Kiều đúng là đã bị “khóa xuân”. Khóa xuân hay có nghĩa là nàng cũng đã quá lứa xuân thì, tuổi xuân đã qua mà giờ đây lại còn bị bán vào lầu xanh mới bẽ bàng làm sao. Mặt khác nó cũng hiểu đúng theo lời hứa của tú bà đối với Thúy Kiều đó là sẽ giam lỏng nàng nhưng không bắt nàng tiếp khách. Như vậy, câu thơ dường như có chút than thở, buồn phiền của nàng kiều về tuổi xuân của mình. Nghe như có chút thở dài khi nàng ở Lầu ngưng bích và nhìn về phía trước.

Sang câu thơ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. chúng ta càng hiểu rằng, chỉ có nàng Kiều với lầu ngưng bích và với thiên nhiên mà thôi, không hề có một bóng dáng con người thứ hai. Có lẽ chỉ khi ban đêm xuống nàng mới có trăng làm bạn, mới nhìn rõ cảnh non xa. Đây chính là câu thơ tả cảnh ban đêm chỉ có Kiều,ánh trăng và núi cô đơn vô cùng.

Qua đây ta cũng hình dung ra lầu ngưng Bích khá cao. Từ trên cao, nàng có thể nhìn ra xa mọi thứ được, có thể cảm nhận thiên nhiên xung quanh.

Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Kiều thẫn thờ từ lầu Ngưng Bích nhìn ra xa chỉ thấy bốn bề là cồn cái là bụi hồng mà thôi. Trong thời gian này nàng chỉ biết ngắm cảnh, lấy thiên nhiên làm bạn. Nhưng thiên nhiên cũng quá đỗi xa, rộng khó chạm vào.

Cát vàng cồn nọ chính là những cồn cát vàng nổi lên ở gần bờ biển rất cao, nhìn xa xa như những ngọn núi cát. Cồn cát tuy không có ánh mặt trời chiếu vào nhưng nó có màu vàng vì cát già hoặc là cát tách từ những núi màu vàng.

Bụi hồng dặm kia là do Kiều nhìn từ xa có vẻ như là đường đi rất đông người nên bụi bay mù mịt hoặc có thể chỉ là gió thổi mạnh và thấy bụi bay chứ không rõ có phải đường hay không.

Qua hay câu thơ cho thấy Kiều cũng chỉ hình dung ra cảnh mơ hồ vì ở quá xa. Như vậy chứng tỏ Tú Bà đã giam lỏng Kiều ở một nơi mà khó có ai có thể thấy đồng thời nơi giam kiều khá cao cho nên cảnh vật Kiều nhìn thường xa, nhỏ bé và khó hình dung. Điều này làm cho Kiều dường như quá cô đơn lạc lõng giữa không gian. Không gian càng xa, càng nhỏ, càng khó nhận biết càng cho thấy con người quá nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn.

Ban đêm ở Lầu Ngưng Bích chỉ có ánh trăng và núi, ban ngày chỉ có cồn cát và bụi bay. Một người thê lương, một người cô đơn bị giam lỏng ở đây khi nhìn thấy toàn là cát với bụi thì sao tránh khỏi ngẫm nghĩ đến cuộc đời mình có khác gì cát bụi đâu. Đây chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du. Nhìn cảnh mà có thể biết được tâm trạng và hoàn cảnh của Kiều. Vốn dĩ “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh thiên nhiên trong 4 câu thơ trên đều rất buồn cô đơn, trống vắng, lẻ loi. Cảnh thiên nhiên lại rất rộng lớn, mênh mông xung quanh chỉ trơ trọi cát và bụi mà không hề thấy sự sống. Như vậy con người lại càng nhỏ bé, cô đơn và dường như héo úa trong không gian này.

Chính cảnh thiên nhiên đó đã khiến cho Kiều có những suy nghĩ dưới đây:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bẽ bàng ở đây hiểu đúng chính là chán ngán, buồn rầu. Đặt trong hoàn cảnh này thì giải nghĩa từ bẽ bàng như vậy là đúng nhất. Một số ý kiến cho rằng, bẽ bàng nghĩa là tủi hổ, là thẹn là xấu hổ… Nhưng trong hoàn cảnh nàng Kiều phải bán vào lầu xanh mà lại không hề phải tiếp khách, lại chỉ bị giam ở lầu Ngưng Bích vậy thì có gì mà phải xấu hổ? Vậy nên Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, nghĩa là nàng vô cùng ngán ngẩm, chán nản với cái cảnh sáng thì nhìn mây, tối thì nhìn đèn, cuộc sống nhàm chán lặp đi lặp lại nhiều lần. Ý câu thơ cũng là tả được cuộc sống của lầu Ngưng Bích chỉ có thế thôi và nó cũng lột tả được tâm trạng của Kiều rất chán cuộc sống thế này, không có gì mới mẻ.

Sang câu thơ Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng chúng ta có thể hiểu trong hoàn cảnh như thế này tấm lòng Kiều như bị xẻ làm đôi, Kiều có lúc nghĩ đến tình, có lúc nghĩ đến cảnh. Có thể nói, câu thơ muốn nói về tâm trạng rối bời của nàng Kiều, tâm trạng lúc này, lúc kia. Hoặc chúng ta cũng có thể hiểu nàng Kiều lúc vì tình mà ngắm cảnh, lúc vì cảnh mà sinh tình. Đây chính là cái tài của nhà thơ khi viết câu thơ có thể khiến chúng ta diễn tả theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta cần đặt trong hoàn cảnh của Kiều để diễn tả cho chính xác.

Với bút pháp tả cảnh sinh tình rất linh hoạt đã khắc họa một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh. Trong đó nổi lên trên cả đó chính là tâm trạng của nàng Kiều vô cùng chán nản, buồn rầu vì bị giam ở lầu Ngưng bích không bóng người qua lại, hàng ngày chỉ làm bạn với thiên nhiên, trăng núi và cuộc đời nàng có khác gì cát bụi ngoài kia. Nếu không đồng cảm với Thúy Kiều có lẽ Nguyễn Du không thể lột tả hết được tâm trạng, hoàn cảnh của Kiều. Chỉ với 6 câu thơ nhưng người đọc có thể hiểu được hoàn cảnh éo le của Kiều và tâm trạng chán chường của nàng ở nơi cô đơn, hiu quạnh này.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 3

Qua sáu câu đầu đoạn trích ”Kiều ở lầu Ngưng Bích” Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều. Câu thơ đầu với từ “khóa xuân” gợi cho người đọc thấy được hoàn cảnh rất tội nghiệp của Kiều lúc này: Nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Từ trên lầu cao nàng phóng tầm mắt ra thế giới tự nhiên, trước mắt nàng là dãy núi mờ xa, trên đầu là một tấm trăng lạnh lẽo, xung quanh là bốn bề bát ngát với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Từ láy ”bát ngát” gợi lên không gian mênh mông rợn ngợp gợi cảm giác lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời đất. Cái lầu chơi vơi ấy giam hãm một số phận con người. Cảnh ở đây là cảnh thực nhưng cũng có thể là cảnh mang tính ước lệ để gợi lên sự mênh mông rợn ngợp của không gian, qua đó làm nổi bật tâm trạng cô đơn của Kiều, không chỉ cảm nhận về không gian Kiều còn cảm nhận về thời gian ”mây sớm đèn khuya” diễn tả thời gian tuần hoàn khép kín. Sáng và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng rơi vào cảnh cô đơn tuyệt đối khiến nàng cảm thấy bẽ bàng:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”​

Nhà thơ dùng từ bẽ bàng để diễn nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, buồn vì cảnh hoang vắng, buồn vì mối tình đầu dang dở khiến lòng như bị xé: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Như vậy từ cảnh vật ở lầu Ngưng Bích, sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa sâu sắc tâm trạng cô đơn vô vọng của Thúy Kiều.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 4

Có người từng nói: “Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc”. Quả thật vậy, càng suy ngẫm ta càng thấm thía, càng thấy độc đáo – một đại thi hào dân tộc với sự sáng tạo tuyệt vời đã làm cho ngôn ngữ dân tộc vốn đẹp giờ càng đẹp hơn. Tả cảnh ngụ tình là một cách Nguyễn Du thể hiện thành công nét độc đáo của tiếng Việt trong tác phẩm của mình. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sáu câu thơ đầu là hoàn cảnh cô đơn, cay đắng, xót xa của nàng Kiều; đó là “tình” trong “cảnh”, “cảnh” trong “tính”:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.ư
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng…

Sáu câu thơ – một mảng tâm trạng buồn rầu, xót xa – toàn cảnh trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn và tâm trạng của Thúy Kiều. Nàng Kiều trơ trọi giữa không gian, thời gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ “Bốn bề bát ngát xa trông” gợi lên sự rợn ngợp của không gian: vừa hoang sơ, xung quanh chỉ toàn mây nước không một bóng người, vừa thực vừa ảo mù mịt. Khung cảnh thiên nhiên có “non xa, trăng gần, cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” nhưng chẳng có lấy một sự tươi vui, náo nhiệt, không sức sống. Tuổi “xuân” của nàng bị khóa chặt trong sự cô lập, cô đơn đến bất hạnh đó. Nàng trơ trọi giữa mênh mông trời nước, không gian hoang vu tiêu điều, trong hoàn cảnh tha hương, lại bị giam hãm trong cái lầu xanh cao ngất nghểu trơ trọi giữa trời và nước.

Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng….

Một khung cảnh bao la, rộng lớn nhưng lại thấm đẫm một nỗi sầu của nàng Kiều. Đúng như Nguyễn Du viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài đặc, quẩn quanh, “mây sớm đèn khuya” gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả đang giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy “bẽ bàng” chán ngán, chỉ biết làm bạn với “mây” và “đèn”. Câu thơ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” không chỉ buồn rầu, tủi hổ về thân phận, số phận cay đắng, truân chuyên mà nàng còn xót xa vì cái “tình riêng” khiến lòng nàng như bị xé! Một nửa là tâm sự của Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối phụ họa với nhau mà tác động đến Thúy Kiều, chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan nát, dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương.

Nguyễn Du đã xót thương cho cái số phận đầy sóng gió ấy. Thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã thể hiện một cách độc đáo cảnh thực ở lầu Ngưng Bích và sự xót xa, buồn tủi của nàng Kiều về tình riêng dang dở.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 5

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều. Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đến thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều.

Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 6

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán nản, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 7

Truyện Kiều một viên ngọc long lanh trong kho tàng văn học dân tộc, cùng với một số tác phẩm khác của Nguyễn Du, có giá trị hiện thực sâu sắc và chứa chan tinh thần nhân đạo cao quý, đã “nói lên lòng xót thương vô hạn của ông đối với những lớp người bị áp bức, đau khổ”.

Thật vậy, Nguyễn Du, nhà thơ của thời đại, đã nói lên những đau khổ lầm than của những người bị chế độ đương thời đày đọa. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Truyện Kiều ca ngợi và đề cao tình yêu chung thủy, tình cảm kính yêu của con đối với cha mẹ, và nhất là đề cao ước mơ sống tự do trong xã hội đen tối bất công. Tinh thần nhân đạo bao la trong Truyện Kiều là kết tinh truyền thống nhân đạo của dân tộc ta hằng bao thế kỷ:

Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.

(Tố Hữu)

Trong vô số nạn nhân của cuộc đời cũ, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương những người phụ nữ có tài có sắc. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh tập trung về số kiếp bi đát của con người trong một cuộc đời bế tắc. Tiêu biểu là hình ảnh Thúy Kiều. Thúy Kiều là một con người tài sắc tuyệt vời, vẻ mặn mà nồng thắm, tài đánh đàn của Kiều cũng thể hiện cái tính của Kiều. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Tình yêu của Kiều với Kim Trọng là một thứ tình yêu đắm say, mãnh liệt:

Tình trong như đã, mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.

Yêu nhau, nàng chủ động xây dựng hạnh phúc với người yêu. Gót chân Kiều đã thoăn thoắt, đã xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang nhà Kim Trọng. Thúy Kiều và Kim Trọng xứng đôi vừa lứa, gặp nhau và yêu nhau, tình yêu đó nồng nàn, chân thật, chính đáng. Nguyễn Du đã vượt ra ngoài thời đại của ông khi ca ngợi mối tình đầy thơ mộng của Kim và Kiều. Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Nhiều lần, lời thơ Nguyễn Du nhói lên trong đau xót. Vì xã hội phong kiến phá hoại hạnh phúc, mối tình chung tình phải nửa đường đứt gánh, thân nàng bị hoa trôi bèo dạt, nhưng ngọn lửa chung tình vẫn luôn rực cháy, tình yêu vẫn chân thành và trong sạch. Nguyễn Du đã phát biểu quan niệm về tự do luyến ái, về chữ trinh, đối lập với quan niệm phong kiến thời đại ông. Vì phải bán mình chuộc cha, phải xa ha Kim Trọng, Kiều vô cùng đau khổ, tự cho mình lỗi thề và phụ bạc với Kim Trọng. Nhưng vì mối tình đó vô cùng đẹp đẽ nên sau này trên bước đường hoa trôi bèo nổi, những kỉ niệm êm ái, say sưa luôn luôn hiện ra trước mắt Kiều.

Với Nguyễn Du, tình gắn bó chặt chẽ với nghĩa nên nhà thơ đã cho Kiều dặn em là Thúy Vân thay mình gá nghĩa với Kim Trọng:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Đáp lại mối tình của Kiều, Kim Trọng đã vượt ra ngoài triết lý của thời đại về hai chữ “công danh”, quyết tìm lại Kiều để đền bù tình xưa nghĩa cũ:

Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.

Và phát biểu quan niệm mới về luyến ái, về chữ trinh:

Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến, có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.

Tình cảm của con cái đối với cha mẹ trong Truyện Kiều cũng thật thống thiết và cảm động. Kiều đã dịu dàng khuyên cha:

Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.

Tuy phải hy sinh hạnh phúc, bán mình chuộc cha, Kiều chẳng hề oán trách. Trong cảnh tử biệt sinh li, nghe tiếng chim kêu vượn hót, trông cánh buồm thấp thoáng ngoài khơi, nhìn ra non nước một màu, Kiều thường đau lòng tưởng nhớ tới cha mẹ. Đổi lại, Vương Ông vô cùng thương xót Kiều vì ông mà Kiều đã lỗi ước với Kim Trọng mặc dầu mối tình ấy vượt quyền cha mẹ. Ông muốn vạch trời kêu oan và đập đầu định tự tử.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ kể về cuộc đời con gái họ Vương có tài, có sắc bị đày đọa bi thảm mà còn nói lên nỗi đau xót của mình trong trước số phận đầy khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Nhiều lần, lời thơ Nguyễn Du nhói lên trong đau xót.

Tóm lại, vẽ nên tấm gương oan khổ, câu chuyện thê thảm của cuộc đời nàng Kiều, tiếng nói Nguyễn Du là tiếng kêu thương não nùng đau đớn trước vận mệnh của con người trong xã hội phong kiến. Tinh thần nhân đạo chứa chan là cội nguồn của tiếng kêu thương ấy.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 8

Hai câu đầu, nàng đang bị giam lỏng trong một lầu cao trơ trọi giữa trời đất, Kiều như chỉ còn ở chung làm bạn với “non xa” (núi xa) và “trăng gần” (lầu cao nên trăng gần). Đứng trong lầu cao nhìn ra xung quanh, Kiều chỉ thấy “cát vàng cồn nọ” (những cồn cát nhấp nhô, bát ngát), “bụi hồng dặm kia” (bụi hồng chỉ bụi sắc đỏ, do gió thổi bốc lên) cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nổi bật tâm trạng, nỗi buồn niềm cô đơn, buồn tủi của nàng Kiều. Đây là một trong những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Về thời gian, Kiều chỉ biết sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức – ngủ một mình, thui thủi triền miên, ngao ngán và vô vọng (bẽ bàng). Nàng không chỉ buồn về cảnh mà còn buồn về tình, hai nỗi buồn ấy chia xé tâm can nàng, nàng rơi vào cảnh cô đơn tuyệt đối. Nàng trơ trọi giữa không gian và thời gian mênh mông hoang vắng, không một bóng người, không có sự giao lưu giữa người với người.

Ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian cao rộng càng khiến cho cảnh mênh mang dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán nản, buồn tủi của Kiều “Nửa tình nửa cảnh”, dường như cũng không còn phân biệt nữa. Tả cảnh ngụ tình rất tài hoa, độc đáo đã khắc họa một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh, trong đó nổi lên tâm trạng bề bộn bao nỗi buồn đau, chua xót, lo sợ, vô vọng, góp phần tạo nên vẻ đẹp thủy chung, hiếu thảo và nhân hậu ở Thúy Kiều ở các câu thơ sau, nhất là ở tám câu cuối mới là chứng minh hùng hồn nhất và sáu câu đầu là tiền đề để có nguyên cớ nói lên Thúy Kiều là nhân hậu, hiếu thảo, thủy chung.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 9

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, cũng là người đã mang văn học của Việt Nam vươn xa ra thế giới qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm là lời phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, là tiếng kêu đau thương của những số phận bị áp bức trong thời kì ấy. Và thông qua đó, ta có thể thấy được lòng thương cảm, tình yêu thương con người sâu sắc của tác giả. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích hay nhất được trích từ tác phẩm này.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, cho người mua thuốc thang và hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả nàng cho một người đàn ông tốt nhưng thực chất là giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là nỗi lòng cô đơn, buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.

Sáu câu thơ đầu gợi tả thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng”

Khung cảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích, nơi giam lỏng nàng chính là nơi khóa tuổi xuân của Kiều lại. Hai chữ “khóa xuân” mà Nguyễn Du dành cho Kiều sao mà đớn đau, buồn bã đến thế! Một mình nơi lầu Ngưng Bích bao la, rộng lớn, Kiều chỉ có đám mây cùng với ngọn đèn bầu bạn. Nghệ thuật đối lập: “non xa” – “trăng gần” gợi một không gian rợn ngợp, không một bóng người, chỉ có mình Kiều với nỗi cô đơn, trống trải. Những cồn cát vàng gối đầu lên nhau, những bụi hồng ở xa kia dù biết Kiều đang chơi vơi, trơ trọi nhưng cũng không thể nào đến gần, bầu bạn với nàng được. Trước khung cảnh đượm buồn của buổi chiều tà, Kiều cảm thấy lòng mình như chia đôi, diễn tả nỗi chua xót, đau đớn của Kiều trong một vòng tuần hoàn khép kín của “mây sớm đèn khuya”. Ngày nào cũng như vậy, vẫn những cảnh vật đó không hề thay đổi, chỉ có lòng người ngày càng buồn hơn.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 10

Truyện Kiều, một viên ngọc quý long lanh, tựa một bảo vật quý giá trong kho tàng văn học dân tộc, không chỉ đơn thuần là một tác phẩm độc đáo của Nguyễn Du, mà còn chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc và tôn vinh tinh thần nhân đạo cao quý. Qua câu chuyện, Nguyễn Du đã khéo léo nói lên lòng thương xót vô hạn của mình đối với những tầng lớp bị áp bức, chịu đựng những nỗi đau khổ khó tả. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học đắt giá, mà còn là một thông điệp sâu sắc về lòng nhân đạo và sự đồng cảm đối với những nỗi đau của con người.

Thật vậy, Nguyễn Du, nhà thơ tài danh của thời đại, đã khắc họa và đề cao những đau khổ vô tận của những người bị chế độ áp bức trong thời đại đó. Ông nhìn thấy một thế giới gắn liền với sự đau khổ, nơi mà tất cả những con người bị đàn áp và đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần. Tác phẩm của Nguyễn Du mang tính hiện thực sống động và mang sức tố cáo sắc bén. Đó chính là hai ngọn lửa sáng rực của một ngọn lò đỏ cháy, là trái tim đầy lòng thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau của những con người bất hạnh dưới sự bất công xã hội. Đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du, tràn đầy tình nhân đạo, trong đó cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nuôi dưỡng suốt mấy mươi năm.

Ông chia sẻ những nỗi cay đắng, tủi nhục với thế hệ của mình, gửi gắm những truyền thống nhân đạo và ước mơ sống tự do trong một xã hội bất công tối tăm. Truyện Kiều ca ngợi và nâng niu tình yêu chung thủy, tình cảm kính yêu của con trẻ dành cho cha mẹ, và đặc biệt là khát vọng sống tự do trong xã hội bất công. Tinh thần nhân đạo vô biên trong Truyện Kiều là sự kết tinh của truyền thống nhân đạo mà dân tộc ta đã mang truyền đi qua hàng thế kỷ.

Sáu câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên, với sự kết hợp tinh tế giữa không gian và thời gian.

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng”

Nơi lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều nhìn thấy khung cảnh thiên nhiên, mà con mắt của nàng chứng kiến. Đây chính là nơi mà tuổi xuân của Kiều bị giam giữ, một sự khóa kín đau đớn, gợi lên nỗi buồn và tủi nhục. Một mình ở lầu Ngưng Bích, nàng chìm trong không gian bao la, rộng lớn, chỉ có đám mây và ngọn đèn bầu làm bạn đồng hành. Sự đối lập nghệ thuật giữa “non xa” và “trăng gần” tạo nên một không gian huyền bí, nỗi cô đơn và sự trống rỗng trong tâm hồn Kiều.

Cát vàng đống lên nhau, những bụi hồng ở xa kia, dù Kiều biết chúng tồn tại nhưng không thể tiếp cận, không thể trở thành bạn đồng hành của nàng. Trước khung cảnh chiều tà đầy buồn bã, trái tim Kiều cảm thấy chia đôi, biểu hiện nỗi đau xót và khúc mắc trong một chuỗi thời gian “mây sớm đèn khuya”. Mỗi ngày đi qua, cảnh vật vẫn không thay đổi, chỉ có trái tim con người càng trở nên buồn thêm.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 11

Nguyễn Du, vị đại thi hào của dân tộc, đã mang văn học Việt Nam vươn xa ra thế giới thông qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm này không chỉ là một bức tranh sâu sắc về hiện thực xã hội phong kiến với những tình huống tàn ác do tầng lớp thống trị gây ra, mà còn là tiếng gọi bi thương từ những số phận bị đàn áp trong thời đại đó. Điều đáng chú ý là trong tác phẩm, ta cảm nhận được lòng thương cảm và tình yêu thương con người sâu sắc của tác giả.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được xem là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất từ tác phẩm này. Nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”, nó tái hiện tâm trạng của Kiều sau khi bị lừa vào lầu xanh và ôm ý định tự vẫn. Trước sự lo lắng mất vốn, Tú Bà đã dùng lời khuyên để xoa dịu và hứa hẹn sẽ tìm một người đàn ông tốt cho Kiều khi nàng bình phục. Tuy nhiên, thực tế là Kiều vẫn bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đến khi thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích này chứa đựng những lời tự sự chân thành, biểu hiện nỗi cô đơn và buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu và suy nghĩ về số phận khổ đau của mình

Bị giam giữ trong lầu cao trơ trọi, Thúy Kiều cảm thấy như chỉ có “non xa” (núi xa) và “trăng gần” (lầu cao gần trăng) là bạn đồng hành của mình. Đứng ở lầu cao nhìn xung quanh, Kiều trông thấy một cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng vẻ và rợn ngợp, với “cát vàng cồn nọ” (những đống cồn cát trải dài) và “bụi hồng dặm kia” (những đám bụi màu hồng bay lên do gió thổi). Những hình ảnh này được sử dụng để tạo nên sự nổi bật cho tâm trạng cô đơn và buồn tủi của Kiều. Đây thực sự là một ví dụ xuất sắc về việc sử dụng ngôn ngữ hình tượng để miêu tả cảnh vật và truyền đạt tình cảm.

Trong vòng xoay thời gian, Thúy Kiều chỉ có mây làm bạn từ sớm sáng, đèn làm bạn từ khuya tối, và sống một mình trong cảnh thui thủi, triền miên, ngao ngán và vô vọng. Nàng không chỉ chịu nỗi buồn về cảnh vật xung quanh mà còn đau khổ về tình yêu. Hai loại đau khổ này cùng chia rẽ tâm can nàng, khiến nàng lạc lõng trong cảnh cô đơn tuyệt đối. Nàng đứng trơ trọi giữa không gian và thời gian mênh mông hoang vắng, không có một bóng người, không có sự giao lưu và kết nối giữa con người.

Ý thơ vẫn diễn đạt một cách linh hoạt: tả cảnh với không gian rộng lớn, khiến cho cảnh vật mênh mông trải dài. Đồng thời, tả tâm trạng với sự gắn kết với thời gian. Sự liên tục của thời gian (mây sớm, đèn khuya) làm tăng thêm tình trạng chán nản, buồn tủi của Kiều, khi “Nửa tình nửa cảnh” dường như đã không thể phân biệt được. Sự tả cảnh ngụ tình tài hoa, độc đáo đã vẽ nên một bức tranh sống động về cảnh vật bên ngoài và tâm trạng bên trong, trong đó nổi lên những cảm xúc bất hạnh, chua xót, lo sợ và tuyệt vọng, góp phần tạo nên vẻ đẹp thủy chung, hiếu thảo và nhân hậu của Thúy Kiều. Đặc biệt, tám câu cuối là chứng minh hùng hồn nhất và sáu câu đầu là tiền đề để chứng tỏ rằng Thúy Kiều là một người nhân hậu, hiếu thảo và thủy chung

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 12

“Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc”. Quả thật vậy, càng suy ngẫm ta càng thấm thía, càng thấy độc đáo bởi một đại thi hào dân tộc với sự sáng tạo tuyệt vời đã làm cho ngôn ngữ dân tộc vốn đẹp giờ càng đẹp hơn. Tả cảnh ngụ tình là một cách thức để Nguyễn Du thể hiện thành công nét độc đáo của tiếng Việt trong tác phẩm của mình. Sự thành công này được thể hiện qua đoạn trích Kiều ở Lầu Ngưng Bích, trong đó, sáu câu thơ đầu là hoàn cảnh cô đơn, cay đắng, xót xa của nàng Kiều; đó là “tình” trong “cảnh”, “cảnh” trong “tính”:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.ư
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng…

Sáu câu thơ đầu là mảng tâm trạng buồn rầu, xót xa của Thúy Kiều trước toàn cảnh trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn và tâm trạng của Thúy Kiều. Nàng Kiều trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ “Bốn bề bát ngát xa trông” gợi lên sự rợn ngợp của không gian, xung quanh chỉ toàn mây nước không một bóng người, vừa hoang sơ, vừa thực vừa ảo. Khung cảnh thiên nhiên có “non xa, trăng gần, cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” nhưng chẳng có lấy một sự tươi vui, náo nhiệt nào. Nàng trơ trọi giữa trời nước mênh mang, không gian hoang vu tiêu điều, trong hoàn cảnh tha hương, lại bị giam hãm trong cái lầu xanh cao ngất nghểu trơ trọi giữa trời và nước.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng….”

Một khung cảnh bao la, rộng lớn của đất trời, nhưng lại thấm đẫm một nỗi sầu của nhân vật, đúng như Nguyễn Du viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian quẩn quanh không lối thoát, thành ngữ “mây sớm đèn khuya” gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả đang giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy “bẽ bàng” chán ngán, chỉ biết làm bạn với “mây” và “đèn”. Câu thơ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” diễn ra nỗi buồn sầu, nhưng không chỉ buồn rầu, tủi hổ về thân phận, số phận cay đắng, truân chuyên mà nàng còn xót xa vì cái “tình riêng” khiến lòng nàng như bị xé! Một nửa là tâm sự của Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối phụ họa với nhau mà tác động đến tâm trạng Thúy Kiều, chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan nát, dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương.

Thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã thể hiện một cách độc đáo cảnh thực ở lầu Ngưng Bích, đồng thời, đồng thời, khắc họa rõ nét nỗi xót xa, buồn tủi của nàng Kiều về tình riêng dang dở.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 13

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, để lại nhiều tác phẩm đồ sộ cho đời. Bản thân ông sinh ra trong một gia đình giàu có, quý tộc và có nhiều đời làm quan. Tuy nhiên, vì biến cố gia đình, ông phải trải qua cuộc sống khổ sở và lưu lạc trong 10 năm. Những năm tháng tứ cố vô thân đã giúp ông có cái nhìn sâu sắc về xã hội, cảm thấy thương hại cho số phận của con người, đặc biệt là số phận của phụ nữ trong xã hội xưa. Trong các tác phẩm văn chương của ông, tác phẩm nổi bật nhất là Truyện Kiều. Tác phẩm này có nguồn gốc từ Trung Quốc với cốt truyện là Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã chuyển thể thành thơ lục bát bằng chữ nôm, sử dụng bút pháp tài hoa và tài năng thiên phú của mình để cho ra đời tác phẩm Truyện Kiều chữ nôm vang danh thiên sử. Trong đó, trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là đỉnh cao nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nói lên hoàn cảnh và tâm trạng của nhân vật Kiều. Đặc biệt, ở trong sau câu thơ đầu đoạn trích:

Hai câu thơ đầu tiên mở ra cảnh ngộ của Thúy Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Hai câu thơ trên của Truyện Kiều được sử dụng để tả lại tình trạng của nhân vật chính Kiều, người đã bị bán vào lầu xanh và bị giam cầm trong đó. Trong câu thơ đầu tiên “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, ngôn ngữ sử dụng tạo ra một cảm giác than thở, buồn bã của Kiều về sự mất mát của tuổi trẻ. Từ “khóa xuân” diễn tả sự bế tắc, Kiều cảm thấy bị “khóa” lại vì đã mất đi tuổi trẻ của mình. Điều này cũng có thể hiểu là cô đã bị bắt ép vào cuộc sống của lầu xanh và không thể thoát khỏi nó.

Câu thơ thứ hai “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung” tạo ra một cảnh tượng yên tĩnh, đơn độc của Kiều khi cô ở trong lầu ngưng bích. Cảnh tượng này diễn tả sự cô đơn và cô muốn thoát khỏi sự bế tắc hiện tại của mình. Tuy nhiên, cô không thể thoát khỏi sự giam cầm trong lầu xanh. Trăng làm bạn cho Kiều và cảnh non xa trong đêm tạo nên một bức tranh về sự cô đơn, tuyệt vọng và cảm giác bất lực của nhân vật chính. Từng câu thơ được sử dụng để miêu tả tình trạng của Kiều và giúp người đọc hiểu rõ hơn về suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật chính trong cuộc sống của cô.

Qua lăng kính của nhà thơ, ta có thể hình dung ra lầu ngưng Bích khá cao, từ trên cao, nàng có thể nhìn ra xa mọi thứ được, có thể cảm nhận thiên nhiên xung quanh.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Trong câu thơ “Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, Nàng Kiều đứng trên lầu Ngưng Bích, nhìn ra xa nhưng chỉ thấy xung quanh là những cồn cát vàng và bụi hồng. Tuy nhiên, trong thời gian bị giam giữ, Kiều chỉ có thể tìm kiếm sự gần gũi với thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại rất xa, rộng lớn và khó tiếp cận. Các cồn cát vàng trông như những ngọn núi cát nổi lên ở gần bờ biển, trong khi bụi hồng dặm kia có thể chỉ là những bụi bẩn bám trên đường hoặc do gió thổi mạnh gây ra.

Từ đó, ta có thể thấy rằng Kiều bị giam giữ trong một nơi cao và khó tiếp cận, khiến cho cảnh vật trước mắt của cô trở nên mờ nhạt và khó hình dung. Điều này khiến cho Kiều cảm thấy cô đơn và lạc lõng giữa không gian bao la. Sự xa xôi và khó nhận biết của không gian càng làm cho con người trở nên vô cùng nhỏ bé và tầm thường giữa thiên nhiên vô tận.

Trong Lầu Ngưng Bích, ban đêm chỉ có ánh trăng và núi, ban ngày lại bao phủ bởi cồn cát và bụi bay. Những cảnh tượng ấy khiến người thê lương và người bị giam giữ cảm thấy cô đơn, và không thể tránh khỏi suy ngẫm về sự vô nghĩa của cuộc đời. Nguyễn Du đã tài hoa khi tả cảnh để lộ tâm trạng và hoàn cảnh của Kiều. Cảnh thiên nhiên trong bốn câu thơ đều mang nét u ám, đơn độc và trống vắng. Tất cả chỉ là cát và bụi, không có dấu vết của sự sống, khiến con người trở nên vô cùng tầm thường, cô đơn và mỏi mệt trong không gian bao la ấy.

Chính cảnh thiên nhiên đó đã khiến cho Kiều cảng cảm thất hiu quanh:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Trong đoạn thơ này, “bẽ bàng” có nghĩa là buồn rầu, chán ngán. Nàng Kiều đang sống trong lầu Ngưng Bích, không có gì để làm, cuộc sống nhàm chán lặp đi lặp lại. Cảnh sáng thì nhìn mây, tối thì nhìn đèn, Kiều rất chán cuộc sống như thế này.

“Cảnh” và “tình” trong câu thơ thể hiện tâm trạng rối bời của Kiều. Nàng có lúc nghĩ đến tình, có lúc nghĩ đến cảnh. Câu thơ này có thể hiểu là tâm trạng của Kiều bị xé ra làm đôi, hoặc cũng có thể là nàng Kiều vừa ngắm cảnh vừa suy nghĩ về tình. Điều này cho thấy tài năng của nhà thơ khi viết những câu thơ có thể diễn tả theo nhiều nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, để hiểu đúng ý của câu thơ, ta cần đặt trong bối cảnh của nàng Kiều.

Với bút pháp tả cảnh ngụ tình rất linh hoạt đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh, trong đó nổi lên trên cả đó chính là tâm trạng của nàng Kiều vô cùng chán nản, buồn rầu vì bị giam ở lầu Ngưng bích không bóng người qua lại, hàng ngày chỉ làm bạn với thiên nhiên, trăng núi và cuộc đời nàng có khác gì cát bụi, khiến tâm trạng của nhân vật dường như vướng vào quẩn quanh không nối thoát. Tuy chỉ với 6 câu thơ nhưng người đọc có thể hiểu được hoàn cảnh éo le của Kiều và tâm trạng chán chường của nàng ở nơi cô đơn, hiu quạnh này.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 14

Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều trong những bước gian truân đầu tiên của kiếp đời lung lạc. Những vần thơ mênh mang cứ day dứt, ám ảnh khôn nguôi, gieo vào lòng ta niềm xót xa về kiếp “hồng nhan bạc phận”. Trong đoạn thơ mở đầu, tác giả không đi ngay vào việc miêu tả tâm trạng Thuý Kiều mà gợi ra khung cảnh thiên nhiên:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Bốn câu thơ đầu hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người mà chỉ thuần tuý thiên nhiên hay chính xác hơn là thiên nhiên hiện ra dưới mắt con người và con người ẩn mình sau dòng chữ, để cho thiên nhiên tự bộc lộ tiếng nói riêng của nó. Nhân vật trữ tình ấy chính là Thuý Kiều – người đang bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích. Chỉ có tâm hồn nàng được tự do, thoả sức hướng ra thiên nhiên như tìm một nơi chốn neo đậu, để xoa dịu đi nỗi đau đớn nhức nhối trong lòng, để tìm cảm giác giải thoát cho tâm linh tù túng, bế tắc. Trong tâm trạng, tâm thế ấy, Thuý Kiểu hướng tầm mắt về thiên nhiên và sững sờ khi bắt gặp một bức tranh đẹp mê hồn:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Khung cảnh như thực mà như mơ. Mơ là bởi “vẻ non xa” kia như một miền xa thẳm mịt mờ sương khói. Thực là bởi “tấm trăng gần”, như có thể đưa tay ra là với được. Vầng trăng ấy đã thân thuộc biết bao với Kiều. Cách đó không lâu người đã đến với trăng như tìm một chứng nhân cho tình yêu vĩnh cửu:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Giờ đây, ở cái nơi “Chân trời góc bể bơ vơ” thật bất ngờ, trăng đã tự tìm đến với người lẻ loi làm bầu bạn. Vầng trăng vô tri mà rất đỗi thuỷ chung ! Trong cảnh ngộ Kiều bị dồn vào thế chân tường, trăng đã đến bên nàng. Sự xuất hiện của trăng tựa như một chỗ dựa tâm linh nâng đỡ Kiều. Từ điểm tựa ấy, Thuý. Kiều hướng tầm mắt ra thiên nhiên, để cảm nhận rõ hơn thân phận, tình cảnh lẻ loi của mình:

Bốn bề bút ngát xa trông,

Cát vùng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Nhịp thơ đều đều, trầm bổng mà không hề đơn điệu, tạo cảm giác da diết, buồn thương. Nỗi niềm ấy chất chứa trong trái tim Kiều, được Nguyễn Du gói gọn trong từ “bẽ bàng”: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. “Bẽ bàng” là tâm trạng của con người cảm thấy hổ thẹn vì lâm vào cảnh éo le. Cảnh ngộ của Kiểu chính là đang trong những cung bậc cảm xúc ấy. Hổ thẹn vì phụ lời thề ước với chàng Kim, vì đang ở chốn lầu xanh nhớp nhơ, vì số phận ngang trái trớ trêu,… Trong tình cảnh ấy, thiên nhiên như cũng thấu nỗi niềm của thân phận lỡ làng, nhẹ nhàng đến bên nàng như một điểm tựa tinh thần, hoà cùng khúc nhạc sầu thương: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tình và cảnh tưởng chừng như tách biệt trong hai vế của câu thơ bởi từ “chia” nhưng thực ra là sự đồng điệu, thấu nhập tuyệt đối: cảnh chứa tình và tình phổ buồn vào cảnh. Vì thế mà nhìn cảnh, bao cung bậc sầu thương của Kiều mới được bộc lộ.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 15

Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một tác gia văn học tài hoa và lỗi lạc của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là thi sĩ của các nhà thi sĩ. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thi ca. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể quên được đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, đặc biệt là 6 câu thơ đầu của đoạn trích.

Sau bao biến cố khủng khiếp: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị cướp hết, Kiều phải hi sinh chữ tình để báo hiếu với cha mẹ. Bị Mã giám Sinh lừa gạt bán vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết. Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thật chất đó là cuộc giam lỏng, chờ cơ hội mụ sẽ bắt Kiều trở lại lầu xanh.

Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa biển khơi là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường lưu lạc đầy cay đắng và tủi nhục của Thúy Kiều. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là nỗi cô đơn buồn tủi, niềm nhớ thương da diết về quê hương gia đình và người thân của Kiều. Đó cũng là thể hiện tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.

Qua sáu câu đầu đoạn trích ”Kiều ở lầu Ngưng Bích” Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều. Câu thơ đầu với từ “khóa xuân” gợi cho người đọc thấy được hoàn cảnh rất tội nghiệp của Kiều lúc này: Nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Từ trên lầu cao nàng phóng tầm mắt ra thế giới tự nhiên, trước mắt nàng là dãy núi mờ xa, trên đầu là một tấm trăng lạnh lẽo, xung quanh là bốn bề bát ngát với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Từ láy ”bát ngát” gợi lên không gian mênh mông rợn ngợp gợi cảm giác lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời đất. Cái lầu chơi vơi ấy giam hãm một số phận con người.

Cảnh ở đây là cảnh thực nhưng cũng có thể là cảnh mang tính ước lệ để gợi lên sự mênh mông rợn ngợp của không gian, qua đó làm nổi bật tâm trạng cô đơn của Kiều, không chỉ cảm nhận về không gian Kiều còn cảm nhận về thời gian ”mây sớm đèn khuya” diễn tả thời gian tuần hoàn khép kín. Sáng và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng rơi vào cảnh cô đơn tuyệt đối khiến nàng cảm thấy bẽ bàng:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”​

Nhà thơ dùng từ bẽ bàng để diễn nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, buồn vì cảnh hoang vắng, buồn vì mối tình đầu dang dở khiến lòng như bị xé : “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Như vậy từ cảnh vật ở lầu Ngưng Bích, sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa sâu sắc tâm trạng cô đơn vô vọng của Thúy Kiều.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói chung và 6 câu thơ mở đầu nói tiếng là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất Truyện Kiều. Ngòi bút của Nguyễn Du đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều khiến người đọc thực sự rung động xót xa. Cảnh trong tình, tình trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của người con gái họ Vương vì thế neo đậu mãi trong lòng người đọc.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 16

Có người từng nói: “Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc”. Quả thật vậy, càng suy ngẫm ta càng thấm thía, càng thấy độc đáo – một đại thi hào dân tộc với sự sáng tạo tuyệt vời đã làm cho ngôn ngữ dân tộc vốn đẹp giờ càng đẹp hơn. Tả cảnh ngụ tình là một cách Nguyễn Du thể hiện thành công nét độc đáo của tiếng Việt trong tác phẩm của mình. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Sáu câu thơ đầu là hoàn cảnh cô đơn, cay đắng, xót xa của nàng Kiều; đó là “tình” trong “cảnh”, “cảnh” trong “tính”:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.ư
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng…

Sáu câu thơ – một mảng tâm trạng buồn rầu, xót xa – toàn cảnh trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn và tâm trạng của Thúy Kiều. Nàng Kiều trơ trọi giữa không gian, thời gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ “Bốn bề bát ngát xa trông” gợi lên sự rợn ngợp của không gian: vừa hoang sơ, xung quanh chỉ toàn mây nước không một bóng người, vừa thực vừa ảo mù mịt.

Khung cảnh thiên nhiên có “non xa, trăng gần, cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” nhưng chẳng có lấy một sự tươi vui, náo nhiệt, không sức sống. Tuổi “xuân” của nàng bị khóa chặt trong sự cô lập, cô đơn đến bất hạnh đó. Nàng trơ trọi giữa mênh mông trời nước, không gian hoang vu tiêu điều, trong hoàn cảnh tha hương, lại bị giam hãm trong cái lầu xanh cao ngất nghểu trơ trọi giữa trời và nước.

Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng….

Một khung cảnh bao la, rộng lớn nhưng lại thấm đẫm một nỗi sầu của nàng Kiều. Đúng như Nguyễn Du viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài đặc, quẩn quanh, “mây sớm đèn khuya” gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả đang giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy “bẽ bàng” chán ngán, chỉ biết làm bạn với “mây” và “đèn”.

Câu thơ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” không chỉ buồn rầu, tủi hổ về thân phận, số phận cay đắng, truân chuyên mà nàng còn xót xa vì cái “tình riêng” khiến lòng nàng như bị xé! Một nửa là tâm sự của Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối phụ họa với nhau mà tác động đến Thúy Kiều, chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan nát, dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương.

Nguyễn Du đã xót thương cho cái số phận đầy sóng gió ấy. Thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong 6 câu thơ mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã thể hiện một cách độc đáo cảnh thực ở lầu Ngưng Bích và sự xót xa, buồn tủi của nàng Kiều về tình riêng dang dở.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 17

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Du là một đại thi hào với tài hoa kiệt xuất và tấm lòng nhân ái vĩ đại. “Truyện Kiều” là tác phẩm tiêu biểu của ông, có tên gọi khác là “Đoạn trường tân thanh”.

Trong tác phẩm truyện thơ nổi tiếng này, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng nhân vật Vương Thúy Kiều, một cô gái mà “người sao hiếu nghĩa đủ đường” nhưng số phận đầy truân chuyên đau khổ, trong một xã hội phong kiến thối nát bị chi phối bởi thế lực của đồng tiền. Một trong những đoạn thơ đặc sắc miêu tả tâm trạng của người con gái đó trên bước đường lưu lạc là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” viết về tình cảnh của nàng Kiều sau khi bị Mã Giám Sinh lừa mua về lầu xanh của mụ Tú Bà. Vì Kiều phản kháng quyết liệt, Tú Bà đành đem Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, một nơi hoang vắng, xa thôn xóm, làng mạc. Cảnh vật nơi này thật buồn tẻ:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Ngay câu thơ mở đầu, nhà thơ Nguyễn Du đã xót xa nói về tình cảnh của Kiều qua hai chữ “khóa xuân”. Người con gái nào cũng có một tuổi xuân phơi phới tươi đẹp, tràn đầy hạnh phúc và hi vọng. Nhưng tuổi xuân của Kiều đã bị khóa lại, mất tự do, những nỗi đau trong số phận bắt đầu ập đến cuộc đời nàng.

Phong cảnh lầu Ngưng Bích thật buồn, đó cũng là sự thể hiện xuất sắc của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: non thì xa mà trăng thì gần, lại thêm bốn bề cảnh vật mênh mông, trống trải, chẳng có một dấu tích của con người. Phóng tầm mắt xa hơn, chỉ thấy vài cồn cát, cùng bụi cuốn lên theo gió bay.

Cảnh càng hùng vĩ, bao la thì tâm trạng người con gái càng lẻ loi, đáng thương, vì hình ảnh của nàng trở nên nhỏ bé quá. Cách thức kết hợp từ ngữ, hình ảnh như: non xa với trăng gần, rồi cát vàng, bụi hồng… đã liệt kê ra một cảnh tượng có phần ngổn ngang, trống trải như nỗi lòng của Kiều trong lúc này. Đó chính là một nét tâm trạng của Kiều trên bước đường lưu lạc, khơi gợi ở người đọc niềm trắc ẩn và xót thương trước cảnh ngộ ngang trái mà nàng phải chịu.

Từ cách miêu tả phong cảnh để thể hiện nội tâm nhân vật ở những câu thơ trên, nhà thơ chuyển sang trực tiếp thể hiện nỗi đau của nhân vật trong cảnh tình này:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Từ láy “bẽ bàng” miêu tả nỗi chua xót, sầu khổ của người con gái ngây thơ, giàu lóng tự trọng, nhưng lại bị chà đạp nhân phẩm, đến nỗi định giải thoát bản thân bằng cái chết nhưng cũng không thể. Đó cũng là tình cảnh đơn độc, kêu trời không thấu, kêu đất, đất không hay, chỉ có áng mây buổi sớm, ngọn đèn khuya làm bạn, thui thủi lo âu.

Chỉ bằng một vài từ đơn sơ như thế, nhưng nhà thơ đã làm hiện lên tất cả những đắng cay của nàng Kiều một cách thật tinh tế. Và Nguyễn Du cũng lý giải nỗi buồn ngày một đậm sâu của Kiều, ấy là bởi “nửa tình nửa cảnh” làm cho cõi lòng Kiều thêm đau khổ. Tú Bà khi giam lỏng nàng ở đây có lẽ cũng là để khiến nàng bị nỗi buồn dày vò, để thực hiện âm mưu của mụ, muốn đẩy Kiều vào lầu xanh, sống kiếp ô nhục. Thật đáng thương cho nàng!

Xét về nghệ thuật thơ lục bát, thì Truyện Kiều nói chung và 6 câu thơ mở đầu đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói riêng đã đạt tới đỉnh cao của thể loại Truyện thơ Nôm. Ngòi bút tả cảnh, tả tâm lý và cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh vô cùng tinh tế góp phần miêu tả tâm trạng của nàng Kiều một cách rất tự nhiên và đặc sắc.

Từ đó, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ bộc lộ tài hoa văn chương xuất sắc của mình, mà còn bộc lộ một tấm lòng yêu thương con người, ngòi bút nhân đạo vô cùng cao cả. Ông không chỉ xót thương nỗi đau của Kiều, mà còn ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của nàng. Và từ đó, ngợi ca con người dù bị vùi dập mà vẫn giữ được nét đẹp trong tâm hồn của mình.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 18

6 câu thơ đầu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Hai câu đầu, nàng đang bị giam lỏng trong một lầu cao trơ trọi giữa trời đất, Kiều như chỉ còn ở chung làm bạn với “non xa” (núi xa) và “trăng gần” (lầu cao nên trăng gần). Đứng trong lầu cao nhìn ra xung quanh, Kiều chỉ thấy “cát vàng cồn nọ” (những cồn cát nhấp nhô, bát ngát), “bụi hồng dặm kia” (bụi hồng chỉ bụi sắc đỏ, do gió thổi bốc lên) cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nổi bật tâm trạng, nỗi buồn niềm cô đơn, buồn tủi của nàng Kiều. Đây là một trong những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.

Về thời gian, Kiều chỉ biết sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức – ngủ một mình, thui thủi triền miên, ngao ngán và vô vọng (bẽ bàng). Nàng không chỉ buồn về cảnh mà còn buồn về tình, hai nỗi buồn ấy chia xé tâm can nàng, nàng rơi vào cảnh cô đơn tuyệt đối. Nàng trơ trọi giữa không gian và thời gian mênh mông hoang vắng, không một bóng người, không có sự giao lưu giữa người với người.

Ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian cao rộng càng khiến cho cảnh mênh mang dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán nản, buồn tủi của Kiều “Nửa tình nửa cảnh”, dường như cũng không còn phân biệt nữa.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình rất tài hoa, độc đáo đã khắc họa một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh, trong đó nổi lên tâm trạng bề bộn bao nỗi buồn đau, chua xót, lo sợ, vô vọng, góp phần tạo nên vẻ đẹp thủy chung, hiếu thảo và nhân hậu ở Thúy Kiều ở các câu thơ sau, nhất là ở tám câu cuối mới là chứng minh hùng hồn nhất và sáu câu đầu là tiền đề để có nguyên cớ nói lên Thúy Kiều là nhân hậu, hiếu thảo, thủy chung.

Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 19

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học nên đã có rất nhiều người yêu thích, sáng tác những tác phẩm văn thơ vịnh về Truyện Kiều. Trong đó có những câu thơ rất hay vịnh về nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Một mình đối diện với mình
Mênh mông trăng gió vô tình thoảng qua
Mong manh như một nhành hoa
Ầm ầm tiếng sóng biết là về đâu?
Chưa đi đến thuở bạc đầu
Mà sao như đã nhuốm màu hư vô?

Đó là những câu thơ người ta vịnh về tâm trạng của nàng Kiều khi Nguyễn Du miêu tả cảnh nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều “thất thân” với hắn “đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”, nàng bị hắn bán vào lầu xanh. Biết mình bị lừa và phải làm nghề dơ bẩn, Kiều uất ức, rút dao định tự vẫn.

Tú Bà sợ hãi “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma”, nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Vì thế đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” dựng lên cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều một mình bơ vơ nơi xứ người, đồng thời qua đoạn trích, người đọc thấy được bút pháp “tả cảnh ngụ tình” độc đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.

Trước hết là sáu câu thơ đầu, tác giả nêu lên hoàn cảnh sống và nỗi niềm cô đơn, tội nghiệp của nàng Kiều. Ngay câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. “Khóa xuân” tức khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng.

Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm, khóa kín trong cấm cung và không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng.

Những câu thơ tiếp theo, tái hiện quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng của Kiều:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi giữa một không gian rộng lớn, mênh mông: “bốn bề bát ngát”. Đứng trên lầu mà ngước mắt lên trời cao, Kiều chỉ thấy “non xa” và “tấm trăng gần”. Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy khoảng không trống vắng, xa xa là những con sóng lượn, những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như trở nên lấp lánh giống như những bụi hồng.

Cảnh thật đẹp, thơ mộng, lãng mạn nhưng đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó xung quanh mình. Sau này trong bài thơ “Tràng Giang”, Huy Cận cũng từng có câu thơ:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Vì thế, ẩn sau ánh mắt nhìn “xa trông” như đang trông mong, ngóng chờ ấy là niềm mong mỏi, khát khao, đợi chờ một tương lai hạnh phúc phía trước nhưng trước không gian trống trải, hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ làm cho Kiều trở nên thất vọng, cô đơn hơn mà thôi.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Tính từ “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy xấu hổ là vì bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu xanh, còn nàng cảm thấy tủi thẹn là vì cảm thấy không còn xứng đáng với tình cảm mà Kim Trọng mong chờ.

Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi nên vòng tuần hoàn thời gian khép kín và ẩn sau đó là sự cô đơn, đơn điệu, nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có một thân một mình đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới chia đôi thành hai ngả: “nửa tình – nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.

Chỉ trong 6 câu thơ mở đầu đoạn trích, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu Ngưng Bích rất rộng lớn, mênh mông và tuyệt nhiên không có sự sống của con người. Đồng thời qua đó, tác giả còn cho thấy được tâm trạng cô đơn, tủi hổ, bẽ bàng của Kiều khi bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 20

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc.

Trước hết với sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích, là không gian nghệ thuật chứa đầy tâm trạng của Kiều. Trước mặt, là biển khơi từ trên lầu cao nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay. Chỉ có lầu Ngưng Bích đang giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Đó là một không gian hoàn toàn khép kín:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn. Một mình đối diện với “mây sớm đèn khuya”. Khiến Kiều đau khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho cái kiếp vô duyên lạc loài của mình:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán nản, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 21

Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam ta một kiệt tác của nền văn học trung đại – tác phẩm Truyện Kiều. Ngoài hai giá trị lớn và giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, truyện Kiều còn rất thành công về mặt nghệ thuật.

Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử bằng trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả thành công cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”, không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Kiều. Đặc biệt là trong 6 câu thơ đầu đã khắc hoạ cảnh ngộ của Kiều ở lầu Ngưng Bích vô cùng cô đơn, buồn tủi:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bằng nét bút tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả thành công nội tâm của Kiều. Từ ngữ “khóa xuân” đã cho thấy tình cảnh Kiều lâm vào cảnh cá chậu chim lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xuân của nàng. “Khóa xuân” ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục.

“Lầu Ngưng Bích” vốn là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữ tình, thơ mộng được mở ra cả ba chiều cao, xa và rộng qua các từ ngữ “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”. Thế nhưng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”, trong tình cảnh giam cầm Kiều khung cảnh thật buồn thảm, vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm hoang vu, vắng lặng.

Lầu Ngưng Bích chỉ là là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh “mây sớm đèn khuya” gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm tuổi xuân mơn mởn của tuyệt sắc giai nhân, sự sống của Kiều như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt. Từ đó khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy “bẽ bàng” chán ngán, buồn tủi, không ai chia sẻ nàng chỉ biết là bạn với mây, với đèn, với cảnh vật hoang vu, nhạt nhòa.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật kết hợp bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều và chứng tỏ được tài năng và trái tim biết sẻ chia, biết yêu thương của Nguyễn Du đối dành cho nhân vật và cho cuộc đời. Chính hồn thơ ấy, trái tim ấy đã đi vào tâm tưởng bao thế hệ, đưa chúng ta đến bao cảm xúc khác nhau, khiến ta chẳng thể nao quên như nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với đại thi hào này:

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân,
Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều.

Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 22

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh. Khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. 6 câu thơ mở đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều. Sống nơi lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ khóa xuân đã nói lên điều đó. Khoá xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những dư vị đau khổ vừa trải qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục.

Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô gợn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi Ngưng Bích ấy đang giam hãm một thân phận đơn độc lẻ loi. Với Kiều, không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn.

Từ cảnh vật lạnh lẽo, không gian rộng lớn mênh mông vô cùng, vô tận, Thúy Kiều lại ý thức sâu sắc về cảnh ngộ bi kịch của bản thân. “Bẽ bàng”, “mây sớm về khuya” tạo nên cái sự cô đơn đến choáng ngợp hay cảnh u buồn không lối thoát, không kết thúc. Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy.

Như vậy, qua 6 câu thơ đầu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ta có thể thấy được tài năng hơn người của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm nhân vật cùng với đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của ông.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (22 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (76 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button