Bình Định Vương là ai? Bình Định Vương – lãnh tụ thiên tài của khởi nghĩa Lam Sơn
Mời bạn đọc cùng tìm hiểu Bình Định Vương là ai? trong bài viết dưới đây để có câu trả lời nhé.
Bình Định Vương là ai?
Bình định vương là Lê Lợi có công dẹp giặc Minh, đem lại giang sơn cho nước nhà. … Trần Cao chết rồi, Bình định vương lên ngôi tức là vua Thái tổ nhà Lê, đặt quốc hiệu là Đại Việt. Năm ấy là năm mậu thân, lịch Tây là năm 1428.
Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương vào năm nào?
Tháng giêng năm 1418, Lê Lợi tế cờ khởi nghĩa, xưng là Bình Định Vương, người trong nước nghe tin về rất đông… Sau đó nghĩa quân tấn công đồn giặc, mở rộng địa bàn ra các vùng núi Thanh Hoá
Bạn đang xem: Bình Định Vương là ai? Bình Định Vương – lãnh tụ thiên tài của khởi nghĩa Lam Sơn
Bình Định Vương Lê Lợi – lãnh tụ thiên tài của khởi nghĩa Lam Sơn
“Lương Giang trời mở chân nhân. Vua Lê Thái tổ ứng tuần mới ra”. Đó là hai câu thơ trong Đại Nam Quốc Sử diễn ca đã ngợi ca về vùng đất Lương Giang (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) – nơi sinh ra vị lãnh tụ thiên tài của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Theo chính sử, Lê Lợi sinh năm Ất Sửu 1385, tại hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Dưới ngòi bút của tinh thần ngợi ca, người xưa đã miêu tả về Lê Lợi: “thiên tư tuấn tú khác thường, tinh thần và dáng người tinh anh, mạnh mẽ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, vai có nốt ruồi, tiếng nói như chuông, đi như rồng, bước như hổ, kẻ thức giả đều biết là người phi thường” (Lam Sơn thực lục).
Lớn lên trong giai đoạn đất nước đầy biến động, đặc biệt là chứng kiến đủ tội ác của giặc Minh. Chúng cai trị nước ta bằng những chính sách nham hiểm, tàn độc như tịch thu sử sách của ta và ban phát kinh sách của chúng; phá hủy các công trình kiến trúc; bóp nghẹt người dân bằng chế độ sưu cao, thuế nặng, khổ dịch; chà đạp phụ nữ, tàn sát lương dân dã man… Có lẽ, chứng kiến dân tộc chịu cảnh “nướng dân đen”, “vùi con đỏ” đã hình thành trong ông tấm lòng thương dân, cảm thông với nỗi khổ đau của dân; nuôi dưỡng lòng yêu nước, nuôi chí lớn thay đổi cục diện cứu nước, cứu dân. Phải thương dân thế nào, thấu hiểu nỗi đau của dân bao nhiêu thì ông mới vạch trần tội ác của giặc Minh một cách rõ ràng đến vậy: “Tội ác của giặc đầy rẫy, thần và người đều căm giận: chúng đào mồ mả ta, bắt bớ dân ta, chém giết người trung lương”. Từ “chí ở thương sinh” đã thấm sâu vào tâm hồn, trở thành một tất yếu trong mọi suy nghĩ, hành động, Lê Lợi đã biến trại Lam Sơn thành nơi trú ẩn cho bao sinh mệnh, giúp họ không phải chịu phu phen, tạp dịch, đe dọa, đánh đập. Đồng thời, ông quyết chuyên tâm, đọc sách thao lược và dốc sạch của cải hậu đãi khách nhân, phát thóc giúp dân cơ bần, thu nạp người chống đối giặc Minh, ngấm ngầm nuôi giấu những kẻ sĩ mưu trí. Mặt khác lại khéo léo thoát khỏi sự để ý, kiểm soát của kẻ cướp nước và bè lũ bán nước… Đó cũng chính là nhân yếu cơ bản hình thành nên chủ nghĩa nhân đạo trong con người vị lãnh tụ. Cũng chính chủ nghĩa nhân đạo ấy đã trở thành nền tảng làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Khi hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ từ mọi miền đất nước nổ ra được rất nhiều người hưởng ứng, nhưng Lê Lợi vẫn quyết tâm ở ẩn. Không phải Lê Lợi chưa nghe rõ tiếng dân tộc đang kêu cứu mà lúc này ông xét thấy thời thế chưa chín muồi, nên càng giữ mình, ở ẩn không để lộ danh tiếng. Trong một thời gian dài ông không tham gia bất cứ hoạt động nào trong khi phong trào cứu nước đang sục sôi khắp nơi. Thay vào đó, ông nghiên cứu sách lược, đúc rút kinh nghiệm lịch sử, xác định phương hướng cho cuộc chiến trường kỳ xây dựng căn cứ địa vững chắc làm chỗ dựa cho cuộc kháng chiến trường kỳ; hình thành lực lượng nòng cốt cho cuộc kháng chiến. Nhiều nhận định cho rằng, sự im lặng của ông trong thời điểm ấy thể hiện sự tính toán, suy xét của một người thức giả, mang trên mình khí chất người anh hùng: Sự im lặng của một chí lớn.
Phát động khởi nghĩa nhằm mục đích giải phóng dân tộc, đó là việc làm của tinh thần chính nghĩa cao cả. Lê Lợi cũng như những lãnh tụ khởi nghĩa trước đó đều mang theo khát vọng ấy khi dựng cờ khởi nghĩa. Song điểm khác biệt nổi bật của Lê Lợi so với những bậc tiền nhân hay các lãnh tụ khởi nghĩa khác là ông và bộ tham mưu của mình đã xác định lý luận rõ ràng, làm căn bản cho mọi hoạt động của mình. Đó là “đại nghĩa thắng hung tàn”, “chí nhân thay cường bạo”, “mưu phạt công tâm”, “chẳng đánh mà người chịu khuất”. Đồng thời, xác định rõ chiến lược kháng chiến, lợi dụng địa hình vùng núi miền Tây Thanh Hóa “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, lúc chủ chiến, khi nghị hòa nhằm tiêu hao sinh lực địch, bảo toàn lực lượng nghĩa quân”. Chính những lý luận, sách lược rõ ràng, đúng đắn này đã biến cuộc chiến tranh du kích của nghĩa quân Lam Sơn ngày càng lớn mạnh và trở thành cuộc chiến tranh Nhân dân.
Điều này được minh chứng qua sự kiện Hội Thề Lũng Nhai. Lê Lợi đã lựa chọn và tập hợp 18 vị hào kiệt cùng dâng lễ vật, sinh huyết để tấu cáo với trời đất và sông núi, nguyện chung sức đồng lòng chống giặc. Hội thề là sự kiện đặt nền móng đầu tiên và vững chắc cho cuộc khởi nghĩa. Đến khi nhận định thời cơ đã chín muồi, vào năm Mậu Tuất 1418, Bình Định Vương Lê Lợi đã chính thức khởi xướng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trước sự truy đuổi ráo riết của quân Minh, nghĩa quân phải rút lên trên núi Chí Linh ẩn náu (thuộc xã Giao An, huyện Lang Chánh). Bị quân Minh vây chặt, nghĩa quân cạn hết lương thực. Trước tình thế nguy cấp đó, Lê Lai đã tự nguyện đóng giả Lê Lợi, dẫn quân xông ra phá vòng vây để đánh lừa quân địch . Lê Lợi và nghĩa quân thoát khỏi vòng vây của quân thù.
Sau sự kiện đó, quân Minh liên tục kéo quân vào tấn công nghĩa quân Lam Sơn. Lúc này nghĩa quân có khoảng vài chục quan văn võ, vài trăm quân thiết đột, vài trăm nghĩa sĩ, Bình Định Vương bèn lui quân đóng ở Lạc Thủy (nay là huyện Cẩm Thủy) bày binh bố trận chờ giặc đến. Khi giặc tiến đến, quân mai phục của nghĩa quân xung trận chém rơi hàng nghìn thủ cấp giặc, bắt được quân nhu, vũ khí. Đến khi ở Mường Một, Bình Định Vương cho quân mai phục và bắn tên tẩm thuốc độc khiến giặc chết và bị thương quá nửa. Tiếp đến là các trận Ba Lẫm, Sách Khối, Trà Lân… Sau khoảng 3 năm khởi nghĩa nổ ra, thanh danh Lê Lợi và nghĩa quân lam Sơn đã lan tỏa rộng khắp. Khi nghĩa quân mạnh dần lên, Bình Định Vương Lê Lợi bắt đầu thực hiện các chiến lược tấn công bằng ngoại giao, chính trị. Vào năm 1426, Bình Định Vương mở rộng mặt trận tiến quân ra Bắc. Cùng với việc điều khiển tướng sĩ tấn công quân sự, ông còn chiêu dụ địch bằng văn thư khiến địch lung lay ý chí, nhuệ khí chiến đấu. Nhờ đó, dù lực lượng mỏng hơn kẻ dịch, song nghĩa quân Lam Sơn đã giành chiến thắng lẫy lừng với những Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng, Xương Giang hay “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật”.
Không chỉ giàu lòng thương người, ý chí, nghị lực phi thường, Bình Định Vương còn giỏi điều binh khiển tướng, sử dụng tướng, sĩ một cách linh hoạt, tài tình. Trước một nhiệm vụ cụ thể, Bình Định Vương luôn lựa chọn người phù hợp, bàn kỹ giúp tướng sĩ thông mưu lược, nắm chắc ý đồ. Đặc biệt, Lê Lợi còn mang trong mình tính cách của một lãnh tụ vĩ đại. Đó là, quyết đoán và biết nghe lời phải. Điều này được Nguyễn Trãi đã rất tự hào nói về nhà lãnh tụ của mình đối với mình “nói tất nghe mà kế tất theo”. Qua cách điều binh khiển tướng cho thấy Lê Lợi không chỉ là nhà quân sự mà còn là nhà tổ chức giỏi, biết mình biết người. Những yếu tố này đã tạo nên một lãnh tụ thiên tài và tạo nên thành công cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã đánh dấu son rực rỡ trong tiến trình lịch sử dân tộc. Đồng thời, cho thấy rõ tài trí lãnh đạo, tầm nhìn chiến lược và tấm lòng nhân đạo của Bình Định Vương Lê Lợi. Mặc dù hơn 6 thế kỷ đã trôi qua, nhưng chủ nghĩa nhân đạo và những quan điểm, sách lược đúng đắn của Lê Lợi vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu, phát huy sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Nguyên nhân thắng lợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bao gồm những lý do sau đây:
– Truyền thống yêu nước của dân tộc: Từ bao đời nay, nhân dân ta luôn có truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh không mệt nghỉ, kiên cường bất khuất. Tinh thần, nhiệt huyết chiến đấu, đánh tan giặc ngoại xâm, quyết tâm giành lại độc lập cho đánh nước, bảo vệ biên cương của nước nhà và cuộc sống ấm no cho người dân.
– Người lãnh đạo tài ba: Một trong những nguyên nhân to lớn dẫn đến kết quả thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đó là có được sự lãnh đạo tài tình, mưu lược của bộ chỉ huy nghĩa quân, trong đó đứng đầu là Lê Lợi. Cùng với đó là những tướng sĩ tài hoa được Lê Lợi chọn lọc và tin dùng đó là Nguyễn Trãi, Lê Lai, Nguyễn Chích, … Tiêu biểu là Nguyễn Trãi, ông đã đưa ra nhiều sách lược, chiến thuật đúng đắn để giúp cho cuộc khởi nghĩa đi đến với thắng lợi. Không những thế, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa còn biết kết hợp sức mạnh quân sự và ngoại giao để chiến thắng trước kẻ thủ, biết lùi một bước để tiến hai bước, tạm hòa giải để chuẩn bị lực lượng, tiến công mạnh mẽ và giành thắng lợi, dẫn binh thần tốc, đi đến đâu chiêu dụ nhân tài đến đó bổ sung lực lượng hùng hậu cho nghĩa quân.
– Sự ủng hộ của người dân: Từ những ngày đầu bắt đầu dựng cờ khởi nghĩa, đội quân Lam Sơn đã nhận được sự ủng hộ hết lòng từ phía nhân dân. Tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân biệt già, trẻ, nam, nữ hay các tầng lớp trong xã hội, cùng chung chí hướng đấu tranh, giải phóng dân tộc, đánh bay giặc Minh về nước. Đặc biệt, người phụ nưc cũng có nhiều đóng góp trong cuộc khởi nghĩa như cung cấp lương thực, xây dựng căn cứ, tham gia chiến đấu, dũng cảm quên mình như bà Phạm Thị Ngọc Trần (vợ Lê Lợi) – người đã có công trong việc quản lý trang trại, lương thực ở Lam Sơn, chỉ huy đội nữ binh; Hồng Nương công chúa (con gái Lê Lợi) cũng là nữ tướng tham gia đánh giặc; Nguyễn Thị Bành (vợ Nguyễn Chích)là một nữ tướng tài ba chỉ huy nhiều trận đấnh … Các thành phần dân tộc đều đoàn kết đánh giặc, hăng hái tham gia vào cuộc khởi nghĩa, gia nhập lực lượng đoàn binh, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân, che giấu và bảo vệ nghĩa binh trước sự đe dọa, dòm ngó của quân Minh xâm lược. Từ đó, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hình thành nên cuộc khởi nghĩa 10 năm với nhiwuwf gian truân, vất vả.
– Chiến thuật đúng đắn: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chính thức kéo dài trong 10 năm, đó là cuộc khởi nghĩa bền bỉ và lâu dài. Trong giai đoạn đầu cuộc đấu tranh, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn cả về binh lực và lương thực thực phẩm. Bên cạnh đường lối kháng chiến, chiến thuật tác chiến đúng đắn, sáng tạo của người chỉ huy. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đó là đã biết dựa vào dân, từ một cuộc đội quân nhỏ đã phát triển thành mội đoàn quân khởi nghĩa hùng hậu với quy mô cả nước, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đánh tan quân xâm lược. Trong cuốn “Khởi nghĩa Lam Sơn 1418 – 1427″ đã chỉ rõ: ” Hầu như không có làng nào thuộc hai huyện Lương Giang và Cố Lôi dọc theo sông Chu không có người gia nhập nghĩa quân vào những năm tháng chuẩn bị này”.
Như vậy, có rất nhiều yếu tố dẫ đến thắng lợi của cuộc khởi nghĩa lam Sơn do Bình Định vương Lê Lợi lãnh đạo. Trong đó phải kể đến nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của cuộc khởi nghãi Lam Sơn đó chính là tinh thần dân tộc, nhân dân ta luôn có một lòng nồng nàn yêu nước, ý chí bất khuất, quyết tâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no hạnh phúc, không phải chịu ách thống trị, xiềng xích của quân xâm lược.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi có ý nghĩa lịch sử gì?
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa lam Sơn đã làm chấm dứt hơn 20 năm đô hộ của triều đình phong kiến nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa đã đập tan hoàn toàn những âm mưu đô hộ nước ta của nhà Minh. Đất nước ta hoàn toàn sạch bóng quân thù xâm lược. Mở ra thời kỳ mới cho dân tộc ta, triều đại hậu Lê với gần 400 năm lịch sử.
Trong suốt tiến trình của cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi và những tướng sĩ của mình đã “lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế”, “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả ước nhà góp sức”, biết nắm bắt vai trò quan trọng của người dân mà khơi dậy và phát huy toàn dân đứng lên giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Từ khắp mọi miền đất nước, đội quân Lam Sơn đã dựng cờ khởi nghĩa, chiêu mộ nhân tài phối hợp với nhân dân địa phương dựng nên thế trận “làng – nước cùng đánh giặc”. Trải qua 10 năm chiến đấu gian khổ, từ lực lượng ban đầu năm 1418 chỉ có khoảng 2 000 người, đến năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã có đến 350 000 quân, bao gồm các vệ bộ binh, đội tượng binh, thủy binh và kỵ binh. Sự phát triển vượt bậc về cả phạm vi, quy mô hoạt động lẫ tổ chức và lực lượng không chỉ thể hiện tình yêu nước, căm thù giặc cao độ của nhân dân mà còn phản ánh truyền thống đoàn kết một lòng cứu nước của nhân dân Đạt Việt. Đồng thời từ cuộc khởi nghĩa ngày đã để lại những bài học về chiến lược, mưu lược cho cuộc hành trình chống xâm lăng, giữ nước của dân tộc, là một trong những nghệ thuật quân sự độc đáo.
Chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn cũng thể hiện tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm của nhân dân ta. Đối với người Việt Nam, yêu nước là tình cảm thiêng liêng, là cái chi phối và là thước đo đạo lý làm người. Giá trị đó được hình thành và phát triển trong suốt chiều sau lịch sử dụng nước và giữ nước, được kết tinh, lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Yêu nước không chỉ lag phẩm chất tinh thần luôn được hun đúc thành truyền thông và hơn thế trở thành chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh tinh thần là nguồ lực không bao giờ cạn, đảm bảo cho sự trường tồn của đất nước qua mọi thiên biến của lịch sử. Nhờ lòng yêu nước, trong toàn bộ cuộc khởi nghĩa, nhiều khi tưởng chừng không qua nổi nhưng với tinh thần bất khuất và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em như người mường, người thái ở núi Chi Linh đã giúp đội quan Lam Sơn vượt qua khó khăn trong giai đoạn và đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời sự đóng góp đó cũng là một bằng chứng sinh động khẳng định mối đoàn kết và sự thống nhất vững chắc của các dân tộc nước ta.
Khởi nghĩa Lam Sơn giảnh thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua, đồng thời đã mở ra cho đất nước ta một thời kì mới – Đại Việt thời Lê Sơ. Với gần 400 năm lịch sử, thời đại Lê sơ có 10 vị hoàng đế thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các hoàng đế nhà Lê nắm trọn được quyền hành, cũng như là thời kỳ vĩ đại, hoàng kinh nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, xã hội được đi vào ổn điịnh, phát triển thịnh vượng một cách nhanh chóng sau thời kỳ đấu tranh chống giặc Minh trước đó. Cùng với đó là sự phát triển cực tịnh về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục , quân sự, góp phần để lại những giá trị văn hóa – lịch sử to lớn cho thế hệ sau này. Lãnh thổ thời đại này tiếp tục được mở rộng hơn; nền kinh tế phát triển theo thông qua buôn bán trong nước và thông thương với nước ngoài, bộ luật Hồng Đức ra đời và những tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật có giá trị cho đến thời kỳ bây giờ như: Bình ngô đại cáo; Đại Việt sử ký toàn thư; nghệ thuật chèo tuồng; các công trình kiến trúc và điêu khắc như các công trình lăng tẩm cung điện tại Lam Kinh, …
Như vậy, với chiến thắng lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để để lại những ý nghãi lịch sử to lớn đối với dân tộc ta. Nó thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân, sự dũng cảm dám đứng lên đấu tranh bảo vệ tổ quốc, đánh tan ách xâm lược của giặc ngoại xâm. Cùng với đó, thể hiện công cuộc dựng nước và giữ nước của đất nước ta với viết bao công trạng của những người anh hùng đã làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc, mang lại cuộc sống ổn định, ấm no, hạnh phúc của người dân. Cùng với đó để lại những giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật có giá trị đến đời sau.
Trên đây là nội dung bài viết giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về Bình Định Vương là ai? Mọi thông tin trong bài viết Bình Định Vương là ai? Bình Định Vương – lãnh tụ thiên tài của khởi nghĩa Lam Sơn đều được xác thực rõ ràng trước khi đăng tải. Tuy nhiên đôi lúc vẫn không tránh khỏi những sai xót đáng tiếc. Hãy để lại bình luận xuống phía dưới bài viết để đội ngũ biên tập được nắm bắt ý kiến từ bạn đọc.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Tổng hợp