Học TậpLớp 9

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều (23 bài mẫu)

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 23 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều

Mục lục

Dàn ý Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều chi tiết

1. Mở Bài

Bạn đang xem: Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều (23 bài mẫu)

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”

2. Thân Bài

– Đoạn trích khắc họa sống động hình tượng nhân vật phản diện Mã Giám Sinh – một tên buôn người bịp bợm, xảo quyệt

+ Qua lời nói: Đối lập với danh xưng “viễn khách”, hắn ta lộ rõ sự gian dối khi ngay lập tức sơ hở rằng quê ở lâm thanh

+ Hình thức: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao lộ rõ vẻ khoa trương kệch cỡm của một kẻ buôn người

+ Hành động, cử chỉ: Ngồi tót sỗ sàng cho thấy đây là một kẻ vô học, vô văn hóa. Hắn xem Kiều như một món hàng có thể cân đo đong đếm. Hắn “mua” nàng với giá chỉ ngoài bốn trăm.

– Tố cáo thế lực buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền và một xã hội mục ruỗng thối nát.

– Không chỉ khắc họa hình tượng Mã Giám Sinh, tác giả còn cho thấy nỗi tủi nhục và cam chịu của Thúy Kiều khi bị đưa ra mua bán:

+ Nàng vừa tức nỗi nhà vừa thương thay cho chính số phận nghiệt ngã của mình

+ Kiều tự xem mình là cánh hoa trước gió, dù còn “dạn gió, e sương” vẫn phải “vén tóc, bắt tay”

+ Nàng dự cảm thấy tương lai mù mịt sắp tới của chính mình

– Tình cảm, sự thương xót của Nguyễn Du đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

3. Kết Bài

– Giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm

23 bài mẫu Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều hay nhất

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 1

Mã Giám Sinh là nhân vật phản diện trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Hắn chỉ là một tên buôn người nhưng lại khoe là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã. Dẫu cố tình đội lốt sinh viên nhưng rồi ngoại hình, hành động, nhân cách của hắn cũng hiện nguyên hình dưới ngòi bút miêu tả tài tình của thi hào Nguyễn Du. Một vài nét phác hoạ, ngoại hình của Mã Giám Sinh đã hiện lên:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Tuổi tác và cách ăn mặc thật đối lập nhau. Tuổi thì đã ngoại tứ tuần (tức ngoài bốn mươi) mà còn mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Từ láy nhẵn nhụi, bảnh bao đã lột tả được vẻ bên ngoài của một kẻ thiếu nghiêm túc và thiếu suy nghĩ về vẻ bên ngoài của mình. Không những vậy, qua lời nói, cử chỉ của Mã Giám Sinh, ta thấy hắn là một tên khiếm nhã, ăn nói cộc cằn:

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần.

Rõ ràng đây là cách nói của một kẻ mất lịch sự. Đã thế, hành động của Mã Giám Sinh còn đáng phô phán hơn nhiều:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Chỉ cần một từ tót, tác giả đã cho ta thấy được nhân cách của nhân vật Mã Giám Sinh. Y đúng là một kẻ thiếu học, không biết phép tắc là gì. Đặc biệt, bản chất của Mã Giám Sinh còn được lột tả qua cách hắn ngã giá mua Kiều:

Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cẩm nguyệt thử bài quạt thơ

Cò kè bớt một thêm hai.

Bằng từ “cò kè, đắn đo”, Nguyễn Du đã cho người đọc biết thêm về một Mã Giám Sinh bủn xỉn, tính toán chi li. Như vậy, chỉ qua một đoạn trích ngắn mà nhân vật Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là kẻ buôn người với bản chất xấu xa đáng khinh bỉ: cộc cằn, khiếm nhã, bất lịch sự, bủn xỉn,… Đồng thời qua đoạn trích, ta cũng thấy được ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả người.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 2

Thành công của Nguyễn Du trong Truyện Kiều không chỉ ở tấm lòng nhân đạo cao cả, tình yêu thương vô hạn đối với con người mà còn thể hiện ở thái độ căm ghét đối với lũ người đe tiện, hèn hạ, vô nhân tính trong xã hội phong kiến đương thời. Trong đó, nhân vật Mã Giám Sinh là bức chân dung đầu tiên xuất hiện trong Truyện Kiều với những thói xấu, sự đê tiện, vô văn hóa, một kiểu con buôn điển hình.

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều nằm ở phần đầu thư hai Gia biến và lưu lạc, mở đầu kiếp đoạn trường của người con gái họ Vương. Sau khi gia đình Kiều bị tên bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị bọn sai nha bắt giữ, đánh đập dã man. Nhà cửa cũng bị chúng lục soát, của cải bị vơ vét đi hết. Vì để có đủ tiền cứu cha và em ra khỏi tình cảnh khốn khổ đó, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình thoát khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều qua mai mối mách bảo. Tác giả miêu tả thật kĩ lưỡng bức chân dung của nhân vật Mã Giám Sinh bằng những lời lẽ khinh bỉ nhất:

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Viễn khách là khách ở xa đến. Mã Giám Sinh nghĩa là Giám Sinh họ Mã. Giám Sinh là tên học trò ở Quốc Tử Giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám Sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình. Giới thiệu Mã Giám Sinh, ngay từ đầu, tác giả đã mập mờ tung tích như chính cái bản chất đê tiện, đớn hèn của hắn.

Bút pháp hiện thực miêu tả nhân vật phản diện Mã Giám Sinh hoàn chỉnh cả về diện mạo và tính cách. Hắn có lời nói cộc lốc, vô văn hóa, con nhà thất học, hoàn toàn ngược lại với danh tính mà hắn đã giới thiệu. Khi được hỏi, hắn trả lời nhát gừng, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.

Trước thầy sau tớ lao xao,

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Cái nhố nhăng, kịch cỡm và dối trá cũng thể hiện ngay trên dung mạo của hắn. Dù đã ngoài bốn mươi cái tuổi “quá niên trạc ngoại tứ tuần” nhưng Mã Giám Sinh vẫn cô tỏ ra trẻ trung “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” để đi cưới vợ. Với diện mạo của một gã trai râu cạo “nhẵn nhụi” (từ “nhẵn nhụi” thường được dùng cho đồ vật hơn là con người), ăn mặc “bảnh bao”, đỏm dáng, chải chuốt thái quá, có thể nói là diêm dúa, thành lố bịch, giả dối, không có dáng của một bậc chính nhân quân tử.

Cảnh thầy tớ nhặng xị, nhâng nháo: “trước thầy sau tớ lao xao”. Có lẽ đây đều cùng một phường buôn người nên thầy tớ không phân minh, lễ nghi không được tuân giáo.

Khi vào nhà, cử chỉ của hắn thật thô lỗ, quen thói “thị của khinh người”:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.

Ghế trên là ghế dành cho bậc cao niên, trưởng bối, là chỗ ngồi tôn kính. Mã Giám Sinh đi hỏi vợ là hàng con cháu mà lại ngồi vào đó, không những bất kính mà cử chỉ thì rất nhanh và sỗ sàng của con nhà vô học, bất phúc. “Ngồi tót” là một từ ngữ rất tượng hình miêu tả hành động vô văn hóa ấy. Chi tiết này đã tố cáo Mã Giám Sinh đích thực là một kẻ vô học, tồi bại.

Về bản chất, nhân vật Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con buôn lưu manh với đặc tính giả dối, bất nhân vì tiền. Giả dối từ lai lịch xuất thân mù mờ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong vai người có học đi mua tì thiếp, tên họ và quê quán đều chẳng mấy rõ ràng. Mã Giám Sinh có thể hiểu là học sinh trường Quốc Tử Giám. Cũng có thể là chức giám sinh mua được của triều đình. Lại thêm không rõ hắn thuộc loại nào. Hắn giới thiệu quê ở xa “viễn khách” mà lại nói “cũng gần”. Như vậy, hắn đã hai lần nói dối để che dấu tung tích và dễ bề lừa gạt. Đến tướng mạo, tính danh cũng giả dối, tuổi tác đã nhiều nhưng lại cố tỏ ra tô vẽ ra cho trẻ, ra vẻ thư sinh, phong lưu, lịch sự mà “trước thầy sau tớ lao xao” rất láo nháo, ô hợp.

Bản chất bất nhân vì tiền của nhân vật Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua bán Thúy Kiều. Bất nhân trong hành động, thái độ đối xử với Kiều lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau, nhan sắc, tài hoa của Kiều, hắn coi Kiều như một món hàng, coi sắc, tài của nàng chỉ như giá trị của hàng hóa cái có thể khiến hắn kiếm lời.

Đắn đo cân sắc cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

Sau khi đã đắn đo cân sắc, cân tài, ép đàn “ép cung cầm nguyệt”, thử tài thơ “thử bài quạt thơ”. Bằng lòng vừa ý, hắn mới “tùy cơ dắt dìu”. Bất nhân trong tâm lý lạnh lùng, vô cảm trước gia cảnh của Kiều và tâm lý mãn nguyện, hơm hĩnh: “tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Lời nói lúc đầu nghe có vẻ văn hoa, lịch sự, biết người biết của: “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều – Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”. Nhưng chỉ được có một câu và sự mua bán vẫn lộ liễu:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Với con buôn, tiền nong là chuyện sinh tử nên đến lúc này hắn buộc phải nói nhiều đến việc mặc cả, dìm giá, tìm cách mua hàng với giá “hời nhất”. Hắn lập tức giở thói “cò kè bớt một, thêm hai” đến “giờ lâu” mới “ngã giá”. Câu thơ gợi cảnh kẻ mua, người bán đưa đẩy món hàng. Túi tiền được cởi ra, thắt vào, nâng lên, đặt xuống. Chi tiết mặc cả một cách đê tiện và trắng trợn, vừa thể hiện thực chất màn kịch “lễ vấn danh” chỉ là cảnh buôn thịt bán người trắng trợn, vừa tố cáo Mã Giám Sinh đích thị là kẻ buôn người lọc lõi đáng ghê tởm. Cái mặt nạ hỏi vợ của hắn lúc đã rơi tuột từ lúc nào.

Nhân vật phản diện Mã Giám Sinh được miêu tả bằng ngôn ngữ trực diện, bút pháp hiện thực. Nguyễn Du kết hợp nghệ thuật kể chuyện với miêu tả cảnh ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật hoàn hảo cả về diện mạo và tính cách, rất cụ thể, sinh động, mang ý nghĩa khái quát về một hạng người giả dối, vô học, bất nhân trong xã hội. Tất cả làm nổi bật bản chất con buôn lọc lõi của hắn. Vì tiền, y sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm con người lương thiện.

Mã Giám Sinh mua Kiều là một bức tranh hiện thực về xã hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện: vừa lên án các thế lực xấu xa, tàn bạo vừa thương cảm, xót xa trước sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Đoạn trích còn cho thấy tài năng, nghệ thuật của Nguyễn Du: miêu tả nhân vật phản diện bằng ngòi bút hiện thực, khắc họa tính cách nhân vật qua diện mạo, cử chỉ (khác với nhân vật chính diện bằng bút pháp ước lệ lý tưởng hóa nhân vật).

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 3

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều.

Đoạn thơ làm sống lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh.

Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:

Hạt mưu sá nghĩ phận hèn.
Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.

Khách đến mua Kiều là “người viễn khách” được mụ mối đưa vào để “ vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách” đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.

Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Khách tự giới thiệu mình là “kẻ sĩ” – sinh viên trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai chữ “rằng” nối tiếp nhau xuất hiệu biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của ” viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Đọc “Truyện Kiều” ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách”. Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên”. Sống ở Lâm Tri “Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”. Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần” mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người “Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa”.

Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tụần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi” của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “ bảnh bao” của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối. “Mày râu nhẵn nhụi” và “ áo quần bảnh bao” là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”.

Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhã:

Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.

” Vài thằng con con” là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng thầy – tớ”, cũng có “trước – sau” ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh:

Trước thầy sau tớ lao xao

Mới được mụ mối “rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm hĩnh lên mặt:

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Cái lối “ngồi tót” là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người”. Cái cử chỉ “sỗ sàng” là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa” mới có lối “ngồi tót” và cử chi “sỗ sàng” ấy!

Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay” món hàng thì hắn “cân sắc” rồi “cân tài”, hắn “ép”, hắn “ thử’, hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng:

Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu”, Mã Giám Sinh mới “tùy cơ dặt dìu” mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi’, nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:

Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cái tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thối nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!” là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán… để khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “ Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân” như Tú Bà đã hạ nhục hắn.

Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “Truyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn “buôn phấn bán hương” trong xã hội, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 4

“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người”.
(Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu)

Ra đời hơn hai trăm năm nhưng cho đến bây giờ và muôn đời sau, “Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” không thể thiếu được đối với con người Việt Nam, vẫn là một tác phẩm bất hủ, vẫn làm “say lòng người”, gắn bó với cuộc sống của mọi thế hệ. Một trong những yếu tố làm cho tác phẩm ấy đi sâu vào lòng người là bởi tiếng nói khẳng định yêu thương và bênh vực giá trị của con người thông qua việc tố cáo xã hội phong kiến mục nát đương thời đầy rẫy những kẻ “bán thịt buôn người” và nhất là thế lực đồng tiền đã ngự trị tất cả. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn tiêu biểu.

Đoạn trích không chỉ khiến chúng ta xốn xang rơi lệ cho tâm trạng của Kiều trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan” mà còn khiến cho ta căm giận trước hình ảnh một kẻ bất nhân trơ tráo như Mã Giám Sinh.

Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra khảo, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”. Đây là một trong những đoạn thơ thành công về nghệ thuật tả người của thiên tài Nguyễn Du – đặc biệt là nhân vật phản diện, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.

Trước hết tác giả giới thiệu y là “viễn khách” đến làm lễ “vấn danh” – khách phương xa đến hỏi vợ và xin cưới:

“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”

Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu thơ tiếp theo là lời hỏi – đáp:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cách trả lời của hắn thật cộc lốc, khiếm nhã. Kỳ thực Mã Giám Sinh vốn chung lưng với Tú Bà mở lầu xanh:

“Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”

Hắn ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh”. Ở trên hắn nói với mụ mối là “viễn khách”, bây giờ lại nói là “cũng gần”. Đích thực là người ăn nói gian ngoa. Hắn chỉ là tên buôn thịt người nhưng lại khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử giám, họ Mã. Lai lịch của y thật mập mờ. Nhân cách hé lộ dần…

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”

Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ lố bịch: “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” là hai nét vẽ châm biếm. Cũng “thầy” cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của tên “khách viễn phương” này sao mà “lao xao” chẳng có nền nếp, lễ giáo gì !

Đặc biệt là cái cử chỉ ngồi “sỗ sàng” đường đột ở “ghế trên” thể hiện hắn là người không biết giữ ý tứ, không biết lễ phép. Nếu là sinh viên trường Quốc Tử giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh. Chữ “tót” ở đây mang sắc thái khinh bỉ. Nói như nhà phê bình Hoài Thanh “chỉ một từ “lẻn” cho Sở Khanh, chữ “tót” cho Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã thâu tóm toàn bộ bản chất của nhân vật”. Ở đây tác giả không dùng những từ ngữ trang nhã, hình ảnh ước lệ mà sử dụng từ ngữ bình dân mang tính chất tả thực và có ẩn chứa cả thái độ mỉa mai, châm biếm, khinh bỉ của tác giả. Cách miêu tả ở đây khác hẳn với cách khắc họa nhân vật chính diện. Chẳng hạn một Thúy Vân:

“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”

hoặc một Thúy Kiều:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Rõ ràng nghệ thuật tả nhân vật thật linh hoạt. Nhưng có lẽ chân tướng của y qua cuộc mua bán mới được bóc trần:

“Đắn đo cân sắc, cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”

Những từ “cân”, “ép”, “thử” thường được dùng khi kiểm nghiệm hàng hóa. Vậy đích thực đây là cuộc mua bán được trá hình và qua những thao tác của y, ta phần nào hiểu được hắn là một tên buôn người khá lọc lõi. Những chữ ấy tưởng giản đơn, lạnh nhạt tưởng chừng như tác giả đang đứng ngoài cuộc làm nhiệm vụ quan sát nhưng kì thực nó đã chứa đựng biết bao tình cảm xốn xang, nhức nhối của một trái tim nhân đạo.

Lời nói văn hoa của y cũng không che đậy được bản chất giả nhân giả nghĩa, tính cách thực dụng:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”

Để rồi cuối cùng, tác giả đã lột trần chân tướng của hắn:

“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”

Chỉ hai từ “cò kè” và “ngã giá” đủ làm cho gã họ Mã hiện nguyên hình là một kẻ buôn người ghê tởm. Và cũng nhờ đó, ta còn hiểu thêm được tính cách bủn xỉn của y. Tác giả đã khép lại cảnh tượng mua bán ấy bằng những từ xoay quanh việc hỏi cưới: “nạp thái”, “vu quy”, “canh thiếp”… nhưng cũng không quên hạ một câu mỉa mai, chua xót:

“Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”

Đồng tiền – bạo lực đã khiến cho bọn quan lại áp bức dân lành, đồng tiền đã làm cho tử biệt sinh ly, thay đổi trắng đen, khuynh đảo cả một xã hội, đồng tiền đã đạp lên cuộc sống và nhân phẩm của một con người. Nàng Kiều tài hoa xinh đẹp đã trở thành hàng hóa điêu linh trước đồng tiền của tên Giám Sinh họ Mã.

Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nào cũng rất sống, đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người “bạc ác tinh ma” này ! Bức chân dung phản diện của Mã có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.

Tóm lại: “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong “Truyện Kiều”. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội cùng với thế lực ngự trị của đồng tiền trong xã hội bấy giờ. Đó cũng chính là thành công về giá trị tố cáo hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 5

Ý nghĩa to lớn của Truyện Kiều là tố cáo xã hội thối nát chà đạp lên quyền sống của con người. Cảnh mua bán người thật thương tâm trong truyện. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.

Trong dịp thanh minh vào tiết tháng ba, Kiều cùng hai em đi du xuân tảo mộ. Trên đường về gặp một nấm mồ hoang, Vương Quan thuật lại tiểu sử của người đàn bà nằm dưới mồ. Đó là Đạm Tiên – xưa là ca nhi sống làm vợ khắp người ta nhưng nay thì không ai đoái thương thắp cho nàng một nén hương. Với bản chất đa cảm, Kiều đã xót xa, thương cảm với số phận của Đạm Tiên, và cũng từ đó Đạm Tiên như là một người bạn tri kỉ vô hình để báo cho nàng về số kiếp đoạn trường sẽ diễn ra và kết thúc như thế nào. Nhưng tiếp đó Thúy Kiều gặp Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan. Mới chỉ qua giao tiếp buổi đầu nhưng tình cảm nảy nở như tiếng sét ái tình tình trong như đã mặt ngoài còn e. Ra về, mỗi người đều nảy sinh mối tình vương vấn, luyến lưu. Kim Trọng nặng lòng tương tư nên đã tìm nơi trọ ngay mé sau nhà Kiều. Nhờ đó hai người gặp gỡ rồi thề non hẹn ước.

Hai người gặp gỡ hò hẹn được một thời gian không lâu thì Kim Trọng phải về quê thọ tang chú ba năm, và gia đình Thúy Kiều thì rơi vào cảnh bị bọn bán tơ vu oan, nên nhà cửa tan tác, Vương Ông và Vương Quan bị bắt, đánh đập. Lúc này trong nhà chỉ có Thúy Kiều là món hàng đắt giá nhất để bán lấy số bạc chuộc cha và em ra khỏi nơi giam cầm. Nàng quyết định bán mình, làm xa gần nôn nao nhưng lại không dễ dàng thực hiện vì bạn bè thân quen của gia đình không ai dám mua và không nỡ mua. Trong lúc đang cần cứu cha và em, chậm một ngày là thêm một ngày đau khổ, thời cơ đã đến với kẻ buôn người – Mã Giám Sinh.

Khi miêu tả cảnh Kiều gặp Kim Trọng và Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du có hẳn những câu thơ giới thiệu chân dung nhân vật. Còn đối với Mã cũng là kẻ đến cưới nàng, nhưng hắn chỉ như một công cụ của số mệnh, của cái thế lực đen tối đến gieo tai họa. Tên lái buôn này chắc đang lùng sục khắp chợ cùng quê để mua người đẹp cho mẹ chủ chứa lầu xanh Tú Bà mà hắn cũng góp phần chung lưng.

Ta thấy nhà thơ diễn tả hàng loạt lời nói động tác và thái độ vừa của mụ mối và của hắn với những câu dấm dẳn nghe trào tiếu đến mức phải bật cười:

“Hỏi tên – rằng Mã Giám Sinh;

Hỏi quê – rằng – huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cuối cùng thì nhà thơ cũng để cho hắn xuất hiện thực sự với những nét ngoại hình khá điển hình. Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng: “Quá niên …bảnh bao” / “Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý mỉa mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của Mã Giám Sinh cũng bị phủ định. Tuy nhiên, câu thơ cũng có thể hiểu một cách khác: mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén tỉa tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể. Ở đây ta muốn đến với cái tài tình của nhà thơ là nói thật lại hóa giả, nói trắng lại hóa đen. Bởi vậy nghe những từ ấy ta không có hàm ý trang trọng, phản ánh đúng cái bản chất bên trong của hắn.

Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Nguyễn Du có cái tài lột tả cái thần của nhân vật chỉ bằng một từ, từ tót trong ngồi tót của họ Mã, cũng như từ lẻn tả Sở Khanh, từ ngây tả Hồ Tôn Hiến đã trở thành những nhãn từ trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã Giám Sinh, ngày tư khi chưa bước vào cuộc mua bán đã được miêu tả rất khách quan nhưng rất chính xác, đó là một kẻ vô giáo dục, một kẻ không đáng tin cậy, không lương thiện.

Phần tả cảnh mua người thật hiếm có, có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xa của Kiều khi đem ra làm món hàng “Nỗi mình …mặt dày” / “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng đành tan vỡ. “nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ: khóc cho mình, khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng sùng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật tái tình. Kiều đi ra với Mã Giám Sinh ví như cành hoa sắp gặp bão tố. Cho nên “ngại ngùng..” vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy.

Khi phải rơi vào tình cảnh bi đát của cuộc đời, Kiều đang tiều tụy đến cùng cực thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng: “Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “cành hoa đem bán cho phường lái buôn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “cò kè…bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớn mà người mua còn cò kè thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu thơ “cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của Mã Giám Sinh chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.

Nguyễn Du đã tiếp tục khắc họa nhân vật họ Mã, bằng bút pháp tả thực còn sinh động hơn nữa qua cử chỉ, hành động buôn người của hắn:

“Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”

Như vậy, dưới con mắt của hắn Thúy Kiều là một món hàng phải ép cái này thử cái kia, phải nhấc lên, đặt xuống xoay sở đủ cách như cân, đong, đo, đếm như hàng hóa vậy. Cuối cùng cái đích của sự mua bán là giá cả, hắn phải hỏi dù với cái giọng ngọt xớt giả nhân, giả nghĩa, nhưng kệch cỡm, vụng về:

“Hắn khai: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều.

Hắn hỏi: Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.”

Sau khi mụ mối định giá, hắn cò kè bớt một thêm hai từ một ngàn lạng, hắn chỉ ngã giá có ngoài bốn trăm. Vì hoàn cảnh đã đến bước đường cùng, Kiều buộc phải bán mình với giá ngoài 400 lượng vàng. Thế là cuộc mua bán bẩn thỉu được ngụy trang là lễ vấn danh và hàng loạt từ mĩ miều như cánh thiếp, nạp thái, vu quy đều là sự bôi đen lên tấm thân nghiêng nước, nghiêng thành.

Kết thúc tấn bi hài kịch này, Nguyễn Du hạ hai câu thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau và có lẽ khách quan nhưng thực ra là đáng sợ như hàm răng của con cá sấu, là cái nanh vuốt của xã hội bắt đầu thò ra lấy con mồi của nó:

“Định ngày nạp thái vu quy

Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong…”

Nghĩa là đến đây số phận nàng Kiều đã được định đoạt bước sang một chặng đường đầy chông gai, gian khổ, lưu ly… Nàng đã rứt ra khỏi vòng tay êm ái của gia đình để vấp vào những hang ổ miệng hùm, nọc rắn. Ai có thể lường trước thân phận tài sắc của người con gái họ Vương. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

“Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương lẳng lặng, hai kinh vững vàng”

Ta có cảm nghĩ đó là cái xã hội êm ấm, thế là giữa thanh thiên bạch nhật gia đình họ Vương mắc oan, gỡ cái oan nghiệt này bằng cách bán đứa con đầu lòng tài hoa. Đang là cô gái lá ngọc cành vàng, tiết sạch giá trong, bước chân vừa mới chạm vào ngưỡng cửa hạnh phúc đã trở thành món hàng giữa chợ. Chua xót, bi phẫn cho người con gái chưa từng vào đời mà đã phải ra trước mắt người lạ để họ nhìn ngắm một cách sỗ sàng, thậm chí còn ép nọ thử kia để không chịu sự vô ý, hớ hênh mà mua đắt dù đó là người đẹp.

Đoạn thơ đã miêu tả được hết toàn bộ câu chuyện mua bán người đang diễn ra, thể hiện sự bất công của xã hội đối với con người, đặc biệt là người phự nữ. Vẻ đẹp cũng như tài trí của nàng đều không được xã hội đón nhận, mà còn gây cho nàng những bất hạnh đến cùng cực. Đọc tác phẩm Truyện Kiều, không ai không thể tiếc thương cho số phận của nàng Kiều, và phê phán xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 6

Nàng Kiều trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được biết đến là một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu kiếp hồng nhan bạc phận, chịu kiếp truân chuyên chìm nổi suốt mười lăm năm. Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng vì biến cố bất ngờ Thúy Kiều đã quyết định bán mình cứu cha. Và quyết định này cũng đã tạo ra bước ngoặt lớn cho hành trình mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều kể về việc bán mình cho Mã Giám Sinh cùng tâm trạng đầy đau đớn của nàng.

Mã Giám Sinh mua Kiều nằm trong phần thứ hai của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc. Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn trích này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần”

Trước sự dẫn dắt của mụ mối, Mã Giám Sinh đã đến nhà Kiều và bắt đầu cuộc mua bán. Theo sự giới thiệu của bà mối, Mã Giám Sinh là một người khách ở xa đến “viễn khách”, thế nhưng trong lời giới thiệu của mình, hắn ta đã để lộ ra những mâu thuẫn, sơ hở. Hắn ta giới thiệu mình ở Huyện Lâm Thanh, cũng gần. Như vậy ngay trong lời nói ta đã thấy hắn là một con người có chút gian sảo. Ngay tên tuổi cũng được hắn ta đánh bóng với “mác” là thư sinh của trường Quốc Tử Giám, nghĩa là hắn là người có ăn có học.

“Quá niên trạc tuổi tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng dẫn lối đưa vào vấn danh”

Thế nhưng trong sự miêu tả của Nguyễn Du, ta lại có cảm nhận hoàn toàn khác biệt về nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn ta nhận mình là thư sinh trường Quốc Tử Giám nhưng ngoại hình “quá niên trạc tuổi tứ tuần” của mình đã tạo ra sự mâu thuẫn trong lời nói. Hình dáng chải chuốt dị hợm, kệch cỡm không hợp tuổi cũng đã phần nào bóc trần được bộ mặt giả dối của hắn “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Đoàn tôi tớ đi theo hầu cũng lộn xộn, huyên náo như những người đi thuê “trước thầy sau tớ lao xao”, nếu thực sự Mã Giám Sinh là một người có gia giáo, và những người đầy tớ kia là thực thì sẽ không có cảnh “lao xao”, vô phép tắc như vậy.

“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

Mọi lời giới thiệu bóng bẩy về gia thế, học vấn của mình đều bị phá vỡ trước những hành động kệch cỡm, vô học của Mã Giám Sinh khi vào nhà của Kiều. “Ghế trên” là ghế dành cho những người bề trên, bậc phụ mẫu, nhưng với tư cách của một người đi hỏi vợ, Mã Giám Sinh đã không biết hoặc hắn ta không quan tâm mà lựa chọn cho mình chỗ thích hợp nhất cho cuộc mua bán. Chính hành động ấy đã bóc trần bản chất vô lại của một tên buôn người. Trái ngược với sự hỗn hào, vô học của Mã Giám Sinh, Thúy Kiều mang tâm trạng đau đớn, bất an, mỗi bước đi lệ rơi mấy hàng “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”.

“Ngại ngùng rợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày

Mối càng vén tóc bắt tay

Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”

Trước cuộc sống đầy bất an phía trước, Thúy Kiều mang tâm trạng lo lắng, sợ hãi, đây cũng là nét tâm lí thông thường của con người khi đứng trước những biến cố. Trong khi mụ mối cố gắng chào mồi bằng những lời ngon ngọt thì Thúy Kiều trong vị thế của người bị bán thì u buồn “buồn như cúc, điệu gầy như mai”.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 7

Phân tích hình ảnh chị em Thúy Kiều, chúng ta phần nào nhận ra nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn thơ ấy như những nét vẽ điêu luyện, màu sắc tài hoa thì ở đây, trong đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều, nghệ thuật tả người xuất sắc của nhà thơ lại càng được khẳng định. Đoạn thơ có thể chia làm ba phần. Bốn câu đầu cho biết nguyên nhân Kiều phải bán mình. Hai mươi sáu câu kê tiếp miêu tả chân dung của Giám Sinh. Bốn câu cuối phơi bày bản chất của loại người tin vào sức mạnh của đồng tiền. Muốn hiểu hết bản chất của Mã Giám Sinh, chúng ta cần nhớ lại phần một của Truyện Kiều. Gặp nhau vào buổi chiều tiết thanh minh, thời gian sau đó Thúy Kiều và Kim Trọng tìm cách gặp gỡ rồi hai người đã vượt khỏi vòng lễ giáo mà đính ước, thề nguyền với nhau. Cuộc tình của đôi bạn trẻ càng lúc càng thêm mặn nồng thì tai biến lại xảy ra: Kim Trọng phải về quê hộ táng chú, còn gia đình Thúy Kiều bị thằng bán tơ vu oan khiến cha và em trai của Kiều bị bọn sai nha bắt bơ, tra khảo tàn bạo. Muốn thoát khỏi oan khiên đó, gia đình Kiều phải có ba trăm lạng bạc. Phải làm sao đây, với Kiều. Bên hiếu, bên tình Kiều chỉ có quyền chọn một. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo trước mắt, Kiều đành phải phụ tình. Xã hội phong kiến ví thân phận của người phụ nữ như “hạt mưa”. Ca dao xưa có câu “Thân em như hạt mưa rA – Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa”. Đây là thân phụ thuộc, thụ động. Đã thế lại còn gặp cảnh ngặt nghèo nên phải quyết định:

Liều đem tấc cỏ quyết đền hạ xuân

Ngày trước, Manh Giao đợi Đương viết: “Thủy ngôn thốn thào tâm. – Báo đáp tam xuân huy” thì ngày nay Nguyễn Du lại mượn ý của hai câu thơ đó đặt vào suy nghĩ, quyết định của Kiều. Không gượng ép một chút nào tuy là nữ nhi nhưng Kiều lại là người hay chữ. Cha mẹ nuôi con khôn lớn thì con phải báo đền. Kiều hay chữ tất hiểu đạo lí của người xưa, và nàng đã hành động, nói rõ lòng mình với băng nhân, với người mối. Quyết định của Kiều đã làm cho xa gần xôn xao bàn tán. Kiều có người dạm hỏi, chàng Kim chẳng hạn, cũng là lẽ thương. Nhưng ở đây, Kiều tự gả bán mình nên chuyện cưới xin đã khác đi, trở thành chuyện khác thương. Vấn đề là ở cái “gút” đầu tiên ấy.

Và “tin sương đồn đại” ấy lọt vào tai Mã Giám Sinh, người chung lưng với Tú Bà mở thanh lâu ở Lâm Tri. Mã Giám Sinh tức tốc tìm đến. Chuyện mua bán càng lúc càng lộ rõ, càng lúc càng hoán đổi chuyện cưới xin. Cũng cần biết nghĩa của tên của con người ấy mới thấy hết sự khéo léo của Nguyễn Du trọng đoạn thơ này. Chàng ta người họ Mã, còn Giám Sinh, theo Từ điển Truyện Kiều của cụ Đào Duy Anh thì có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là học trò học trường Quốc Tử Giám; Nghĩa thứ hai là người quyên lúa cho quan vào thời nhà Minh. Truyện Kiều ghi sự việc xảy ra vào năm Gia Tĩnh triều Minh, lại thêm tuổi tác của chàng trai họ Mã thì có thể hắn ta là tay chuyên đi quyên lúa chứ chẳng thể là học trò, vì học trò khó có thể trở thành kẻ khai thác thanh lâu, dù hắn ta có máu kinh doanh và tính lình dâm dàng. Một kê chí biết có quyên lúa cho quan mđi có cách chưng diện, cử chi’ mà người có chút học thức không thể chọn… Hãy nhìn vẻ bên ngoài của hắn qua nghệ thuật đặc tả của Nguyễn Du:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Hắn đứng tuổi, đã ngoài 40 rồi! Các định ngữ “nhẵn nhụi, bảnh bao” ở câu thư thứ hai chứng tỏ hắn đã cố tình chuẩn bị, trau chuốt, chưng diện để “lòe” Kiều; để ngầm bảo cho Kiều biết hắn ta có của. Chưa hết đâu, hắn còn chuẩn bị cả cách đi “vấn danh ” theo cách của hắn:

Trước thầy, sau tớ xôn xao
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Với những cử chí bên ngoài như thế, nhà thơ đã lột trần bộ mặt khoe của, bất lịch sự của con người này. Hắn nhanh nhảu, hăm hở, và tưới rói trong lúc Kiều thì:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dín gió, e sương
Ngừng hoa hóng thẹn, trông gương mặt dày.

Quả là hai hình ảnh đối lập gần như tuyệt đối. Thúy Kiều buồn não ruột, hổ thẹn khôn lường. Nàng buồn cho số phận tình yêu của mình và căm tức về nỗi oan ức mà gia đình nàng phải gánh chịu. Công lí ở công đường nằm về phía những ai có lắm bạc lắm vàng. Kiều chỉ còn biết khóc. Nàng ngại đối mặt với bất cứ ai, bất kì thứ gì. Càng suy nghĩ, Kiều càng thẹn với lòng, càng thây mình là kẻ mặt chai mày đá chẳng biết hổ thẹn là gì! Đời riêng của mỗi người có ba cột mốc quan trọng: lúc chào đời thì “mẹ tròn con vuông”, lúc thành vợ – chồng thì “trăm năm hạnh phúc”, lúc lừ giã cõi đời thì “mồ yên mả đẹp”, ai cũng mong ước được như thế, chúc người thân của mình được như thế. Kiều, lấy chồng, không ở trong ý nghĩa ấy. Giọt lệ của nàng là giọt lệ u buồn, uất hận. Nếu là lễ “vấn danh” thì làm gì có chuyện “vén tóc, bắt tay”, làm gì có cảnh:

Đắn đo cân sắc, cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Cảnh trên là cảnh của kẻ đi mua cân nhắc để khỏi thiệt thòi; là cảnh của kẻ sành ăn chơi ở chốn lầu xanh, quán rượu. Chuyện mua bán càng lộ rõ hơn ở những câu đối đáp giữa chàng họ Mã với mụ mối, tuyệt nhiên không thấy nhà thơ đặt sự hiện diện của vương bà đúng theo nghĩa

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Vì Thúy Kiều như viên ngọc quý ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Hoa. Và Mã Giám Sinh “mua” chứ nào phải đi hỏi vợ! Mua mà có “vấn danh”, có “sính nghi”, đồ dần cưới thì quả là lạ đời thật! Rồi lại còn “cò kè bớt một thêm hai”, và “…ngã giá vàng ngoài bốn trăm” nữa thì lễ vấn danh đã trơ thành cảnh mua bán một con người. Nhà thư đã dùng bút pháp hiện thực, cách diễn đạt lấp lửng nửa theo lễ giáo nửa của chợ người để phơi bày bản chất dối trá của nhân vật họ Mã. Dối trá, đểu cáng… vẫn còn thiếu. Đầy đủ hơn là phải thêm vào con người ấy thói xem trọng sức mạnh của đồng tiền:

Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong

Nhưng ý nghĩa cưa đoạn thơ không dừng lại ở đó, với một chuỗi nhân vật phản diện như thằng bán tơ, bọn sai nha…, đến mụ băng nhân, bọn tôi tớ, và chàng họ Mã thì đoạn thơ mang tính tố cáo không chí một con người mà cả xã hội. Vào thời buổi ấy, đạo đức của chế độ phong kiến dù có phần hạn chế nhưng vẫn có những nét đẹp truyền thống đã bị lung lay tận gốc. Đồng tiền đã trở thành thước đo phẩm giá của con người, trở thành phương tiện có sức mạnh vạn năng để những kẻ lưu manh, lừa đảo kết hợp với kẻ có quyền hành sâu dân mọt nước phá hoại cuộc sống của dân lành. Nếu cán cân công lí thời ấy công bằng thì nào có chuyện:

Tính bài lót đó luồn dây
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.

Khiến Kiều phải dứt tình với Kim Trọng, quyết định sự lòng ngỏ với băng nhân mở đầu cho mươi lăm năm truân chuyên, lưu lạc. Đạo đức suy đồi của chế độ phong kiến đã khiến đời Kiều chịu cảnh “Trời tình mờ mịt, hiển hận mênh mông. Sợi tơ mành theo gió đưa di, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch” (Chu Mạnh Trinh).

Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh

Nhưng hình ảnh như lời trong truyện không quê một chút nào, cũng không phải chỉ để mua vui. Bao thế hệ đọc Truyện Kiều vẫn suy nghĩ và nhận ra đoạn thơ trên vẽ lại bức tranh sinh động của chế độ phong kiến suy tàn. Bởi vậy, đoạn thơ mang giá trị tố cáo sự xuống cấp của đạo đức trong một xã hội đã dần đến nỗi khổ đau oan ức cho biết bao người vô tội. Thế là đoạn thơ lại trỏ thành lời cảnh cáo cho bất kì ai muốn sống đẹp. Nguyễn Du đúng là bậc tài hoa thánh thiện!

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 8

Mở đầu tác phẩm Truyện Kiều, tác giả Nguyễn Du có viết: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Truyện Kiều viết về nhân vật chính Thúy Kiều, nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng sống trong xã hội đen tối bị chi phối bởi thế lực của đồng tiền đã gây nên số phận đầy bi kịch cho nàng. Qua tác phẩm, Nguyễn Du thể hiện sự cảm thông sâu sắc với nàng Kiều cũng như thân phận người phụ nữ nói chung trong xã hội phong kiến. Có thể nói, bước ngoặt đau đớn đã thay đổi cuộc Thúy Kiều từ một tiểu thư khuê các sang cuộc sống tủi nhục của người kĩ nữ, đó chính là khi Kiều quyết định bán mình cứu cha. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều miêu tả cảnh mua bán đầy xót xa ấy.

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần”

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã nói về việc mụ mối dẫn dắt một người viễn khách đến hỏi Thúy Kiều về làm vợ, tuy hình thức là hỏi vợ nhưng thực chất đây lại là cuộc mua bán người vô nhân tính. Người được mụ mối dẫn dắt là Mã Giám Sinh, quê ở huyện Lâm Thanh, nghe lời giới thiệu của hắn, ấn tượng ban đầu của người đọc đó chính là một người thư sinh trường Quốc Tử Giám. Cách giới thiệu rõ ràng đến mức sành sỏi lại khiến ta nghi ngờ về nhân vật này.

Quá niên trạc tuổi tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng dẫn lối đưa vào vấn danh”

Trong lời giới thiệu của Mã Giám Sinh đã có sự chuẩn bị nên ta chỉ có thể nghi hoặc mà chưa thể đưa ra kết luận về nhân vật này. Nhưng trong cách miêu tả của Nguyễn Du ta lại có những cảm nhận vô cùng rõ nét. Trước hết, Mã Giám Sinh đã trạc tuổi tứ tuần, vào tuổi này người ta thường đã yên bề gia thất nhưng bây giờ hắn ta mới đi hỏi vợ.Với tuổi tác đã không còn trẻ nhưng hắn ta lại chải chuốt cầu kì, ăn mặc đỏm dáng đến mức lố lăng, kệch cỡm “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Cảnh tượng chủ- tớ lao xao như cái chợ cũng khiến ta đặt nhiều nghi vấn cùng thiện cảm không tốt về nhân vật này.

“ Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

Không chỉ tuổi tác, cách ăn mặc, cư xử với những người tôi tớ khiến ta nghi ngờ Mã Giám Sinh là còn người giả dối thì đến những câu thơ này ta có thể khẳng định hắn ta không chỉ giả dối mà còn là một kẻ vô học, không phép tắc tự đặt mình vào vị thế của người làm chủ cuộc mua bán nên hắn ta không coi ai ra gì “Ngồi tót sỗ sàng”. Vị trí của những bậc phụ mẫu mà hắn ta không hề suy nghĩ ngồi vào, cho thấy hắn ta là người vô học. Tâm trạng của nàng Kiều thì đau đớn, u sầu khiến mỗi bước đi những giọt lệ ngọc lại ướt đẫm khóe mắt.

“Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ

Mặn nồng một vẻ một ưa

Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”

Đến đây,bản chất của tên buôn người được bộc lộ không thể rõ ràng hơn. Hắn bắt Thúy Kiều thể hiện hết tài năng làm thơ, đàn hát “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”, sau khi có vẻ hài lòng với tài sắc của nàng Kiều hắn ta mới quyết định ra giá, kì kèo thêm bớt về giá cả. Việc hỏi vợ của Mã Giám Sinh đã chính thức trở thành cuộc mua bán của những người dân buôn lọc lõi, sành đời. Thúy Kiều không còn là đối tượng hỏi vợ mà đã trở thành một thứ hàng hóa đầy xót xa, đau đớn.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 9

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhân vật Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn, thế nhưng cuộc đời nàng lại là một chuỗi những bi kịch chất chồng trong suốt 15 năm lưu lạc. Người con gái tội nghiệp ấy đã biết bao lần gặp phải kẻ dối gian, ác độc chèn ép khiến nàng phải rơi vào khốn cảnh của kiếp kỹ nữ buôn phấn bán hương đến hai lần. Và một trong những kẻ đầu sỏ, đóng vai trò quan trọng nhất trong việc gây nên bi kịch của Thúy Kiều chính là Mã Giám Sinh. Mà qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều, bằng cách miêu tả ngoại hình, cử chỉ, và ngôn ngữ đối thoại Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa lên một nhân vật với bản chất xấu xa, đê tiện.

Sau khi cha và em bị bắt, gia đình bị tịch biên tài sản cả nhà chỉ còn lại ba mẹ con Thúy Kiều, bọn quan sai thấy phụ nữ yếu đuối bèn ra sức đòi tiền bạc của cải để chuộc thì mới chịu tha cho Vương ông và Vương Quan. Không còn cách nào khác Thúy Kiều đành phải chấp nhận tìm mối lái bán mình làm vợ lẽ cho người ta để có tiền chuộc cha, em, đồng thời từ bỏ mối lương duyên với Kim Trọng và trao duyên lại cho Thúy Vân trong đau đớn, xót xa. Bà mối đã dẫn đến một kẻ tự xưng là Mã Giám Sinh, vốn là người đã nghe ngóng được nhan sắc cũng như tài năng của Thúy Kiều từ lâu, ngỏ ý muốn mua Kiều về làm vợ lẽ. Khi họ Mã đến xem mắt và ngã giá chính là bối cảnh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.

Trước hết Nguyễn Du đã khắc họa nhân vật này thông qua những thông tin về thân thế và lai lịch của hắn:

“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”

Hai câu thơ đầu tỏ ý trang trọng, “viễn khách” tức chỉ khách ở xa tới đến làm lễ “vấn danh”, xin hỏi cưới Thúy Kiều về làm vợ lẽ. Đến hai câu thơ sau lại là lời Mã Giám Sinh tự giới thiệu về bản thân mình trước nhà gái:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Như vậy bản thân Mã Giám Sinh đã tự giới thiệu mình họ Mã, là học trò trường Quốc Tử Giám, thêm việc quê nhà ở huyện Lâm Thanh, đồng thời nhấn mạnh hai chữ “cũng gần”. Dường như y đang cố gắng bày ra một gia thế và viễn cảnh tốt đẹp nhất để có thể dễ dàng được Thúy Kiều đồng ý gả cho. Tuy nhiên nếu để ý thì ở hai câu thơ đầu vốn giới thiệu là “viễn khách”, thế nhưng hai câu sau lại nói “Lâm Thanh cũng gần”, dường như để ra một chút gì đó không hợp lý, có vẻ như thân phận cũng như lai lịch của Mã Giám Sinh còn nhiều mờ ám. Bên cạnh đó, việc trả lời cộc lốc, ngắn gọn, không hề nói rõ về bản thân mình cũng đã phần nào thể hiện nhân cách của Mã Giám Sinh, y trông bộ không hề giống một người có học, mà giống với bộ dáng của con buôn nhiều hơn.

Tác giả tiếp tục khắc họa nhân vật này thông qua ngoại hình và điệu bộ cử chỉ từ đó bộc lộ bản chất của hắn bằng những câu thơ:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”

Từ những câu thơ trên có thể thấy rằng Mã Giám Sinh là kẻ đã có tuổi trạc ngoài bốn mươi, thế nhưng lại rất mực chỉnh trang chải chuốt “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”, thể hiện sự lố lăng, không phải là dáng vẻ của một đại nam nhân tuổi trung niên nên có. Không chỉ vậy, bình thường những người khác ở tầm tuổi ấy vốn dĩ đã sớm yên bề gia thất, chăm lo sự nghiệp, đằng này tên họ Mã lại mắt gần mày xa để ý đến nhan sắc xinh đẹp của Thúy Kiều, kiếm cách dùng tiền mua nàng về làm vợ lẽ. Từ đó bộc lộ bản tính háo sắc, thiếu đứng đắn của nhân vật này. Không chỉ ở bộ dáng mà cách hắn phô trương thanh thế cũng khiến người khác cảm thấy tầm thường, dung tục. “Trước thầy sau tớ lao xao” làm nổi bật lên vẻ mất kiên nhẫn, không nghiêm chỉnh trong việc “vấn danh” Thúy Kiều, đồng thời cũng bộc lộ bản chất ưa những lời ồn ào, xu nịnh của kẻ dưới ở tên Mã Giám Sinh này. Hành động “ngồi tót sỗ sàng”, ngay khi bước vào sảnh tiếp khách của nhà Thúy Kiều nhà không đợi người ra chào hỏi, mời mọc thể hiện sự vô lễ, thiếu phép tắc và sự lỗ mãng của Mã Giám Sinh, lúc này đây nhìn vào rõ ràng nếu tỉnh táo ai cũng có thể nhận ra đây là một kẻ chẳng mấy tốt đẹp, không hề xứng đáng với Thúy Kiều, hơn thế nữa giữa hành động và lai lịch của hắn lại có quá nhiều điều đáng ngờ, dối gian cần xem xét. Sự lỗ mãng, vô phép của hắn còn thể hiện ở việc liên tục thúc giục bà mối dẫn Thúy Kiều ra cho mình xem mặt, phá hỏng đi quy tắc lễ nghi nam nữ hữu biệt của thời phong kiến, mà hoàn toàn làm lộ ra bản chất con buôn muốn xem hàng ngã giá và thói háo sắc trên người tên họ Mã này.

Bản chất phường mua bán quen mui của Mã Giám Sinh lại càng được bộc lộ rõ nét qua hai câu thơ:

“Đắn đo cân sắc, cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”

Ai cũng thừa hiểu rằng chuyện làm thơ, đánh đàn vốn là chuyện cần có nhã hứng và cảm xúc, thế nhưng một tên thô lỗ như Mã Giám Sinh thì làm sao hiểu được những chuyện phong nhã ấy, thế nên mới có cảnh hắn ra “ép” Thúy Kiều đánh đàn, lại “thử” tài làm thơ của nàng bằng cách bắt nàng đề thơ lên quạt. Chính tỏ rằng tên họ Mã này đến đây đây phải vấn danh, xem mặt chọn vợ tương lai, mà rõ ràng là đang đi ướm thử, cân đo đong đếm một món hàng nào đó, chứ không hề có ý tôn trọng Thúy Kiều hay để tâm đến cảm nhận của nàng.

Hành động của Mã Giám Sinh dù dung tục tầm thường và lỗ mãng thế nhưng lời hắn nói ra lại rất mực văn hoa, tốt đẹp rằng:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”

Thế nhưng cũng chẳng thể che đậy được cái dã tâm và bản chất bẩn thỉu trong con người hắn bởi ngay lập tức ở câu thơ sau hắn đã lộ ngay cái tâm tính con buôn trong người, vừa mới hỏi sính lễ cần bao nhiêu cho đủ, ra chiều sẽ đáp ứng bằng bất cứ giá nào. Thì ở câu thơ sau ta lại thấy hình ảnh hắn “Cò kè bớt một thêm hai/Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”, sẵn sàng coi Thúy Kiều là một món đồ tốt không hơn không kém, tìm mọi cách mặc cả cho được giá, để thu lợi về mình chứ chẳng có chút nào là thực sự trân quý Thúy Kiều như lời hắn thốt ra. Từ việc ấy cũng thể hiện Mã Giám Sinh là một kẻ keo kiệt bủn xỉn chứ cũng chẳng giàu có, bóng bẩy như bề ngoài hắn thể hiện ra.

Chung quy lại, đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một đoạn trích khá đặc sắc, thể hiện được tài năng của Nguyễn Du trong việc khắc họa chân dung nhân vật thông qua lời nói, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, bộc lộ rõ bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh. Đồng thời cũng lên tiếng phản ánh một cách sâu sắc cái xã hội thối nát, con người vì đồng tiền mà bán rẻ nhân cách, sẵn sàng chà đạp lên những số phận bất hạnh, thực hiện công việc tồi tệ ác độc buôn thịt bán người như những món hàng hóa vô tri.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 10

Trong Truyện Kiều, bên cạnh những nhân vật mà Nguyễn Du hết lòng yêu mến, nâng niu là một số bộ mặt hèn hạ, độc ác. Mã Giám Sinh đại diện cho loại người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã vạch trần bản chất đê hèn, dối trá của gã lái buôn đồng thời cũng mở ra một chuỗi dài bi kịch éo le của cuộc đời năm năm tàn tật của Kiều.

Sau lời thề nguyền, hạnh phúc vừa chớm nở thì gia đình Kiều gặp tai họa biên ải. Đánh “đầu trâu mặt ngựa” kéo đến đập phá, Vương Ông, Vương Quân bị đánh hành hạ:

Giường cao rút ngược dây oan.
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.

Không chịu nổi cảnh gia đình tan nát, Kiều đã bán mình cứu cha và em. “Tiếng lành đồn xa”, gần xa nghe đồn có chàng trai họ Mã “thơm” thấy lợi hại bèn sai người mai mối đến “đám hỏi”, nói dối là sẽ cưới Kiều về làm vợ.

Mã Giám Sinh xuất hiện, hắn ta giới thiệu họ tên, quê quán:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Ông không nêu tên, chỉ nêu họ, đồng nghĩa với việc khoe rằng mình cũng là người có học, có học, là học sinh của trường Quốc Tử Giám. Lời lẽ quay cuồng, cuồng nhiệt, đúng điệu của bọn lừa đảo vô văn hóa, nghe rất tệ. Tiếp theo Nguyễn Du giới hạn chức năng của cái đầu:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao

Một người đàn ông tuổi “ngoài tứ tuần” nhưng tráng kiện, râu đỏ, tóc chải ngược, ăn mặc chỉnh tề khiến những ai lần đầu gặp đều nghi ngờ về bản lĩnh của hắn. Rồi “trước mặt thầy, tôi xốn xang”, “ghế trên kê sẵn ngồi” càng bộc lộ bản chất hỗn láo, thô lỗ của kẻ đứng đầu. Chỉ bằng một động tác “ngồi dậy”, Nguyễn Du đã vạch trần sự lừa bịp của tên lưu manh đội lốt cậu học trò.

Một bài thơ ngắn vỏn vẹn 8 câu, ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã dựng nên bức chân dung sinh động về chàng trai họ Mã từ ngoại hình, cử chỉ, lời nói cho đến bản chất ranh mãnh, gian trá. Bức chân dung Mã Giám Sinh được hoàn thành giống như nhà thơ tả cảnh tung tẩy mùa Kiều. Kiều ra mắt với tâm trạng nhẹ nhàng:

Ngại ngùng dín gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.

Một người con gái tài sắc vẹn toàn, sống trong cảnh “bèo bọt bèo trôi” nay trở thành món hàng để kẻ mua “bung tóc, bắt tay” tủi nhục biết bao. Nhưng Ma Jiansheng coi cô ấy chẳng khác gì một món hàng, và Ran đề nghị hãy xem xét kỹ hơn:

Đắn đo cân sức, cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

Và khi đã “ngọt nhạt cho ra dáng tạm thời” Anh liền hỏi giá, cho đến bây giờ Vẫn giả vờ là người có học, ăn nói hoa mỹ tỏ ý khách sáo:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho vừa”.

Nhưng bộ mặt thật của sự phản bội có lừa được ai, lộ nguyên hình là một tên đồ tể thấp hèn. Rõ ràng hoàn cảnh của Kiều nên tìm cách hạ giá, ép giá, mặc cả “cò bớt một nửa” rồi mua với giá thật hời:

Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Kết thúc “bi kịch” mua người này, Nguyễn Du cay đắng nói: “Hậu đăng sàng rồi, chẳng ra gì”. Nhà thơ tố cáo sức mạnh tàn bạo của đồng tiền, đồng tiền đã làm một việc ghê gớm là chà đạp đạo đức và lương tâm con người. Một xã hội mà “tiền có sẵn trong tay – Khó đổi trắng thay đen” thì giá trị con người chỉ là hàng hóa.

Bức tranh chân thực về nạn buôn người, Đau lòng, khiến chúng ta liên tưởng đến những phiên chợ nô lệ một thời lịch sử. Nhà văn Nguyễn Du cố giữ thái độ bình tĩnh, khách quan khi miêu tả, nhưng rồi niềm đam mê, ngậm ngùi không sao kìm nén được. Nguyễn Du đã tố cáo cái xã hội tàn ác chà đạp lên quyền sống của con người mà nạn nhân bi thảm nhất là người phụ nữ.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 11

Đoạn Mã Giám Sinh trong Đoạn Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 – 652. Chàng trai bị bán cho oan cha và em, bị hành hạ, tàn tật, tài sản của gia đình tan nát. Trước cảnh gia đình biến đổi, Kiều quyết định: “Bán thân chôn cha!”.

Đoạn thơ miêu tả cảnh buôn người thời trung đại được kể lại rất cụ thể và sinh động. Người mua là Mã Giám Sinh, người bán là bà mối. Người bị bán là Thúy Kiều. Khách phương xa đến, vật phẩm phiền khách đến lầu trang. Cô buộc “đội ra” cho khách gặp mặt. Mối “bắt tay” sản phẩm của chị; Mã Sinh “cân đo đong đếm”.

Khi khách đã “mặn mà ” mới hỏi giá. Mối: “cái chết ngàn vàng”. Hai bên “cò” mua bán với giá “vàng ngoài bóng”. Sau khi mua bán xong, hai bên làm thủ tục: ‘mua bán” và hẹn ngày nhận tiền. Việc buôn người được dùng những từ ngữ sang trọng như: mua ngọc, kính trọng, tặng canh như nghi, phí thái vu quy. Cũng giống như cảnh hỏi vợ, cưới vợ của các gia đình quý tộc xưa.

Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều về báo công thâm thúy. Trong xã hội có những người buôn bán thịt người, có những người làm mối kiếm sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành món hàng để “cò” mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ “Hậu thế đã có, chẳng ra gì” là lời bình luận về giao dịch, lên án đồng tiền.

Bà mối: nhanh nhẹn, bạo dạn hỏi họ tên, quê quán của khách, rồi “xử lý thành trang”. Thúc Kiều mau ra (Đoan ra), “nâng tóc bắt tay” Kiều, :

Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!

Tác giả miêu tả cử chỉ, ngôn ngữ nối thể hiện một kiểu người nhanh nhẹn, lém lỉnh, hóm hỉnh, mưu sinh bằng nghề làm mối trong công việc mua bán người.

Mã Giám Sinh là “khách” đến “hỏi danh” – khách đến hỏi vợ, hỏi cưới. Phần giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu hỏi tiếp theo là “hỏi – đáp”. tên. Hai chữ “ấy” làm cho ngôn ngữ thêm trang trọng:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.

Mã Giám Sinh tranh nhau với Tú Bà mở quán lầu xanh ở Lâm Trì nhưng lại nói dối quê quán “Lâm Thành cũng gần”. Anh ta chỉ là một người buôn bán thịt người, nhưng anh ta vẫn khoe khoang rằng mình là học sinh trường Quốc Tử Giám, họ Mã, tức là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Tính cách bộc lộ sự tiến bộ. Hơn bốn mươi tuổi mà vẫn trẻ trung: “Tứ Tuần” và “Bánh bao” là hai nét trào phúng:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Cũng “thầy” cũng “tôi”, cũng “trước” và “sau”, xem ra sang trọng lắm, đi đâu cũng có kẻ hầu người hạ, không có quy tắc, không có nghi thức! Điệu bộ “nghiền”, không biết ý tứ, không biết lễ phép, ngang nhiên leo lên ghế cao ngồi! Nếu chuyện làm sinh viên trường Quốc Tử Giám là thật thì hẳn là kém đạo đức lắm!

Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…

Một chữ “quá” đầy khinh bỉ, phơi bày chân tướng của kẻ thù “quen sống ở miền trăng hoa

“Cân đo sắc tài”, “ép”, “cố”,… những điệu bộ, cách mua người ấy của thương gia Mã mới lạ lùng làm sao! Mới “tạm mặn” xong, Mã Giám Sinh đã “dẫn dắt” việc mua bán. Bạn là một người đàn ông khôn ngoan đến với thế giới, trong tất cả những ác ý của nạn buôn người. Cũng hát phong cách như ai. Không chỉ là một bông hoa của thời gian:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều”,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.

Hai chữ “cò” đã vạch trần bản chất bủn xỉn của một người “Kẻ năm bán hương bán bột”.

Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta thấy rõ hơn phong cách bút pháp tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo, tạo nên tính cách nhân vật Mã Giám Sinh vô cùng sống động. Mọi chi tiết nghệ thuật đều rất sống động, đằng sau đó là thái độ coi thường của nhà thơ đối với loại quỷ bạc này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọn buôn người phi nhân tính và thói đạo đức giả trong xã hội phong kiến mục nát, thối nát.

Kiều là người con gái hiếu thảo, thuỷ chung, trước mặt gia đình, nàng đã bán mình rửa tội cho cha, cứu gia đình. Cô tự coi mình như một “hạt mưa” nhỏ khiêm tốn. Tất cả vìcông ơn sinh thành của cha mẹ:

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

Kiều sống trong tâm trạng bi đát dữ dội giữa tình riêng và tình quê, giữa chữ tình và chữ hiếu, “Giận nhà còn hơn giận mẹ”. Cô ấy đã rất đau đớn. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu “nước mắt hoa” đã ửng hồng, toàn thân nàng như hèn nhát: “bẽn lẽn”,… “bóng non”,… “mặt dày”, “nét buồn như cúc gầy như mai”. Vì nàng là một vẻ đẹp đau khổ nên những ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với vẻ đẹp: kệ hoa, hoa lệ “nét buồn như cúc, điệu đà gầy như mai”.

Kiều bị mối mọt và Mã Giám Sinh “buộc cung ngậm trăng, thử đèn, quạt thơ”. Mã Giám Sinh đã “cân đo đong đếm”. Còn Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng trộm cắp để mua bán. Nguyễn Du ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước những đổi thay của gia đình, đồng cảm với nỗi khổ đau của nàng khi Mã Giám Sinh “cân nặng tài sắc”, khi nàng bị “cò kè bớt một thêm hai”… bài thơ chứa đựng tình người chân chính là trong các chi tiết của nội dung đó.

“Mã Giám Sinh mua Kiều” là lời tố cáo mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã xây dựng nên một bức tranh chân thực giúp ta biết được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn người trong xã hội mà ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ lên án mặt trái của đồng tiền: “Tiền bạc rồi, làm gì cũng xong!”. Cảm thông và thương xót cho số phận nàng Kiều: bán mình chôn cha. Tiếc rằng tài năng của người đẹp đã bị vùi dập. Đó là một giá trị nhân đạo.

Đoạn thơ có thể cho thấy phong cách nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mối mọt, sử dụng bút pháp tả thực, chi tiết hiện thực; Miêu tả Kiều thiên về ước lệ. Nó biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.

Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa đựng tinh thần nhân đạo chân thành.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 12

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều.Đoạn thơ làm sống lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh.Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:

Hạt mưu sá nghĩ phận hèn.

Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.

Khách đến mua Kiều là “người viễn khách” được mụ mối đưa vào để “ vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách” đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Khách tự giới thiệu mình là “kẻ sĩ” – sinh viên trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai chữ “rằng” nối tiếp nhau xuất hiệu biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của ” viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Đọc “Truyện Kiều” ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách”. Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên”. Sống ở Lâm Tri “Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”. Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần” mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người “Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa”.

Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tụần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi” của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “ bảnh bao” của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối.“Mày râu nhẵn nhụi” và “ áo quần bảnh bao” là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”.Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhã:

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau lưng theo một vài thằng con con.

” Vài thằng con con” là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng thầy – tớ”, cũng có “trước – sau” ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh:

Trước thầy sau tớ lao xao

Mới được mụ mối “rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm hĩnh lên mặt:

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Cái lối “ngồi tót” là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người”. Cái cử chỉ “sỗ sàng” là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa” mới có lối “ngồi tót” và cử chi “sỗ sàng” ấy!Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay” món hàng thì hắn “cân sắc” rồi “cân tài”, hắn “ép”, hắn “ thử’, hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng

Đắn đo cân sức cân tài,

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu”, Mã Giám Sinh mới “tùy cơ dặt dìu” mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi’, nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cái tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thối nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!” là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán… để khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “ Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân” như Tú Bà đã hạ nhục hắn.Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “Truyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn “buôn phấn bán hương” trong xã hội, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 13

Trong Truyện Kiều bên cạnh những nhân vật được Nguyễn Du hết lòng thương yêu trân trọng là một số gương mặt đê tiện, tàn ác. Mã Giám Sinh tiêu biểu cho hạng người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phơi trần bản chất xảo trá đê tiện của tên buôn người và cũng mở đầu cho một chuỗi dài những bi kịch đau khổ của đoạn trường mười lăm năm đời Kiều.

Sau lần thề nguyền, hạnh phúc vừa chớm nở, gia đình Kiều gặp tai biến. Bọn “đầu trâu mặt ngựa” kéo đến đập phá tan tành, Vương Ông, Vương Quan bị trói đánh hành hạ:

Giường cao rút ngược dây oan.

Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.

Không đành lòng để gia đình tan nát, Kiều đã bán mình để cứu cha và em. “Tin sương đồn đại”, xa gần xôn xao, nghe tin đó anh chàng họ Mã đã “ngửi” thấy món lợi lớn vội nhờ người mai mối để đến “vấn danh”, nói dối là cưới Kiều về làm vợ. Mã Giám Sinh xuất hiện, ta hãy nghe hắn giới thiệu về tên họ, quê quán:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Hắn không nói tên chỉ xưng họ ngụ ý khoe khoang mình cũng là một kẻ danh giá, có học hành, một giám sinh của trường Quốc tử giám. Lời nói lại cộc lốc, nhát gừng đúng giọng điệu của những kẻ thiếu văn hoá, nghe rất chói tai. Tiếp theo Nguyễn Du giới thiệu diện mạo của hắn:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao

Một người đã đứng tuổi “ngoại tứ tuần” nhưng lại chải chuốt, đỏm dáng râu mày tỉa tót nhẵn nhụi, áo quần chưng diện bảnh bao làm cho người gặp lần đầu đã nghi ngờ về tư cách của hắn. Rồi thì “trước thầy sau tớ xôn xao”, “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng lộ rõ bản chất huênh hoang, thô lỗ của hắn. Chỉ bằng một cử chỉ “ngồi tót”, Nguyễn Du bóc trần sự bịp bợm của tên lưu manh giả dạng một giám sinh.

Một đon thơ ngắn chỉ 8 câu, ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã dựng lên một chân dung sinh động của anh chàng họ Mã từ diện mạo, cử chỉ, lời nói đến bản chất bỉ ổi, bịp bợm. Bức chân dung của Mã Giám Sinh được hoàn chỉnh như nhà thơ tả cảnh hắn mặc cả cò kè mua Kiều. Kiều ra mắt trong tâm trạng nhục nhã ê chề:

Ngại ngùng dợn gió e sương,

Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.

Một cô gái tài sắc vẹn toàn, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc, hất tay” nàng tủi nhục biết nhường nào. Nhưng Mã Giám Sinh coi nàng là một món hàng không hơn không kém, hắn cân nhắc xem xét kĩ càng:

Đắn đo cân sức, cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

Và khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa” hắn liền hỏi giá, cho đến lúc này hắn vẫn đóng kịch làm bộ một kẻ có học, ăn nói văn hoa kiểu cách tỏ vẻ khiêm nhường lễ phép:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho vừa”.

Nhưng bộ mặt thật của hắn chẳng đánh lừa được ai, hắn đã lộ nguyên hình một tên bán thịt buôn người đê tiện. Hắn rõ hoàn cảnh của Kiều nên tìm cách dìm giá, ép giá, mặc cả “cò kè bớt một thêm hai” để rồi mua với giá rất hời:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Kết thúc màn “bi hài kịch” mua người này, Nguyễn Du đã thốt lên chua xót: “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong”. Nhà thơ tố cáo thế lực tàn bạo của đồng tiền, đồng tiền đã tác oai tác quái chà đạp đạo lí và lương tâm con người. Một xã hội mà “Trong tay sẵn có đồng tiền – Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì” thì giá trị của con người chỉ là món hàng.

Bức tranh mua bán người thật xót xa não lòng làm ta liên tưởng đến những chợ bán nô lệ một thời dã man của lịch sử. Ngòi bút Nguyễn Du cố giữ thái độ bình tĩnh khách quan khi miêu tả nhưng rồi lòng căm phẫn và xót thương không kìm nén được. Nguyễn Du lên án gay gắt cái xã hội tàn ác đã giày xéo lên quyền sống con người mà nạn nhân bi thảm nhất là những người phụ nữ.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 14

Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” nằm trong tác phẩm “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du – một thiên truyện tiêu biểu và là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Thúy Kiều – một con người tài sắc vẹn toàn, giai nhân xuất chúng nhưng cuộc đời lại thăng trầm và nhiều bất hạnh đau thương.

Đoạn trích đã thuật lại biến cố lớn nhất trong cuộc đời của Thúy Kiều, ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều, cuộc đời Kiều rẽ ngang từ một tiểu thư cao quý đức hạnh thành một món đồ hàng không hơn không kém. `

Vì bi kịch của gia đình nên Kiều đành phải bán mình lấy tiền chuộc cha và cứu em trai, đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” chính là cuộc ngã giá mua bán, trước cảnh tượng ấy, người đọc thấu hiểu tâm trạng đau khổ của Kiều đồng thời nhìn rõ bộ mặt xấu xa, bản chất giả dối của tên buôn người Mã Giám Sinh. Nguyễn Du thông qua đoạn trích này đã lên án tố cáo những kẻ dùng đồng tiền để bức ép con người ta đi tới bước đường cùng của đau khổ. Mở đầu đoạn trích là lời giới thiệu về tên buôn người Mã Giám Sinh:

“Hỏi tên, rằng “Mã Giám Sinh”,

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Quá niên trạc ngoại tứ tuần.

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”

Lời giới thiệu có vẻ nhiệt tình và tha thiết của mụ mối gợi ra hình tượng Mã Giám Sinh là một người đàng hoàng, có gốc gác lại có học thức. Thế nhưng đó chỉ là cái hư danh hão huyền, bởi từ chính cái nhìn ngoại hình đã lộ rõ bản chất của kẻ lố lăng này.

Đây là một người đàn ông đã ở tuổi trung niên, sự trau chuốt diện mạo quá đà “mày râu nhẵn nhụi” kết hợp với trang phục “áo quần bảnh bao” đã gợi ra vẻ lố lăng, kệch cỡm của kẻ nhiều tuổi nhưng lại cố tỏ ra mình còn trẻ. Sự giả tạo đáng coi thường của nhân vật này còn được bộc lộ rõ qua hành động, cử chỉ:

“Trước thầy sau tớ lao xao,

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.”

Hành động của Mã Giám Sinh bộc lộ rõ vẻ trơ trẽn, vô học, vô giáo dục của hắn, giữa thầy và tớ không có sự tôn trọng, thiếu lễ nghĩa, đầy tớ của hắn như những kẻ đi thuê đi mượn, chính hắn cũng không nắm rõ những phép tắc cơ bản mà ngồi tót vào ghế trên. Tuy nhiên Mã Giám Sinh là người bỏ tiền ra mua Kiều, chính vì thế hắn tự cho mình cái quyền lộng hành, ra oai. Trái ngược với sự hống hách đầy ngỗ ngược của Mã Giám Sinh, Thúy Kiều bấy giờ đang trong cảnh vô cùng đau khổ:

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng!

Ngại ngùng dợn gió, e sương,

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”

Nỗi lòng đầy suy tư và đau khổ của Kiều bộc lộ rất rõ, nàng nhận thức rõ nỗi đắng cay tủi nhục khi phải bán thân mình cho cuộc hôn nhân không tình yêu này, nỗi buồn lại chồng chất thêm nỗi lo cho cha mẹ và gia đình. Bước chân đi nặng nề chứa chan nước mắt, nàng mang trên mình đau khổ và trách nhiệm cũng như bổn phận người làm con.

Kiều đã có những dự cảm chẳng lành về tương lai số phận của mình, nàng cảm thấy lo sợ, ngại ngùng nhưng đó vẫn là hiện thực không thể tránh khỏi. Thúy Kiều hiện lên trong tình cảnh đáng thương, bị coi như món hàng trao đổi, nâng lên đặt xuống, bắt nàng trổ tài đánh đàn, làm thơ rồi mới bắt đầu ngã giá.

Tài năng trời phú ban cho Kiều thật trớ trêu khi phải thể hiện ở một nơi ô uế như vậy, quả thực đau đớn và xót xa cho số phận Kiều. Sau khi cuộc ngã giá kết thúc, bản chất của kẻ buôn người bộc lộ rõ trong Mã Giám Sinh, sự sành sỏi, lọc lõi, cò kè “bớt một thêm hai” đã giúp hắn có một món hời.

Qua đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, người đọc không chỉ được cảm nhận về nỗi đau khổ, số phận đầy cay đắng của Thúy Kiều mà còn nhìn rõ bản chất của tên buôn người lố lăng giả tạo Mã Giám Sinh. Nguyễn Du đã vạch trần bản chất của một xã hội dơ bẩn, “ăn thịt người”, coi thường tính mạng và giá trị của con người, đồng tiền bị lợi dụng trở thành công cụ chèn ép và áp bức bất công.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 15

Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để “cò kè”mua bán.

Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 – 652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quvết định: “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!”.

Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu ” trâm gãy bình tan”. Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiểu “kíp ra” cho khách gặp. Mụ mối “vén tóc bắt tay” món hàng mình; Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”.

Khi khách đã “mặn nồng một vẻ một ưu” mới hỏi giá. Mụ mối thách: “một nghìn vàng”. Hai bên “cò kè” mua bán với cái giá “vàng ngoài bốn trăm”. Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: ‘!đưa canh thiếp” và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được dùng bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy. Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.

Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để “cò kè”mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ “Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong” là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.

Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi “rước vào lầu trang”. Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), “vén tóc bắt tay” Kiều, khôn khéo thách giá:

Mối ràng: Đáng giá nghìn vàng,

Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!

Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo hoạt, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người. Mã Giám Sinh là “viễn khách” đến để “vấn danh” – khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là “hỏi – đáp”. Cách trả lời cộc lốc. khiếm nhã. Hai chữ “rằng” làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh “,

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.

Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh cũng gần”. Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: “Nhẵn nhụị” và “bảnh bao”là hai nét vẽ châm biếm:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Cũng “thầy”cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao”chẳng có nề nếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ “sỗ sàng”, không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi “tót”! Nếu là sinh viên trường Quốc Từ Giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh !

Trước thầy sau tớ lao xao,

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…

Một chữ “ tót” đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ “Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. “Cân sắc cân tài”, “ép”, “thử”,… những cử chỉ, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa”, Mã Giám Sinh mới “dặt dìu” mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buôn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều “,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.

Hai chữ “cò kè” đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ “ Quanh năm buôn phấn bán hương đã lẻ”. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách rất sống của nhân vật Mã Giám Sinh.

Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống, đằng sau đó là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọ buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.

Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh, Trước cảnh gia biến nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Nàng tự xem thân mình như “hạt mưa” nhỏ bé hèn mọn. Tất cả vì “ba xuân”, một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ:

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

Kiều sống trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, “nỗi mình thêm tức nỗi nhà”. Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu “lệ hoa” đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon rũ xuống: “ngại ngùng”,… “bóng thẹn”,… “mặt dày”, “nét buồn như cúc điệu gầy như mai” Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa “nét buồn như cúc, điệu gây như mai”.

Kiều bị mụ mối và Mã Giám Sinh “ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”. Mã Giám Sinh đã “đắn đo cân sắc cân tài”. Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”, khi bị hắn “cò kè bớt một thêm hai”… Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy.

“Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án mặt trái đồng tiền hôi tanh: “Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!”. Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo.

Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong sự tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.

Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 16

Sau lần thề nguyền kết tóc se tơ, Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Gia đình gặp nạn, bị vu oan giá họa, Kiều phải cậy nhờ Thúy Vân thay mình giữ trọn tình chung thủy với Kim Trọng để bán mình cứu cha và em. Đoạn trích tả cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều để đem về Lâm Tri.

Mã Giám Sinh – một “viễn khách” cùng với người mốì tìm đến để “vấn danh”, tức là xin cưới hỏi Kiều về làm vợ. Cách nói như vậy có vẻ lương thiện nhưng sự thật không phải thế. Ta hãy theo dõi thái độ và việc làm của họ Mã.

Nguyễn Du đã giới thiệu ông khách họ Mã này như thế nào? Khi được hỏi về tên họ, quê quán, y đã trả lời một cách cộc lốc. Y còn có ngụ ý khoe khoang mình là kẻ có học, danh giá, sinh viên trường Quốc tử giám. Nhưng ngòi bút của Nguyễn Du thật tài tình khi viết hai câu:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Đây là cách nói năng của kẻ thiếu lịch sự, thiếu văn hóa và ngay khi mới xuất hiện người đọc đã mất hết cảm tình với hắn ta rồi. Hắn che dấu tung tích, quê quán, chỉ biết “cũng gần” Nguyễn Du tiếp tục giới thiệu diện mạo anh chàng giám sinh họ Mã này:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trông vẻ bên ngoài, hẳn như một kẻ thanh lịch: mày râu được cạo kĩ, áo quần đẹp đẽ. Nhưng cách làm dáng, chải chuốt đó lại không phù hợp với con người đã “quá niên trạc ngoại tứ tuần”. Và đến nhà Kiều thì: “Trước thầy sau tớ xôn xao” gợi lên cảnh ồn ào bát nháo của tớ thầy Mã Giám Sinh. Rồi khi vào đến nhà, hắn vội “ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, chỉ một cử chỉ “tót” đó, Nguyễn Du đã phơi bày tất cả bản chất của con người thô lỗ, vô học, lưu manh.

Chỉ một đoạn thơ ngắn 8 câu, tác giả đã khắc họa một cách sinh động về diện mạo, ngôn ngữ, hành vi của Mã Giám Sinh. Và bức chân dung ấy được hoàn chỉnh khi tác giả tả cảnh hắn, mặc cả mưa Kiều. Mã đánh tiếng đến cưới Kiều về làm vợ nhưng sự thật hắn mua Kiều về lầu xanh ở Lâm Tri để tiếp khách làng chơi, nơi hắn cùng với mụ Tú Bà chung vốn làm ăn.

Vì vậy trong việc mua bán này, y phải tính toán thiệt hơn. Trước hết đắn đo, cân nhắc kĩ càng về mặt hàng: Đắn đo cân sắc, cân tài Để nắm chắc giá trị của món hàng, hắn không ngại bắt “ép” Kiều phải thử tài: Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Sau một hồi xem xét tính toán hắn tỏ ý vừa lòng: “mặn nồng một vẻ một ưa”. Điều còn lại là giá cả bao nhiêu để kiếm được nhiều lời, hắn liền hỏi giá:

Rằng: “mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Mã cũng biết học đòi cách nói năng văn hoa của người có học và tỏ vẻ lễ phép khiêm nhường (xin dạy) nhưng bản chất của tên con buôn không che dấu được. Hắn “cò kè bớt một thêm hai”. Tìm cách ép giá, dìm giá vì hắn biết rõ hoàn cảnh quẫn bách của Kiều. Vì thế Mã đã mua được Kiều với giá rất hời, từ “đáng giá ngàn vàng” hắn chỉ mua có “ngoài bốn trăm”. Mã không đánh lừa được ai, hắn khoác áo kẻ thanh lịch, giả dạng một giám sinh nhưng qua cảnh mua bán này đã lộ nguyên hình một tên buôn người đểu cáng.

Kiều phải bán mình để cứu gia đình qua cơn nguy biến, một hành động hi sinh rất cao cả. Bắt đầu từ đây nàng dấn thân vào con đường đau khổ, nhục nhã ê chề và cảnh mua bán này sẽ mở đầu cho chuỗi dài bi đát của đoạn trường 15 năm.

Người con gái tài sắc vẹn toàn ấy nếu được sống trong một xã hội công bằng chắc hẳn sẽ có cuộc đời hạnh phúc.

Nhưng trong xã hội phong kiến thối nát, tài sắc ấy trở thành món hàng đem ra mặc cả “cò kè”, trao từ tay người này qua tay kẻ khác. Trong 6 câu thơ tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du để nàng im lặng. Đúng vậy, lúc này làm sao nàng nói được nên lời. Nhưng qua một vài cử chỉ, dáng điệu ta thấu hiểu nỗi đau của nàng:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!

Kiều khóc, những giọt lệ chảy thành hàng, những giọt nước mắt đau xót, tủi nhục. Nàng, con gái nhà lành sống trong cảnh “trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc bắt tay” “cân sức cân tài” làm sao nàng không cảm thấy thẹn thùng, nhục nhã:

Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày Nàng tự xỉ vả mình là kẻ mặt dạn mày dày, nhưng tội này không phải do nàng gây nên. Trong xã hội mà đồng tiền thống trị tất cả: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” thì có biết bao số phận bi thảm như Kiều.

Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” như một màn kịch ngắn, trong đó sự việc cứ tiến triển dần và tính cách nhân vật bộc lộ rõ nét. Thái độ của Nguyễn Du thật rõ ràng: lên án, tố cáo những thế lực đen tối của xã hội, thông cảm sâu sắc với nỗi đau của con người. Ngày nay, đọc lại Truyện Kiều ta cảm thương cho số phận bi đát của Kiều và căm ghét xã hội bạo ác đã chà đạp lên quyền sống của những phụ nữ.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 17

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một bản cáo trạng bằng thơ, lên án xã hội phong kiến xấu xa, thể hiện nỗi đau khổ của những con người bị áp bức. Thúy Kiều là một hiện thân của những con người bị áp bức đó, nỗi đau đầu tiên của Kiều là phải bán thân, vùi dập dưới tay kẻ buôn bán người. Cụ thể nỗi đau khổ đầu tiên của Kiều được thể hiện trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều. Trước bi kịch gia đình, một tai họa bất ngờ khi thằng bán tơ đã vu oan cho gia đình nàng. Cha và em của nàng bị bắt và bị đánh đập dã man, tài sản của gia đình đã bị chúng vơ vét sạch. Vốn là người con hiếu thảo, Kiều phải bán mình để chuộc cha và em, chấp nhận hi sinh tình yêu của mình vì gia đình, chấp nhận làm vợ lẽ của Mã Giám Sinh để có tiền cứu cha và em.

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua kiều đã bộc lộ được rõ ràng tâm trạng, nỗi đau khổ của nàng trong tình cảnh đó. Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã ghi lại một cách cụ thể tâm trạng của Kiều: “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà”, đó là nỗi đau cũng là nỗi uất hận đã lên đến cao độ bởi nàng bị ép vào cảnh đường cùng. Gia đình chia li tan tác, tình yêu mà nàng dành cho Kim Trọng nay lại đành dở dang, mối tình đầu trong sáng đang tỏa sắc lên hương lại đành phải chia li vì cảnh ngộ gia đình.

Hai nỗi niềm gia đình và tình yêu đang chồng chất và đè nặng lên đôi vai của nàng, khiến cho nàng rơi vào đau khổ, xót xa. Hình ảnh Kiểu từ trong phòng bước ra, giáp mặt với Mã Giám Sinh trong lễ vấn danh đã cho thấy vẻ đau khổ của nàng trong mỗi bước đi: “Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”. Với cách miêu tả có tính chất ước lệ “thềm hoa”, “lệ hoa”, câu thơ trở nên rất gợi hình và gợi cảm.

Hiện lên trước mắt người đọc là một khuôn mặt với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành đang thấm đẫm nước mắt, đó là những giọt nước mắt của tủi hờn, xót xa và đau khổ. Kiều vừa thương cha, vừa thương em lại thương cho chính mình, căm tức và phẫn uất với cuộc đời ngang trái đã giáng tai họa xuống gia đình và cuộc đời nàng.

Là một thiếu nữ con nhà gia giáo, sống trong cảnh trướng rủ màn che, vậy mà giờ đây tài sắc của nàng phải chấp nhận phơi ra cho người ta xem xét, cân đo, thử, ép, nàng vô cùng tủi thân và e thẹn. Điều đó cho thấy nàng đã ý thức rất rõ về nhân phẩm và thân phận của mình nhưng vì cảnh ngộ gia đình và bổn phận người con nàng đành cam chịu

Hình ảnh nàng Kiều lúc này giống như một chiếc bóng lặng câm và nhòe dần trước ánh sáng của đồng tiền, dù có là quốc sắc thiên hương nhưng vẫn chỉ là một món hàng không hơn không kém của bọn “buôn phấn bán hương”.

Thông qua việc miêu tả tâm trạng của nàng Kiều, đoạn thơ đã lên án tố cáo hiện thực của xã hội lúc bấy giờ, những người phụ nữ trong xã hội ấy đã trở thành một món hàng hóa. Sức mạnh của đồng tiền đã gây ra những bất hạnh cho họ, nhà thơ đã lên án và phê phán những kẻ tàn bạo đó, đồng thời thể hiện niềm xót thương đối với nàng Kiều

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 18

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân

Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều…

(Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du)

“Bâng khuâng” là trạng thái tinh thần của con người tuy đứng trước thực tại nhưng tâm hồn không đặt ở thực tại mà hướng về, thậm chí đắm chìm trong quá khứ, trong tương lai, hay trong mộng tưởng. Vì đắm chìm trong quá khứ, nên Tố Hữu cũng như chúng ta không thể nào quên được cụ Nguyễn Du, một đại thi hào đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều – một bài ca lớn về giá trị nhân bản; bản cáo trạng nghiêm khắc về cái ác; tập đại thành của nghệ thuật văn chương.

Và chúng ta cũng không thể không “thương thân nàng Kiều” đang đau đớn, tủi nhục ê chề khi phải bán mình chuộc cha, rơi vào tay một kẻ “buôn thịt bán người” trong trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều.

Trích đoạn này gồm 34 câu thơ, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và lưu lạc. Câu chuyện trước đoạn này như sau: Trên đường về của chuyến đi tảo mộ và du xuân, ba chị em Thuý Kiều gặp Kim Trọng – một chàng trai tài đức vẹn toàn, bạn đồng môn của Vương Quan. Trở về nhà, Thúy Kiều tơ tưởng đến bóng hình Kim Trọng mà “Ngổn ngang trăm mối bên lòng”.

Còn Kim Trọng, sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy cũng nặng lòng nhớ thương Kiều rồi tìm kiếm, dọn nhà đến kề cận vườn nhà Kiều. Nhờ vậy, đôi trai tài gái sắc có cơ hội làm quen, tìm hiểu và trao lời thề nguyền trọn đời bên nhau. Ngay sau đó, Kim Trọng phải cấp tốc trở về Liêu Dương thọ tang chú.Và cũng cùng thời điểm ấy, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, tất cả tài sản bị bọn sai nha vơ vét sạch. Để cứu cha và em thoát khỏi cơn gia biến, Kiều tự nguyện bán mình:

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.

Sự lòng ngỏ với băng nhân

Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao.

Thúy Kiều buồn bã mang sự tình ngỏ với người mai mối. Lập tức, mụ mối dắt khách phương xa tới:

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

“Viễn khách” là từ Hán Việt có sắc thái trân trọng, tao nhã. Phải chăng “viễn khách” ấy là con người tử tế, cao thượng, nho nhã đến để xin hỏi cưới Kiều về làm vợ theo đúng tục lệ hôn nhân ngày xưa? sắm vai là học sinh trường Quốc Tử Giám, trường lớn nhất ở kinh đô thời xưa, người khách phương xa bắt đầu xuất hiện:

Hỏi tên, rằng “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cách ngắt nhịp thơ ở hai câu này rất trúc trắc, khác lạ. Câu lục nhịp: 2-1-3. Câu bát nhịp 2-1-3-2. Cách ngắt nhịp trùng với cách trả lời bất ổn của vị khách. “Mã” thì đúng là họ rồi. Nhưng “Giám Sinh” đâu có phải là tên người? Còn quê quán nghe rất mơ hồ: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Từ “cũng gần” được nhà thơ dùng rất đắt để biểu hiện một lí lịch, gốc gác không minh bạch của nhân vật. Nếu đúng là người tốt thì việc gì lại không dám giới thiệu cụ thể nơi ở của mình? Với cách trả lời cộc cằn ấy chứng tỏ Mã Giám Sinh là người vô văn hóa. Còn đây là tuổi tác và diện mạo của gã:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Ngoại tứ tuần có nghĩa là ngoài bốn mươi tuổi, đã qua rồi thời trai tráng. Từ “quá niên” càng tô đậm hơn điều đó. Thế nhưng hắn vẫn ăn mặc theo kiểu trai lơ “áo quần bảnh bao” và chuẩn bị “mày râu nhẵn nhụi” trông rất bảnh chọe. Nếu ở câu lục nhà thơ sử dụng toàn từ Hán Việt thì ở câu bát xuất hiện toàn từ thuần Việt để bày tỏ thái độ châm biếm.

Riêng hai từ láy “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” có sức gợi tả thái độ sự dung tục và lố bịch rất cao vì hắn là người bất chính nên đám tôi tớ đi theo hắn cũng toàn là lũ xô bồ, lộn xộn:Trước thầy sau tớ lao xao, Có thể khẳng định rằng diện mạo và cách xuất hiện của Mã Giám Sinh hoàn toàn đối lập với Kim Trọng. Kim Trọng xuất hiện với một phong cách tao nhã, diện mạo khôi ngô tuấn tú, làm cho cả một vùng bừng sáng hơn:

Dùng dằng nửa ở nửa về,

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

Trông chừng thấy một văn nhân

Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau chân theo một vài thằng con con.

Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời,

Nẻo xa mới tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.

Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

Thế nên, một con người bịp bợm như Mã Giám Sinh không thể nào xứng đáng với nàng Kiều tài sắc vẹn toàn. Và chúng ta hãy xem cử chỉ thô lỗ của hắn: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng “Ghế trên” bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất của phòng khách, chỉ những thượng khách mới được mời an tọa, thường là người cao tuổi.

Vậy mà một tên trâng tráo như hắn chưa kịp mời đã vội “ngồi tót”, trông là biết vô học rồi. Chữ “ngồi tót” được nhà thơ dùng rất điêu luyện và đã giết chết Mã Giám Sinh ngay trong cõi sống. Liền sau đó là từ bồi bút “sỗ sàng”. Cùng là từ “tót” nhưng khác xa một trời một vực với cách tả Kim Trọng:

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa

Trong Truyện Kiều nhiều lần Nguyễn Du đã giết chết nhân vật phản diện bằng nghệ thuật dùng từ. Nhà thơ giết chết tên Sở Khanh bằng một từ “lẻn” ở câu 1094:

Tường đông lay động bóng cành,

Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.

Và đại thi hào cũng đã giết chết Hồ Tôn Hiến bằng từ “mặt sắt” trong câu 2580:

Nghe càng đắm, ngắm càng say,

Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!

Nhìn chung, qua dụng công miêu tả của Nguyễn Du, chân tướng con buôn Mã Giám Sinh đã dần dần được phơi bày:

Đắn đo cân sắc cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

“Đắn đo” là trạng thái suy nghĩ, tính toán đến căng thẳng. Trạng thái này thường gặp ở những kẻ làm nghề buôn bán. Tuy được nghe mụ mối giới thiệu Kiều là người tài sắc vẹn toàn nhưng hắn vẫn chưa chắc chắn lắm. Bởi vậy hắn mới “cân sắc, cân tài” có nghĩa là xem đi, xem lại, kiểm tra một cách tỉ mỉ, cẩn thận như mua một món hàng giữa chợ trời. Thật đúng là một con buôn giàu kinh nghiệm, lõi đời. Sau khi thấy dáng dấp của nàng, tài năng của nàng, vẻ nào cũng mặn mà dễ thương, hắn bằng lòng về món hàng và lựa lời trao đổi về giá cả:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Chỉ với một từ “mua”, nhà thơ đã bóc trần bản chất đê tiện của gã họ Mã mặc dù hắn vẫn còn cố gắng trau chuốt lời ăn tiếng nói qua các từ: “Lam Kiều”, “xin dạy”. Và đây là cuộc “mặc cả” giữa con buôn sành sỏi và mụ mối:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm

“Cò kè” là từ luôn luôn được dùng ở bất cứ chợ nào thuộc lĩnh vực buôn bán đồ vật. Từ “cò kè” còn tạo ra một không khí mua bán hết sức thô lỗ, mụ mối càng nói thách để được lời về phần mình thì tên “buôn thịt bán người” Mã Giám Sinh càng trả cho thật rẻ để tích luỹ lợi nhuận cho lòng tham không đáy. Vì mãi “cò kè”, công cuộc “ngã giá” mất nhiều thời gian nên “giờ lâu” con buôn mới đi đến quyết định mua Kiều hơn bốn trăm lượng vàng. Công cuộc “cò kè” người thiệt hại. Thật phũ phàng và tàn nhẫn làm sao!

Tóm lại, bằng nghệ thuật dùng những hình thái ngôn ngữ nghệ thuật trực diện, thiên tài Nguyễn Du vừa vẽ được chân dung ghê tởm và đê tiện của Mã Giám Sinh, vừa thể hiện thái độ tố cáo bọn con buôn bất công phi nghĩa đã xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng, đã chà đạp lên nhân phẩm, danh dự của phận “liễu yếu đào tơ” một cách không thương tiếc.

Đối lập với màn kịch “vấn danh” và chân tướng Mã Giám Sinh là tâm trạng buồn bã, khổ đau, nhục nhã của Thúy Kiều:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!

Ngại ngùng dín gió e sương,

Nhìn hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.

Mối càng vén tóc, bắt tay,

Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.

Giờ đây, Kiều đang đau xót cho mối tình đầu tươi đẹp. Mới hôm nào, nàng và Kim Trọng thề nguyền cùng chung một lòng một dạ, có sự chứng giám của ánh trăng sáng vằng vặc nhưng xa xăm, lạnh lẽo, đơn côi:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Vậy mà nay, đôi ngả nước mây cách vời, chỉ còn là kỉ niệm của một thời yêu nhau tha thiết. Ai? Ai đã gây ra bi kịch đắng cay này? Trong lòng nàng bỗng trào dâng một nỗi niềm oán hận. Lần đầu tiên trong đời nàng biết hận. Nàng hận thằng bán tơ đã vu oan cho gia đình nàng. Nàng hận bọn sai nha đã “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” và ra sức đánh đập, tra tấn cha và em trai nàng.

Cho nên, mỗi bước đi của nàng trên thềm hoa đều nặng nề và đong đầy nước mắt. Phép tăng cấp và đối ngữ tương hỗ trong câu “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng?” đã nhấn mạnh nỗi thống khổ cùng cực của nàng. Và cũng lần đầu tiên trong đời, nhìn bóng mình, nàng cảm thấy hổ thẹn, soi vào gương thấy mặt mình như dày ra vì xấu hổ, tủi nhục, vì phải mang thân lá ngọc cành vàng và nhan sắc “một hai nghiêng nước nghiêng thành” để cho một tên buôn người như Mã Giám Sinh đánh giá, bình phẩm. Có nỗi ê chề nào hơn thế nữa?

Nàng để mặc mụ mối hướng dẫn giới thiệu, khoe “hàng” mà cõi lòng tan nát như ai xé ai vò: Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Phép so sánh tu từ, phép đối ngữ tương hỗ cùng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng đã góp phần điểm tô thêm vẻ đẹp trong đau khổ của Kiều và hoàn toàn đối lập với nhân vật Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).

Qua trích đoạn văn xuôi trên đây, chúng ta thấy nhân vật Thúy Kiều của nhà văn Tài Nhân trực tiếp tham gia việc “cò kè” giá cả trông rất dạn dĩ, và nhân cách của nàng thật không có gì đặc biệt. Còn nhân vật Thúy Kiều của thiên tài Nguyễn Du chỉ là người câm lặng suốt cuộc mua bán, nàng xấu hổ, tủi nhục. Và đó chính là vẻ đẹp nhân cách của nàng.

Nhìn chung, đoạn thơ miêu tả tâm trạng nàng Kiều đã cho chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo mênh mông của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đối với nhân vật Thúy Kiều cũng như những kiếp người đau khổ, bất hạnh. Nhà thơ bao giờ cũng dành cho những nhân vật chính diện một thái độ yêu thương, hết sức cảm thông, rất mực trân trọng, thấu hiểu, chia sẻ. Đặc biệt, càng dấn sâu vào bi kịch, nhan sắc – tài năng – lòng thủy chung – lòng hiếu thảo – đức hi sinh của Thúy Kiều càng đẹp – càng vẹn toàn – càng sâu sắc – càng cao cả.

Tóm lại, bằng bút pháp thủy mặc, “điểm nhãn”, Nguyễn Du đã miêu tả thành công bức chân dung sống động, điển hình của nhân vật Mã Giám Sinh không còn ở trang thơ của đại thi hào mà đang hiện diện ở một nơi nhất định của cuộc đời thực. Bằng bút pháp đậm nét, nhân vật Thúy Kiều hiện lên với biết bao khổ nhục, đắng cay đồng thời Thúy Kiều cũng là điển hình của nhân vật người phụ nữ đẹp trong đau khổ.

Cùng với thiên tài ngôn ngữ và thiên tài khám phá, phân tích, miêu tả tâm lí con người trong mối quan hệ giữa tâmlí và hoàn cảnh sống của con người, qua trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, chúng ta thấy rằng Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật tả người trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 19

Truyện Kiều là tác phẩm đặc sắc có những giá trị nội dung nhân văn sâu sắc và cho thấy nghệ thuật tài tình trong bút pháp của Nguyễn Du. Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” cho thấy nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật độc đáo của đại thi hào, là sự cảm thông sâu sắc với số phận nàng Kiều nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công nói chung.

Đoạn trích nằm ở đầu phần hai (Gia biến và lưu lạc) trong Truyện Kiều. Trước tai biến của gia đình, Kiều không thể ngồi yên, trăn trở giữa tình và hiếu, Kiều quyết định “làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha. Qua màn kịch vấn danh, Nguyễn Du đã bóc trần bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người Mã Giám Sinh.

Một sự tài tình và cũng hết sức thâm thúy của Nguyễn Du khi ông để Mã Giám Sinh xuất hiện trong vai một chàng sinh viên trường Quốc Tử Giám đến hỏi mua Kiều về làm vợ lẽ. Ngay từ những giây phút đầu tiên hắn đã tạo ấn tượng chẳng mấy tốt đẹp. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng là người “viễn khách” đến “vấn danh” nhưng cách trả lời lại cộc lốc:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.

Câu trả lời vô cùng khiếm nhã, cách giới thiệu tên tuổi quê quán không rõ ràng. Cách giới thiệu như thế chắc hẳn là con người không đàng hoàng. Chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng lại khoe hão là học trường Quốc Tử Giám. Nguyễn Du tiếp tục khắc họa hình dáng lố bịch của Mã Giám Sinh:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”

Một nét vẽ cực kì châm biếm của đại thi hào. Một tên đã ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn tỉa tót, chưng diện như trai tân: “mày râu nhẵn nhụi”, áo quần thì lại rất “bảnh bao”, tưởng như lịch sự nhưng lại cực kì lố bịch. Cũng thầy tớ như ai, đi sau là bọn đầy tớ có vẻ trang trọng lắm nhưng lại “lao xao” chẳng có nề nếp, lễ giáo gì. Sự lố bịch ấy không chỉ biểu hiện ở ngoại hình mà còn ở cả hành động của tên họ Mã:

“Trước thầy sau tớ lao xao

…Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”

Hành động của hắn hết sức vô học, thiếu văn hóa. Cái “ngồi tót” thể hiện sự sỗ sàng lố bịch của Mã Giám Sinh. Nguyễn Du thật tài tình khi chỉ với một từ “tót” đã làm lộ rõ bản chất của tên buôn người. Trái ngược với sự ngỗ ngược của Mã Giám Sinh, nàng Kiều lại vô cùng đau khổ:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.”

Kiều mang nặng tâm trạng suy tư, buồn bã, nàng đau khổ bởi nàng biết cuộc sống sắp tới đây là những đau khổ, tủi cực. Nàng thương thay cho thân phận mình và cũng chồng chất nỗi lo cho bố mẹ và các em. “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”, những bước chân nặng nề dường như không muốn bước tiếp nhưng vì chữ hiếu nàng đành hi sinh thân mình. Những giọt nước mắt của nàng rơi lã chã khiến người đọc không khỏi xót xa, thương cảm.

“Ngại ngùng dợn gió e sương

…Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”

Trước tương lai đầy bất định ấy, Kiều có những dự cảm về cuộc đời mình, Kiều lo sợ, ngại ngùng bởi vì nàng biết những khó khăn khổ cực của những tháng ngày trước mắt. Nét buồn bã, đau khổ ấy không thể giấu nổi trên gương mặt nàng. Trái ngược với sự đau khổ của Kiều, bà mối vẫn rất chuyên tâm, nhiệt tình với công việc mai mối của mình. Nỗi buồn của Kiều được Nguyễn Du so sánh với nét buồn của cúc, sự mỏng manh yếu gầy của những cánh hoa mai:

“Đắn đo cân sắc cân tài

…Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”

Thúy Kiều thật đáng thương, nàng đúng như một món hàng không hơn không kém trong cuộc mua bán ấy. Nàng thật đáng thương. Cuối cùng bản chất con buôn của Mã Giám Sinh cũng được bộc lộ:

“Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều

…Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”

Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng diễn ra giữa tên buôn Mã Giám Sinh và mụ mối. Dù vẫn cố tỏ ra lịch sự, khoác lên mình vẻ trí thức “mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng ngay sau đó bản chất con buôn ti tiện, bỉ ổi của Mã Giám Sinh cũng bộc lộ rõ nét với hành động “cò kè” thêm bớt, nâng lên đặt xuống, Cuối cùng hắn được một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống “bốn trăm”.

Một cuộc mua bán, kẻ cười vui người chết lặng. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã lột trần bản chất con buôn đê tiện, hèn hạ, của Mã Giám Sinh và tâm trạng đầy tủi nhục, đau khổ của Kiều. Trong cuộc mua bán ấy, Kiều là một món hàng không hơn không kém. Đoạn trích là bức tranh hiện thực phản ánh chế độ phong kiến thối nát đã đẩy người phụ nữ đến tận cùng của những bi kịch:

Tiếc thay cây quế giữa rừng

Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 20

Người ta đã nói nhiều về tài miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều, dù là nhân vật chính diện hay phản diện đều rất sinh động. Chỉ bằng một vài nét chấm phá nhân vật của ông hiện ra trước mắt người đọc một cách cụ thể cả ngoại hình lẫn nội tâm. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã phần nào chứng minh tài năng miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Chân tướng tên buôn thịt bán người cứ lộ dần qua màn kịch ngắn này.

Mã Giám Sinh xuất hiện với tư cách là một “ viễn khách”. “ Viễn khách” là người khách từ phương xa đến. Ngay từ đầu người khách từ phương xa đến này đã có một chút đáng ngờ:

Hỏi tên rằng: “ Mã Giám Sinh’’

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Cách trả lời nhát gừng, cộc lốc ấy đã hé cho ta thấy người “viễn khách” này chẳng mấy lịch sự. Cách trả lời ấy hoàn toàn xa lạ với một người có học như y tự xưng: sinh viên trường Quốc Tử Giám. Ngay việc y chỉ nói họ mà không nói tên đã chứng tỏ y muốn che giấu tung tích của mình. Hỏi quê quán y cũng trả lời qua quýt cho xong chuyện. Chân tướng Mã Giám Sinh bộc lộ dần qua cách Nguyễn Du miêu tả ngoại hình của y:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

“Trạc ngoại tứ tuần” là đã ngoài bốn mươi tuổi. Thời bấy giờ là ở vào tuổi không còn trẻ nữa, thế mà y vẫn “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Tác giả cố ý làm nổi bật mâu thuẫn giữa tuổi tác và cách tỉa tót, chải chuốt, cách ăn diện quá mức của y. Những từ “nhẵn nhụi”, “bảnh bao” không chỉ thể hiện được vẻ kệch cỡm của Mã Giám Sinh mà còn kín đáo bộc lộ thái độ châm biếm của Nguyễn Du. Cách ăn mặc “bảnh bao” của y càng chứng tỏ y chẳng phải là một sinh viên trường Quốc Tử Giám hào hoa phong nhã. Hình như y đang cố che đậy một điều gì, qua cách tỉa tót, chải chuốt và ăn diện quá mức ấy. Nhưng dù cố che đậy, bản chất vỏ bọc của y vẫn cứ lòi ra:

Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

“Trước thầy sau tớ” có vẻ rất đàng hoàng, trịnh trọng, nhưng sao lại “lao xao”? “Lao xao” là ồn ào, lộn xộn mất trật tự. Cả tớ lẫn thầy đều chẳng giữ ý tứ khi vào nhà Vương ông. Vừa vào đến nơi Mã Giám Sinh đã “ngồi tót” ở “ghế trên” một cách “sỗ sàng”. Động tác ngồi của y càng chứng tỏ y là kẻ vô học trịch thượng hợm hĩnh. Một người thực sự là sinh viên trường Quốc Tử Giám ít nhất phải thanh nhã như Kim Trọng, đi đứng, ăn nói từ tốn, lịch sự như Kim Trọng:

Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.

Mã Giám Sinh hoàn toàn ngược lại: y nói năng cộc lốc, ăn mặc kệch cỡm, đi đứng láo nháo, hợm hĩnh,… Tất cả đã cho ta hiểu con người của y. Nguyễn Du không dừng lại ở đó, ông còn tiếp tục lột trần chân tướng Mã Giám Sinh. Trước “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” của Kiều, y chẳng một chút động lòng trắc ẩn. Ngược lại y còn bắt Kiều làm thơ, gảy đàn để y “đắn đo cân sắc cân tài”. Sau đó y mặc cả. Y xem Kiều chi là món hàng không hơn không kém. Đầu tiên y còn làm bộ là người có chữ:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?

Sau đó y lộ nguyên hình là một tên “buôn thịt bán người” sành sỏi:

Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Từ “đáng giá nghìn vàng” y “cò kè” thêm, bớt chỉ còn “bốn trăm”. Nghĩa là chưa được một nửa… Điều đó chứng tỏ y rất thủ đoạn trong việc mua bán. Mã Giám Sinh đã nắm được tình thế của gia đình Vương ông, y đã tìm cách hạ giá hàng đến mức thấp nhất. Khi màn kịch khép lại cũng là lúc chiếc mặt nạ bị lột trần. Mã Giám Sinh chẳng cần trá hình là một sinh viên trường Quốc Tử Giám nữa. Y đã hoàn thành vai diễn của mình:

Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!

Tính cách con buôn lừa đảo, giả dối, xảo trá, kệch cỡm của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du khắc họa khá cụ thể và sinh động. Tính cách đó được thể hiện chủ yếu qua việc miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ và hành động nhân vật. Bằng những từ ngữ chọn lọc có sức gợi, sức biểu cảm cao, Nguyễn Du vừa lột trần được bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người họ Mã vừa bộc lộ thái độ châm biếm khinh ghét của mình đối với hạng người bịp bợm, hợm hĩnh, thô lỗ ấy. Chỉ qua màn kịch ngắn này, chúng ta cũng hiểu phần nào tài năng miêu tả nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 22

Truyện Kiều là một tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam, đây là tác phẩm lớn và có giá trị cao về mặt nội dung cũng như nghệ thuật của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều không chỉ là tác phẩm lớn của văn học trung đại Việt Nam mà đây còn là tác phẩm góp phần đưa nền văn học Việt Nam đến với độc giả trên thế giới. Truyện Kiều là tác phẩm thơ Nôm viết về nhân vật Thúy Kiều, một con người “tài sắc vẹn toàn”, một con người tài hoa xuất chúng, nhưng càng tài hoa bao nhiêu thì cuộc đời của cô gái này càng bất hạnh, thăng trầm bấy nhiêu. Vốn là một tiểu thư đài các sang trọng, cao quý nhưng những biến cố bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều đã vô tình đẩy nàng vào biến cố lớn nhất của cuộc đời mình. Đoạn trích đánh dấu chuyển biến của cuộc đời Thúy Kiều từ một tiểu thư cao quý sang cuộc sống đầy cay đắng của một cô gái lầu xanh, đó chính là đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.

Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha và cả gia đình. Qua cuộc ngã giá mua bán ấy ta thấy được tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều cũng như lột trần bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh, lên án thế lực đồng tiền đã chèn ép, bức con người vào bước đường cùng của sự đau khổ. Mở đầu bài thơ là không gian của cuộc mua bán, đó chính là hình ảnh của mụ mối khi dắt vào một người khách xa lạ, người sẽ mua Kiều:

“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên rằng Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng Huyện Lâm Thanh cũng gần”

“Mụ nào” ở đây ta có thể hiểu là bà mối, trước yêu cầu Thúy Kiều thì bà mối này đã dắt đến một người khách lạ “Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”, hỏi ra thì hắn tên là Mã Giám Sinh, cái tên này thể hiện hắn ta là một người có học, mà cụ thể hơn là một nho sinh của trường Quốc Tử Giám, người ở Lâm Thanh. Nghe lời giới thiệu đầy nhiệt tình, tha thiết của mụ mối thì Mã Giám Sinh có vẻ là một người đàng hoàng, có gốc gác lại còn là một nho sinh có học, nhưng không để cho người đọc tò mò lâu, ngay những câu thơ sau đó thì Nguyễn Du đã cho người đọc biết trọn vẹn về bản chất của con người ngỡ như là tử tế, có học này:

“Quá niên trạc tuổi tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang”.

Khác với cái tên đầy thư sinh, gốc gác rõ ràng để chứng minh là người tử tế thì những mô tả ngoại hình lại mang đến một cảm giác trái ngược hẳn, đó là một người đàn ông đã “trạc tuổi tứ tuần” có nghĩa là đã hơn bốn mươi tuổi, hơn thế nữa “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Trong xã hội phong kiến xưa thì tứ tuần có thể xem là người trung niên, với một độ tuổi như vậy mà vẫn còn là một nho sinh trường Quốc Tử Giám thật khiến cho người khác có cảm giác khó tin, hơn nữa sự chải chuốt quá đà ở diện mạo, trang phục lại gợi ra hình ảnh của một con người có phần lố lăng, kệch cỡm, vì dù đã nhiều tuổi nhưng vẫn cố tỏ ra rằng mình còn trẻ. Chỉ xét ngoại hình thôi cũng thể hiện được sự giả tạo đáng coi thường ở nhân vật này.

“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”.

Quả nhiên như ta dự đoán, không chỉ có diện mạo trơ trẽn, lố lăng mà ngay cả hành động cũng thể hiện sự vô học, vô giáo dục, khác hẳn với cái mác thư sinh mà hắn ta giới thiệu “Chỗ trên ngồi tót sỗ sàng”. “Chỗ trên” ở đây là để dành cho những người trên ngồi, tức những bậc sinh thành, những bậc tiền bối, nhưng ở đây Mã Giám Sinh đã không hề biết đến phép tắc cơ bản ấy, hoặc cũng có thể biết nhưng vẫn cố tình ngồi, vì hắn ta vẫn đang tự cho mình là người có thế chủ động, bởi hắn ta sẽ bỏ tiền ra để mua Kiều. Hắn tự cho mình cái quyền được lộng hành, thể hiện một cách vô giáo dục như vậy. Không chỉ chủ là Mã Giám Sinh mà những tên đầy tớ của hắn ta cũng tỏ rõ là những người đi thuê, đi mượn, bởi nếu đúng là đầy tớ của hắn thì sẽ không có cái cảnh lao xao, lộn xộn như thế “Trước thầy sau tớ lao xao”. Trái với sự ngỗ ngược, hống hách của chủ tớ Mã Giám Sinh thì nàng Kiều lại vô cùng đau khổ.

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà”, lúc này đây Thúy Kiều đang mang nặng những tâm trạng, suy tư cùng với sự đau khổ bởi nàng biết rồi sau đó nàng sẽ phải trải qua những đắng cay, đau khổ vì cuộc hôn nhân được mua bằng tiền mà không hề có tình yêu này. Lúc này nàng vừa buồn, vừa tủi cho mình nhưng cũng lại chồng chất thêm nỗi lo lắng cho bố mẹ và các em. “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng” những bước chân của nàng giờ đây mới thật đau đớn, nặng nề làm sao, bởi trên đôi vai nàng nặng trĩu những đau khổ cũng như những trách nhiệm lớn lao mà bổn phận của một người con phải làm, những giọt nước mắt của nàng rơi xuống làm cho người đọc cảm thấy xót xa, thương cảm.

“Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”.

Trước tương lai đầy bất định, Thúy Kiều dường như đã có những dự cảm về cuộc đời mình, những dự cảm ấy làm cho Kiều cảm thấy lo sợ, ngại ngùng, bởi đó sẽ là những ngày tháng đầy đau khổ “Ngại ngùng dợn gió e sương”, đây cũng là tâm trạng tất yếu của con người khi đứng trước những sóng đó, những dự cảm không lành. Nét buồn bã, đau khổ không thể kiềm nén mà thể hiện ra hết trên gương mặt của nàng Kiều “Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”. Trước dự đau khổ, u uất của nàng thì mụ mối vẫn đang rất chuyên tâm, nhiệt tình với công việc của mình “mối càng vén tóc bắt tay”, gương mặt buồn bã của nàng Kiều được Nguyễn Du so sánh với nét buồn của cúc và sự mỏng manh, yếu gầy như những cánh mai “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”.

“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”.

Đến câu thơ này, hình ảnh của Thúy Kiều hiện lên thật đáng thương, bởi họ coi nàng như một món hàng dùng để trao đổi, buộc nàng phải trổ tài đánh đàn, làm thơ “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”, khi đã rất hài lòng với người mà mình sẽ mua thì Mã Giám Sinh và mụ mối bắt đầu cuộc ngã giá của mình “Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”. Một con người tài sắc như vậy, tài năng trời phú ấy không phải thể hiện ở một dịp nào khác hơn mà dùng để làm vừa lòng người mua mình, sự tình ấy thật xót xa làm sao, đau đớn làm sao.

“Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
Mối rằng đáng giá ngàn vàng
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài”.

Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng giữa mụ mối và tên buôn Mã Giám Sinh đã diễn ra. Đến đây, Mã Giám Sinh thể hiện rõ bản chất của một con buôn nhưng đầu tiên hắn ta vẫn cố khoác lên mình cái vẻ trí thức đầy giả tạo “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng cũng chỉ ngay sau đó thôi thì bản chất con buôn cũng được thể hiện ra rõ mồn một, với sự sành sỏi vốn có, hắn ta đã cò kè “bớt một thêm hai”, và cuối cùng thì sự lọc lõi ấy đã mang lại cho hắn ta một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống còn “ngoài bốn trăm”.

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua kiều là một đoạn trích vạch trần đến tận cùng của cái xã hội “ăn thịt người”, khi con người bị mang ra mua bán như một thứ hàng hóa ở chợ. Đoạn trích này cũng thể hiện được bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh cũng như tâm trạng đầy đau khổ, bế tắc của nàng Kiều trước bước ngoặt của cuộc đời mình.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều- Mẫu 23

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu cho thời gian mười lăm năm lưu lạc của Thuý Kiều. Trước tai hoạ ập xuống gia đình, Kiều phải bán mình cứu cha và em, nàng đã bị rơi vào tay bọn buôn thịt bán người. Đoạn trích gồm 34 câu thơ miêu tả sống động bức chân dung nhân vật họ Mã và tâm trạng đau đớn ê chề của Thuý Kiều. Những câu thơ nói về ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại đã khắc hoạ rõ nét tính cách nhân vật Mã Giám Sinh.

Hai câu thơ mở đầu giới thiệu về Mã Giám Sinh là “viễn khách” “đến hỏi vợ”. Cách giới thiệu về nhân vật có vẻ trang trọng:

Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Hai câu thơ tiếp theo nói rõ lí lịch của “người viễn khách”. Nhân vật tự xưng danh là học trò trường Quốc Tử Giám (họ Mã), quê ở “huyện Lâm Thanh”. Song cách xưng tên tuổi, quê quán thì rất cộc lốc.

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”.

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Hai câu thơ “hỏi – đáp” này có một sự bất thường. Rõ ràng nhân vật đến với tư cách đi hỏi vợ, lẽ ra lời nói phải tế nhị và lịch thiệp với họ nhà gái. Nhưng ở đây lời nói lại thiếu lễ độ, không có thưa, có gửi.

Ta còn thấy trong lòi nói của nhân vật có một sự mâu thuẫn. Nếu lúc đầu, nhân vật tự xưng là “viễn khách” (khách ở xa) thì khi hỏi về quê quán lại nói “huyện Lâm Thanh cũng gần”. Đọc đến đây, người ta không thể không nghi ngờ về sự chân thực của chàng họ Mã. Phải chăng, còn có điều gì muốn che giấu nên trong lòi nói của y có sự quanh co, mập mờ? Bốn câu thơ tiếp theo miêu tả cụ thể ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ của nhân vật. Và con người Mã Giám Sinh dần dần được bộc lộ qua tuổi “ngoại tứ tuần” (ngoài 40), qua diện mạo “mày râu nhẵn nhụi” và qua trang phục “áo quần bảnh bao”. Người xưa thường nói: “Trông mặt mà bắt hình dong”.

Dáng vẻ bề ngoài của nhân vật rất chải chuốt. Những từ láy: “nhẵn nhụi”, “bảnh bao” có nhiều sức gợi hơn tả, tô đậm sự chải chuốt cầu kì về hình thức của nhân vật. Ta đều biết, kẻ sĩ thời xưa thường nho nhã trong cả trang phục và lời ăn tiếng nói. Nếu nói Mã Giám Sinh là một kẻ sĩ thì có vẻ không phù hợp cho lắm. Đặc biệt Mã Giám Sinh đã ở độ tuổi ngoài bốn mươi mà vẫn “nhẵn nhụi”, “bảnh bao” đậm vẻ trai lơ thì thật lố bịch. Tám câu thơ đầu giối thiệu về quê quán, tên tuổi nhân vật đều có vẻ bất thường, mập mờ. Ngôn ngữ cộc lốc, ngoại hình quá ư chải chuốt càng làm tăng sự hoài nghi về tư cách của kẻ tự xưng là học sinh trường Quốc tử giám.

Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…

Ở đây có một sự lộn xộn, nhốn nháo, không có sự phân biệt trên dưới, cũng chẳng có nền nếp phép tắc gì của đám “thầy – tớ” lao xao, gây nhiều phản cảm về anh chàng họ Mã. Những từ “tót”, ngồi vào “ghế trên” cho thấy hành động thiếu văn hóa, vô giáo dục, lỗ màng của nhân vật. Hoàn toàn không ý thức được rằng bản chất vô học của mình đã bộc lộ rõ, Mã Giám Sinh vẫn buông những từ mĩ miều, ra vẻ ta đây hào hoa phong nhã, biết ăn nói lễ nghi, trang trọng:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”.

Mã Giám Sinh tỏ ra hào phóng khi nói đến “sính nghi”, thực chất hắn chỉ là kẻ bần tiện và bủn xỉn “cò kè” lúc “bớt một”, lúc “thêm hai”. Khi hắn “ưa” rồi mới bắt đầu “tuỳ cơ dặt dìu” trả giá. Tuy hắn cao giọng là “mua ngọc” nhưng lại “cò kè” mặc cả đến “giờ lâu” mới “ngã giá”.

Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Bản chất con buồn ngày càng lộ rõ với một từ “ngã giá” chỉ cho ta thấy “quyết tâm” kết thúc vụ mua bán của Mã Giám Sinh với một mức giá cuối cùng mà hắn có thể trả.

Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là một tay buôn người lọc lõi, ép giá chặt trước hoàn cảnh khó khăn, sa cơ của gia đình Kiều. Mã Giám Sinh thật đúng là một kẻ bất lương, gian xảo. Trong Truyện Kiều, ngòi bút miêu tả nhân vật của Nguyễn Du thật độc đáo. Khi nói về nhân vật chính diện: Thuý Vân, Thuý Kiều, Kim Trọng, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng để làm nổi bật vẻ đẹp và tính cách của nhân vật.

Nhưng khi tác giả vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ phản diện thì tác giả lại sử dụng tài tình ngôn ngữ dân gian, khẩu ngữ. Những từ “nhẵn nhụi”, “bảnh bao”, “tót”, “sỗ sàng”, “cò kè” đã nêu bật được bản chất con buôn của tên họ Mã, thể hiện nghệ thuật dùng ngôn từ tinh vi cũng đại thi hào Nguyễn Du.

Trên đây là nội dung bài học Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều (23 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (10 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button