Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 18 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Dàn ý Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính chi tiết
I. Mở bài cảm nhận Bài thơ tiểu đội xe không kính:
Bạn đang xem: Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính (18 mẫu)
- Giới thiệu sơ lược về tác giả Phạm Tiến Duật: Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) là nhà thơ lớn, có nhiều sáng tác, trưởng thành trong đội ngũ các nhà thơ thời kháng chiến chống Mĩ.
- Giới thiệu khái quát về đối tượng cảm nhận văn học: Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mĩ, ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
II. Thân bài cảm nhận Bài thơ tiểu đội xe không kính:
a. Khái quát hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
- Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc.
- Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn trong đó có những đoàn xe vận tải vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù để ra trận.
- Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc hoạ thành công chân dung người chiến sĩ lái xe.
b. Cảm nhận về hình ảnh những chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
-Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trần trụi, chân thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
- Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết.
- Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
- Hai câu thơ đã giải thích nguyên nhân những chiếc xe lại không có kính, qua đó phản ánh mức độ khốc liệt của chiến tranh.
b. Cảm nhận về hình ảnh người lính lái xe trong Bài thơ tiểu đội xe không kính:
-Tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
- Tính từ ung dung nhấn mạnh tư thế chủ động, coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe.
- Điệp từ “nhìn”: khí phách kiên cường, như thách đố với khó khăn.
-Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn:
- Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười, mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn, thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”.
- Những khó khăn gian khổ như tăng lên gấp bội vì xe không có kính nhưng không làm giảm ý chí và quyết tâm của các chiến sĩ lái xe.
- Điệp từ “ừ thì”: như một cái tặc lưỡi, chép miệng đồng thuận, coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ.
- Thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin có chút bướng bỉnh, ngang ngạnh; hình ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể.
-Tình đồng đội thắm thiết, thiêng liêng là sợi dây vô hình nối kết mọi người trong hoàn cảnh hiểm nguy, kề cận cái chết:
- Tiểu đội xe là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau.
- Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng.
- Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của nhau.
-Niềm tin vào chiến thắng:
- Điệp từ “lại đi”, lí do “vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
- Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, vào tự do.
- Hình ảnh “trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe trên đường ra tiền tuyến lớn.
- Tất cả cùng chung lí tưởng chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và tin tưởng vào tương lai tươi sáng đang tới rất gần.
c. Đánh giá đặc sắc nghệ thuật:
- Kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ
- Sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, hoán dụ…
- Sáng tạo được những hình ảnh độc đáo có chất liệu hiện thực sinh động
- Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
III. Kết bài cảm nhận Bài thơ tiểu đội xe không kính::
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Liên hệ việc giáo dục phát huy tinh thần chiến đấu cho thế hệ trẻ hiện nay.
18 mẫu Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 1
Ôi chiếc xe đồng chí
Cùng ta lăn sớm chiều
Cùng ta đi đánh Mĩ.”
(“Bài ca lái xe đêm” – Tố Hữu)
Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đoàn lái xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Đọc bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc, đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.
Nguồn cảm hứng của nhà thơ bắt nguồn từ hiện thực”chiếc xe không có kính” và càng bất ngờ hơn, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn là là không chỉ có một chiếc xe thôi đâu mà là cả một “ tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh trong câu thơ đầu tiên, một lời giới thiệu khá độc đáo, thân thương:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”.
Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống như lời nói của người chiến sĩ giới thiệu chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường, không có gì đáng nói. Chi tiết tả thực không có kính mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ, có sức khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó có tính chất phủ định thì ở vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh”không phải vì xe không có kính”. À! Thì ra trước kia vẫn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đó chứ đâu phải xe mới ra đời là đã không có kính. Vậy tại sao lại có sự không bình thường ấy chứ? Vì sao cả một”tiểu đội xe không kính”? Nhà thơ bước vào tư thế, vị trí kiên cường của người chiến sĩ lái xe để trả lời:
“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Thì ra cái lí do, cái nguyên nhân là vì chiến tranh mà ra cả. Chiến tranh phá hoại chiếc xe, làm cho chiếc xe tàn tạ, trở thành chiếc xe không mui, không đèn, không thể không xước đi, yếu dần. Điệp từ “bom” kết hợp với các động từ “giật”,”rung”đã tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và tố cáo bản chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc.”Mưa bom bão đạn” của chúng dội xuống Trường Sơn thật là dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom trúng vào chiến sĩ, trúng vào chiếc xe khiến cho chiếc xe bị trầy, khiến cho chiếc xe”kính vỡ đi rồi”. Lời thơ vẫn nhẹ nhàng thể hiện sự bình thản của người cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe: ”Ung dung buồng lái ta ngồi”
Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ như đang diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ ấy xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng và từ chiếc xe không kính, người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài”Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Câu thơ viết theo nhịp 2/2/2 thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cách quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất”để thêm gắn bó, yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc để dẫn đưa chiếc xe đến chỗ, nơi an toàn, mau mau đến đích. Anh ”nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bỗng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh”nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ, khó khăn. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.
Chiếc xe của anh không còn bộ phận nào để che chắn nên giờ nay người chiến sĩ đã tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài khi chiếc xe lao đi, lao đi mà không ngoảnh lại:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”
Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm thấy cơn gió vào “xoa mắt đắng” mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Để làm giảm bớt vị đắng, sự khó chịu nơi con mắt bởi những ngày đêm thức trắng để lái xe không nghỉ ngơi, anh đã cho chị gió xoa mắt đắng, xoa nó đi để rồi ngày mai anh đi tiếp, đi tiếp về tương lai.
Cảm giác ấy càng phát triển mạnh mẽ khi anh “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Sự liên tưởng ấy thật đẹp và thật độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường lúc ấy như chạy ngược về phía trước. Sự tin tưởng phù hợp với tấm lòng của người lái, đó là tấm lòng nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người chiến sĩ luôn luôn dạt dào tình yêu Tổ Quốc, quê hương mà đặc biệt là con đường thân thuộc, gần gũi, con đường hứng chịu bao bom đạn máu lửa. Chiếc xe vẫn cứ lao nhanh, lao xa đi mãi, tiến lên phía trước vì người lính biết rõ mục đích, lí tưởng công việc cao cả của mình là cống hiến, hoạt động vì ai, để làm gì?
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Cuộc chiến ấy thật hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ luôn lãng mạn, bay bỗng khi anh quan sát từ chiếc xe không kính để thấy”sao trời, cánh chim”. Có lẽ, tâm hồn anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm nhận”…như sa, như ùa vào buồng lái.”. Nếu điệp ngữ ”nhìn thấy” diễn tả thái độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ, “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật là tinh tế! Một ánh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, quan tâm và xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Như một bài ca đã từng viết:
“Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.”
Đối với người chiến sĩ lái xe, chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác khi lao đi trên đời vắng. Nhưng đó cũng là nguyên nhân gây ra hậu quả:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.”
Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”. Mất đi bộ phận chắn che, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp từ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi:bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, cả đất trời trong mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá Đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây, nó vội vã như người lính:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.”
Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc tai, đầy khuôn người lính biến thành hình tượng ngộ nghĩnh, đáng yêu qua cách so sánh của nhà thơ “tóc trắng như người già”. Phải chăng đây chính là “những con quỷ mắt đen” như Lê Minh Khuê đã diễn tả về các cô thanh niên xung phong trên cao điểm Trường Sơn? Anh chiến sĩ đôi mươi kia, trẻ trung, sôi động giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám lên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả lại sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để tự động viên mình bằng cách khôi hài nữa ấy chứ.
“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn “mưa bụi nhiệm màu” thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khó. Gian khổ này dường như không thể ngăn cản ý chí, quyết tâm của anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.
Và thêm một chặng đường là thêm hàng triệu khó khăn chồng chất. Đoàn xe phải gặp những trận mưa rừng, gặp gió bụi Trường Sơn. Thật là khủng khiếp bởi lẽ:
“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như rõ mình.”
Khi xe không có mui xe che chắn thì thực tế sẽ ra sao? Những hạt mưa rừng như những nhát chổi quất vào mặt người lính, khó khăn biết bao cho cuộc lái xe! Thế là người lính nếm đủ mùi gian khổ mà thái độ thì vẫn ngang tàng, phơi phới, lạc quan:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Với cấu trúc được lặp lại “không có kính”,”ừ thì”và ngôn ngữ bình dị, giọng điệu ngang tàng lại một lần nữa thể hiện thái độ bất chấp của người lính. Chiếc xe không kính ấy đi vào mùa nào, thời tiết nào cũng đều gian khổ cả. Điệp ngữ “mưa” kết hợp với những từ gợi tả thật đẹp “tuôn, xối” gợi lên những cơn mưa thật dữ dội, khiến người lính lái xe bị “ướt áo”. Thái độ của người lính của người lính được thể hiện dứt khoát “chưa cần thay “. Họ mặc kệ cái ướt át, lạnh giá để tiếp tục nhiệm vụ “lái trăm cây số nữa”.Lời nói thật giản dị, đơn sơ nhưng thể hiện quyết tâm lớn của người chiến sĩ: xe phải đến tới đích , ý thức trách nhiệm, đóng góp cho cuộc chiến của họ thật đẹp, thật đáng quý biết bao! Họ lái xe cho đến khi “mưa ngừng” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, bình dị: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Rõ rằng người lính đã quên mình vì nhiệm vụ và với ý thức tự nguyện đây. Tâm hồn của người chiến sĩ sôi nổi, yêu đời da diết. Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.”
Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đoàn kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trận chiến ác liệt, căng thẳng: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới / Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hoàn thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hẳn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ cười hoàn toàn “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương. Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, thân ái. Từ “họp, gặp” diễn tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ. Tình đồng chí,đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con đường thân yêu ấy làm nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Họ dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau những giờ phút căng thẳng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh làm sao: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành khi “chung bát đũa”. Nhưng chỉ trong một thoáng chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục hành quân: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế
khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống. Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm rõ những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là kính, la đèn, là mui xe, còn cái “có” lại là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn? Tất cả là bởi một mục đích, một lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe,sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Thì ra “trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở câu cuối đã lí giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tưởng sâu sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ. Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời kì gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:
“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối vơi cơm miệng vẫn cười.”
(Tố Hữu)
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 2
Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời.
Không như các nhà thơ khác, Phạm Tiến Duật đã thể hiện tính cách khác người của mình ngay ở hai câu thơ mở đầu. Không mĩ lệ hoá, không dùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ để so sánh, không trau chuốt, không bóng bẩy, hình ảnh chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật rất trần trụi, bình dị, không nguyên vẹn:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Đơn giản là vì “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” nên xe không còn nguyên vẹn nữa. Thế nhưng, chiếc xe không kính ấy vẫn băng băng ra chiến trường.
Chiếc xe đầy tự tin, không hề lo sợ trước bom đạn khủng khiếp của giặc Mĩ. Khác với những gì trần trụi bên ngoài, đây là một chiếc xe dũng cảm, hiên ngang. Xe vẫn băng ra tiền tuyến trên những đoạn đường đầy hiểm nguy. Có khác chăng đó là hình tượng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Vì xe không có kính nên các anh được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Gió, sao trời, cánh chim, và cả bầu trời rộng cũng ùa vào buồng lái, hoà cùng nhịp thở nhộn nhịp của các anh:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Không có một sự ràng buộc hay rào cản nào ngăn cách các anh tiếp xúc với đất trời. Mà cả thiên nhiên cũng muốn hoà mình với khí thế ấy. Chính vì thế mà các anh có thể nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng một cách rất thoải mái, tự nhiên.
Không có kính thì điều kiện chiến đấu cũng thiếu thốn nhưng các anh vẫn yêu đời, vẫn tự tin vào chiến thắng. Các anh xem mọi trở ngại chỉ là dịp để thử thách bản thân:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp cấu trúc “không có kính… ừ thì” chưa cần thể hiện tính cách ngàng tàng, bất chấp tất cả khó khăn. Không có kính chắn bụi thì đương nhiên phải có bụi bám lên tóc, nhưng các anh vẫn không lo, cứ để vậy mà nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha. Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi! Dù có thiếu thốn, cực khổ đến đâu, các anh vẫn yêu thương, chia sẻ cho nhau tình yêu thương:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Dường như trong chiến đấu gian khổ giúp chiến sĩ tôi rèn ý chí và giúp cho tình đồng đội của các anh thêm gắn bó, keo sơn. Dù vào sinh ra tử nhưng người lính vẫn hồn nhiên, vô tư và lạc quan tin tưởng. Chỉ một cái bắt tay qua khung kính vỡ rồi những cũng đủ gieo vào nhau những tình cảm tốt đẹp, các anh động viên nhau tiến bước quân hành. Tình cảm ấy đã làm các anh cảm thấy đầm ấm khi cùng chung tiểu đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tiểu đội của các anh như một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Ở đó có vẻ đẹp của sự sum họp, chan hoà. Các anh có chung một điểm tựa, tâm hồn nên gia đình ở chiến trường của các anh đều cùng chung một nhiệm vụ thiêng liêng. Các anh luôn tin tưởng vào tương lai đang chờ đợi phía trước. Câu thơ lại đi, lại đi trời xanh thêm với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi đã tạo nên một âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng.
Điều làm nên sự chiến thắng của các anh chính là lòng yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cản trong xe có một trái tim.
Ở các anh có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn… Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về phía trước, nơi miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.
Với chất liệu hiện thực độc đáo, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh cao quí của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứa nước.
Qua bài thơ, ta càng thấy rõ phẩm chất của người lính Trường Sơn: mộc mạc, giản dị và vĩ đại. Chúng ta càng biết ơn các anh. Thế hệ trẻ Việt Nam nguyện tiếp bước các anh gìn giữ Tổ quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 3
Văn học kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ phát triển đến đỉnh cao với nhiều tác phẩm nổi bật. Chúng ta ấn tượng với vẻ đẹp nơi núi rừng “Việt Bắc” cùng Tố Hữu, mê say trước tình đồng chí đồng bào vô cùng lãng mạn tại “Đồng chí” của Chính Hữu. Đến với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật – gương mặt thơ trẻ trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước – lại khắc họa một hình tượng thơ hoàn toàn mới mẻ: những chiếc xe không kính. Đồng thời, bằng giọng thơ rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàn tinh nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc ông đã tái hiện được tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, bản lĩnh, vừa tếu táo vừa can trường.
Phạm Tiến Duật từng tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Năm 1964, ông gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn. Từ đó, ông vừa tham gia chiến đấu vừa sáng tác thơ văn với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong đó, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969 thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 được, in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” là bài thơ tiêu biểu nhất của ông.
Nhà thơ tái hiện hình ảnh những “chiếc xe không kính” một cách trần trụi, chân thực:
“Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung, kính vỡ đi rồi”
Đây là những chiếc xe vận chuyển lương thực, đạn dược vào chiến trường miền Nam, đang chạy dọc theo tuyến đường Trường Sơn lịch sử. Nguyên nhân của việc chúng “không có kính” là bởi hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mưa bom bão đạn. Động từ mạnh “giật”, “rung” cùng từ “bom” được nhắc lại hai lần như càng nhấn mạnh sự tàn khốc trên chiến trường.
Bên cạnh hình tượng những chiếc xe không kính vô cùng độc đáo đó chính là vẻ đẹp của người lính cụ Hồ. Dẫu có bom đạn dội ngày dội đêm, biến những chiếc xe thành không kính, người lính lái xe vẫn ung dung, hiên ngang, tự tại vô cùng:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Không sợ hãi trước cái chết, không nao núng trước khó khăn mà chiến tranh mang lại, người chiến sỹ vẫn “ung dung” tiến về phía trước. Từ ung dung đặt đầu câu như càng khẳng định tư thế ngoan cường, làm chủ những chiếc xe, coi thường mọi khó khăn trước mắt đó. Một ánh nhìn đầy quyết tâm “nhìn thẳng” thể hiện một ánh nhìn chính trực, nhưng cũng đầy quyết tâm, vượt qua mọi vất vả, thiếu thốn về vật chất.
Không chỉ can trường, không sợ chết, khi đứng trước muôn vàn điều hiểm nguy với chiếc xe không kính, điều kiện thực tế khó khăn, người lính vẫn kiên cường, lạc quan:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Đang ngồi trong xe mà tựa hồ như ở ngoài trời, mắt cay đắng vì những luồng gió trực tiếp lùa vào, bốn bề đều rộng lớn, thấy cả sao trời, cả cánh chim đang bay cũng sà vào buồng lái. Hiện thực khốc liệt và nhiều hiểm nguy như thế nhưng người lính đã quá quen thuộc rồi, chẳng bận tâm đến nữa. Giờ đây không gì có thể khiến họ nao núng, dù chỉ là cái chết ngay trước mắt, bởi con đường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đang ở ngay phía trước, trở thành cầu nối với con tim, như tăng thêm quyết tâm.
Không chỉ không bận tâm đến những khó khăn, các anh lính lái xe còn tự mình tập làm quen với điều kiện thực tế nhiều thiếu thốn. Tinh thần luôn lạc quan, yêu đời, coi nhẹ vấn đề thì tâm hồn cũng thư thái, vui vẻ hơn:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.”
Muôn vàn gian khổ đang chào đón họ trên mỗi tuyến đường, là “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” làm “ướt hết cả áo”. Dù như thế, người lính can trường luôn tự giữ tinh thần dí dỏm, lạc quan, vui vẻ, đặc biệt không bận tâm gì mấy đến những điều đó. Giọng nói ngang tàng, mạnh mẽ như thách thức cả hiện thực còn nhiều thiếu thốn về vật chất “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.
Nhưng họ rất “ngông”, đúng cái chất của người lính lái xe, kệ mặc cho ướt áo, bụi mù vẫn kiên cường “chưa cần thay”, “chưa cần rửa”. Bởi họ đã làm quen với những điều này rồi. Kệ cho lấm lem mặt mũi, tư thế vụng về, đáng yêu, châm một điếu thuốc phì phèo rồi cười ha ha vô cùng hào sảng, áo ướt thì cứ mặc kệ, tiến lên phía trước vài trăm cây số là khô lại ngay. Như vậy, thiên nhiên khắc nghiệt, chiến tranh tàn khốc cũng không thể làm nhụt chí chiến đấu của người lính, ngược lại khiến họ thêm phần bản lĩnh, rắn rỏi hơn bao giờ hết.
Cũng nhờ những chiếc xe không kính đặc biệt, tình đồng chí đồng đội được tăng thêm mấy phần:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Từ mưa bom, bão đạn, khắp trên mọi ngả đường, những chiếc xe không kính đã về nơi hội tụ, họp thành một tiểu đội, kể nhau nghe những câu chuyện mà mình đã trải qua. Dù ở bất cứ đâu, ai cũng là bạn bè, đồng chí với nhau. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của những người lính. Đồng thời thể hiện được tinh thần đoàn kết, cùng nhau vượt qua những ngày lầm lũi của chiến tranh, kiên cường, giúp đỡ nhau tiến về phía ánh sáng của toàn dân ta.
Cùng tham gia chiến trận, cùng mục tiêu, ý chí như nhau, họ không chỉ là đồng đội đơn thuần mà đã là gia đình của nhau, tựa như máu mủ, ruột thịt. Hình ảnh chiếc bếp Hoàng Cầm, nấu không khói nhằm tránh kẻ địch phát giác, càng giúp cho độc giả tái hiện chân thực hơn cuộc sống của người lính cụ Hồ thời bấy giờ.
Khổ thơ cuối thể hiện ý chí chiến đấu mạnh mẽ, quyết tâm tiến về miền Nam, thống nhất đất nước. Nhờ có những tình cảm đơn thuần, chân thành đó với nhau, sự tàn khốc của chiến tranh đã không còn rõ nét nữa:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom vẫn rơi, đạn vẫn nổ, đoàn xe thì vẫn đi. Điệp từ “lại đi”, ngắt nhịp 2/2/4 như hừng hực lời hô hào quyết tâm của họ. Dẫu rằng mỗi chiếc xe sẽ ngày càng nhiều mất mát không kính, không đen, không mui, thùng xe bị trước. Từ “không” được nhắc lại ba lần như muốn nhắc nhở về sự khốc liệt của chiến trận, tuy nhiên sự khốc liệt giờ đây đã hóa chất thơ hơn. Bởi lẽ, không gì có thể ngăn cản tiếng gọi tha thiết của đồng bào, của quê hương, đất nước, tiếng gọi của trái tim. Tình yêu nước đã trở thành sợi dây thôi thúc người lính can trường, bản lĩnh trên mỗi chuyến xe. Họ tin về một tương lai tương đẹp của đất nước, vì trời chắc chắn sẽ “xanh thêm”.
Bằng chất liệu thơ hiện thực sinh động, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, biện pháp tu từ “điệp từ” nhấn mạnh ý chí chiến đấu và nhịp thơ linh hoạt, mạnh mẽ, Phạm Tiến Duật đã thành công trong ghi nhận lại những cảm thức khách quan về trận chiến đấu vô cùng tàn khốc, cùng hình tượng người lính lái xe tuyệt đẹp. Bài thơ đã dần trở thành câu hát chung cho những người lính, cổ vũ họ về mặt tinh thần, chỉ cần Tổ quốc gọi tên, muôn vàn khó khăn đều không thể sánh bằng độc lập, tự do được.
Kết bài mẫu cảm nhận bài thơ về Tiểu đội xe không kính
“Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loại sên!”
Chiến tranh đem lại cho chúng ta nhiều bi thương, khổ cực và ở đó có những con người dũng cảm, kiên cường. Khó khăn, bất hạnh cũng không làm người ta nhụt chí. Bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Luật nói riêng và thơ kháng chiến chống Mỹ nói chung không chỉ là nguồn cổ vũ tinh thần cho đồng bào, đồng đội mà còn là lời nhắc nhở cho đoàn viên, thanh niên Việt Nam phải biết trân trọng những thành quả mà ông cha ta hy sinh bảo vệ. Bên cạnh đó phải luôn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
Cảm nhận về Bài thơ về tiểu đội xe không kính tựa như đang cảm nhận không khí hào hùng một thời, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đồng thời, các bạn cũng nên nhìn nhận về trách nhiệm, và lý tưởng sống của mình, dù gian nan, vất vả đến đâu cũng vui vẻ, lạc quan, tiến lên phía trước.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 4
Phạm Tiến Duật là một trong những cái tên quen thuộc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mỹ, nếu hình tượng người lính trong thơ Chính Hữu mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của anh lính nông dân, trong thơ Quang Dũng mang nét hào hoa, đa tình, lãng mạn của những chàng trai đất hà thành thì người lính trong thơ Phạm Tiến Duật mang vẻ đẹp của sức trẻ, tinh nghịch, hóm hỉnh lạc quan yêu đời. Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã thể hiện rất rõ điều đó.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Mở đầu đoạn thơ, điệp từ không lặp lại 3 lần nhưng mỗi lần đều mang những sắc thái khác nhau, song điều khiến người đọc ngậm ngùi ở đây là hiện thực chiến đấu gian khổ, khắc nghiệt của người lính. Bom giật bom rung, phá vỡ đi cả lớp áo bảo vệ mỏng manh nhất là tấm kính xe, còn gì khắc nghiệt và dữ dội hơn cuộc sống chiến đấu của những người lính ấy. Thế nhưng đối lập với hiện thực khó khăn, gian khổ, là tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tự tin, bản lĩnh của những người lính trẻ ấy. Điệp từ “nhìn” lặp lại nhiều lần, như thể hiện sự tự tin và tâm thế vững vàng trước tay lái của người chiến sĩ, đạn bom nơi chiến trường, cái chết và những khoảnh khắc ngắn ngủi được kề vai sát cánh bên nhau đã giúp họ thêm động lực, sức mạnh gấp vạn lần. Tiếng hát át tiếng bom, tiếng lòng yêu nước của họ phá tan cả âm thanh đáng sợ của tiếng súng.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Chặng đường hành quân gian nan là thế, nhưng tâm hồn họ vẫn đong đầy niềm vui trên cung đường hành quân, thế giới bao la, tươi đẹp như đang ùa vào tâm hồn họ, khiến cho những nỗi khó khăn phần nào vơi đi, chỉ còn lại niềm yêu đời, lạc quan vui sống.
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Thay vì gục ngã chán nản trước những gian khổ khi chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, khó khăn, những người lính lại đem sự hài hước tinh nghịch, lạc quan để đồng hành cùng nhau, cùng trải qua những cung đường nguy hiểm, nhưng quan trọng là tinh thần bất khuất lạc quan rất đáng nể của họ. Chính vì thế nhịp thơ, nhanh, dồn dập, tươi vui như thể tiếng hát reo vang trong tâm hồn những người lính. Câu thơ như vút lên những nhịp đập vui tươi, hối hả, để cùng hăng say trên chặng đường nhọc nhằn phía trước. Để có thể cùng vượt qua khó khăn, không chỉ cần tinh thần lạc quan, mà còn cần tinh thần đồng đội, keo sơn gắn bó:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Cũng là cái bắt tay, cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cái bắt tay như trao truyền cho nhau thêm sức mạnh, thêm niềm tin để cùng đồng cam cộng khổ. Ta bỗng nhớ đến hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” trong Đồng chí của Chính Hữu nhưng nếu trong thơ Chính Hữu đó là cái bắt tay để trao cho nhau thêm hơi ấm giữa cái rét lạnh cắt da cắt thịt khắc nghiệt, thì trong thơ Phạm Tiến Duật là cái bắt tay để trao truyền sức mạnh, gắn kết niềm tin, đồng thời thể hiện sự tin tưởng giữa các đồng đội. Họ coi nhau như những người anh em ruột thịt trong gia đình, chỉ cần “chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy”, gia đình mới mộc mạc, giản dị mà cũng ấm cúng, nghẹn ngào làm sao. Họ đồng hành cùng nhau như gia đình, và chiến đấu vì tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, vì trái tim sáng mãi trong tim:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Dù bom giật bom rung đấy, dù cửa kính nát tan, thùng xe có xước, dù sự phá hủy khủng khiếp của chiến tranh, người người lính vẫn hối hả chở những đoàn xe chạy về phía trước, để tiếp viện cho miền Nam, vì miền Nam thân yêu, ruột thịt của chúng ta. Trái tim yêu nước nhiệt thành của họ chính là năng lượng tiếp lửa cho đoàn xe chạy về phía trước, trái tim người chiến sĩ bỗng trở nên sắt đá để chiến thắng tiếng đạn bom dữ dội ngoài cung đường hành quân.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã khắc họa hình tượng người lính mang nét đẹp trẻ trung, yêu đời, đó là nét đẹp rất riêng của người lính trong thơ Phạm Tiến Duật.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 5
Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta đã đi vào văn học, thơ ca một cách sinh động, hào hùng và đầy khí thế, trong đó nổi bật là hình ảnh của những người lính trẻ, những cô gái xung phong, những anh bộ đội cụ Hồ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật viết trong thời kì ấy không chỉ có tinh thần hiên ngang, bất khuất của những người chiến sĩ trẻ mà còn có hình ảnh của những chiếc xe không kính – minh chứng cho chiến tranh tàn khốc, cho sự anh dũng, ung dung trước khó khăn, gian khổ của người lính.
Đọc nhan đề bài thơ ta có thể thấy được dụng ý của tác giả, hai chữ “bài thơ” như một sự khẳng định, nhấn mạnh rằng đây không chỉ là một bài viết về tiểu đội xe không kính mà là một bài thơ thực sự, chất thơ ấy vừa là xoa dịu hiện thực chiến tranh khốc liệt vừa thể hiện được tinh thần lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ vút lên từ chính cuộc sống chiến đấu gian khổ. Những “chiếc xe không kính” được nhắc đến trong bài thơ là hình ảnh có thật, và chính tác giả cũng là người đã ngồi trên chiếc xe đó, nó là một sự thật trần trụi về chiến tranh khắc nghiệt và gian khổ trên tuyến đường Trường Sơn huyết mạch nối hậu phương với tiền tuyến.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Những chiếc xe vốn nguyên vẹn, lành lặn và đầy đủ nhưng vì sự khốc liệt của bom đạn chiến tranh mà chẳng còn kính, trở thành những chiếc xe không kính, thế nhưng những chiếc xe không kính cũng không chỉ là không có kính mà còn thiếu thốn vô số thứ
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Chiếc xe vận tải trên tuyến đường Trường Sơn đã phải hứng chịu bao trận mưa bom bão đạn khiến nó trở nên biến dạng, hỏng hóc và thiếu thốn đủ thứ, có thể trong chiến tranh, những chiếc xe không kính là không hiếm lạ gì, nhưng khi những chiếc xe đó được cảm nhận bằng tâm hồn thơ nhạy cảm của Phạm Tiến Duật nó đã trở nên thật mới mẻ, khác lạ và đặc biệt. Trái ngược với sự thiếu thốn của những chiếc xe không kính là sự tràn đầy nhiệt huyết của những người lính lái xe, ngồi lái chiếc xe không kính, không đèn, không mui nhưng tâm thế người lính không hề lo lắng, sợ hãi mà ngược lại còn “Ung dung nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Dường như đối với họ, việc chiếc xe mất đi cái kính lại trở thành một điều tốt giúp họ được cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thật nhất, gần gũi với thiên nhiên đất trời, không còn bất cứ khoảng cách hay sự ngăn cách nào:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng…
Như sa như ùa vào buồng lái”
Người lính không chỉ được cảm nhận những vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn được trải qua những cảm giác chân thật nhất khi ngồi trước buồng lái đó là “Bụi phun tóc trắng nha người già” hay “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”, quả thực chẳng có gì có thể gây trở ngại với ý chí của những người lính trẻ, họ luôn biết vượt lên nghịch cảnh, luôn vui vẻ lạc quan trong bất cứ trường hợp nào, bụi đã trắng đầu nhưng không cần rửa, vẫn ung dung châm điếu thuốc rồi “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, mưa đã ướt áo nhưng chẳng cần thay, thay làm gì vì còn lái cả trăm cây số nữa, đợi mưa ngừng, gió lùa rồi áo sẽ khô ngay. Có thể thấy người lính lái xe Trường Sơn thật hiên ngang, bất chấp mọi khó khăn, hiểm nguy, họ có một chút gì đó ngang tàng, tinh nghịch và rất sôi nổi:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội…
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Tình đồng chí đồng đội giữa những người lính thật cao đẹp, họ bắt tay nhau qua những cửa kính xe đã vỡ, họ cùng nhau nấu ăn giữa trời, rồi coi nhau như một gia đình, việc ăn ngủ đều diễn ra trên đường, điều đó không quan trọng với họ, bởi trong họ luôn thúc giục nhanh để đi, lại đi để được thấy bầu trời xanh, bầu trời của hòa bình và tự do. Tất cả những cái “không có” của chiếc xe đã không còn quan trọng, bởi cái cốt yếu để những chiếc xe có thể băng băng trên đường nằm ở trái tim, ý chí của người lính, ta cảm nhận được khí thế quyết tâm cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của những người lính nói riêng và toàn dân toàn quân nói chung.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Với chất liệu thơ mang hiện thực sinh động của cuộc sống nơi chiến trường cùng những từ ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, tinh nghịch và khỏe khoắn, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa hình ảnh độc đáo về những chiếc xe không kính, làm nổi bật lên hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn thời chống Mỹ vừa hiên ngang, lạc quan và dũng cảm, ý chí quyết tâm luôn hừng hực.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 6
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Câu thơ quen thuộc gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Hình ảnh những người trẻ tuổi từ biệt quê hương lên đường chiến đấu mãi mãi là biểu tượng đẹp của một dân tộc kiên cường, bất khuất. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Với Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật cũng đóng góp “một tiếng hát sôi nổi trẻ trung” trong bản trường ca hào hùng ấy.
Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến trường vào trong thơ một cách tự nhiên và chân thực. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Ở họ là phẩm chất anh hùng, gan dạ và hết sức trẻ trung. Tinh thần của họ hoàn toàn đối lập với hoàn cảnh và vượt lên trên hiện thực cuộc chiến ác liệt. Phẩm chất ấy được thể hiện ngay đầu bài thơ:
“Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Xưa nay làm thơ, người ta kỵ đưa những hình ảnh thô vụn vào trong thơ. Để “mĩ lệ hóa” phương tiện đi lại và vận chuyển người ta thường lấy hình ảnh của “cỗ xe tam mã” (Puskin), “con tàu” (Chế Lan Viên) hay “con thuyền” (Huy Cận), “cánh buồm” (Hoàng trung Thông),… chứ không ai lại vụng về như Phạm Tiến Duật, đưa cả chiếc xe tải hết sức trần trụi vào trong thơ. Ấy lại là chiếc “xe không có kính”, bị thương ở nhiều chỗ hết sức tàn tạ. Thế mà, hình ảnh chiếc xe lập tức trở thành linh hồn của câu thơ, gây được sự chú ý của người đọc.
Câu thơ như một lời giải thích hóm hỉnh, đầy tinh nghịch. Xe vốn có kính nhưng giờ nó không còn kính nữa là bởi do bom đạn kẻ thù tàn phá. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm: “Bom giật bom rung kính vỡ mất rồi”.
Chất thơ của câu thơ hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng việc giải thích ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh. Song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
Tiếp sau khung kính vỡ, hình ảnh người lính hiện lên ung dung, tự tại sau tay lái:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai nhằm nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Những người chiến sĩ ấy đang ngạo nghễ ngồi trên xe, tự tin, bình tĩnh, làm chủ tình hình. Khẩu khí của họ thật mạnh mẽ: “ta”, càng làm cho những người lính ấy thêm oai phong, lẫm liệt.
Điệp ngữ “nhìn” nhấn lại đến ba lần, rõ ràng những người chiến sĩ lái xe rất cảnh giác, đôi mắt lúc nào cũng hướng thẳng đến mục tiêu, đó chính là tư thế sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Họ “nhìn thẳng” vào hiện thực cuộc chiến khốc liệt, nhìn thẳng vào những mất mát, hi sinh và sẵn sàng tiến tới. Họ không hề run sợ khi phải chiến đấu trong điều kiện thiếu bảo đảm, không an toàn.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Cả một thế giới rộng lớn tràn ngập trong buồng lái:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Nhờ chiếc kính vỡ ấy mà họ đã cảm nhận được những cái mà trước đây dù ở rất gần họ không thể cảm nhận được. Họ thấy gió thổi cay đôi mắt, thấy con đường hiển hiện như chạy thẳng vào trong tim, thấy sao đêm sáng rực trên bầu trời và những cánh chim đột ngột lướt qua trước mặt. Tất cả cứ chực “như sa như ùa” vào buồng lái.
Tất cả được nhìn nhận một cách trìu mến thân thương chứ không phải là cản vật, là trở ngại có thể gây nguy hiểm cho người lính hay cản trở nhiệm vụ của họ. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Đường trường Sơn đâu chỉ có bụi mà ẩn chứa biết bao hiểm nguy, thách thức. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đó cũng là khí thế bao trùm của Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Cuộc sống có thể ngắn ngủi nhưng tình yêu tổ quốc là trường cửu. Bước vào trận chiến là họ đã sẵn sàng hi sinh thế nên những khó khăn, vất vả đối với họ chỉ là như cơn gió bụi thoảng qua, không hề khiến họ bận tâm.
Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời Họ chẳng những thân thiện chấp nhận những thiếu thốn về vật chất mà còn biết biến những khó khăn đó thành trò đùa vui thú. Cuộc đời quân ngũ gian khổ của họ tuy vật chất thiếu thốn nhưng tinh thần lúc nào cũng dâng đầy niềm lạc quan phơi phới, đó chính là lòng hăng hái và nhiệt tình của tuổi trẻ Việt Nam.
Những khó khăn cứ trùng trùng tiếp diễn. Nhưng càng khó khăn, người lính lại càng tỏa sáng:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”.
Ngồi trong xe mà “mưa tuôn mưa xối” chẳng khác gì ngoài trời, cơn mưa Trường Sơn có khác gì ngàn lưỡi dao nhọn cứa vào da thịt người chiến sĩ. Vậy mà vẫn cái giọng điệu ngang tàn, bất chấp, những người lính xem thử thách của thiên nhiên là con số không, họ cứ tiếp tục công việc của mình và chẳng một chút bận tâm tới:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
Sâu sắc hơn, bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính. Họ thuộc những tiểu đội vận tải khác nhau nhưng giờ gặp nhau trên tuyến đường này, cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, cùng không có kính, họp lại là làm thành một tiểu đội mới:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Cái “bắt tay” thật đặc biệt: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau nghị lực, làm tăng cường sức mạnh tinh thần, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng.
Câu thơ có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Thật hết sức đơn giản và hồn nhiên rất lính. Chỉ cần cùng “chung bát đũa”, cùng ăn với nhau một bữa cơm thân tình giữa chiến trường là chung một gia đình. Họ đã vượt qua cái cá nhân hướng về tổ quốc. Họ xem nhau như người thân và đề cao trách nhiệm của mình.
Một tình cảm gắn kết nảy nở hết sức tự nhiên và sâu đậm giữa những con người hoàn toàn xa lạ. Tình cảm thiêng liêng ấy chỉ có thể có ở những người lính kháng chiến Việt Nam thời kì kháng chiến. Toàn dân tộc lúc này là một gia đình lớn, cùng chung công góp của, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc.
Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời. Những chiếc xe không kính ấy “lại đi”, không bao giờ ngừng nghỉ.
Ở khổ thơ cuối, hình ảnh chiếc xe mới thực sự hiện lên đầy đủ. Nó không khỏi làm cho người đọc bất ngờ, sửng sốt:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”.
Không những chiếc xe không có kính mà cũng không có đèn, không có mui xe, thùng xe không còn nguyên vẹn. Kết hợp sự miêu ta, ta hình dung dường như chiếc xe chỉ còn có khung xe và động cơ mà thôi. Thế nhưng, dù chỉ còn có thế thì xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước. Vì đồng bào và chiến sĩ miền Nam, vì công cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà, chiếc xe kiên trung vẫn cứ tiến lên phía trước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Có lẽ đây là dòng thơ xúc động nhất, đáng quý nhất. Thật kì lạ, trái tim sôi nổi người chiến sĩ cũng chính là trái tim của xe. Với biện pháp hoán dụ, hình ảnh “trái tim” càng thêm rực rỡ. Đó là trái tim trung thành với Tổ Quốc, với cuộc sống cách mạng của dân tộc; đó là trái tim yêu thương đồng bào, yêu thương những người anh em miền Nam còn đang trong nước sôi lửa bỏng; đó là trái tim quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, đem lại hòa bình cho nhân dân; cũng chính là trái tim đang rạo rực, sôi sục trong lòng mỗi người chiến sĩ lái xe không kính.
Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là nguyện vọng của toàn dân tộc ta. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì miền nam ruột thịt, vì tổ quốc dù có hi sinh nào đi nữa các anh vẫn không hề run sợ. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.
“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình”.
Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ đã chọn Trường Sơn là trường đại học để rèn luyện và trưởng thành. Cuộc đời quân ngũ gian lao, nhọc nhằn đã được lấp đầy bằng tiếng cười đùa vui nhộn, bởi họ lúc nào cũng lạc quan phơi phới, hừng hực nhiệt huyết tuổi trẻ, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đồng đội keo sơn gắn bó, tinh thần chiến đấu tự tin, lòng dũng cảm…
Với những phẩm chất cao đẹp đó, họ đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, những thiện cảm đến tuyệt vời! Họ mãi là những pho tượng đồng bất khuất làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thời đại: Dám đánh Mỹ, không sợ Mỹ, quyết thắng Mỹ. Họ chính là những con người ưu tú của dân tộc đã chiến đấu và sẵn sàng hi sinh để Tổ Quốc mãi mãi “bay lên ngát xanh mùa xuân”.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 7
Thời kháng chiến chống Mĩ thấy thế mà cam go lắm, ác liệt lắm. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại là nhà thơ trẻ tài cao trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung hồn nhiên tinh nghịch và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1969 là bài thơ hay độc đáo về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn hiên ngang tinh thần lạc quan về một ngày mai tươi sáng.
Mỗi đề tài đều mang một nét hay một nét độc đáo. Người viết đề tài nào cũng phải dành tình yêu và sự hiểu biết của mình vào thì mới thành công. Phạm Tiến Duật nhà thơ trẻ tuổi tài cao chọn đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Mĩ. Có thể nói đó là mảng đề tài hay và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ có cách viết mới mẻ độc đáo rất cuốn hút người đọc, người nghe. Đó là hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.
Như tựa đề bài thơ, phần nào Phạm Tiến Duật giúp chúng ta hiểu rõ nội dung là miêu tả về hình ảnh những chiến xe không kính vẫn băng băng trên đường Trường Sơn
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Nhiều từ “không” được lặp đi lặp lại trong dòng thơ mở đầu như một là một lời khẳng định: xưa kia xe vẫn có kính, nó vẫn là chiếc xe lành lặn đẹp đẽ. Nhưng hôm nay “xe không có kính” vì “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh chống Mĩ ấy tàn khốc lắm, ác liệt lắm đã làm những chiếc xe rơi vỡ mất đi nhiều phụ tùng
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Đúng như vậy đó, chiếc xe ấy chẳng những “không có kính” rồi xe “không có đèn”. Cụm từ “không có” cứ thế mà lặp đi lặp lại để thấy chính chiến tranh đã gây ra bao thiệt hại về tài sản. Dường như tác giả Phạm Tiến Duật cũng dành sự xót thương cho hình ảnh chiếc xe trên đường Trường Sơn. Nó vẫn là con chiến mã quan trọng, là một anh hùng thầm lặng cho những người lính vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.
Nếu nhắc đến hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn đã làm người đọc xúc động như thế thì hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn lại mạnh mẽ và lạc quan đáng khâm phục
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Cụm từ “ung dung” vừa diễn tả hành động lại vừa bộc lộ trạng thái rất tự tại rất thoải mái. Những người lính trẻ cứ như đang tận hưởng tiết trời mát mẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ luôn “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” một cái nhìn đầy lạc quan đầy niềm tin và hi vọng. Đắt giá nhất là cụm từ “nhìn thẳng” được tác giả sử dụng như một lời khẳng định: dù có bất kì chuyện gì xảy ra những người lính ấy vẫn luôn luôn mạnh mẽ tiến về phía trước về Miền Nam yêu thương.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Một khung cảnh hiện lên quá hoàn hảo dưới ngòi bút viết như họa của Phạm Tiến Duật. Khung cảnh ấy có gió, có cánh chim chiều, và có cả ánh sao đêm,… Với hình ảnh nhân hóa “gió vào xoa mắt đắng”, liệu có ai đặt câu hỏi rằng tại sao tác giả lại sử dụng như thế? Vì xe không có kính mà những người lính lại chạy xe xuyên đêm nên cảm giác “ đắng” như thế ấy!
Họ luôn ngày đêm nỗ lực chạy thật nhanh thật nhanh tiến về Nam. Mỗi con đường xe chạy qua đều in sâu trong tim và chứa chan đầy tình cảm. Các chữ “ như sa, như ùa” đã cho ta thấy được tốc độ chạy thật phi thường của những chiếc xe không kính, lướt nhanh qua bom đạn dày đặc.
Xe không kính làm các anh chiến sĩ lái xe không chỉ chịu “gió xoa mắt đắng” mà có có “bụi”,”có mưa”. Ôi! Gian khổ biết bao
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Biết bao nỗi cực nhọc mà những người lính ấy phải gánh chịu. Từ “ừ” tác giả vang lên một cách đầy thách thức, thách thức khó khăn mà mình đang gánh chịu. Họ “ừ” một cách hiên ngang tràn đầy hi vọng về ngày mai tươi sáng. Dọc tuyến đường Trường Sơn ngày ấy có bom có gió có bụi. “Bụi phun tóc trắng như người già” với những từ ngữ gợi tả đủ để ta mường tượng ra cảnh tượng ấy đáng thương như thế nào! Chúng ta phải biết trân trọng, phải biết ơn những gì mà các anh chiến sĩ ngày ấy đã làm cho chúng ta hôm nay.
Ngày hôm nay, khi đi trên đường nếu mưa ta còn cảm thấy vô cùng cực nọc dù xe có đủ mọi phụ tùng. Vậy mà trong thời khắc chiến tranh cam go ấy, xe không kính, không đèn, phải chịu đựng gió, bụi, bom giật, bom rung,..
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Tác giả sử dụng từ chỉ số lượng “ trăm cây số” để chỉ còn đường ấy dù có xa dù có cách trở thì họ vẫn băng băng về trước đầy hiên ngang. Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ bảy từ mà có đến sáu thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”
Con đường phía trước còn dài còn khó khăn chồng chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các anh thật mạnh mẽ. Các anh vẫn tếu táo, vẫn hồn nhiên
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây hợp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Sau những ngày tháng lái xe gian khổ giữa rừng Trường Sơn phải chịu mưa, gió, bụi, bom đạn,… Hôm nay họ đã có thể gặp lại đồng đội. Những cái “bắt tay” vội vàng nhưng ấm nồng tình đồng chí đồng đội. Cái “bắt tay” như tiếp thêm sức mạnh luôn tiến về phía trước dù có khó khăn và thử thách.
Thời chiến tranh luôn luôn gian khó, họ là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên trung bất khuất. Con đường giữa rừng núi ấy gặp lại anh em, cùng dựng nồi nấu bếp ăn một chén cơm mà ấm tình đồng đội
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế ấy nhưng tinh thần họ vẫn rất vui vẻ, lạc quan. Vẫn “dùng chung bát đũa” và xem nhau là đại gia đình lớn, là anh em ruột thịt. Với hình ảnh ẩn dụ “ xanh thêm” và nghệ thuật điệp từ “lại đi” như một lời cỗ vũ, một lời động viên các anh hãy luôn mạnh mẽ kiên cường tiến về phía trước. Rồi cũng sẽ có ngày tìm thấy màu xanh hi vọng màu xanh hòa bình và độc lập!
Hai câu thơ cuối bài là hai câu thơ đắt giá mà Phạm Tiến Duật viết nên một niềm hi vọng cháy bỏng dành cho các anh lái xe trên tuyến đường Trường Sơn anh dũng, lạc quan:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
“Trái tim” ấy chính là hình ảnh hoán dụ đầy yêu thương. Trái tim nhỏ của từng chiến sĩ tích góp thành một trái tim lớn hướng trọn về Miền Nam thân yêu ruột thịt. Nhưng trái tim ấy cũng chất chứa bao nỗi căm hờn, phẫn uất? Họ căm ghét chiến tranh tàn khốc đã gây ra bao nỗi khốn cùng cho nhân dân, cho những người lính không ngại khó khăn vất vả.
Đó chính là trái tim có tình yêu và cả lòng căm hận rất sâu sắc. Với ngòi bút tinh tế sâu sắc và cách dùng từ độc đáo đã góp phần làm hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải càng rõ nét hơn trong lòng độc giả.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ,… đã giúp hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn càng hiên ngang dũng cảm. Họ là những con người kiên cường, bất khuất dù khó khăn gian khổ. Bài thơ đã tái hiện lại một cách đầy sống động về thời kháng chiến chống Mĩ oanh liệt trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử và những con người dũng cảm, lạc quan mãi mãi đi vào lịch sử thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ!
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 8
Kháng chiến chống Mỹ là cuộc kháng chiến trường kỳ vô cùng vĩ đại của dân tộc. Thời kỳ đó biết bao nhà văn, nhà thơ đã dùng ngòi bút của mình viết lên những áng văn áng thơ ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi những người lính bộ đội cụ Hồ, chống lại kẻ thù xâm lược. Trong số đó có tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ đã tái hiện thành công không khí hào hùng của những năm tháng kháng chiến và thể hiện được chất thơ, chất lính đậm nét bên trong những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn xưa.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1968, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ ở miền Nam diễn ra ác liệt nhất. Bài thơ đã thể hiện được khí thế hào hùng của những người lính lái xe trên con đường Trường Sơn lịch sử với sự lạc quan và tinh thần phơi phới. Điều đó đã làm nên chất thơ rất riêng cho Bài thơ tiểu đội xe không kính, một chất thơ vừa tự nhiên, vừa đẹp đẽ và mạnh mẽ vô ngần.
Chất thơ trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật thể hiện ngay từ những dòng đầu tiên:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
Ta có thể thấy ngay được cái chất ngang tàng của một người lính lái xe với sự trúc trắc và ba chữ “không” lặp lại liên tục. Câu thơ chỉ để lý giải về sự bất thường của chiếc xe “không kính” nhưng lại khiến người đọc cảm thấy sự gần gũi, đơn giản đến đời thường. Câu thơ không hề có một luật lệ, trật tự nào nhất định, nó chỉ là một câu nói giãi bày của người lính, rất tự nhiên, rất mộc mạc.
Nếu thơ xưa là một tổ hợp của những luật bằng trắc, của số từ, số câu thì thơ của Phạm Tiến Duật lại phá tan hết những luật lệ ấy mà tạo cho mình một “cái chất thơ” rất riêng, rất độc lạ.
Ở những câu thơ tiếp theo, người ta thấy chất thơ càng hiện rõ bởi những câu thơ miêu tả đời lính chân thực đến từng chi tiết. Chẳng có gì trau chuốt, chẳng có gì phải chú ý, những câu thơ bung ra với những ngôn từ tự nhiên nhất, gần gũi nhất. Nào là:
“Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Hay:
“Không có kính, ừ thì có bụi”.
Chính những câu thơ này đã mang tới bài thơ một sắc thái vừa quen thuộc nhưng cũng rất lạ lùng, gần gũi, tự nhiên, hấp dẫn những người đọc. Những ngôn từ của chiến trường, tiền tuyến cũng được Phạm Tiến Duật vận dụng triệt để vào trong câu thơ của mình khiến cuộc sống nơi đạn bom khói lửa được tái hiện chân thực, sống động và vô cùng rõ nét.
Đọc thơ mà người đọc có thể cảm nhận được những ngày tháng rất đỗi hào hùng của dân tộc qua những vần thơ rất đời thường. Đó là chất thơ mà Phạm Tiến Duật đã làm được qua bài thơ của mình.
Chất thơ của Phạm Tiến Duật được làm nên từ những người lính trẻ, vừa rời ghế nhà trường, mang trong mình khát vọng của tương lai, khát vọng được cống hiến cho Tổ quốc. Họ vượt qua hết thảy những khó khăn, vượt qua những thử thách nơi chiến trường để khẳng định ý chí của mình, khẳng định tinh thần bất diệt của một dân tộc gan góc. Trong cuộc sống nơi chiến trường đầy cam go, bom đạn bay khắp nhưng họ không hề sợ hãi, họ chỉ có sự lạc quan, cười vui, tiền lên trong lời hát:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Những người lính trẻ nhìn đời bằng cái lãng mạn của tuổi trẻ và chế ngự khó khăn, vượt lên trên khó khăn bằng tinh thần của mình. Thiên nhiên, chiến trường có thể khốc liệt “gió xoa mắt đắng”, “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”, … nhưng không hề có một sự lùi bước nào, chỉ thấy sự lạc quan phơi phới “mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”. Họ cười với nhau, cùng nhìn nhau qua cái nhìn hài hước “tóc trắng như người già”. Giọng điệu trẻ trung, sôi động, pha chút ngang tàng.
Mỗi lời thơ như một lời phân bua, như một giải thích hài hước về cuộc sống của người lính lái xe. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật không hề có chút cầu kì, khoe mẽ, ta chỉ thấy ở đó là một chất thơ rất mạnh mẽ, một chất thơ lạc quan, tự nhiên như chính cuộc đời của ông và những người đồng đội của mình. Thiên nhiên khắc nghiệt cũng không thể làm họ lùi bước. Từ láy “ung dung” được đặt ở đầu câu thơ cho thấy tư thế ngang tàng, tự tin, bình tĩnh của người lính lái xe.
“Ung dung buồng lái ta ngồi”
Hay:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thúng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”.
Nhà thơ còn sử dụng cả thể thơ bảy chữ và tám chữ để lời thơ thêm tự nhiên và sinh động. Giọng điệu thơ hài hước, pha chút tinh nghịch có lẽ là thứ mà người đọc hấp dẫn nhất ở bài thơ này.
Và thêm nữa, những người đồng đội bên nhau đã tạo dựng lên một thứ tình cảm thắm thiết như gia đinh, vậy nên:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Những người lính ra đi với tình thần quả cảm, với ý chí quyết tâm quét sạch kẻ thù nên họ đã vượt qua tất thảy khó khăn. Sức mạnh của họ là sức mạnh của những người lính bộ đội cụ Hồ, kết tinh của lý tưởng và sức mạnh truyền thống. Họ chính là những minh chứng của chủ nghĩa anh hùng thế kỉ XX. Những người lính có chịu nhiều gian khổ đến đâu, họ cũng chỉ tiến về phía trước, tiền lên trong niềm tin về ngày tất thắng “lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Niềm tin trong họ đã hoá thành bất tử bời trang bị có thể thiếu, xe thiếu kính, thiếu đèn nhưng nó sẽ không bao giờ ngừng chạy bởi một lý do hết sức đơn giản:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Trái tim hồng đỏ lửa là trái tim yêu nước, trái tim yêu đồng bào, gắng sức vì miền Nam và chứa một niềm tin về chiến thắng của dân tộc Việt Nam.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ về người lính nối dài những bài ca về người lính cụ Hồ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài thơ có một chất thơ riêng được tạo nên bởi chất liệu thơ cùng hình ảnh những người lính can trường. Điều đó đã làm nên một sự khác biệt của thơ Phạm Tiến Duật mà bất cứ ai đọc lên cũng không thể nào quên!
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 9
Cuộc kháng chiến chống Mỹ là một cuộc kháng chiến trường kì, ghi dấu sự đấu tranh vĩ đại của quân và dân ta vì nền độc lập tự do của Tổ quốc. Trong thời kì này có biết bao nhà văn, nhà thơ đã viết lên những áng văn thơ ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi những người lính bộ đội cụ Hồ bằng ngòi bút tài hoa của mình. Nổi bật trong số các tác phẩm thời kì này là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhà thơ đã tái hiện thành công không khí hào hùng của những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại xâm cũng như chất thơ, chất lính đậm nét của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn xưa trong tác phẩm của mình.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật được sáng tác vào năm 1968 – năm cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễ ra ở miền Nam vô cùng ác liệt.Bài thơ đã thể hiện được khí thế hào hùng của người lính lái xe trên con đường Trường Sơn lịch sử với một tinh thần lạc quan, yêu đời. Điều đó đã tạo nên một chất thơ rất riêng cho Bài thơ về tiểu đội xe không kính – vừa thơ mộng, tự nhiên lại vô cùng mạnh mẽ.
Chất thơ trong tác phẩm này được thể hiện ngay từ dòng thơ đầu tiên:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
Ta có thể thấy được sự ngang tàng của những người lính trẻ với sự lặp lại liên tục của ba chữ “không”. Câu thơ dùng để lý giải về sự bất thường của những chiếc xe “không có kính” nhưng lại mang đến cho người đọc một cảm giác rất gần gũi, giản đơn. Câu thơ giống như một lời giãi bày, tâm sự mộc mạc, tự nhiên của những người lính. Nếu như những bài thơ cổ, thơ Đường là tổ hợp của những quy luật bằng trắc, số câu, số từ phức tạp thì thơ của Phạm Tiến Duật lại phá tan những luật lệ ấy để tạo nên một chất thơ riêng của mình.
Ở trong những câu thơ tiếp theo, người đọc lại càng thấy chất thơ được hiện rõ trong những câu thơ miêu tả đời lính thật chân thực. Những câu thơ được viết ra với thứ ngôn từ tự nhiên, bình dị mà gần gũi nhất:
” Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
hay:
“Không có kính, ừ thì có bụi”
Những câu thơ này mang tới cho bài thơ một sắc thái vừa quen thuộc nhưng lại cũng rất lạ lùng hấp dẫn người đọc. Ngôn từ của chiến trường, tiền tuyến cũng được nhà thơ vận dụng một cách khéo léo vào những dòng thơ của mình. Điều này khiến cho cuộc sống nơi bom đạn khói lửa ác liệt được tái hiện lại một cách chân thực, sống động và rõ nét. Qua những dòng thơ, người đọc có thể cảm nhận được những năm tháng rất đỗi hào hùng của dân tộc qua những vần thơ hết sức đời thường.
Chất thơ của Phạm Tiến Duật được tạo nên từ những người lính trẻ – những người vừa rời khỏi ghế nhà trường, còn mang trong mình bết bao nhiêu khát vọng tương lại, khát vọng được cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Họ đã không quản ngại những khó khăn, vượt qua thử thách nơi chiến trường để khẳng định được ý chí của mình, khẳng định được tinh thần bất diệt của một dân tộc anh hùng. Trong cuộc sống nơi chiến trường đầy cam go ấy, dù khắp nơi là bom đạn hiểm nguy nhưng họ không hề sợ hãi mà luôn lạc quan, vui cười:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Những người lính trẻ ấy nhìn cuộc đời bằng con mắt đầy lãng mạn của tuổi trẻ, để chế ngự và vượt lên khó khăn bằng tinh thần của mình. Thiên nhiên, chiến trường dù có thể vô cùng khốc liệt “gió xoa mắt đắng”, “bụi phụ tóc trắng”, mưa tuôn mưa xối”… nhưng không hề có một sự chùn bước nào, mà chỉ có những sự lạc quan “mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”. Họ cười với nhau, cùng nhau nhìn cuộc đời qua một “lăng kính màu hồng” đầy sự yêu đời, hài hước “tóc trắng như người già”. Giọng điệu trong những câu thơ này vừa trẻ trung, sôi động lại pha thêm chút ngang tàng – đúng chất của những người lính trẻ.
Mỗi câu thơ giống như một lời phân trần, giải thích cho cuộc sống khó khăn của những người lính lái xe bằng một giọng điệu hài hước. Bài thơ này không hề có chút cầu kì, không hề kể ra những khó khăn mà ta chỉ thấy ở đó một chất thơ mạnh mẽ, lạc quan, tự nhiên như chính cuộc đời của ông và những người đồng đội của mình. Từ láy “ung dung” trong câu thơ “Ung dung buồng lái ta ngồi” được đặt ở đầu câu thơ cho thấy một tư thế ngang tàng, tự tin, bình tĩnh của những người lái xe.
Và hơn nữa, những người đồng đội bên nhau đã tạo dựng lên một thứ tình cảm thắm thiết như gia đình, vậy nên:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Những người lính ra đi với tinh thần quả cảm, với ý chí quyết tâm quét sạch kẻ thù nên họ đã vượt qua tất thảy khó khăn. Sức mạnh của họ là sức mạnh truyền thống của những người lính bộ đội cụ Hồ, kết tinh của lý tưởng và sức mạnh truyền thống. Những người lính ấy dù có chịu nhiều gian khổ thì họ cũng vẫn tiến về phía trước, tiến lên trong niềm tin ngày chiến thắng sẽ đến gần “lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Niềm tin trong họ đã trở thành một thứ rất mạnh mẽ, cho dù trang bị trên đường hành quân có thể thiếu thốn, những chiếc xe có thể thiếu kính, thiếu đèn nhưng nó sẽ không bao giờ ngừng chạy bởi “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trái tim ấy là trái tim cháy rực tình yêu nước, là trái tim yêu đồng bào, trái tim cố gắng vì miền Nam thân yêu và trái tim tin vào ngày mai chiến thắng, thống nhất nước nhà.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ tiêu biểu viết về hình ảnh người lính bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Bài thơ được tạo nên bởi một chất thơ rất riêng cùng với hình ảnh của người lính can trường, dũng cảm. Điều đó đã tạo nên sự đặc biệt cho bài thơ, khiến nó in sâu trong tâm trí của người đọc.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 10
” Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Hai câu thơ quen thuộc của nhà thơ Tố Hữu đã để lại trong lòng chúng ta biết bao suy nghĩ về hình ảnh những người lính trẻ từ biệt quê hương để lên đường ra trận. Đây là một biểu tượng rất đẹp về tinh thần của một dân tộc kiên cường, bất khuất. Những câu thơ đã tái hiện lại một thời hào hùng của dân tộc với những sự sôi nổi trẻ trung và cũng rất bình dị. Không biết có bao nhiêu bài thơ đã viết về hình tượng của những người lính trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng có lẽ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một bài thơ đã giúp khắc hoạ sâu sắc hình ảnh người lính trong tâm trí người đọc.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật thường đưa các chất liệu hiện thực cuộc sống chiến trường vào thơ ca một cách chân thật nhất bởi ông quan niệm rằng “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”. Cách tiếp cận ấy đã đem vào thơ ông một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hóm hỉnh mà lại sâu sắc.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính tạo nên một hình tượng người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử. Ở trong họ là phẩm chất anh hùng, gan dạ và trẻ trung vô cùng. Tinh thần của họ hoàn toàn đối lập với hoàn cảnh của hiện thực cuộc chiến ác liệt. Điều này đã được thể hiện ở ngay đầu bài thơ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Xưa nay trong thơ ca, người ta thường sử dụng những từ hoa mĩ, đầy tính nghệ thuật chứ không ai lại viết về hình ảnh của một chiếc sẽ tải trần trụi, thô sơ. Ấy vậy mà chiếc xe đó lại còn “không có kính” – nhưng hình ảnh chiếc xe này lại gây sự chú ý cho người đọc. Câu thơ giống như một lời giải thích đầy tinh nghịch. Những chiếc xe ấy không có kính không phải vì ban đầu nó vốn như vậy mà là do “bom giật, bom rung” nên xe không còn kính nữa. Chất thơ ở đây không phải được tạo ra bằng thứ ngôn từ mĩ lên mà hiện ra chính bởi vẻ đẹp tự nhiên đến mức thô sơ của ngôn từ. Bằng việc giải thích ấy, nhà thơ đã để lại một ấn tượng khó phai cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt và dữ dội, vể một cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính đã trải qua. Thực ra, hình ảnh của chiếc xe không kính không phải chỉ xuất hiện trong thơ Phạm Tiến Duật, nhưng chỉ với hồn thơ nhạy cảm của ông mới khiến hình ảnh này trở thành một biểu tượng độc đáo trong thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ.
Đằng sau khung kính vỡ, hình ảnh của người lính đã hiện lên một cách ung dung, tự tại trong buồng lái:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Ở câu thứ nhất, từ láy ung dung được đảo lên đầu câu đã làm nổi bật lên một tư thế ung dung, bình tĩnh, đầy tự tin của những người lính lái xe. Họ đang ngạo nghễ ngồi trong khoang lái, tự tin, bình tĩnh để đưa xe qua những tuyến đường đầy khó khăn, thử thách. Chính cái khí chất ngang tàng ấy của “ta” đã làm cho hình ảnh người lính càng thêm oai phong, lẫm liệt. Điệp từ “nhìn” trong câu thơ thứ hai thể hiện một sự tập trung, cảnh giác của những người lính. Đôi mặt của họ lúc nào cũng hướng thẳng, nhìn vào mục tiêu và luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Họ “nhìn thẳng” vào hiện thực của cuộc chiến khốc liệt, vào những mất mát, hi sinh nhưng vẫn sẵn sàng tiến tới mà không hề run sợ.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lại có những cảm nhận riêng của bản thân khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Cả một thế giới rộng lớn ấy lại như tràn ngập vào trong buồng lái:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những ô kính vỡ tưởng chừng như là khuyết điểm của chiếc xe, vậy mà nhờ chúng mà những người lính cảm nhận được những thứ mà trước đây dù ở rất gần mà họ không thể cảm nhận được. Họ cảm nhận được gió thổi vào cay mắt, thấy con đường như đang chạy thăng vào tim, thấy đêm sao sáng rực trên bầu trời và cả những cánh chim bất chợt lướt qua. Tất cả như chực sa vào, ùa vào bên trong buồng lái.
Một điều nữa làm nên vẻ đẹp của bức chân dung người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp những khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Con đường ra trận ấy đâu chỉ có bụi, nó còn ẩn chứa biết bao nhiêu hiểm nguy. Ấy vậy mà khi đứng trước những nguy hiểm, thách thức ấy những người lính vẫn cười, vẫn không lo lắng mà sẵn sàng chấp nhận những thử thách, gian khổ. Họ đã lấy lòng dũng cảm, thái độ hiên ngang để chiến thắng sự ác liệt của chiến trường. Đây cũng là khí thế bao trùm lên toàn bộ bài thơ.
Những khó khăn không dừng lại ở đó mà vẫn tiếp tục. Thế nhưng có vẻ như càng khó khăn, hình ảnh người lính lại càng toả sáng:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”
Ngồi trong xe nhưng lại không khác gì bên ngoài, những cơn mưa táp vào không khác gì trăm ngàn mũi dao cứa lên da thịt. Thế nhưng vẫn với cái giọng điệu ngang tàng, bất chấp thì những người lính xem thử thách thiên nhiên ấy chẳng đáng gì, họ vẫn tiếp tục công việc của mình mà chẳng bận tâm:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”
Sâu sắc hơn, bằng lăng kính của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại được cái đẹp đẽ của tình đồng đội. Những người chiến sĩ dù ở các tiểu đội khác nhau nhưng khi gặp nhau trên đường, cùng chung một mục đích chiến đấu họ như hợp lại thành một tiểu đội:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo ra những cái bắt tay thật đặc biệt, “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Những chiếc xe không kính giờ đây lại trở thành một điều kiện thuận lợi để cho những người lính thể hiện tình cảm. Cái bắt tay ấy thể hiện niềm tin, nghị lực, làm tăng thêm sức mạnh tinh thần để bù cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng. Tình đồng chí ấy cũng được thể hiện một cách rất giản dị, ấm áp qua giờ phút sinh hoạt:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Tình cảm của những người lính, những người đồng đội thận giản dị, thật hồn nhiên và rất lính. Chỉ cần “chung bát đũa” giữa chiến trường khốc liệt ấy đã như chung mọt gia đình. Một thứ tình cảm gắn nết nảy nở hết sức tự nhiên và sâu đậm giữa những con người hoàn toàn xa lạ. Tình cảm ấy thiêng liêng và chỉ có thể có ở những người lính trong thời kì kháng chiến. Toàn dân tộc lúc này như một đại gia đình, cùng sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Ở khổ thơ cuối cùng, hình ảnh chiếc xe không kính mới hiện lên thực sự đầy đủ và chân thực khiến người đọc không khỏi bất ngờ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Cho dù những chiếc xe không còn nguyên vẹn nhưng xe vẫn cứ chạy bởi nó mang trong mình một nhiệm vụ cao cả vì công cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà, kiên định tiến về phía trước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Trái tim ấy là trái tim trung thành với Tổ quốc, với cuộc cách mạng dân tộc; đó là trái tim yêu thương đồng bào, trái tim hướng về miền Nam mong mỏi một ngày đất nước được hoà bình, thống nhất.
Với những phẩm chất cao đẹp ấy, họ mang đến và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc. Hình ảnh những người lính trong kháng chiến chống Mỹ là những pho tượng bất khuất để làm nên chiến thắng của đất nước, đánh đuỏi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi nước nhà. Họ chính là những người con ưu tú của dân tộc, luôn sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để cho Tổ quốc mãi mãi “bay lên ngát xanh mùa xuân”.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 11
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ để giành lại độc lập dân tộc, những người chiến sĩ đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hôi tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, rừng là một chiến sĩ trong binh đoàn lái xe vận tải trên con đường Trường Sơn, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã có những cảm nhận sâu sắc về những người chiến sĩ lái xe trên con đường này. Chính vì vậy, ông đã cho ra đời Bài thơ về tiểu đội xe không kính – một bài thơ độc đáo và đặc sắc khắc hoạ lên hình ảnh người chiến sĩ.
Trên con đường Trường Sơn lịch sử, những chiếc xe vẫn lao nhanh ra chiến trường để chi viện. Nguồn cảm hứng của nhà thơ đã được bắt nguồn từ hiện thực “chiếc xe không có kính” và càng bất ngờ hơn bởi không chỉ một chiếc, hai chiếc…xe không có kính mà là cả “một tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh độc đáo này đã hiện lên ở ngay câu thơ đầu tiên:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
Câu thơ với những từ ngữ giản dị, mộc mạc thoạt nghe như lời kể, lời giãi bày. Những chiếc xe nếu như có kính là điều bình thường, không có gì đặc biệt. Thế nhưng hình ảnh tả thực chiếc xe không có kính đã gây ra những bất ngờ với người đọc. Câu thơ cho người đọc hiểu rằng trước kia chiếc xe ấy vẫn nguyên vẹn lành lặn, “không có kính không phải vì xe không có kính” mà chính là vì “bom giật, bom rung” nên kính đã không còn nữa. Thì ra nguyên nhân khiến cho những chiếc xe không còn nguyên vẹn là do chiến tranh. Chiến tranh đã làm cho chiếc xe trở nên không còn như ban đầu, nó đã không còn mui, không đèn, lại có những vết xước ghi dấu chiến tranh trên thân mình. Thế nhưng, dù đương đầu với những khó khăn thử thách ấy những người chiến sĩ vẫn bình thản cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt ấy là thái độ bình tĩnh đến lạ kì của những người chiến sĩ:
“Ung dung buồng lái ta ngồi”
Cụm từ “ung dung” vừa diễn tả hành động lại vừa bộc lộ trạng thái một cách tự nhiên. Những người lính trẻ như đang tận hưởng thiên nhiên trên con đường ra trận. Họ vẫn luôn “nhìn thẳng” như để khẳng định rằng dù cho có điều gì xảy ra thì họ vẫn luôn tiến về phía trước vì miền Nam ruột thịt:
” Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Trái tim ấy là một hình ảnh hoán dụ vô cùng đắt giá. Từng trái tim nhỏ đang đập trong lồng ngực gộp lại thành một trái tim lớn hướng đến miền Nam ruột thịt. Những trái tim ấy chất chứa bao nỗi niềm, cùng chung một mục tiêu giải phóng đất nước, lập lại hoà bình. Với ngoài bút tinh tế cùng với cách dùng từ độc đáo đã làm cho hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải càng rõ nét hơn.
Bài thơ về tiểu đội xe không kinh là một trong những bài thơ tiêu biểu về hình ảnh người lính trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Họ là những con người đầy kiên cường, bất khuất cho dù có biết bao khó khăn, gian khổ. Bài thơ đã tái hiện lên một cách đầy sống động về thời kì chống Mỹ đầy oanh liệt của dân tộc cùng với những con người dũng cảm, lạc quan, luôn một lòng hướng về Tổ quốc.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 12
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những chiến sĩ lái xe trên đường chiến lược Trường Sơn đã đi vào văn học với tư cách là những anh hùng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay viết về những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn.
Mở đầu bài thơ đã thấy cái dữ dội của chiến tranh và nổi bật tư thế của người chiến sĩ lái xe:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Phạm Tiến Duật thuộc vào loại những nhà thơ thích đùa. Giọng điệu tưng tửng “Không có kính không phải vì xe không có kính” nhà thơ được truyền tinh thần lạc quan của các chiến sĩ lái xe trước sự ác liệt của chiến tranh. Bằng giọng điệu bông đùa, nhà thơ giải thích lí do “xe không có kính”:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.”
Đối lập với hình ảnh dữ dội của chiến tranh là thái độ “ung dung” của người chiến sĩ lái xe. Hình ảnh “ung dung” được đao ngược càng nhấn mạnh tư thế của người lái xe. Và nhà thơ đã dẫn đến phát hiện bất ngờ:
“Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Phát hiện nào cũng gây ấn tượng, ấn tượng về nỗi gian khổ của người lính lái xe ra trận (Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng )và ấn tượng về tình yêu đất nước của người chiến sĩ lái xe (Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim); ấn tượng về tinh thần lãng mạn của họ:
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Những hình ảnh “như sa”, “như ùa” diễn tả sự vận động gấp gáp của đoàn xe ra trận.
Tác giả lại thay đổi nhịp điệu, từ câu thơ nhịp 2/2/2 (Nhìn đất/ nhìn trời/ nhìn thẳng), nhịp 2/2/3 (Như sa/ như ùa/ vào buồng lái) đến câu thơ 3/1/3 (Không có kính/ ừ / thì có bụi). Và từng cặp đối lập vừa diễn tả nỗi gian khổ của người lính vừa diễn tả niềm lạc quan của họ:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già”.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”
Cái hay ở đây là tác giả đã miêu tả được nét đặc trưng về nỗi gian khổ của người lính lái xe “không có kính”. Câu thơ “Bụi phun tóc trắng như người già” gợi nhớ câu thơ của Quang Dũng “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Thật đúng là một sợi tóc cũng làm ta kinh ngạc về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ
Hai cặp đối lập này, tác giả vẫn tiếp tục phát hiện nỗi gian khổ của người lính lái xe không có kính và cốt cách của họ:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Những hình ảnh “Bụi phun tóc trắng như người già” hay “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” gợi lên tình thương đối với những người chiến sĩ lái xe ra mặt trận.Câu thơ Phạm Tiến Duật chẳng những hay về hình ảnh mà còn hay về âm điệu. Những thanh trắc (có kính, ướt áo, xối, lái …) phô diễn được cái nghiệt ngã của người lái xe trên đoạn đường chiến tranh. Những thanh bằng, đặc biệt là câu kết của đoạn thơ gần như toàn thanh bằng êm ru, một phút yên ả trong tâm hồn người lái xe:
“Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Tình đồng đội của người lái xe cũng được Phạm Tiến Duật phát hiện những nét riêng. Họ tập hợp lại “từ trong bom rơi”, họ gặp bè bạn “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” (Thương nhau tay nắm lấy bàn tay – Chính Hữu), họ nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm bếp gần như không có khói vì khói là tai họa đối với người lái xe Trường Sơn. Họ nghỉ ngơi bằng “Võng mắc chông chênh đường xe chạy” và cũng không thiếu những phút thanh bình: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Tác giả phát hiện tất cả mọi khía cạnh của cái KHÔNG (xe không có kính) để dẫn đến một cái Có (có một trái tim) thế là chủ đề sâu sắc của bài thơ được phát triển trọn vẹn:
“Không có kính: rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tác giả lại thay đổi giọng điệu, lối nói tưng tửng trong những khổ thơ đầu đã nhường cho lối nói nghiêm trang đượm vẻ thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Hình ảnh “miền Nam phía trước” vừa nói lên được nhiệm vụ nặng nề là tiếp viện cho chiến trường miền Nam của “tiểu đội xe không kính” vừa gợi lên tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ lái xe đối với miền Nam ruột thịt. Và tứ thơ cuối cùng (chỉ cần trong xe có một trái tim) đã cân bằng lại tất cả những gian khổ, những tàn phá của chiến tranh. Sức mạnh của tình yêu nước đã chiến thắng kẻ thù hung bạo.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ hay và độc đáo. Phát hiện được đề tài, nhà thơ đã khai thác mọi khía cạnh bất ngờ và thú vị. Giọng điệu thay đổi thích hợp, nhịp điệu luôn luôn biến hóa. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe “Vì miền Nam phía trước” được khắc họa đậm nét, sinh động, nổi bật được cốt cách của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 13
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông lôi cuốn người đọc không phải bằng ngôn từ hoa lệ, trau chuốt mà bằng sự mạnh mẽ, bằng hiện thực cuộc sống. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo đó. Hình ảnh người lính hiện lên đậm nét qua ngòi bút sắc sảo của Phạm Tiến Duật.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ tàn khốc, ác liệt đã khiến nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than, đất nước điêu đứng. Những người chiến sỹ vượt qua gian lao để làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ được đặc tả chân thực, sâu sắc qua những vần thơ của Phạm Tiến Duật.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một lời khẳng định chắc nịch:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá nhưng tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Tác giả đưa ra một lý do hiển nhiên, đủ sức thuyết phục cho việc chiếc xe không có kính. Hai từ “không” được đặt trong một câu thơ đã khẳng định rằng đó là sự thật hiển nhiên, bọn Mỹ độc ác đã trút bao nhiêu hận thù xuống mảnh đất đầy đau thương này. Những lời thơ của tác giả gần gũi với lời ăn tiếng nói của mỗi người nên rất dễ hiểu, dễ thấm.
Sang đến câu thơ thứ ba, hình ảnh người lính bộ đội cụ Hồ hiện lên với phong thái hiên ngang, oai phong:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Với biện pháp đảo trật tự cú pháp, tính từ “ung dung” được đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái xe đầy kiêu hãnh, có thể làm chủ được chiến trường mà không hề nao núng. Đại từ “ta” vừa là chính mình, vừa mang ý nghĩa đại diện cho nhiều người, cho một quốc gia luôn trong tâm thế sẵn sàng đánh địch.
Đây là một thủ pháp nghệ thuật đầy ẩn ý của chính tác giả. Trước mắt người chiến sỹ là trời đất bao la, rộng lớn, phải tiến về phía trước thì mới có thể giành được chiến thắng. Từ “nhìn” ở câu thơ tiếp theo được lặp lại 3 lần như khẳng định sự kiên trì, vững vàng và tập trung cao độ cho trận chiến.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Hai câu thơ này đã có sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế, nhạy cảm. Từ “nhìn” không còn giữ nguyên nghĩa gốc nữa mà đã chuyển sang ý nghĩa khác. Lúc này không những nhìn thấy đường, thấy trời đất, mà thấy cả “gió vào xoa mắt đắng”, “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Hiện thực chiến tranh không còn khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của những người lính cách mạng. Các anh đã liên tưởng đến một không gian lãng mạn, vui tươi giữa cảnh bom đạn khốc liệt. Những ngôi sao trên trời cao và những cánh chim chao liệng ở phía ngoài kia khiến người lính cách mạng cứ ngỡ như đang “sa”, đang “ùa” vào buồng lái.
Đến đoạn thơ sau tác giả đã diễn tả được sự khốc liệt của chiến tranh:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.
Hiện thực chiến tranh khốc liệt, tàn khốc được vẽ lên qua ngòi bút chân thực của tác giả. Với ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống của con người. Một từ “ừ” khiến cho câu thơ trở nên nhẹ tênh, không một chút do dự hay vướng bận. Một từ “ừ” khiến cho tâm trạng của những người lính trở nên nhẹ nhõm hơn. Sự khốc liệt của chiến tranh và thiên nhiên không làm chùn bước, ý chí của những người lính cách mạng.
Điệp từ “chưa cần” càng khẳng định tâm thế hiên ngang, bất cần đời của anh bộ đội cụ Hồ. Nhưng chính điều này đã làm nên phong cách “ngông”, phong thái ung dung cần phải có trong cuộc kháng chiến đầy ác liệt như thế này.
Và trong cuộc chiến tranh gian lao, thử thách như thế này tình cảm đồng chí, đồng đội luôn được đề cao và khẳng định:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Hình ảnh thơ thật đẹp, thật đáng ngưỡng mộ. Vượt qua bao nhiêu bom đạn, thử thách những chiếc xe từ trăm mọi ngả đường đã về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những trận chiến đã vượt qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” thực sự khiến người đọc ứa nước mắt, vì nó thật đẹp và cao cả.
Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa những người đồng đội dường như khiến cho cuộc chiến tranh bớt tàn khốc, bớt ảm đạm hơn. Dù trong mọi hoàn cảnh thì tình cảm luôn có thể chiến thắng tất cả. Nó là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết, niềm tin chiến thắng.
Có lẽ đoạn thơ cuối là đoạn thơ đẹp nhất, ấn tượng nhất:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần nữa Phạm Tiến Duật khẳng định sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng hơn hết vẫn là ý chí, là niềm tin và sự nỗ lực vì miền Nam phía trước. Hình ảnh “trái tim” ở cuối bài thơ như mở ra một không gian nghệ thuật thật nên thơ, trữ tình.
Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sỹ trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước vừa kiên cường, vừa hiên ngang. Đó là một hình ảnh đẹp xuyên suốt cả bài thơ.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 14
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm tháng sục sôi khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, nhân dân miền Bắc đã không tiếc sức người sức của, chi viện cho miền Nam ruột thịt.
Những đoàn quân trùng trùng điệp điệp nối nhau ra tiền tuyến và Phạm Tiến Duật cũng có mặt trong đội ngũ ấy. Anh đã được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh ác liệt và trở thành một nhà thơ – chiến sĩ. Chùm thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ, Gửi em cô gái thanh niên xung phong đã được giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969.
Thơ Phạm Tiến Duật không lôi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn hay ngôn ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương… Ngược lại, người đọc thích thơ anh bởi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo.
Có thể coi Bài thơ về tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ này. Thông qua bài thơ, Phạm Tiến Duật ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui trẻ trung, sôi nổi cùng quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
Bài thơ khắc họa thành công một hình tượng độc đáo: những chiếc xe ô tô vận tải không có kính chắn gió mà vẫn băng băng trên đường ra trận. Bên trong cái vỏ ngoài xấu xí, xây xát của những chiếc xe không kính ấy là một bề dày thành tích chiến đấu và quý giá nhất là có một trái tim sáng ngời tinh thần yêu nước của những người lính trẻ.
Mở đầu bài thơ, tác giả giải thích nguyên nhân vì sao xe không có kính bằng lời lẽ giản dị, tự nhiên:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Lí do thế là đã rõ. Kính xe đã bị những trận bom ác liệt của giặc Mĩ làm cho vỡ hết. Lời giải thích đơn sơ nhưng khả năng gợi tả rất lớn, giúp người đọc hiểu ra rằng những chiếc xe này đã dạn dày, từng trải trên đường ra mặt trận. Giới thiệu về xe mà cũng là bước đầu giới thiệu về chủ nhân của chúng.
Từ câu thơ thứ ba trở đi, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân vật chính và những chiếc xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm chất đẹp đẽ của họ. Khi người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Tính từ ung dung đặt ở vị trí đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động ấy. Trong cái nhìn bao quát cả đất trời ẩn chứa niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường mọi khó khăn nguy hiểm. Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy?
Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là tình cảm tất cả vì miền Nam thân yêu, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh, hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì máy bay Mĩ liên tục trút bom đạn xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào. Bút pháp tả thực kết hợp với bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp bất ngờ của những câu thơ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Cảm giác của người chiến sĩ lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được nhà thơ diễn tả cụ thể và sinh động. Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió. Gió thốc làm cay đến chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn.
Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà sự cảm nhận dường như tăng lên gấp bội. Sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như say như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe tưởng như nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng ý nghĩa tượng trưng sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.
Nỗi vất vả, gian nan được Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Hai đoạn thơ tả thực đến từng chi tiết, từng hình ảnh và thật cả trong cách diễn tả. Câu thơ đậm chất văn xuôi, mộc mạc như lời nói thường ngày. Xe không kính, bụi phun tóc trắng như người già. Xe không kính, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Điệp từ chưa cần, hình ảnh phì phèo châm điếu thuốc, giọng cười ha ha sảng khoái… làm nổi bật chất bình dị mà anh hùng của những chiến sĩ lái xe trong chiến tranh.
Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bậc. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính.
Trong gian lao, thử thách, tình đồng đội, đồng chí càng trở nên thiêng liêng hơn, máu thịt hơn. Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình yêu thương đồng đội thắm thiết:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Đến đây thì mọi khó khăn, nguy hiểm đã bị đẩy lùi ra xa, làm nền cho tập thể của những chiến sĩ lái xe từ mọi chiến trường về đây họp thành tiểu đội xe không kính. Họ thương nhau còn hơn ruột thịt, sống chết có nhau, cùng chung lí tưởng và tình cảm cao đẹp: tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng trong hoàn cảnh ấy. Bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừng Trường Sơn, giấc ngủ chập chờn trên cánh võng chông chênh đường xe chạy đã đủ nói lên tất cả. Và lạ lùng thay, nhà thơ đã bất chợt khám phá ra điều thú vị là những khó khăn, nguy hiểm của người lính lái xe không kính lại trở thành tiện lợi bất ngờ khi họ gặp nhau trên đường ra mặt trận:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Họ tạm nghỉ bên nhau phút chốc để rồi lại lên đường, lại đi, lại đi đến những nơi cần hàng, cần đạn. Họ tin tưởng ngày mai trời xanh thêm và chiến thắng đang tới rất gần.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hoà quyện với nhau:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn quân thù xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời chống Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một tác phẩm tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh.
Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo, độc đáo, nhịp thơ tự do, phóng khoáng… Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 15
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Giọng thơ sôi nổi, hồn nhiên trẻ trung tinh nghịch mà sâu sắc, thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện thành công hình tượng người lính và những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn, những con người anh hùng của thời đại anh hùng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được viết năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn.
Mở đầu bài thơ lời giới thiệu hóm hỉnh về những chiếc xe không kính: “Không có kính không phải vì xe không có kính”. Câu thơ mang dáng dấp như một câu văn xuôi, một lời giải thích chân thành. Xe không kính không phải do đặc điểm cấu tạo mà trước đây nó vẫn có kính đấy chứ. Người lính giải thích nguyên nhân vì sao từ có kính trở thành không kính: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Chiến trường ác liệt đạn bom được thể hiện bằng hai động từ mạnh “giật, rung” để diễn tả sự tàn phá khốc liệt của bom đạn Mĩ. Hình ảnh chân thực của những chiếc xe trên đường ra trận vừa thể hiện sự cam go khốc liệt của chiến tranh vừa đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ.
Trên nền cảnh dữ dội, hình ảnh người chiến sĩ xuất hiện với tư thế hiên ngang lái xe ra trận:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Câu thơ đảo trật tự cú pháp, đưa tính từ “ung dung” lên đầu nhằm tô đậm tư thế, tâm trạng đầy lạc quan và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của người lính lái xe. Các anh “nhìn thẳng” vào sự thật, nhìn thẳng vào cuộc chiến. Đó là cái nhìn quả cảm, đầy can đảm khi trực diện mà không hề né tránh, run sợ trước cái chết.
Lái những chiếc xe không kính, người chiến sĩ lái xe gặp bao nhiêu khó khăn nhưng họ đã biến khó khăn kia thành niềm vui, niềm lãng mạn:
Nhìn gió vào xoa mật đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Bằng cảm hứng lãng mạn bay bổng, giọng thơ vút cao khi sà xuống đất. Nhịp thơ dồn dập khoẻ khoắn tràn đầy niềm vui. Điệp ngữ “nhìn thấy” liên tiếp như mở ra cái nhìn thích thú bao quát của núi rừng Trường Sơn trong đôi mắt các anh nhìn. Ngọn gió vô hình được nhân hoá như bàn tay người mẹ thiên nhiên, xoa đi đôi mắt đắng vì thiếu ngủ của các anh lính lái xe ròng rã đêm ngày.
Biểu tượng “con đường chạy thẳng vào tim” vừa mang nghĩa thực, vừa là ẩn dụ tượng trưng cho con đường lí tưởng thời chống Mĩ. Tư thế người lính hoàn toàn làm chủ hoàn cảnh, ung dung tự tại giữa đất trời. Không có kính lại hoá hay để thiên nhiên và người lính càng thêm chan hoà, gần gũi. Khó khăn kia đã mang lại cho người lính niềm vui, phút lãng mạng mộng mơ với ánh sao và cánh chân trời.
Hình ảnh người lính hiện lên thật tinh nghịch, hóm hỉnh và rất trẻ trung khi tiếp tục đối diện với những gian khổ khác trên đường ra mặt trận:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa thì phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Khẩu khí ngang tàng, đậm chất lính với kiểu nói “Ừ thì” rất lính. Đó là cách nói khẩu ngữ được đưa vào thơ như các anh sẵn sàng chấp nhận mọi thách thức, lạc quan yêu đời, phớt lờ mọi khó khăn, động viên đồng đội. Khó khăn càng tăng tiến, sau gió bụi là những cơn mưa xối xả của Trường Sơn:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Giọng thơ rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám đôi mươi. Lạ kỳ thay, sự khắc nghiệt của khí hậu Trường Sơn lại là cơ hội để các anh tranh thủ kẻ thù lái nhanh hơn, rút gần khoảng cách Bắc – Nam.
Chân dung người lính vừa tinh nghịch vừa ngạo nghễ, ngang tàng. Họ có ý chí vững như thép, có lòng quyết tâm bằng mọi giá phải tiến về giải phóng Miền Nam. Điều đó khiến họ biến gian khổ thành niềm vui, khó khăn thành thuận lợi. Vượt qua “hàng rào lửa” “tọa độ chết” những đoàn xe xanh lá cây rừng đêm ngày vun vút lao đi tiến vào Miền Nam. Tràn ngập trong thơ là sức nặng là những trái tim tràn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ.
Hình ảnh tiểu đội xe không kính xuất hiện sau với bao mất mát, hy sinh hòa thắm trong tình cảm gắn kết của đồng đội trên mọi nẻo đường xe qua:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Hình ảnh “những chiếc xe” xuất hiện sau một chặng đường dài gian khổ như khắc sâu ý nghĩa: không kẻ thù nào cản được bước tiến của đoàn xe. Vượt qua đạn bom, mưa gió, những chiếc xe vẫn tồn tại như ý chí, tinh thần thép của quân đội ta mãi vững vàng không kẻ thù nào ngăn chặn nổi.
Không gian “từ trong bom rơi” là toạ độ chết của “hàng rào lửa”. Hàng ngày máy bay Mỹ ném bom dữ dội cho nên mất mát hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Vì thế, sau mỗi trận bom rơi, lại có một tiểu đội mới ra đời. Đây là sức mạnh tiếp nối của biết bao thế hệ. Tình đồng đội thắm thiết trong cái bắt tay tin cậy.
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Hình ảnh “con đường đi tới” trong thơ mang ý nghĩa hình tượng cho con đường lí tưởng, cho quyết tâm giải phóng Miền Nam của các anh chiến sĩ Trường Sơn. Đường Trường Sơn là con đường thẳng tiến. Nơi đây gian khổ thử thách con người. Nơi không có dấu chân của những kẻ ham sống, sợ chết. Nơi tuổi trẻ cùng hẹn nhau ra trận với niềm vui phơi phới. Bởi vậy, gặp nhau tại đây, họ hiểu họ là những người đồng chí của nhau.
Cho nên, cái bắt tay thay cho lời chào đồng đội. Cái bắt tay kia truyền cho nhau bao sức mạnh niềm tin. “Cửa kính vỡ” là hiện thực khốc liệt của bom đạn nhưng nó lại làm cho người lính gần nhau hơn. Nó là chứng nhân cho tình đồng chí thắm thiết. Tình đồng đội là cách định nghĩa giản đơn về “gia đình đồng đội” yêu thương:
Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy!
Thơ lấy chất liệu từ hiện thực chiến trường. Chi tiết “bếp Hoàng Cầm” là chiếc bếp nuôi quân do người anh nuôi Hoàng Cầm sáng tạo. Chiếc bếp hiên ngang dựng giữa trời với ngọn lửa hồng ấm áp như thách thức quân thù. Nó thể hiện sự thông minh, sáng tạo của chiến sĩ ta từ trong gian khổ.
Câu thơ có giọng điệu dễ thương như lời giới thiệu đầy tự hào thân thương về “gia đình đồng đội”. Với người lính, chỉ cần chung nhau một bếp lửa hồng, sẻ cho nhau bát cơm chiều, cùng hong khô chiếc áo đẫm mưa rừng là họ là họ coi nhau như tình gia đình ruột thịt. Cách định nghĩa cho thấy tâm hồn họ giản dị mà lớn lao nghĩa tình. Khi tình đồng đội có cả gia đình thì tình cảm đó càng thêm sâu đậm và ấm áp. Sau mỗi cuộc gặp gỡ, chia vui, các anh lại lên đường:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi đường xanh thêm.
“Chông chênh” từ láy gợi tả cảm giác chập chờn của giấc ngủ không yên khi đường hành quân vẫn ầm ầm xe chạy. Điệp ngữ “lại đi, lại đi” là khí thế, nhịp bước hành quân. “Trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho ước mơ và hy vọng. Càng tiến về Miền Nam, niềm tin thống nhất đất nước càng lớn dần. Đó là động lực lớn lao khích lệ các anh vững tay lái tiến công.
Trở lại với hình ảnh những chiếc xe không kính, Phạm Tiến Duật cho người đọc nhìn rõ hơn toàn bộ hình ảnh chiếc xe đã bị hủy hoại khủng khiếp bởi bom đạn của kẻ thù:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Không những xe không có kính mà xe cũng không có đèn, không có mui và thùng xe không biết bao nhiêu vết thương. Hình ảnh người lính lái xe dũng cảm kiên cường:
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Phụ từ “vẫn” làm lời thơ mạnh mẽ, dứt khoát. Xe vẫn chạy. Không một trở lực nào có thể ngăn cản được tốc độ và hướng tiến của đoàn xe. Con đường phía trước “chạy thẳng vào tim”. Con đường gọi hay trái tim tha thiết gọi. Không có đèn để soi đường trong đêm tối nhưng các anh đang đi theo “ánh lửa từ trái tim mình”
Câu thơ cuối với ngữ điệu nhẹ thênh mà triết lí lại vô cùng sâu sắc “chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trái tim, hình ảnh hoán dụ xuất hiện cuối câu thơ đầy sức biểu cảm. Trong cái cụ thể của hình ảnh đó là bao nhiêu yêu thương, căm giận, bao nhiêu mong nhớ, đợi chờ… Trái tim thắm đó là “nhãn tự” bật sáng chủ đề bài thơ, lý giải nguồn sức mạnh lớn lao giúp chúng ta thắng Mĩ. Bài thơ có kết cấu đối lập độc đáo. Đối lập giữa vô số cái “không” là một cái “có”. “Có một trái tim” là hình ảnh đầy sức biểu cảm trong bài thơ.
Cụm từ: thùng xe có xước là cách nói giảm nhẹ. Thực tế, những chiếc xe làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn không có chiếc nào còn nguyên vẹn thùng xe. Mui xe có vai trò bảo vệ bộ máy giờ cũng không còn nữa. và đèn xe, một bộ phận không thể thiếu của xe khi chạy đêm cũng vỡ từ bao giờ.
Thế mới thấy, người lính lái xe không những phải vượt qua sự truy kích của kẻ thù mà còn điều khiển một phương tiện không đảm bảo an toàn, trên một tuyến đường hiểm nguy như Trường Sơn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quả thực là phi thường. Mỗi chuyến xe trở về an toàn là một thành tích, một kì công, một chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến chống kẻ thù.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật thơ của Phạm Tiến Duật. Đó là một giọng thơ hồn nhiên, tinh nghịch dí dỏm, thông minh. Bài thơ là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, nhịp thơ sôi nổi trẻ trung, tràn đầy sức sống. Từ đó làm hiện rõ vẻ đẹp của người lính Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, lạc quan bất chấp mọi khó khăn, gian khổ chiến đấu vì Miền Nam, vì sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 16
Nếu như Chính Hữu đã thành công trong việc dựng lên bức tượng đài về người lính nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp thì Phạm Tiến Duật lại là một “nhà điêu khắc” tài ba tạo ra bức tượng về người lính trẻ ở thời kì kháng chiến chống Mỹ. Phải chăng hình tượng người lính chiến đấu đã được rất nhiều thi sĩ sử dụng trong công trình sáng tạo nghệ thuật của mình. Với Phạm Tiến Duật cũng vậy, hình tượng người lính trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của ông có những phẩm chất thật đặc biệt.
Phạm Tiến Duật (1941) là nhà thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông thường hay viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến với giọng điệu trẻ trung, sôi nổi nhưng vô cùng sâu sắc. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm thuộc chùm thơ của Phạm Tiến Duật viết về anh bộ đội cụ Hồ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung và nhiệt huyết.
Ở khổ thơ thứ nhất và thứ hai, nhà thơ đã phác họa tư thế ung dung, hiên ngang của người lính trên đoạn đường Trường Sơn:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những chiếc xe được nhà thơ miêu tả thật đặc biệt vì nó không giống như những con tàu trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên hay con thuyền chở đầy cá trong “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận mà nó là những chiếc xe “không có kính”. Người lính lái xe đã lý giải cho chúng ta biết vì sao chiếc xe của họ vốn nguyên vẹn nhưng nay lại không có kính là bởi vì bom đạn của quân thù đã phá vỡ chúng.
Thế nhưng họ vẫn giữ thái độ lạc quan, hóm hỉnh đùa nhau rằng: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Dù hiện thực bom đạn có khốc liệt đến mức nào nhưng những người lính vẫn “ung dung” nhìn thẳng vào hiện thực để tiếp tục chiến đấu.
Phải chăng kẻ thù dùng bom đạn phá hủy những chiếc xe nhằm ngăn cản hoạt động chi viện của những người lính, thế nhưng với những chiếc xe méo mó, biến dạng, không có kính che chắn thì những người lính vẫn ung dung làm nhiệm vụ: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, nhìn thấy gió, “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Người lính không hề tỏ ra lo lắng mà cứ thế hiên ngang vững chắc tay lái nhìn về phía trước và tràn đầy lòng quyết tâm.
Họ còn nhìn thấy những ngôi sao trên trời hay những cánh chim bay lượn của sự tự do khi ngồi trên chiếc xe không kính. Có lẽ, chiếc xe không kính chính là người bạn đồng hành vững chắc giúp người lính được hòa quyện và rộng mở tâm hồn để đón nhận thiên nhiên “Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Đồng hành cùng những chiếc xe không có kính là những người lính lái xe có tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi gian khổ để tiến về phía trước:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Phải chăng thời tiết khốc liệt với hai mùa mưa, nắng của Trường Sơn đã khiến cuộc sống, chiến đấu của những người lính trở nên khó khăn, gian khổ hơn. Bụi Trường Sơn trắng xóa khiến cho tóc của họ “trắng như người già”. Xe không có kính khiến cho những người lính phải chịu bụi, chịu mưa rét nhưng vẫn cùng nhau “phì phèo châm điếu thuốc” để rồi nhìn nhau với khuôn mặt lấm lem của bụi đường cười “ha ha”. Đây là tiếng cười của sự sảng khoái, tinh nghịch của người lính lái xe có tâm hồn trẻ trung và tràn đầy sự lạc quan.
Với họ niềm vui lớn nhất chính là được chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cho nên dù Trường Sơn có là “Một dãy núi mà hai màu mây/ Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác” cũng không thể làm chùn bước họ. Mùa mưa ở Trường Sơn thường kéo dài dai dẳng khiến họ “ướt áo” vì “mưa tuôn, mưa xối” chứ không phải chỉ là mưa phùn nhưng họ luôn đón nhận mọi khó khăn với tâm thế sẵn sàng “ừ thì” và coi đó như là một yếu tố khách quan mà họ phải vượt qua.
Nếu như ở đoạn đầu của tác phẩm chúng ta đã bắt gặp hình ảnh chiếc xe không kính thì đến đoạn năm của tác phẩm đã cho ta thấy những chiếc xe không kính đó nay đã họp thành tiểu đội. Đó chính là sự gắn kết của tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính đến từ mọi miền đất nước:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Bom đạn chiến tranh đã làm nên một tiểu đội xe không kính cho nên niềm vui lớn nhất của những người lính là được gặp lại đồng đội của mình và chỉ cần một cái “bắt tay” để thể hiện tình cảm. Cái bắt tay qua ô cửa kính đã vỡ thể hiện sự đoàn kết, keo sơn giữa những người lính. Chỉ cần một cái bắt tay thôi cũng giúp họ tiếp thêm sức mạnh để cùng nhau chiến đấu vì miền Nam phía trước.
Sự gắn kết tự nhiên giữa những chiếc xe không kính đã làm nên một tiểu đội đặc biệt, không cố định nhưng lại vô cùng bền chặt và gắn bó chặt chẽ với nhau trên mọi nẻo đường. Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” xuất hiện chính là hiện thân của những bữa cơm họp mặt hiếm hoi trên chặng đường chiến đấu. Với người lính, quan niệm về gia đình của họ hết sức sâu sắc vì không cần chung một mái nhà mà chỉ cần chung bát, chung đũa thôi cũng là một gia đình rồi.
Nhờ có tình đồng chí, đồng đội mà những con người xa lạ đến từ mọi miền tổ quốc nay đã trở thành một gia đình cùng nhau lái những chiếc xe không kính vượt mọi nẻo đường Trường Sơn. Không chỉ là những bữa ăn tạm bợ mà những giấc ngủ của họ cũng rất “chông chênh”. Thế nhưng những người lính của chúng ta đã tự động viên nhau vì một màu xanh hy vọng để đi tiếp: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Tinh thần yêu nước mãnh liệt của người lính đã giúp họ vượt qua mọi cái “không có” của hoàn cảnh:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Những chiếc xe không có kính khiến cho “bụi phun tóc trắng như người già” mà còn không có đèn, không có mui xe. Khó khăn ngày càng được nhân lên gấp bội nhưng những người lính vẫn bất chấp mọi khó khăn để băng băng “xe chạy vì miền Nam phía trước”. Có lẽ, trái tim nhiệt huyết, trái tim yêu nước nồng nàn, sục sôi chiến đấu vì miền Nam thân yêu của người lính chính là sức mạnh phi thường giúp họ vượt lên trên tất cả.
“Trái tim” của người lính lái xe với sự kiên cường, can đảm còn là trái tim của niềm hi vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào một tương lai không xa. Hình ảnh “trái tim” giàu sức gợi đã cho ta thấy được dù hoàn cảnh có bị tàn phá đến đâu, có tác động đến họ nhiều thế nào đi chăng nữa thì những người lính ấy vẫn giữ trong mình một trái tim nhiệt huyết.
Hình tượng người lính lái xe được Phạm Tiến Duật khắc họa bằng những ngôn từ hóm hỉnh, lạc quan, nhiều màu sắc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp hoán dụ và nhiều hình ảnh giàu ý nghĩa để miêu tả những phẩm chất cao đẹp của người lính. Người lính lái xe được hiện lên với vẻ đẹp oai hùng, yêu nước, dũng cảm đáng ngợi ca. Đây cũng là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã phác họa thành công bức tranh của những chủ nhân chiếc xe không kính trên dọc tuyến đường Trường Sơn. Qua hình tượng người lính, nhà thơ muốn gửi gắm một thái độ trân trọng, đồng cảm với những khó khăn mà họ phải trải qua vì miền Nam ruột thịt phía trước.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 17
Chiến tranh đã lùi xa theo sự biến động không ngừng của thời gian nhưng dư âm của nó vẫn còn lưu lại trong những trang sử hào hùng của dân tộc qua những bài ca, vần thơ, câu chuyện trong văn học. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong số những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ điều này. Qua bài thơ, tác giả đã làm nổi bật hai hình tượng cùng sóng đôi và song hành trong mỗi một khổ thơ: đó là những tiểu đoàn xe không kính và người lính lái xe với những vẻ đẹp ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Ở hai khổ thơ đầu tiên, tác giả đã làm nổi bật hình tượng những chiếc xe không kính và tư thế kiên cường, ung dung của người lính. Bằng giọng thơ mang đậm chất văn xuôi và lối nói mang tính khẩu ngữ, những chiếc xe không kính xuất hiện một cách chân thực và trần trụi:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Điệp ngữ “Bom giật bom rung” đã diễn tả thành công sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh – không gian của những “mưa bom bão đạn” và hàng loạt những hiểm nguy đang rình rập người chiến sĩ. Nhưng với tinh thần bất khuất, họ đã đối diện với những điều đó với tư thế kiên cường, ung dung:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Tác giả đã đưa từ “ung dung” lên đứng đầu câu để nhấn mạnh vẻ đẹp hiên ngang của người lính. Đi qua những “lửa đạn bom rơi”, qua buồng lái không kính, họ trực diện nhìn thẳng vào hiện thực cuộc chiến:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Nhìn thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Không gian rộng lớn của con đường ra trận được gợi mở theo bút pháp hiện thực. Qua những buồng lái, người lính chứng kiến tất cả những gì khắc nghiệt nhất của thiên nhiên và chiến trường. Nhịp thơ dồn dập qua điệp từ “nhìn” và giọng thơ mạnh mẽ đã nhấn mạnh tư thế chủ động đối diện với mọi khó khăn, gian khổ của người lính. Dẫu có bao nhiêu trở ngại “gió xoa mắt đắng”, “đột ngột cánh chim” thì họ vẫn cầm chắc tay lái để nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù để điều khiển những chiếc xe thẳng tiến vững vàng ra mặt trận.
Ở hai khổ thơ tiếp theo, tác giả đã miêu tả sự khắc nghiệt của cuộc sống nơi chiến trường cùng tinh thần bất chấp hiểm nguy và sự lạc quan của người lính. Con đường ra trận không chỉ có bom đạn của kẻ thù mà còn có những yếu tố khắc nghiệt khác như bụi bặm, “mưa tuôn”, “mưa xối” khiến người chiến sĩ lái xe gặp vô vàn trở ngại như “bụi phun tóc trắng như người già”, “ừ thì ướt áo” nhưng họ vẫn bản lĩnh , vững vàng vượt qua với tinh thần lạc quan cùng sự hài hước, dí dỏm:
“Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Hay như:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”
Với giọng thơ hóm hỉnh cùng ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày, tinh thần lạc quan cùng những tiếng cười của người lính vang lên giữa chiến trường khốc liệt đã được tác giả Phạm Tiến Duật miêu tả thành công. Đó cũng là vẻ đẹp chung của thế hệ thanh niên xung phong thời kì kháng chiến chống Mỹ.
Không chỉ dừng lại ở đó, hình tượng những chiếc xe không kính còn được nhà thơ miêu tả trong mối quan hệ với vẻ đẹp của tình đồng đội giữa những người lính lái xe. Qua những khung cửa không kính, họ “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” và “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”.
Đó là những cái “bắt tay” thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia những khó khăn mà họ đi qua, gợi nhắc hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” mà tác giả Chính Hữu từng miêu tả ở tác phẩm “Đồng chí”. Tình đồng đội gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ còn được thể hiện thông qua định nghĩa về gia đình mang đậm chất lính:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Những hiểm nguy mà người lính đã đi qua càng làm cho họ thêm gắn bó sâu nặng. Dù cho những bữa cơm thời chiến diễn ra đơn sơ, giản dị và chóng vánh nhưng vẫn đủ sức xóa đi mọi khoảng cách để họ xích lại gần nhau, xem nhau như anh em ruột thịt trong một gia đình.
Ở khổ thơ cuối cùng, tác giả tiếp tục miêu tả hình tượng những chiếc xe không kính với bút pháp hiện thực. Tiểu đội xe không kính hiện lên với sự thiếu thốn và không vẹn toàn: “Không có kính, rồi xe không có đèn / Không có mui xe, thùng xe có xước”. Những yếu tố cần thiết để đảm bảo chiếc xe hoạt động bình thường và an toàn dần biến mất, nhưng rồi chúng vẫn “bon bon” chạy thẳng ra chiến trường một cách hiên ngang, bởi:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Sức mạnh của lòng yêu nước cùng lý tưởng một lòng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã được nêu bật thông qua cách biểu đạt cụ thể về chặng đường “vì miền Nam”. Tác giả đã sử dụng biện pháp hoán dụ qua hình ảnh “trái tim” để gợi lên ý chí chiến đấu cùng sự ngoan cường dũng cảm và lý tưởng cách mạng cao đẹp của người lính. Chính “trái tim” đầy nhiệt huyết đó đã giúp họ chiến thắng mọi gian khổ và đi qua mọi bom đạn của kẻ thù.
Như vậy, thông qua thể thơ tự do, giọng thơ tự nhiên pha chút hài hước, dí dỏm cùng ngôn ngữ thơ giản dị, tác giả Phạm Tiến Duật đã đóng góp một cách nhìn mới mẻ về hiện thực chiến tranh. Xuyên suốt tác phẩm, hình tượng tiểu đội xe không kính cùng những người lính lái xe luôn được miêu tả trong sự song hành để làm nổi bật vẻ đẹp, sức mạnh của tinh thần yêu nước và tinh thần bất khuất, kiên cường chống ngoại xâm trong những tháng năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 18
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
Những câu hát rộn ràng, mà vẫn đầy tha thiết được phổ từ bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng đến với thơ ca ông ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với chất ngang tàng, khí thế, vô cùng dũng cảm kiên cường của những người lính, họ là đại diện tiêu biểu cho người lính Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính ra đời vào những năm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra gay go và quyết liệt nhất. Ở khắp nơi các thanh niên gác lại chuyện học tập lên đường đánh giặc, xung phong vào chiến trường. Lúc này con đường Trường Sơn là con đường huyết mạch, nối liền hậu phương và tiền tuyến nên bị bom Mỹ bắn phá ác liệt.
Nhưng bằng sự dũng cảm, lòng quyết tâm những chiếc xe đã vượt qua mưa bom bão đạn lên đường ra trận. Bằng ngòi bút chân thật, âm điệu khỏe khoắn, hào hùng Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của người lính lái xe.
Ngay từ câu thơ mở đầu, người lính đã giới thiệu về người bạn đồng hạnh của mình – những chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Câu thơ vừa có gì đó ngàng tang, nhưng đồng thời cũng hết sức dí dỏm. Lời thơ tự nhiên, chân thật như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Ba chữ không đi cùng với các động từ mạnh: giật, rung giúp diễn tả cái dữ dội, ác liệt của chiến tranh , đồng thời cũng thể hiện cái nhìn lạc quan của người lính. Câu thơ như một lời phân trần, về vẻ ngoài sứt mẻ, thiếu thốn của chiếc xe.
Và đằng sau những chiếc xe thiếu thốn, vỡ kính ấy hiện lên chân dung của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Trước hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh, người lính vẫn hết sức ung dung, đường hoàng. Họ luôn chủ động trước mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Cái nhìn thẳng ấy cho thấy tư thế hiên ngang, nhìn thẳng vào hiện thực cuộc chiến đấu mà không hề né tránh.
Những chiếc xe không kính đó còn tạo điều kiện cho người lính hòa mình vào thiên nhiên. Là những luồng gió mạnh táp thẳng vào buồng lái, khiến cho ai nấy phải cay mắt, nhưng đã được Phạm Tiến Duật hình dung hết sức dí dỏm “xoa mắt đắng” – xoa dịu cái rát bỏng của luồng gió Trường Sơn.
Nào đâu chỉ có vậy, còn chim chóc và sao trời cùng hòa chung với người lính một nhịp thở. Lúc này âm thanh của tiếng chim đã đẩy lùi mọi khó khăn, nguy hiểm, nhường chỗ để họ cảm nhận từng vẻ đẹp của thiên nhiên. Có thể nói bằng cái nhìn bình thản, lạc quan, tư thế ung dung người lính đã chiến thắng mọi bom đạn của kẻ thù.
Ở hai khổ thơ tiếp theo, vẻ đẹp của người lính tiếp tục được khắc họa khi đối mặt với khó khăn, gian khổ ấy chính là khói bụi Trường Sơn:
Không có kính, ừ thì có bụi
…
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Khổ thơ đã sử dụng thủ pháp lặp cấu trúc kết hợp với điệp từ “ừ thì” “chưa cần” khiến cho cả khổ thơ như một lời thách thức trước những thử thách của thiên nhiên. Đây là những câu thơ miêu tả hết sức chân thực về những khó khăn mà người lính lái xe phải trải qua: đối mặt với mưa rào, đối mặt với khói bụi khi trời nắng nóng.
Nhưng đối với họ những thử thách đó chỉ làm cho họ thêm phần kiên cường, họ “chưa cần thay” “chưa cần rửa” để lái trăm cây số, lái nhanh ra tiền tuyến. Kết hợp với giọng thơ đầy ngàng tang đã cho thấy thái độ bất chấp khó khăn, coi người hiểm nguy của người lính Trường Sơn.
Ngoài vẻ đẹp về sự kiên cường, dũng cảm, ở họ còn toát lên tình đồng chí đồng đội gắn bó. Sau những quãng đường đầy mệt nhọc và nguy hiểm, qua cửa kính vỡ rồi họ bắt tay nhau, trao cho nhau sức mạnh, niềm tin vào tương lai đất nước. Đối với họ, không dừng lại ở tình đồng chí đơn thuần mà đó còn là tình cảm gia đình: “Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy” . Để rồi sau bữa cơm quây quần, đầm ấm đó họ chia tay nhau, tiếp tục lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Khổ thơ cuối cùng hình ảnh những chiếc xe không kính xuất hiện lại một lần nữa, xe không kính, không đèn, không mui, vô cùng thiếu thốn, đã bị biến dạng vì bom đạn kẻ thù. Nhưng đó không phải là điều mà Phạm Tiến Duật muốn hướng đến, đối lập với cái không ấy là một cái có vô cùng cao cả, thiêng liêng:
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Trái tim là hình ảnh hoán dụ đặc sắc, biểu tượng cho những người lính lái xe. Chỉ cần trong những chiếc xe đó có trái tim nhiệt huyết, tinh thần quả cảm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thì những chiếc xe đó vẫn ngày đêm băng đèo vượt suối, vượt qua mọi hiểm nguy, tiến về phía trước. Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy những chiếc xe chứ không thể phá hủy lòng nhiệt thành yêu nước của những chiến sĩ cách mạng.
Với ngôn từ giản dị, đậm chất khẩu ngữ cùng giọng thơ ngang tàng, hóm hỉnh, Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc chân dung đẹp đẽ của người lính. Họ vừa có cái hóm hỉnh của tuổi trẻ vừa có sự kiên cường, anh dũng, quả cảm. Vẻ đẹp của những người lính cũng như một bài học nhắc nhở cho chúng ta về ý thức trách nhiệm đối với đất nước.
Trên đây là nội dung bài học Cảm nhận Bài thơ về tiểu đội xe không kính (18 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)