Khái niệm nền kinh tế tri thức là gì? Đặc điểm nền kinh tế tri thức là gì?
Mời bạn đọc cùng tìm hiểu Khái niệm nền kinh tế tri thức là gì? Đặc điểm nền kinh tế tri thức là gì? trong bài viết dưới đây để có câu trả lời nhé.
Khái niệm nền kinh tế tri thức là gì?
Kinh tế tri thức là một khái niệm chỉ một hệ thống kinh tế trong đó sản xuất hàng hóa và dịch vụ chủ yếu dựa trên các hoạt động sử dụng tri thức, thông tin và sự đổi mới. Kinh tế tri thức nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn con người, tài sản trí tuệ và công nghệ thông tin trong việc tạo ra giá trị kinh tế.
Kinh tế tri thức có một số đặc điểm như sau:
Bạn đang xem: Khái niệm nền kinh tế tri thức là gì? Đặc điểm nền kinh tế tri thức là gì?
– Lao động có kỹ năng cao, có khả năng học hỏi, sáng tạo và thích ứng với những thay đổi nhanh chóng.
– Sản xuất ít phụ thuộc vào đầu vào vật chất và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu dựa vào việc sử dụng và biến đổi tri thức và thông tin.
– Tài sản vô hình, như bằng sáng chế, bản quyền, bí mật thương mại, thương hiệu, v.v., trở nên có giá trị hơn trong quá trình kinh doanh.
– Công nghệ thông tin và truyền thông là những công cụ quan trọng để thu thập, lưu trữ, xử lý và phân phối tri thức và thông tin.
– Sự đổi mới là yếu tố then chốt để duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp và quốc gia.
Vai trò của nền kinh tế tri thức là rất quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh cao. Nền kinh tế tri thức giúp:
– Tăng cường năng suất, hiệu quả và chất lượng của sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
– Tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho lao động có kỹ năng cao.
– Thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường.
– Nâng cao thu nhập, tiêu dùng và chất lượng cuộc sống của người dân.
– Tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp và quốc gia.
Các ngành nghề thuộc nền kinh tế tri thức là:
– Các ngành công nghệ cao, như công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ thông tin, …
– Các ngành dịch vụ chuyên biệt, như luật sư, kiểm toán viên, nhà thiết kế, nhà phân tích,..
– Các ngành giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và phát triển.
Đặc điểm nền kinh tế tri thức là gì?
Hầu hết các quốc gia đều lựa chọn con đường tri thức để phát triển, chính vì vậy câu hỏi Kinh tế tri thức là gì được thảo luận rất nhiều cùng với những đặc điểm sau:
Tri thức chính là nguồn lao động sản xuất trực tiếp
Có thể hiểu đơn giản tri thức chính là nguồn động lực thúc đẩy quá trình phát triển của kinh tế, là nguồn vốn vô hạn, không bị hao mòn, mất đi mà còn được nâng cao, tích lũy trong quá trình làm việc.
Hình thức sản xuất quan trọng là sản xuất công nghệ
Đây là hình thức được xem là quan trọng nhất, bởi lao động luôn phải cập nhật, củng cố, sáng tạo ra những sản phẩm công nghệ mới.
Chúng ta có thể thấy thế giới thực đang được dần chuyển hoá thành thế giới số với những công nghệ vượt bậc như: Internet, lưu trữ đám mây, AI – trí tuệ nhân tạo,…
Lao động tri thức chiếm tỉ lệ cao trong quá trình sản xuất
Việc làm trong sản xuất đang có sự dịch chuyển về nguồn lực lao động. Số lượng nhân viên văn phòng tăng lên sẽ khiến cho số lượng nông dân, công dân giảm đi, sự cạnh tranh trong thị trường lao động cũng ngày một tăng cao.
Nguồn lao động tri thức sẽ tạo ra được nhiều sản phẩm mang giá trị cao, dựa trên ứng dụng khoa học công nghệ nên cần đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Kinh tế tri thức chính là hệ quả của toàn cầu hóa
Nguồn lao động có trình độ cao sẽ ngày một phát triển, tự tạo cho mình những vị trí nhất định, hướng tới việc có thể hoạt động tại bất kỳ quốc gia nào và trở thành công dân toàn cầu.
Sự phát triển của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam
Trong bối cảnh kinh tế cạnh tranh, quốc gia nào muốn đi nhanh, muốn dẫn đầu xu thế đều phải dựa trên kinh tế tri thức, Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Thuận lợi và xu thế phát triển của kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức đã mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong quá trình thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Về môi trường kinh tế và thể chế xã hội đã có nhiều biến động. Mặc dù trong giai đoạn COVID-19 phải chịu nhiều ảnh hưởng nhưng tốc độ GDP vẫn đạt dương. Đảng và Nhà nước cũng đã chú trọng nhiều hơn đến sự phát triển của kinh tế tri thức.
Về giáo dục đang dần dần cải thiện xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực giáo dục.
Về sản xuất, luôn chú trọng sản xuất theo nhu cầu tiêu dùng, điều tiết được cung và cầu, tránh tình trạng thiếu sản phẩm hoặc sản phẩm tồn kho.
Về sáng tạo và đổi mới toàn cầu thì năm 2021 Việt Nam được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới đánh giá xếp thứ 48/132, thuộc nhóm quốc gia đã có những tiến bộ vượt bậc trong thập kỷ qua.
Đối với công nghệ thông tin, Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt trong vòng 20 năm (2000-2021), năm 2021 doanh thu của ngành Công nghiệp công nghệ thông tin tăng trưởng đến 9% so với năm 2020.
Dựa trên các số liệu có thể thấy các chỉ số của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức so với các quốc gia trong khu vực có sự tăng trưởng khả quan.
Khó khăn và thách thức trong quá trình phát triển kinh tế tri thức
Bên cạnh thuận lợi vượt trội, Việt Nam vẫn có mặt khó khăn và thách thức cần phải vượt qua.
Mặc dù nước ta đang có lợi thế về mặt nhân lực dồi dào, tuy nhiên chất lượng nguồn lực này lại chưa cao so với các quốc gia trong khu vực. Đòi hỏi người lao động phải không ngừng rèn luyện, học hỏi và sáng tạo, nâng cao kiến thức của bản thân.
Bên cạnh đó, người lao động có nguy cơ trở thành những “cỗ máy”, làm việc không có thời gian nghỉ ngơi sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ.
Công nghệ kỹ thuật liên tục phát triển và đổi mới, dẫn đến việc không tận dụng hết khả năng, công dụng của sản phẩm, làm lãng phí tài nguyên, khó nắm bắt các kỹ thuật tiên tiến.
Đặc biệt với sự phát triển chóng mặt của công nghệ, thế giới ảo ngày càng được mở rộng khiến cho lớp trẻ dễ sa vào lối sống buông thả, ảo tưởng.
Nền tảng của nền kinh tế tri thức là gì?
Thông tin, tri thức và công nghệ thông tin và truyền thông chính là 3 yếu tố tạo nên nền tảng của kinh tế tri thức.
Thông tin được đưa ra để chia sẻ và tái sử dụng nhằm mục đích tạo ra những giá trị mới, nhờ đó mà nâng cao năng suất và chất lượng xã hội.
Tri thức được xem như là tài sản quan trọng, cần gìn giữ và củng cố để vận dụng vào thực tiễn, nguồn lực lao động có tri thức sẽ giúp cho kinh tế vượt trội nhanh chóng.
Còn công nghệ thông tin và truyền thông sẽ cung cấp cho nền kinh tế tri thức những công cụ truyền tải, xử lý dữ liệu hiệu quả.
Nền kinh tế tri thức có những vai trò gì?
Vai trò quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức chính là nguồn lực sản xuất dựa vào tri thức. Hiện nay, các quốc gia phát triển muốn khẳng định vị thế vượt trội của mình, đều luôn đầu tư vào tri thức, đầu tư đào tạo con người
Nền kinh tế tri thức cũng phải dựa trên những thành tựu của khoa học công nghệ để hoàn thiện những công trình nghiên cứu còn đang giang dở. Đồng thời tối ưu hóa các công nghệ có sẵn, dựa vào đó để chế tạo những công nghệ tiên tiến hiện đại hơn.
Nguồn lực lao động phải không ngừng cải thiện, dịch chuyển từ những lao động có trình độ thấp sang lao động có trí tuệ, lao động có trí tuệ cao. Trong nền kinh tế tri thức, việc sáng tạo, đổi mới luôn được chú trọng để tạo ra được nhiều sản phẩm có giá trị cao trong thời gian ngắn, đáp ứng được các nhu cầu của xã hội.
Mục tiêu toàn cầu hóa luôn được đề cao bởi mong muốn làm việc linh hoạt, người lao động có thể làm việc ở bất kỳ quốc gia nào có cùng trình độ.
Quyền sở hữu trí tuệ đặc biệt cần được coi trọng và duy trì, bởi quyền sở hữu trí tuệ đại diện cho năng lực, sự sáng tạo của con người. Yếu tố này là tiềm năng để phát triển, thể hiện khả năng cạnh tranh kinh tế giữa các nước.
Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ XXI, đặc trưng của nền kinh tế tri thức là thị trường chất xám, trong đó con người là vốn quý nhất.
Từ những năm 80 trở lại đây, do tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng lượng…nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, toàn diện, chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với quá trình phát triển của nhân loại.
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua là nền kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế công nghiệp và đang bước vào nền kinh tế tri thức. Khái niệm nền kinh tế tri thức ra đời từ năm 1995 do Tổ chức OPDC nêu ra” Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Theo định nghĩa của WBI, kinh tế tri thức là: “Nền kinh tế dựa vào tri thức như động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế. Có người cho rằng: Kinh tế tri thức là hình thức phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hoá, trong đó công thức cơ bản Tiền – Hàng – Tiền được thay thế bằng Tiền – Tri thức – Tiền và vai trò quyết định của tri thức.
Vậy kinh tế tri thức là gì? Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế.
Kinh tế tri thức cũng được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao. Hoặc cũng được hiểu, là một loại môi trường kinh tế- kỹ thuật, văn hoá-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội.
Nền kinh tế tri thức dựa trên 4 tiêu chí:
- GDP, trên 70% là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ cao mang lại.
- Cơ cấu giá trị gia tăng, trên 70 % là kết quả của lao động trí óc,
- Lao động xã hội, trên 70% lực lượng lao động là lao động trí thức
- Vốn sản xuất, trên 70% là vốn về con người.
Trong nền kinh tế tri thức, của cải làm ra chủ yếu dựa vào cái chưa biết, cái đã biết không có giá trị. Tìm cái chưa biết tức là tạo ra giá trị mới. Khi phát hiện ra cái chưa biết, thì cũng tức là loại trừ cái đã biết, cái cũ mất đi thay thế bằng cái mới; phát triển từ cái mới, không phải từ số lượng lớn dần lên, nền kinh tế xã hội luôn đổi mới. Sức mạnh của nền kinh tế tri thức dựa vào ba loại hình công nghệ, được xem như là ba thành quả điển hình:
- Công nghệ sinh học, bao gồm cả công nghệ gen. Bằng công nghệ sinh học, con người có thể cải tạo được những yếu tố cơ bản của thế giới hữu cơ, trong đó có cả bản thân sự sống của loài người.
- Công nghệ nano, dựa trên những thành quả của việc sắp sếp lại cấu trúc nguyên tử, thông qua đó con người có thể tác động cả vào bản chất của thế giới vô cơ.
- Công nghệ tin học, thông tin (ICT) với các siêu máy tính. Công nghệ tin học chính là công nghệ trí tuệ điển hình. Con người nhờ vào đó mà tổ chức quản lý, điều hành và thực hiện các quy trình sản xuất hết sức tinh vi, phức tạp mà con người không thể nào thực hiện nổi, thậm chí không nghĩ tới quá khứ tồn tại của mình. Cũng nhờ có công nghệ tin học mà con người có thể làm phong phú lên gấp nhiều lần các mối quan hệ trong đời sống xã hội, giữa con người với con người.
Kinh tế tri thức là một khái niệm mà nó không có trong chủ nghĩa Mác Lê nin cũng như trong các tài liệu triết học trước đó. Nó ra đời trong bối cảnh nền công nghệ thông tin toàn cầu phát triển mạnh mẽ với tốc độ chưa từng có. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là ở đó con người sử dụng các loại hình công cụ chủ yếu là để thực hiện các thao tác trí tuệ. Nền kinh tế tri thức có 10 đặc trưng chủ yếu:
- Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ mới trở thành chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh
- Ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực; mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp, kết nối hầu hết các tổ chức, gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin.
- Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi đó là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học sản xuất được thể chế hoá, không còn phân biệt giữa phòng thí nghiệm và công xưởng, những người làm việc trong đó họ vừa là nhà nghiên cứu vừa là nhà sản xuất, họ là những công nhân trí thức…
- Xã hội học tập, giáo dục phát triển, đầu tư cho giáo dục khoa học chiếm tỷ lệ cao. Đầu tư vô hình (con người, giáo dục, khoa học…) cao hơn đầu tư hữu hình (cơ sở vật chất). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập ở bất cứ lúc nào. Mạng thông tin có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho việc học tập suốt đời.
- Tri thức trở thành vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Tri thức và thông tin được tăng lên khi sử dụng, không mất đi khi sử dụng (các nguồn vốn khác bị mất đi khi sử dụng).
- Sáng tạo là linh hồn của đổi mới, sáng tạo là vô tận. Đổi mới thường xuyên là động lực thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn, có khi chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
- Dân chủ hoá, xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ dàng truy cập thông tin mình cần. Điều này dẫn đến dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành xã hội. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các chính sách của Nhà nước, các tổ chức và có ý kiến ngay khi thấy không phù hợp.
- Các doanh nghiệp vừa hợp tác vừa cạnh tranh để phát triển. Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công, lớn mạnh lên thì các công ty khác phải tìm cách sáp nhập hoặc chuyển hướng hoạt động.
- Nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm được sản xuất từ bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới hoặc sản phẩm phần lớn được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới, kết quả cao của công ty ảo, làm việc từ xa.
- Sự thách đó văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức- xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá phong ohú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức của người dân cũng tăng cao, giao lưu văn hoá thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hoá giao thoa, đễ tiếp thu các tinh hoa văn hoá của nhân loại để phát triển. Nhưng các nền văn hoá cũng đứng trước nguy cơ rủi ro cao, dễ bị pha tạp, lai căng, dễ mất bản sắc văn hoá dân tộc.
Theo WBI, một quốc gia muốn chuyển sang nền kinh tế tri thức, trước tiên cần hình thành 4 trụ cột quan trọng, đó là:
- Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức. Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do của tri thức, hỗ trợ công nghệ thông tin và truyền thông, khuyến khích việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của kinh tế tri thức.
- Giáo dục và đào tạo. Hệ thống giáo dục và đào tạo có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo, nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao
- Hạ tầng cơ sở thông tin (ICT) hiện đại. Một cơ sở thông tin động, từ radio đến internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến và sử lý thông tin.
- Hệ thống sáng tạo có hiệu quả. Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước,và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
Vì vậy, để xây dựng nền kinh tế tri thức, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là. Phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ chế chính sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền.
Hai là. Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, Tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải cách giáo dục. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân..
Ba là. Tập trung tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiến tiến của Việt Nam
Bốn là. Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.
Vai trò của người lao động đối với nền kinh tế tri thức
Người lao động có vai trò rất quan trọng đối với kinh tế tri thức, bởi vì:
– Họ là những người sử dụng tri thức để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị kinh tế cao.
– Họ là những người học hỏi, sáng tạo và thích ứng với những thay đổi nhanh chóng trong môi trường cạnh tranh toàn cầu.
– Họ là những người đóng góp vào quá trình phát triển khoa học và công nghệ, giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường.
– Họ là những người nâng cao thu nhập, tiêu dùng và chất lượng cuộc sống của bản thân và xã hội.
Vì vậy, để phát huy vai trò của người lao động trong kinh tế tri thức, cần có những chính sách và biện pháp nhằm:
– Đầu tư vào giáo dục, đào tạo và nâng cao kỹ năng cho lao động.
– Tạo ra một môi trường làm việc thuận lợi, khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới và hợp tách.
– Bảo vệ quyền lợi và lợi ích của lao động, tôn trọng sự đóng góp của họ.
– Thúc đẩy sự tham gia của lao động vào các hoạt động xã hội, văn hóa và chính trị.
***
Trên đây là nội dung bài viết giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về Khái niệm nền kinh tế tri thức là gì? Đặc điểm nền kinh tế tri thức là gì? . Mọi thông tin trong bài viết Khái niệm nền kinh tế tri thức là gì? Đặc điểm nền kinh tế tri thức là gì? đều được xác thực rõ ràng trước khi đăng tải. Tuy nhiên đôi lúc vẫn không tránh khỏi những sai xót đáng tiếc. Hãy để lại bình luận xuống phía dưới bài viết để đội ngũ biên tập được nắm bắt ý kiến từ bạn đọc.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Tổng hợp