Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 13 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Dàn ý Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính chi tiết
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính (13 mẫu)
– Giới thiệu về tác giả Phạm Tiến Duật và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:
- Phạm Tiến Duật là nhà thơ thuộc thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ
- Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của ông là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc, đặc biệt là 3 khổ cuối.
2. Thân bài:
a. Khái quát chung về tác phẩm, 3 khổ cuối:
- Bài thơ được sáng tác năm 1969, in trong tập Vầng trăng quầng lửa của nhà thơ.
- Bài thơ khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe trên đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ.
- Ba khổ cuối: khắc hoạ hình ảnh người lính lái xe với tình đồng chí, đồng đội thắm thiết cùng ý chí, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam.
b. Phân tích:
* Khổ 5, 6: Tình đồng chí, đồng đội của những người lính lái xe:
- Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi”: gợi lên sự khốc liệt của chiến tranh cũng như sự gan góc, dũng cảm của những người lính.
- Trải qua quãng đường dài, những người lính tụ họp cùng nhau thành “tiểu đội”, vui vẻ, quây quần.
- Tình đồng chí, đồng đội được xây dựng lên từ những lần tụ họp như thế, từ những cái “bắt tay” nhau vội vã qua “cửa kính vỡ rồi”. (So sánh với thơ Chính Hữu).
- Tình cảm đồng chí đồng đội còn được xây dựng qua những phút giây nghỉ ngơi ngắn ngủi, cùng nhau quây quần bên “bếp Hoàng Cầm”, ngủ trên “võng mắc chông chênh”.
- Phạm Tiến Duật đã chỉ ra khái niệm gia đình thật đơn giản “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn như anh em trong nhà.
– Câu thơ cuối “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”:
- “Lại đi, lại đi”: một hành động được lặp lại vô số lần.
- “Trời xanh”: hình ảnh ẩn dụ cho bầu trời của hoà bình, tự do.
- Những người lính tiến cứ đều đặn lái xe về phía trước, với ý chí quyết tâm giành lại tự do, hoà bình cho dân tộc.
* Khổ cuối: Ý chí và quyết tâm chiến đấu vì miền Nam:
- Những thiếu thốn vật chất càng tăng thêm so với khổ 1: “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”.
- Vậy nhưng những người lính lái xe vẫn vượt qua mọi khó khăn để tiến về phía trước vì miền Nam vì “trong xe có một trái tim”.
- Hình ảnh “trái tim”: hình ảnh hoán dụ, tượng trưng cho những người lính lái xe.
- Hai từ “chỉ cần” ở đầu câu thơ cuối cho thấy thái độ ngang tàng, hiên ngang của những người lính lái xe.
- Nhịp thơ ở đây cũng dồn dập hơn, gấp gáp hơn, như nhịp hành quân vội vã.
- Câu thơ cuối là câu thơ đẹp nhất của bài thơ, thể hiện ý chí, sự quyết tâm của những người lính lái xe Trường Sơn.
c. Đánh giá nội dung, nghệ thuật:
– Nội dung: ba khổ cuối là những câu thơ về tình cảm đồng chí đồng đội thắm thiết, nghĩa tình của những người lính lái xe cùng ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.
– Nghệ thuật:
- Chất liệu hiện thực cùng giọng thơ khỏe khoắn, vui tươi.
- Nhịp thơ biến đổi linh hoạt
- Các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ được sử dụng rất thành công.
3. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị của bài thơ và 3 khổ cuối bài thơ.
13 bài mẫu Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 1
Khi nhận xét về nhà thơ Phạm Tiến Duật, Nguyễn Ngọc Thiện đã từng nói “Hồn thơ Phạm Tiến Duật phóng khoáng, rộng mở, cái đẹp của cuộc sống chiến đấu đi vào thơ ông tự nhiên và rất thật”. Đúng vậy! Và tiêu biểu cho phong cách thơ đó phải kể đến “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Ở ba khổ thơ cuối, tác giả nhấn mạnh tình đồng đội gắn bó keo sơn và ý chí chiến đấu dũng cảm của người chiến sĩ.
Sau những hành trình dài lái xe vất vả, người lính có những phút giây yên bình:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Những chiếc xe không có kính bởi sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh. Các anh lái xe từ mọi miền khác nhau tụ họp về đây tạo thành một “tiểu đội xe không kính”. Đường các anh đi chính là con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên hành trình đó, họ gặp gỡ thêm được những người bạn mới. Khoảnh khắc gặp nhau trở nên thú vị hơn bao giờ hết qua cái “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay đầy ý nghĩa như truyền hơi ấm, tiếp thêm sức mạnh cho họ trong chiến đấu. Hành động này khiến ta chợt nhớ đến cái nắm tay thân thương của những người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Không chỉ đồng hành trong chiến đấu những người lính còn cùng nhau sinh hoạt tập thể:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Trong những phút giây nghỉ ngơi, người lính cùng nhau dựng lên chiếc bếp giữa rừng và cùng ăn bữa cơm. Khoảnh khắc họ quây quần bên nhau thật giống như một gia đình thực sự. Ở câu thơ thứ ba “Võng mắc chông chênh đường xe chạy” đã diễn tả giấc ngủ vội vàng của người lính. Sau đó, họ lại tiếp tục lên đường để hoàn thành nhiệm vụ của mình. “Lại đi, lại đi” nhấn mạnh hành trình lái xe không ngừng nghỉ của người lính. Hình ảnh “trời xanh thêm” thể hiện niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng. Đó là màu xanh của hòa bình, tự do, của tương lai độc lập phía trước. Chính sắc xanh ấy đã tiếp thêm động lực để những người chiến sĩ vững tay lái trên chặng đường tiếp theo.
Khổ thơ cuối, tác giả đã làm nổi bật tinh thần chiến đấu kiên cường của người lính:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tác giả sử dụng điệp ngữ “không có” kết hợp với việc liệt kê những hình ảnh “kính, đèn, mui xe” đã nhấn mạnh sức tàn phá nặng nề của chiến tranh. Bước ra khỏi cuộc chiến, những bộ phận quan trọng của chiếc xe đều bị bom đạn phá hủy. Nhưng không vì thế mà người lính chùn bước, bỏ cuộc. “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Càng khó khăn, họ càng vững chắc tay lái, quyết tâm vượt qua mọi mưa bom bão đạn để đem đến tự do cho miền Nam. Câu thơ cuối là lời khẳng định về lí tưởng cách mạng cao đẹp: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Đó là trái tim của tình yêu nước, của ý chí chiến đấu mạnh mẽ. Dù xe có thiếu đèn, thiếu kính nhưng chỉ cần họ còn giữ được tinh thần quyết tâm chiến đấu thì không gì có thể ngăn cản bước chân người lính trẻ.
Vậy qua ba khổ thơ cuối, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã giúp ta cảm nhận hình ảnh những người lính lái xe dũng cảm trên tuyến đường Trường Sơn. Đã nhiều năm tháng trôi qua kể từ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi nhưng hình ảnh của họ vẫn còn sống mãi trong trái tim người đọc. Bài thơ như một lời nhắc nhở mỗi người cần trân trọng, biết ơn công lao của những thế hệ đi trước. Chính họ đã hi sinh để mang cho ta cuộc sống hòa bình như ngày hôm nay.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 2
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, những chiến sĩ lái xe trên tuyến Đường Trường Sơn đã đi vào văn học với tư cách là những anh hùng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay viết về những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Ba khổ thơ cuối là đỉnh điểm của mạch cảm xúc và tứ thơ được nảy nở sáng rõ, để lại ấn tượng trong lòng độc giả về cuộc chiến tranh ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn và phẩm chất cao đẹp của người lính lái xe.
Bài thơ có bảy khổ, khổ nào cũng có hình ảnh chiếc xe, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ và cái ác liệt cùng sự anh hùng. Từ những chiếc xe tải không kính trên tuyến đường Trường Sơn, ta vẫn thấy được tinh thần ung dung bình tĩnh, hiên ngang dũng cảm của người lính lái xe. Mỗi khổ thơ hiện lên một vẻ đẹp của người chiến sĩ. Bức chân dung đẹp ấy lại được khắc họa rõ nét qua tình cảm đồng chí, đồng đội nồng ấm và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng cao cả, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Ở ba khổ thơ cuối, chân dung, tâm hồn của người lính lái xe được gợi ra cũng chính từ hình ảnh những chiếc xe không có kính:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Từ trong khói lửa bom đạn, tức là từ trong ác liệt của chiến tranh những người lính đã tập họp lại thành tiểu đội, thành đồng chí, bạn bè. vẫn lời thơ tự nhiên đầy cảm xúc, từ ngữ giản dị mà sâu sắc, khổ thơ đã khẳng định tình đồng đội được nảy sinh và hình thành khi cùng trải qua chiến tranh ác liệt. Các anh đã trải qua bom đạn của chiến tranh với tinh thần phơi phới. Trong bom đạn hiểm nguy, những chiếc xe không kính vừa thoát khỏi cái chết trong gang tấc giờ đây đã họp thành đội ngũ anh hùng: đội ngũ của những chiếc xe không kính. Họ là những con người từ bốn phương cùng chung lí tưởng chiến đấu, gặp nhau thành bạn bè.
Ngôn ngữ thơ giản dị nhưng chất thơ toát ra từ cảm xúc của tác giả giúp ta hình dung những chiếc xe không kính vẫn vượt qua bom đạn băng băng ra tiền tuyến. Cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi là hình ảnh thơ đầy xúc động như tiếp thêm sức mạnh cho họ vượt qua mọi thử thách. Tình cảm người lính gắn bó như anh em trong một gia đình:
Bếp Hoàng cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đây
Võng mắc chông chênh trên đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Ăn uống chung bát đũa như trong một gia đình. Rồi các anh lại cùng nhau lên đường lại đi, lại đi trời xanh thêm. Câu thơ bay bay phơi phới lãng mạn thật mộng mơ. Điệp ngữ lại đi là một sự khẳng định, sự tự tin hướng về phía trước, hướng về Miền Nam với niềm lạc quan, yêu đời với tất cả lí tưởng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trời xanh là cái xanh của thiên nhiên, của sắc trời nhưng còn là màu xanh của hi vọng, màu xanh của tuổi trẻ.
Đoạn thơ nổi bật vì hình ảnh thơ độc đáo: những chiếc xe không có kính băng ra chiến trường. Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn càng làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe cỏ xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Điệp từ không nhấn mạnh chiến tranh ngày càng khốc liệt làm cho chiếc xe biến dạng đến trần trụi. Nhưng xe vẫn băng băng tiến về miền Nam. Tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến và phẩm chất của người lính lái xe, ý chí kiên cường của người chiến sĩ quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược. Hình ảnh hoán dụ một trái tim xuất hiện trong câu thơ thật gợi cảm, ta cảm nhận được cuộc sống vui tươi, tình yêu nước nồng nàn cháy bỏng.
Trái tim như ngọn đèn, như mặt trời ờ cuối bài thơ như làm ấm, làm sáng rực lên chiến trường nhiều gian khó.
Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở trái tim gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ chỉ cần trong xe có một trái tim là chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, con mắt của thơ làm bật lên chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu đi phương tiện vật chất tối thiểu nhưng những chiến sĩ vận tải vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng:
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.
(Tuổi 25, Tố Hữu)
Bài thơ về tiểu đội xe không kính nói chung và đoạn thơ nói riêng là một thi phẩm đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam một thời máu lửa mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, đoạn thơ đã khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá con người. Ba khổ cuối của bài thơ vẫn là hình ảnh những chiếc xe không có kính, xe bị biến dạng nhưng tinh thần người người thì luôn hướng tới miền Nam với những quyết tâm lớn lao. Xe phải đi, phải lao nhanh ra chiến trường, xe thẳng tiến để chi viện cho tiền tuyến miền Nam yêu dấu. Sự quyết tâm cùng với tấm lòng yêu nước của người lính trẻ đã để lại cho ta những cảm phục mến yêu.
Ba khổ thơ cuối bài đã khép lại con đường tới miền Nam yêu dấu đã tới đích từ mấy chục năm trong sự thống nhất non sông. Nhưng đâu đây bên tai ta vẫn tiếng xe chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười ha ha của những người lính lái xe can trường. Thể hệ nào cũng vậy, cũng có những con người can trường với sứ mệnh đè nặng trên đôi vai của mình.
Bước chân sang thế kỉ XXI, trận đấu của mỗi người trẻ tuổi của chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng những gì hào hùng, thật hấp dẫn ở người lính lái xe ờ thế hệ cha ông vẫn luôn là sự khích lệ, là sự nêu gương để chúng ta gắng sức.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 3
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ. Thơ ông tập trung thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969, nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Bài thơ mà điển hình là ba khổ thơ cuối đã khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh nhưng qua đó làm nổi bật lên hình tượng người lính với bao phẩm chất cao đẹp.
Sau những chặng đường dây mưa bom bão đạn đây gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có giây phút bình yên:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”
Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi nên qua thử cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, những chiếc xe lại được quây quần bên nhau thành “tiểu đội” – đơn vị nhỏ nhất trong quân ngũ (gồm 12 người). Tiểu đội xe không kính là mười hai chiếc xe và cứ như thế có biết bao nhiêu tiểu đội trên đường ra trận, kể sao cho hết? Suốt dọc đường vào Nam, tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù chỉ trong giây phút nhưng đều là bè bạn “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Mặt khác con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn bè.
Bên cạnh đó, giây phút gặp nhau ấy thật thú vị qua cái “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – một cử chỉ thật thân thiện, cảm động. Có biết bao nhiêu điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường hiểm nguy gian khó. Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về đến đích. Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sẻ cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau giữa những người đồng chí, đồng đội chung một chiến hào, chưng một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất.
Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt. Chúng ta hãy nghe Phạm Tiến Duật kể về những cái chung ấy:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”
Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là tín hiệu của sự sum vầy, hội ngộ sau chặng đường hành quân vất vả. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là một gia đình ấm cúng, chan chứa yêu thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung một con đường hành quân, một chiến hào, một nhiệm vụ. Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật bình thường nhưng cũng thật cao đẹp thiêng liêng. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tình đồng chí đã trở thành sức mạnh vô giá, giúp người lính trụ vững nơi chiến trường bom đạn, giành chiến thắng trước quân thù.
Sau một bữa cơm sum họp thân mật, một vài câu chuyện thân tình, những người lính trẻ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi , lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó không chỉ biểu tượng cho sự sống mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình, chứa chan hi vọng chiến công lớn đang chờ. Người chiến sĩ lái xe chính là tự do của nhân loại. Họ chiến đấu để giành lại trời xanh. Chính vì thế dù gian khó hiểm nguy đến đâu, họ cũng vẫn quyết tâm lái xe bon bon về phía trước. Đây không phải là một mệnh lệnh khô khan, là nhiệm vụ đơn thuần mà là tinh thần, là ý chí, là tình cảm của người lính luôn hướng trái tim về miền Nam ruột thịt.
Khổ thơ kết, hình ảnh thơ được lặp lại những chiếc xe không kính. Nhưng từ đây để làm nổi bật vẻ đẹp của người lính lái xe:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Giờ đây những chiếc xe ấy không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. Nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bão? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái không có ở trên , nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”. Trái tim là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Trái tim ấy dạt dào tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng … Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mĩ bạo tàn. Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi.
Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ.
Với một chất liệu hiện thực độc đáo, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp điệu biến hóa linh hoạt: khi thì như lời hội thoại, khi thì như khúc văn xuôi phù hợp với nhịp hành quân của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa. Qua đây, có thể khẳng định rằng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những thi phẩm tiêu biểu viết về thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Các anh đã dệt nên những bản tình ca bất hủ cho đất nước.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 4
… Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Từ mái trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phạm Tiến Duật bước vào đời lính chiến đấu và hoạt động trên con đường chiến lược Trường Sơn những năm tháng đánh Mỹ ác liệt nhất. Lửa khói chiến trường, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, những cô gái thanh niên xung phong, những chiến sĩ lái xe dũng cảm… in dấu chói lọi, kỳ vĩ như những tượng đài trong thơ Phạm Tiến Duật.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong Vầng trăng – Quầng lửa những bài ca chiến trận thấm đẫm màu sắc lãng mạn. Đây là đoạn cuối bài thơ ghi lại cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính, ca ngợi tình đồng đội và lý tưởng chiến đấu cao cả của những chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh:
… Những chiếc xe từ trong bom rơi
….
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Sau những tháng ngày chiến dịch chở vũ khí lương thực… chi viện cho tiền phương, vượt qua hàng nghìn hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, tiểu đội xe không kính “đã về đây… Một cái bắt tay thắm tình bè bạn, tình đồng chí:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính, nhưng mỗi thời một khác. Anh vệ quốc quân trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp:
Miệng cười buốt giá
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Đồng chí – Chính Hữu, 1948)
Anh giải phóng quân trên đường chiến dịch, gặp bè bạn đồng đội “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Tình thương yêu đồng chí đồng đội là bản chất, là sức mạnh của người lính không hề thay đổi. Từ cái “nắm lấy bàn tay” đến cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” là một quá trình trưởng thành và hiện đại của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc và đất nước.
Cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng chí, tình đồng đội. Chỉ bằng ba chi tiết nhưng rất điển hình: “bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa”, “ võng mắc chông chênh”, đời lính vốn giản dị, bình dị mà lại rất sang trọng. Giữa chiến trường đầy bom đạn mà họ vẫn đàng hoàng: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”. Giữa trời là giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có một bát canh rau rừng, có lương khô… thế mà rất đậm đà: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương.
“Thơ là nữ hoàng nghệ thuật”, có người đã nói như vậy. Nếu thế thì ngôn từ là chiếc áo của nữ hoàng. Hai chữ “nghĩa là” chỉ dùng để “đưa đẩy” nhưng dưới ngòi bút của những tài thơ đích thực thì nó trở nên óng ánh, duyên dáng. Với Xuân Diệu, mùa xuân tuổi trẻ thật đẹp, thật đáng yêu, một đi không trở lại
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất…
(Vội vàng – 1938)
Với Tố Hữu, người thanh niên cộng sản quyết chiến đấu và hy sinh vì một lý tưởng cách mạng cao đẹp thì hận, nhục, tranh đấu là lẽ sống thiêng liêng:
Tôi chưa chết nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc!
(Tâm tư trong tù – 1939)
Với Phạm Tiến Duật, tình đồng đội cũng là tình anh em ruột thịt, vô cùng thân thiết:
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Có yêu thơ mới tìm đến thơ. Tìm đến thơ, một phần là tìm đến ngôn từ chữ nghĩa. Thơ đâu là chuyện “nhái câu nhá chữ’”(chữ dùng của Cao Bá Quát). Thi sĩ có thực tài mới có thể thổi hồn vào ngôn từ. Chỉ qua hai chữ “nghĩa là”, ta đã thấy nhà thơ trẻ rất xứng đáng với các thi sĩ đàn anh. Cảnh đoàn viên tri kỷ: “võng mắc chông chênh đường xe chạy”. Sau một bữa cơm thân mật, một vài câu chuyện thân tình lúc nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường. Tiền phương vẫy gọi:
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường, những chặng đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chứa chan hy vọng. Là hy vọng, là chiến công đang đón chờ. Đây là một đoạn thơ thể hiện sinh hoạt vật chất và tinh thần người lính thời đánh Mỹ, rất độc đáo mà ta ít gặp trong thơ thời ấy:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Khổ cuối bài thơ nói lên suy nghĩ của tác giả về tiểu đội xe không kính. Chiếc xe đầy thương tích, chiến tích. Không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe bị xước. Chiếc xe vận tải quân sự mang tầm vóc những anh hùng lẫm liệt vô danh. ”Không” mà lại “có”, có “một trái tim” của người lính. Trái tim rực lửa, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chi cần trong xe có một trái tim.
Các điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng: “vẫn … chỉ cần có…” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có bom đạn nào của quân thù có thể làm lay chuyển được. “Trái tim” trong thơ Phạm Tiến Duật là một hình ảnh hoán dụ, tuy không mới mẻ nhưng đầy ý vị.
Đoạn thơ trên đây thể hiện rất thực, rất hay cách sống, cách nghĩ, cách cảm của những người chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh thời đánh Mỹ. Tình đồng đội, tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam của người lính tỏa sáng vần thơ.
Ngôn từ, hình ảnh, vần thơ, giọng thơ… đều mang chất lính, thể hiện một hồn thơ trẻ trung phơi phới, tài hoa, anh hùng. Đoạn thơ trên đây là một tiếng ca của khúc tráng ca Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 5
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy cam go và oanh liệt của nhân dân đã kết thúc thắng lợi. Trong “mưa bom bão đạn” trên tuyến đường Trường Sơn trước đây có bao kỳ tích xảy ra. Một trong những thần thoại của thế kỷ XX là hình ảnh những đoàn xe không có kính vẫn băng ra trận tuyến, nối đuôi nhau đi lên phía trước, góp phần làm nên những kỳ tích của dân tộc. Xúc động trước hiện thực lớn lao đó của đồng đội, Phạm Tiến Duật đã sáng tác “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Trong bài ca người lính độc đáo này, tác giả đã bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về những chiến sĩ lái xe, về dân tộc và đất nước :
“… Những chiếc xe từ trong bom rơi
….
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tìm hiểu bài thơ và đặc biệt ba đoạn thơ trên ta sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp kỳ diệu của thơ ca Việt Nam thời chống mỹ cứu nước.
Mở đầu bài thơ tác giả viết:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Nhịp đập ở đây hơi lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “ mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Hình như, chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng.
Đoàn xe không kính ngày càng ra đi xa. Càng đi sâu vào chiến trường. Khổ thơ tiếp theo nói tới sinh hoạt trên đường của họ:
“Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời
….
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”
Sinh hoạt của người lái xe, cái ăn cái ngủ bình thường của con người, được tóm lược vào trong hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh[”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ vế chúng thật tươi tắn và cảm động : là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra từ những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Sức sống thơ cũng chính là ở đây và câu thơ đó đã cất cánh bay cao :” Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hai chữ “lại đi” được lặp lại biểu hiện đoàn xe không ngừng tiến tới, không một sức mạnh bạo tàn nào của giặc Mỹ có thể ngăn nổi. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian cao xa.
Câu thơ đã gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng. Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói bình thường. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ vận tải Trường Sơn:
“ Không có kính rồi xe không có đèn
….
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bốn câu thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập, những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống : không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam.” Vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. đặc biệt, tỏa sáng chói ngời cả đoạn thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim.” Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ?
Tình yêu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vững tay lái xe về tới đích ? Và ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là có người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và mọi niềm tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng. Nó là “con mắt của thơ” bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ. Bài thơ được khép lại mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ câu thơ ấy.
Tóm lại, những khổ thơ trên đã phác họa những hình tượng đẹp về người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm cứu nước. Những câu thơ giản dị, hình ảnh sinh động cụ thể, sự đối lập ở từng khổ thơ, tác giả đã để lại những ấn tượng đẹp về tiểu đội xe không kính. Cảm ơn nhà thơ đã cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu thêm về cha anh trước đây trong thời đất nước có chiến tranh. Hiểu được điều đó, có lẽ, chúng ta, những học sinh sẽ sống tốt hơn.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 6
Bỏ qua những khó khăn, vất vả, những người lính Trường Sơn đã kết bạn với nhau trên đường đi chiến đấu, tiếp cho nhau thêm sức mạnh tiến tới. Ba khổ thơ cuối bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã đề cao tinh thần đoàn kết cao đẹp của người lính cụ Hồ. Chính sức mạnh của họ đã đưa kháng chiến tới thắng lợi.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong “Vầng trăng – Quầng lửa”. Đây là đoạn cuối bài thơ ghi lại cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính, ca ngợi tình đồng đội và lí tưởng chiến đấu cao cả của những chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh.
Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe không kính”
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới.
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn: “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”. Họ có thể “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mà không cần mở cửa xe, thoải mái, tự hào và thắm tình đồng đội. Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính nhưng mỗi thời một khác. Anh Vệ quốc quân trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp:
Miệng cười buốt giá
Thương nhau nắm lấy bàn tay.
Chỉ một cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ động viên nhau, cảm thông với nhau. Cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Tình cảm ấy thắm thiết như ruột thịt, như anh em trong gia đình. “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” – một cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật tếu hóm và tình cảm thật sâu nặng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung: chung bát, chung đĩa, nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô vàn thách thức nguy hiểm phía trước. Khi hành quân các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo, những sinh hoạt, nghỉ ngơi thật ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khổ nhưng tâm hồn người lính thật vui tươi, lạc quan, có cái gì xao xuyến: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”. “Chông chênh” gì thì chông chênh nhưng ý chí chiến đấu, khí phách, nghị lực vẫn vững vàng, kiên định, vượt lên tất cả. Chính mình đồng đội đã tiếp cho họ sức mạnh để tâm hồn họ phơi phới lạc quan.
Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp, thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính, để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”. Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường, những chặng đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chan chứa hi vọng; “lại đi” là đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm, chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt.
Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ, sâu sắc, đối lập giữa 2 phương diện vật chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu đã không có kính, bị bom Mỹ làm cho biến dạng đến trần bụi:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Điệp từ “không có” được nhắc lại ba lần nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe, còn cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường. Những chiếc xe đầy thương tích, chiến tích: không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe bị xước,… Chiếc xe mang tầm vóc của những anh hùng lẫm liệt, vô danh đã nguyện hi sinh cả cuộc đời mình vì độc lập, tự do cho dân tộc, những anh hùng không tên ấy kiên quyết hi sinh đến phút cuối cùng. Ay vậy mà những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích đó lại như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim người lính – trái tim hướng về miền Nam ruột thịt thì xe vẫn chạy. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng chiếc xe nhưng không đè bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của người lính. Đối lập với những cái “không có” ở trên, chỉ có một cái “có” duy nhất đó là có “trái tim”. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe đó lại nguyên vẹn một trái tim dũng cảm. Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Trái tim người lính tỏa sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau. Nhà văn đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” – nổi bật chân lí của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể bẻ gãy được những giá trị tinh thần cao đẹp… để rồi một nước nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn.
Như vậy, qua ba khổ thơ cuối bài thơ đã cho ta thấy tinh thần đấu tranh kiên cường, dũng cảm của những người lính. Họ chiến đấu bằng tất cả lòng nhiệt huyết và niềm tin của mình vào tương lai tươi sáng, họ luôn hướng tới miền Nam phía trước. Đây là tấm gương sáng cho giới trẻ mọi thế hệ noi theo.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 7
Phạm Tiến Duật là nhà thơ thuộc thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tác phẩm của ông đa phần đều viết về hình tượng của người lính và những người con gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của ông là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, đặc biệt là ba khổ cuối của bài thơ.
Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969 nằm trong tập Vầng trăng quầng lửa của ông. Với giọng điệu sôi nổi, tươi trẻ cùng hình tượng độc đáo, bài thơ đã khắc họa sống động hình ảnh của những người lính lái xe trên đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Họ là những chàng thanh niên trẻ tràn trề nhựa sống, luôn hiên ngang, lạc quan, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn, hướng một lòng về miền Nam yêu quý. Ba khổ thơ cuối của bài thơ đã khắc họa rất thành công hình ảnh của những người lính lái xe với tình đồng chí đồng đội thắm thiết cùng tình thần, ý chí quyết tâm vì miền Nam ruột thịt.
Sau những chặng đường đầy gian khổ với những trận mưa bom, bão đạn, bụi đất, mưa tuôn “xối như ngoài trời”, những người lính lái xe được trở về trong phút giây bình yên hiếm hoi giữa nơi chiến trường khói lửa này. Và trong những giây phút đó, tinh thần đồng chí đồng đội của họ hiện lên rạng ngời hơn bao giờ hết:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi” đã gợi lên cho chúng ta thấy không chỉ là sự khốc liệt của chiến tranh mà còn là sự gan góc, kiên cường của những người lính lái xe. Trải qua quãng đường dài với những “bom giật bom rung”, những chiếc xe của những người lính lái xe giờ đây quây quần bên nhau thành một “tiểu đội”. Những cái “bắt tay” vội vã “qua cửa kính vỡ rồi” đã thể hiện được tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, gần gũi. Cái bắt tay không chỉ là lời chào hỏi mà còn là sự sẻ chia, lời động viên lẫn nhau của những người lính.
Không chỉ sẻ chia những khó khăn trong công việc, những người lính lái xe còn cùng nhau những khó khăn, ngọt bùi trong cuộc sống sinh hoạt:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Bếp Hoàng Cầm là loại dã chiến được sử dụng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Bếp Hoàng Cầm xuất hiện trong khổ thơ không chỉ gợi liên tưởng đến những giờ giải lao hiếm hoi, những bữa ăn chớp nhoáng của người lính lái xe mà còn là “phương tiện” gắn kết tình cảm đồng đội, đồng chí giữa những người lính. Họ quây quần bên nhau, cùng chung bát đũa, thân thiết giống như những người thân trong gia đình. Chính tình cảm chân thành của tình đồng chí đồng đội, tinh thần yêu nước đã trở thành nguồn động lực, sức mạnh to lớn để những người lính vượt qua những khó khăn của bom đạn và chiến thắng trước kẻ thù.
Sau những giờ nghỉ ngơi ít ỏi, cùng giấc ngủ chớp nhoáng trên những chiếc võng “mắc chông chênh trên đường xe chạy”, những người lính lại tiếp tục cuộc hành trình chi viện cho miền Nam ruột thịt:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
“Lại đi, lại đi” gợi liên tưởng đến những chiếc xe không biết mệt mỏi, xuyên rừng, xuyên núi, vượt mưa bom bão đạn để về với miền Nam, cùng với đó là tinh thần mạnh mẽ, kiên cường, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh của những người lính lái xe. Hình ảnh “trời xanh” là một nét vẽ, một ẩn dụ vô cùng đẹp đẽ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bầu trời xanh ấy không chỉ tượng trưng cho sự sống mà còn là màu của tự do, hoà bình và độc lập. Những người lính lái xe dành hết mọi sức lực để tiến về phía “trời xanh” ấy, họ chiến đấu để giành lại bầu “trời xanh” hoà bình cho dân tộc Việt Nam.
Hai khổ thơ 5 và 6 đã cho chúng ta thấy được tình cảm đồng chí đồng đội hết sức gắn bó, chân thành của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ chỉ là những con người xa lạ, gặp nhau, bắt tay nhau trong tiếng cười qua ô cửa kính xe đã vỡ nhưng chỉ từng đó cũng đủ để tạo cho họ một tình cảm sâu sắc, thiêng liêng mà không phải ai cũng có được!
Trong khổ thơ cuối cùng, hình ảnh những chiếc xe không kính lại một lần nữa xuất hiện. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, nhà thơ chỉ nêu ra hình ảnh của những chiếc xe thiếu kính vì “bom giật bom rung”, thì ở khổ cuối này, sự thiếu thốn ấy lại càng gia tăng gấp bội:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Những chiếc xe vốn đã méo mó, thiếu thốn nay càng trở nên biến dạng hơn dưới sức hủy diệt của bom đạn kẻ thù. Xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước gợi ra cái ác liệt của cuộc chiến tranh, qua đó còn làm nổi bật lên tinh thần hiên ngang, dũng cảm của những người lính lái xe. Dẫu xe có bị tàn phá đến biến dạng, hoạt động lái xe cũng gặp muôn vàn những khó khăn, thế nhưng những người lính vẫn giữ vững một niềm tin “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Hai từ “chỉ cần” ở đầu câu thơ cho thấy một thái độ ngang tàng, hiên ngang của những người lính. Những chiếc xe kia có biến dạng ra sao thì chỉ cần một người lính với trái tim nhiệt huyết thì nó vẫn sẽ tiến lên, hướng về miền Nam thân yêu. Nhịp thơ ở đây đột nhiên dồn dập, gấp gáp lạ thường, bởi vì nó chứa đựng sự sôi sục, ý chí của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Có lẽ đây là câu thơ hay nhất của cả bài thơ. Nó đã làm nổi bật lên hình tượng, ý chí và lòng quyết tâm chiến đấu của những người lính lái xe Trường Sơn trong những năm tháng ấy.
Với chất liệu hiện thực cùng một giọng thơ tươi vui, tự nhiên, khoẻ khoắn, bài thơ đã khắc hoạ vô cùng thành công hình ảnh của những người lính lái xe ngàng tàng mà trẻ trung, lạc quan, yêu đời. Nhịp thơ biến hoá linh hoạt, lúc nhanh, dồn dập, khi lại chậm rãi, yên bình, phù hợp với nhịp tiến hành quân của đoàn xe “không kính”. Những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ cũng góp phần khắc hoạ thành công hình tượng của những người lái xe Trường Sơn năm xưa.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 8
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy cam go và oanh liệt của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Trong mưa bon bão đạn trên tuyến đường Trường Sơn, có rất nhiều những thứ không thể trở lên có thể bởi bộ đội ta. Một trong những huyền thoại của thế kỉ XX là hình ảnh những đoàn xe không có kính vẫn băng băng trên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Xúc độn trước hiện thực đó, Phạm Tiến Duật đã cho ra đời sáng tác “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Trong bài ca người lính độc đáo này, tác giả đã bộc lộ, cảm xúc, suy nghĩ của mình về những người lính lái xe, về dân tộc và đất nước:
” Những chiếc xe từ trong bom rơi
…..
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Tìm hiểu về bài thơ đặc biệt là ba đoạn thơ trên ta cảm nhận được cái hay, cái đẹp, kỳ diệu của thơ ca Việt Nam trong thời chiến.
Mở đầu bài thơ tác giả viết:
” Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về chính mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật thú vị. Tiểu đội của những chiễ xe không kính. Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mới thật tự hào, sảng khoái biết bao. Hình như chính ô cửa ấy khiến họ như gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng đội lại càng thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đó là sự vui mừng, chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ, là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng.
Đoàn xe không kính ngày càng đi xa. Càng đi sâu vào chiến truòng, khổ thơ tiếp theo giúp ta hình dung về những sinh hoạt đời thường của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
….
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”
Những sinh hoạt của người lái xe được tái hiện giản dị, chất phác “bếp hoàng cầm” và “võng mắc chông chênh”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động nhưng cách nhìn của những người lính ấy thật tươi tắn, lạc quan: là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Sức sống thơ cũng chính là ở đâu và câu thơ đó đã cất cánh bay cao: “lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hai chữ “lại đi” được lặp lại biểu hiện đoàn xe không ngững tiến tới, không một sức mạnh nào có thể ngăn cản được. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian thoáng đãng.
Câu thơ gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những tương lai, những ngày vẫn xanh thên niềm tin chiến thắng. Khổ thơ cuối cùng vẫn là giọng thơ mộc mạc, gần gũi với lời nói bình thường. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, đầy cảm hứng và suy tưởng bay bổng, sâu sắc thể hiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ vận tại Trường Sơn:
” Không có kính rồi xe không có đèn
….
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bốn câu thơ dựng lại hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập, những mất mát, khó khăn do quân thù gieo xuống: không kính, không đèn, không mui, thùng xe có nước. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét, đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hướng về miền nam ruột thịt. Vì một cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước, toả sáng chói cả đoạn thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe đó là “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này.
Tình yêu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viện người chiến sĩ vững tay lái xe về tới đích? Và ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ…mà là có người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và mọi niềm tin vững chắc. Có thể nói,cả bài thơ hay nhất là câu thơ cuối cùng. Nó là “con mắt của thơ” bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp hình tượng nhân vật trong thơ. Bài thơ được khép lại mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ câu thơ ấy.
Tóm lại, những khổ thơ trên đã phác hoạ những hình tượng đẹp đẽ về người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm cứu nước, những câu thơ giản dị, hình ảnh sinh động cụ thể, sự đối lập ở từng khổ thơ, tác giả đã để lại những ấn tượng đẹp về tiểu đội xe không kính.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 9
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt điển hình trong lớp thi sĩ trẻ trong những năm tháng kháng chiến chông Mỹ cứu nước. Những tác phẩm của ông đa phần viết về hình tượng người lính và những cô gái thanh niên xung phong tren trục đường Trường Sơn. Tác phẩm “bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác tháng 5/1969 nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Đuật được giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Tiêu biểu nhất bài thơ chính là ba khổ cuối cùng đã khắc hạo hiện thực tàn khốc của chiến tranh, qua đó làm nổi bật hình tượng người lính với bao phẩm chất tốt đẹp.
Sau những chặng đường đầy bom đạn, gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có những khoảnh khắc yên bình:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi nên hình ảnh những chiếc xe gan dạ, những chiếc xe vượt qua thách thức. Vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, những chiếc xe lại quây quần với nhau thành “tiểu đội”. Suốt dọc đường vào Nam, tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù chỉ rong khoảnh khắc nhưng đều là bè bạn, là những người chung chí hướng.
Khoảnh khắc gặp nhau thật thú vị qua cái “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đó là một cử chỉ gần gũi, có biết bao điều muốn nói trong cái băt tay ấy, đó vừa là thú vui của họ khi vừa thoát khỏi thần chết, cổ vũ nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn phấn đấu cầm chắc tay lái để đưa xe về tới đích. Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sẻ cho nhau, đồng cảm với nhau cùng thực hiện một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả.
Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt.
” Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đữa tức là gia đình ấy
Võng mắc chênh vênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, rời xanh thêm”.
Bếp Hoàng Cầm là hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là dấu hiệu của sự đoàn tụ, hội ngộ sau chặng đường tiến quân nặng nhọc. Những ngọn lửa ấm áp như kết nối tấm lòng của người chiến sĩ với nhau. Tất cả là một gia đình êm ấm, ngập tràn tình yêu thương, Phạm Tiến Duật đưa ra một định nghĩa gia đình thật lạ, thật giản đơn “chung bát đũa” là tiêu chuẩn là một gia đình. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời,…Những tình cảm ấy chỉ có những người lính mơi được thử. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Chính tình đồng đội đã biến thành sức mạnh vô địch giúp người lính trụ vững nơi chiến trận bom đạn, giành thắng lợi trước quân địch.
Sau một bữa cơm sum vầy, một vài câu chuyện nhỏ, những người lính trẻ lại tiếp tục lên đường “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “trời xanh” là một nét vẽ rất tài giỏi mang ý nghĩa biểu trưng, nó không chỉ tượng trưng cho sự sống mà nó còn tượng trưng cho tự do, hoà bình, ngập tràn hi vọng về một chiến thắng. Họ chiến đấu giành lại bầu trời. Chính vì vậy dù gian lao nguy hiểm tới đâu, họ cũng vẫn phấn đấu lái xe tiến về phía trước. Họ không coi đây là một mệnh lệnh khô khan , một nhiệm vụ thuần tuý mà là ý thức, ý chí, tình cảm của người lính luôn hướng về miền Nam ruột thịt.
Khổ thơ kết thúc là hình ảnh những chiếc xe không kính, làm nổi bật vẻ đẹp của người lính lái xe:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Những chiếc xe bị biến dạng hoàn toàn, rất nhiều những khó khăn, thử thách đối với người lính lái xe. Nhưng những thiếu thốn đó không làm những người lính nhụt chí mà càng tăng tinh thần chiến đấu, từng đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. Nguyên nhân gì khiến những chiếc xe ấy vẫn băng băng chạy, nhà thơ lí giải “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Câu thơ dồn dập vững chắc như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái không có ở trên, thi sĩ khẳng định một cái có ấy là một trái tim. Đây là là một hình ảnh hoán dụ nghệ thuật tu từ, trái tim của những người lính lái xe chua xót trước cảnh quần chúng miền Nam sống trong khói bom thuốc súng. Trái tim ấy dạy dào tình yêu nước như máu thịt, mong ước đất nước được độc lập. Để mong ước này biến thành hiện thực, chỉ có một cách suy nhất, vũng vàng tay đua, cầm chắc tay lái.
Đằng sau những ý nghĩa đó, câu thơ còn muốn hướng chúng ta tới chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định thắng lợi không còn là vũ khí mà chính là từ những con người giàu ý chí, người hùng. Câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ, nó chính là nhãn tự, làm bật lên chủ đề rạng ngời hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.
Với giọng thơ ngang tàn, khẩu khí trẻ trung, nhịp thơ cởi mở, lúc thì như lời thoại, lúc như văn xuôi, thích hợp với nhịp tiến quân của đoàn xe. Qua đây ta thấy được rằng “bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những tác phẩm điểm hình viết về tuổi trẻ Việt Nam trong những năm tháng hào hung của dân tộc.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 10
Từ mái trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phạm Tiến Duật bước vào đời lính chiến đấu và hoạt động trên con đường chiến lược Trường Sơn những năm tháng đánh Mỹ ác liệt nhất. Lửa khói chiến trường, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, những cô gái thanh niên xung phong, những chiến sĩ lái xe dung cảm,… là những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca Phạm Tiến Duật. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong tập Vầng trăng – Quầng lửa những bài ca chiến trận thấm đẫm màu sắc lãn mạn. Đây là đoạn cuối bài thơ ghi lại cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính, ca ngợi tình đồng đội và lý tưởng chiến đấu cao cả của những chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh:
.…Những chiếc xe từ trong bom rơi
…..
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Sau những tháng ngày chiến dịch chở vũ khí lương thực chi viện cho chiến trường, vượt qua hàng ngàn cây số trong mưa bom bão đạn, tiểu đội xe không kính “đã về đây họp thành tiểu đội”. Một cái bắt tay thắm tình bạn bè, đồng chí. Cũng là những cái bắt tay của người lính, nhưng mỗi thời lại khác, trong tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu viết:
Miệng cười buốt giá
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Tình thương yêu đồng chí đồng đội là bản chất, sức mạnh của người lính. Từ cái ‘nắm lấy bàn tay” đến cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” là cả một quá trình trưởng thành.
Chỉ bằng những chi tiết “bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa”, “võng mắc chônh chênh” đã tái hiện lại những cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính cho thấy đời lính vốn dản dị nhưng rất sang trọng. Giữa chiến trường đầy bom đạn họ vẫn lạc quan “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời” thế nhưng với sự lạc quan của họ, đã trở thành một gia đình chan chứa tình thương.
Hai từ “nghĩa là” vốn là từ dùng để nối các từ, những dưới ngòi bút của những nhà thơ tài năng thì nó trở lên duyên dáng, uyển chuyển, không còn khô khan. Với Phạm Tiến Duật, tình đồng đội cũng chính là tình anh em ruột thịt, vô cùng thân thiết.
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Sau một bữa cơm thân mật, một vài câu chuyện nhỏ, họ lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của tiền tuyến:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Điệp ngữ “lạid di” dễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là một nét vẽ tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời chan chứa hi vọng, đó là hi vọng chiến công đang đón chờ. Đây là một đoạn thơ thể hiện sinh hoạt vật chất và tinh thần người lính thời đánh Mỹ rấ độc đáo.
Khổ cuối bài thơ nói lên suy nghĩ của tác giả về tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe đầy thương tích, không kính, không đèn nhưng mang tầm vóc của những anh hùng vô danh. Trái tim trong thơ Phạm Tiến duật là một hình ảnh hoán dụ đó chính là trái tim rực lửa, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ Quốc. Quyết tâm đó không có gì của quân thù có thể lay chuyển được.
Đoạn thơ trên đây là mọt đoạn thơ hay, thể hiện cách sống, cách nghĩ của những người lính trẻ lạc quan, yêu đời. Tình đồng đội, tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam của người lính toả sáng vần thơ. Ngôn từ, hình ảnh đều mang chất lính, thể hiện một hồn thơ trẻ trung phơi phới, tài hoa. Đoạn thơ trên là một khúc tráng ca của Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 11
Trong cuộc kháng chiến chông Mỹ của dân tộc ta, những ky tích mà chúng ta làm được trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại đã là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận đối với những thi sĩ, trong đó hình ảnh người lính lái xe trở lên nổi bật nhất. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay viết về những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Ba khổ thơ cuối chính là đỉnh cao của mạch cảm xúc và tứ thơ được nảy nở, để lại ấn tượng trong lòng người đọc về một cuộc chiến ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn và phẩm chất cao đẹp của người lính lái xe.
Từ những chiếc xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn, ta thấy được tinh thần ung dung, bình tĩnh, hiên ngang, dũng cảm của người lính lái xe. Ở ba khổ thơ cuối, chân dung, tâm hồn của người lính lái xe được gợi ra từ hình ảnh những chiếc xe không kính.
” Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Từ trong khói lửa, ác liệt của chiến tranh, những người lính đã hop thành tiểu đội, thành đồng chí, thành bè bạn. Với lời thơ tự nhiên đầy cảm xúc, từ ngữ giản dị, sâu sắc, khổ thơ đã khẳng định tình đồng đội được nảy sinh và được hình thành khi cùng trải qua chiến tranh ác liệt. Trong bom đạn hiểm nguy, những chiếc xe không kính vừa thoát khỏi cái chết giò họ họp thành đội ngũ anh hùng, họ là những con người từ bốn phương cùng chung lí tưởng, tụ họp về đây, trở thành bạn bè.
Ngôn ngữ thơ giản dị nhưng chất thơ toát ra từ cảm xúc của tác giả giúp chúng ta hình dung ra hoàn cảnh của những chiếc xe, dù không có kính những vẫn vượt qua bom đạn băng băng ra tiền tuyến. Cái bắt tay qua cửa kính vơc là hình ảnh đầy xúc động, cái bắt tay ấy như là lời động viên tiếp thêm sức mạnh giúp họ vượt qua mọi thử thách.
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh trên đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”
Tình cảm người lính gắn bó như anh em trong một gia đình, ăn uống chung bát đũa như người trong gia đình. Câu thơ lãng mạn thật mộng mơ. Điệp ngữ lại đi là một sự khẳng định, sự tin tưởng hướng về phía trước, hướng về miền Nam với một niềm tin chiến thắng. Trời xanh không chỉ là cái xanh của thiên nhiên, của sắc trời mà còn là màu xanh của hi vọng, của tuổi trẻ.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ càn trong xe có một trái tim”
Điệp từ không nhấn mạnh chiến tranh ngày càng khốc liệt làm cho chiếc xe biến dạng nhưng xe vẫn băng băng tiến về miền nam. Tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến vfa phẩm chất của người lính lái xe, ý chí kiên cường của người chiến sĩ quyết tâm chiến thắng kẻ thù. Hình ảnh hoán dụ một trái tim xuất hiện trong câu thơ thật gợi cảm, ta cảm nhận được cuộc sống vui tươi, tình yêu nước nồng nàn, cháy bỏng.
Trái tim như ngọnd dèn, như mặt trời cuối bài thơ. Cội nguồn sức mạnh của những đoàn xe ấy đến từ chính trái tim gan góc, kiên cường chứa chan tình yêu nước của những người lính lái xe. Con mắt thơ chính là câu thơ cuối cùng làm nổi bật hình tượng người lính. Nó cho thấy một điều đó chính là không phả cứ có nhiều vật chất sẽ thắng, mà chính niềm tin mới là vũ khí chiến đấu mạnh nhất.
Với chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam một thời máu lửa mà chính tác giả đã sống và trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh đã tôn vinh vẻd dẹp con người. Ba khổ cuối của bài thơ vẫn là hình ảnh những chiếc xe không có kính nhưng tinh thần mỗi người luôn tồn tại một tấm kính vô hình về niềm tin, sự hi vọng về sự thắng lợi của cách mạng, lòng yêu tổ quốc vô bờ bến.
Ba khổ thơ cuối bài đã khép lại con đường tới miền Nam yêu dấu những đâu đó vẫn văng vẳng tiếng xe chạy, những tiến cười hào sảng của những con người hi sinh cả tuổi xuân để giành lại độc lập cho đấ nước. Bài thơ chính là sự khích lệ đối với những thế hệ trẻ đang sống và làm việc hiện nay, gắng sức để xây dựng non sông đất nước ngày càng giàu đẹp.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 12
Trong những năm chống Mỹ, Phạm Tiến Duật là một trong số những nhà thơ trẻ nổi bật, tập trung vào thể hiện thế hệ trẻ tham gia cuộc kháng chiến qua những hình tượng người lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Một trong những thi phẩm tiêu biểu của ông là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác vào năm 1969, đã giúp ông giành giải Nhất trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đăng tải trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”. Ba khổ thơ cuối của bài thơ đã khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh, tuy nhiên đồng thời cũng làm nổi bật lên phẩm chất cao đẹp của những người lính.
Mặc cho những cơn mưa tuôn, bão đạn, gió bụi và những chặng đường dây mưa bom, người lính lái xe vẫn có thể tìm được chút bình yên trong những giây phút hiếm hoi.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”
Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” mang đến cảm giác về sự gan góc của những chiếc xe, những chiếc xe đã trải qua những thử thách. Sau khi vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, các chiếc xe lại được tập hợp lại thành “tiểu đội” – đơn vị nhỏ nhất trong quân đội (gồm 12 người). Với mười hai chiếc xe, có bao nhiêu tiểu đội đã đi ra trận, và làm sao để kể hết được? Trên đường vào miền Nam, tất cả các người lái xe gặp nhau trong một vài giây nhưng đều trở thành bạn bè.
Điều thú vị của những người lính trên đường ra trận là những khoảnh khắc gặp gỡ nhau, qua cử chỉ bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Đó không chỉ là một hành động thân thiện và cảm động, mà còn là niềm vui trong họ khi vượt qua những chặng đường hiểm trở. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, họ cũng quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về đích. Việc bắt tay qua cửa kính vỡ rồi là cách để họ chia sẻ và hiểu lẫn nhau giữa những đồng chí, đồng đội cùng chung một nhiệm vụ cao cả được giao phó bởi Tổ quốc và nhân dân Việt Nam.
Người lính trên đường ra trận màn những điểm chung trong tình cảm, tâm hồn và sinh hoạt:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”
Hình ảnh Bếp Hoàng Cầm đã trở thành biểu tượng của sự đoàn kết và hội ngộ trong cuộc chiến chống Mỹ, thể hiện tình cảm ấm áp giữa những chiến sĩ sau khi trải qua những cuộc hành quân vất vả. Đó là niềm tin chung về sức mạnh của tình đồng chí, khi những người lính cách mạng chia sẻ cùng nhau một bát đũa, một mâm cơm và chung một bếp lửa. Họ cùng nhau chịu đựng giông bão, mưa rào và bụi đất trên con đường hành quân, trên chiến hào và trong nhiệm vụ của mình. Những tình cảm này chỉ có những người lính cách mạng mới có thể hiểu và trải nghiệm. Điều đó cho thấy tình đồng chí không chỉ đơn giản là một thứ bình thường mà còn là một giá trị cao đẹp và thiêng liêng. Trong những cuộc kháng chiến của dân tộc, tình đồng chí trở thành sức mạnh vô giá giúp người lính cách mạng chiến đấu và giành chiến thắng trước quân thù. Đó là một câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn và cách nghĩ của những chiến sĩ.
Sau bữa cơm sum họp đầm ấm, với những câu chuyện thân mật, các chiến sĩ trẻ lại tiếp tục hành trình: “Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” không chỉ tượng trưng cho sự sống, mà còn mang ý nghĩa của tự do, hòa bình và hy vọng chiến công lớn đang chờ đợi. Với những người lái xe, họ là niềm tự hào của nhân loại, đấu tranh để giành lại tự do và trời xanh cho dân tộc. Vì vậy, dù gặp khó khăn, nguy hiểm thế nào, họ vẫn quyết tâm lái xe bon bon tiến về phía trước. Điều này không chỉ là nhiệm vụ đơn thuần mà còn là tinh thần, ý chí và tình cảm của những người lính, luôn hướng trái tim về miền Nam đất nước. Kết thúc bài thơ, hình ảnh của những chiếc xe không kính làm nổi bật vẻ đẹp và tinh thần của những người lính:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Những chiếc xe bây giờ không chỉ thiếu kính mà còn cả đèn pha, mui xe, ngoại thất trầy xước. Phương tiện biến dạng hoàn toàn nhưng những người lính điều khiển vẫn kiên cường vượt qua gian khổ. Sự gian khổ trên chiến trường tăng theo cấp số nhân, nhưng điều đó không làm nhụt chí đoàn xe ngày đêm tiến về đích. Lý do gì mà những phương tiện hư hỏng này vẫn lao như vũ bão? Nhà thơ giải thích: “Miễn là có một trái tim bên trong xe.” Câu thơ mạnh mẽ ngân vang như nhịp đều đều của những chiếc xe không cửa sổ. Từ muôn vàn cái thiếu, nhà thơ khẳng định một cái tồn tại, đó là “tấm lòng”. Trái tim là một ẩn dụ văn học để chỉ những người lính lái xe Trường Sơn năm xưa. Lòng họ đau xót trước cảnh đồng bào miền Nam phải sống giữa khói lửa bom đạn, đất nước chia đôi. Lòng họ chan chứa tình yêu quê hương như máu thịt, như cha mẹ, vợ chồng. Lòng họ luôn sục sôi lòng căm thù giặc Mỹ tàn ác. Tình yêu và lòng căm thù chính là động lực thôi thúc những người lính lái xe khát khao hướng tới giải phóng, thống nhất đất nước. Để biến ước mơ này thành hiện thực, chỉ còn một cách duy nhất: vững tay lái. Khi các thử thách tăng lên, tốc độ và hướng của chúng không thay đổi.
Câu thơ cuối cùng của bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là nhãn tự, con mắt thơ tỏa sáng chủ đề và làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ. Tuy nhiên, nó còn mang đến thông điệp sâu sắc về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh chiến thắng không phải đến từ vũ khí mà từ con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan và quyết thắng. Đây có thể coi là câu thơ hay nhất của bài thơ.
Phạm Tiến Duật đã sử dụng một chất liệu hiện thực độc đáo, với giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, và nhịp điệu biến hóa linh hoạt. Từ đó, bài thơ không chỉ truyền tải được những ý nghĩa sâu sắc mà còn phù hợp với nhịp hành quân của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa, khi thì như lời hội thoại, khi thì như khúc văn xuôi.
Như vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những thi phẩm tiêu biểu viết về thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng đầy gian khổ của dân tộc. Các anh đã dệt nên những bản tình ca bất hủ cho đất nước, mà qua đó còn truyền tải được thông điệp về tinh thần quyết thắng, ý chí kiên cường của con người Việt Nam.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 13
Bất chấp mọi gian khó và gian nan, những người lính chiến đấu trên Trường Sơn đã dựa vào tình đồng đội để cùng vượt qua khó khăn, đẩy lùi địch. Ba câu thơ cuối của bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã ca ngợi tinh thần đoàn kết cao đẹp của các chiến sĩ cụ Hồ, chính nhờ sức mạnh đó, kháng chiến đã dẫn đến chiến thắng.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm thể hiện tâm hồn thi sĩ Phạm Tiến Duật trong tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa”. Cuối bài thơ mô tả cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính, tôn vinh tình đồng đội và lý tưởng chiến đấu cao cả của các lái xe trên con đường Hồ Chí Minh.
Sau mỗi trận đạn bom, cùng với những chiếc xe bị hư hại nặng nề hơn, các chiến sĩ lại tập hợp với nhau trong những giây phút ngắn ngủi để tạo nên “tiểu đội xe không kính”.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới.
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Con đường giải phóng miền Nam là hành trình hướng tới chân lý, nơi mà những người đi trên đó gặp thêm nhiều bạn bè: “Người bạn không ngừng xuất hiện trên con đường của chúng ta”. Trên con đường này, họ có thể bắt tay qua cửa kính vỡ mà không cần phải mở cửa xe, thể hiện sự thoải mái, tự hào và tình đồng đội. Điều này tượng trưng cho sự đoàn kết và lòng tin tưởng của những người đi trên con đường này. Điều này cũng như cái nắm tay, cái bắt tay của người lính, nhưng nó có nghĩa khác biệt vào từng thời điểm. Anh Vệ quốc quân trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đã trải qua những trải nghiệm tương tự trên con đường của mình.
Một cái bắt tay đơn giản cũng đủ để làm ấm lòng, động viên và chia sẻ cảm xúc với nhau. Nó thay thế cho những lời nói và chỉ có những người lính, những chiếc xe trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ mới có thể hiểu được giá trị của nó. Cái bắt tay truyền tải tới nhau không chỉ tình cảm mà còn là tâm hồn, sự đoàn kết. Sự kết nối này đậm đà như mối tình thân, một sức mạnh tinh thần giúp con người trở nên gần gũi hơn, trong những hoàn cảnh khó khăn như ở trên đường đi, khi phải đối mặt với những thách thức nguy hiểm và những tình huống ngộ độc đáo. Những bữa ăn, những giấc ngủ, những sinh hoạt trong những căn cứ đó, dù đơn giản nhưng lại là tình cảm đong đầy của những người lính. Cảm giác đó giống như bếp Hoàng Cầm trong truyền thuyết vậy, nơi mà chung bát đũa chứng tỏ tình cảm gia đình. Những con người này luôn có những chia sẻ và động viên nhau với tình cảm chân thành, vượt qua tất cả khó khăn trên con đường đi với ý chí, sức mạnh và nghị lực bất khuất.
Sức mạnh của tình cảm gia đình trong quân đội đó là sự bình dị, ấm áp và thân thương, nâng đỡ bước chân của lính để họ có thể tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”. Từ “lại đi” miêu tả nhịp bước đi của họ, qua những con đường, những cung đường tiến quân của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là tài hoa và mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc, biểu hiện sự lạc quan, yêu đời và hy vọng. “Lại đi” đồng nghĩa với việc đạt được thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn của họ, trời xanh thêm, tràn đầy hy vọng và niềm tin.
Bài thơ kết thúc với một sự đối lập, bất ngờ và sâu sắc giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Sau khi trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu không có kính đã bị bom Mỹ làm biến dạng đến trần bụi:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Ba lần sử dụng từ “không có” đã tạo nên một sự tuyệt vọng, thiếu thốn, đau đớn của những chiếc xe chiến đấu, và cho thấy mức độ khốc liệt của cuộc chiến. Các xe này đã hứng chịu nhiều tổn thương: không có kính, không có đèn, không có mui xe, và thùng xe bị xước… Nhưng tuy rằng đầy thương tích, những chiếc xe này vẫn toả sáng như những chiến sĩ kiên cường, vượt qua bom đạn để tiến về phía trước với tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Dù xe bị tổn thương, chỉ cần trái tim của người lính vẫn hướng về miền Nam, xe vẫn chạy. Bom đạn không thể đè bẹp tinh thần chiến đấu của lính. Trái tim là điểm sáng duy nhất và hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp cho phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ. Những giá trị tinh thần cao đẹp không thể bị huỷ hoại bởi bom đạn hay chiến tranh. Thật là kỳ diệu khi một nước nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn.
Phạm Tiến Duật đã sử dụng một chất liệu hiện thực độc đáo, giọng thơ ngang tàng và khẩu khí trẻ trung để biến hóa nhịp điệu một cách linh hoạt, đôi khi như lời hội thoại, đôi khi như khúc văn xuôi phù hợp với nhịp hành quân của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa. Với những đặc điểm đó, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được xem là một trong những thi phẩm tiêu biểu viết về thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến tranh.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính (13 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)