Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 29 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy
Dàn ý Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy chi tiết
1. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy (29 mẫu)
- Trăng từ xưa đến nay đã trở thành đề tài có nhiều sức gợi trong thi ca.
- Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.
2. Thân bài
* Tác giả, tác phẩm:
- Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến sĩ, đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh trăng.
- Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
* Phân tích:
– Khổ thơ 1 + 2: Những kỷ niệm trong quá khứ, sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước đi của cuộc đời nhà thơ.
- Thuở ấu thơ gắn bó mật thiết với đồng ruộng, sông, bể
- Lớn lên đi chiến đấu gắn bó với rừng già.
- Trong suốt quá trình ấy vầng trăng luôn dõi theo và được nhà thơ xem như là người bạn tri kỷ, không bao giờ quên.
– Khổ 3: Sự thay đổi của cuộc sống, khiến người ta quên đi kỷ niệm xưa cũ
- Quen “ánh điện cửa gương”, cuộc sống xa hoa, phố thị tách biệt với thiên nhiên.
- Ánh trăng trở thành người xa lạ, bị người lính vô tình quên mất
– Khổ bốn: Tình huống bất ngờ và cuộc hội ngộ với vầng trăng.
- Mất điện, là lý do bất ngờ dẫn đến cuộc hội ngộ đầy cảm xúc giữa nhà thơ và vầng trăng.
- Kỷ niệm ùa về, vầng trăng tri kỷ sắt son, cánh đồng, sông, bể, những ngày chiến đấu gian khổ nhưng đầy ắp kỷ niệm không quên, điều ấy khiến nhà thơ xúc động trào nước mắt.
– Khổ cuối: Sự thức tỉnh của tâm hồn
Vầng trăng “im phăng phắc”, tròn vành vạnh, hiên ngang, đối diện khiến người lính phải giật mình xấu hổ.
Bài học về sự ghi nhớ những ân tình, những kỷ niệm trong cuộc đời của mỗi con người, quên đi là sự vô tình đầy tội lỗi.
3. Kết bài
Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.
29 mẫu Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy hay nhất
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 1
Trăng – hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là những nơi chôn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên của tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vầng lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn – vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loá. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đọc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 2
Cuộc sống là những chuỗi biến chuyển và đổi thay mà con người không thể nào lường trước được. Đôi khi chúng ta bị cuốn theo dòng chảy bất tận của nó mà vội vã bỏ quên những giá trị, những nghĩa tình thuỷ chung cũng chưa xa trong quá khứ. Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ vĩ đại của dân tộc – cuộc chiến mà biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống cho sự thống nhất của dân tộc, cuộc chiến mà trong nó hiển hiện bao nhiêu chiến công lẫy lừng, bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng, chúng ta thật xót xa khi phải chứng kiến sự thờ ơ, lạnh nhạt của con người trước những năm tháng tưởng như không thể nào quên ấy. Văn học thời kì đó nhận thức rõ điều đó. Nhiều tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đầy ngỡ ngàng và chua xót đối với cái xã hội đang quẩn quanh trong nỗi lo cơm áo gạo tiền. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong số đó.
Tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng – vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng, biển bạc. vầng trăng ấy đã theo chân tác giả thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với một vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa, con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ đó bền chặt, xoắn xuýt qua bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên:
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Nhưng cuộc đời không phải sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay, không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở thành thừa thãi, vô nghĩa, xa lạ, lạnh lùng,… bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn chỉ là quá khứ, Tần có thể bị che khuất bởi những lo toan, dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây tác giả đã kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người, vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay, giờ đây lại chỉ như “người dưng qua,đường”. Cái ngớ thân quen xưa nay trở nên âm thầm và xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ đã tạo nên bước ngoặt của tác phẩm, khi để tình huống bất ngờ “đèn điện tắt” xảy ra. Lúc đó, con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ, khiến họ chợt nhận ra vẻ đẹp và giá trị đích thực của những ngày xưa cũ ẩn sau sự dịu dàng, bao dung của ánh trăng.
Trên cơ sở đó, tác giả đã viết nên khổ thơ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc của toàn bài thơ.
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn và cao thượng đến lạ lùng. Mặc cho con người có thờ ơ, lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên, thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn mà hào hùng, vinh quang thuở trước, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương, chở che, đùm bọc cách mạng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân tình thuỷ chung của một thời oanh liệt – dù đã lùi xa ẩn mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy, viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người càng làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước tòa án lương tâm. Quả thật, chẳng có toà án nào xét xử sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri ở sâu thẳm tâm hồn mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm với quá khứ. Sự cao thượng, vị tha của vầng trăng bất chấp ta vô tình, xa lạ – buộc nhà thơ phải suy nghĩ lại về chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ ba năm với cuộc sống thị thành, với những bộn bề lo toan thường nhật lại có thể làm người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn, thiếu thốn, trong ấm áp tình đồng đội, trong/vòng tay che chở của nhân dần? vẫn biết không có gì là mãi mãi trước sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng những điều đang diễn ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại.
Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng vẫn nặng lòng sáng soi. Với biện pháp nhân hoá tinh tế:
Ánh trăng im phăng phắc
Ta đã thấy sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó im lặng trước sự bội bạc vô tình của con người, cái im lặng dịu dàng, tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy sâu vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ, chính sự im lặng ấy, tưởng như yếu ớt và lẻ loi ấy lại có sức mạnh khiến con người ta phải trầm ngâm xét lại mình. Họ chợt nhận ra giá trị của những điều mình đã bỏ quên – quá khứ của chính mình và một thời hào hùng oanh liệt của toàn dân tộc:
Đủ cho ta giật mình
Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng quanh vòng xoáy của bao lo toan và mưu tính.
Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai! Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là tiếp nối những điều cha ông ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ?
Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người, làm thay đổi con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ thơ cuối bài là một chút “giật mình” của tác giả, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta!
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 3
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.
Nguyễn Duy sinh năm 1948, ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt, suy tư khôn ngôi. Hãy lật đến Anh trăng đầy chất triết lí, tìm về Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhẹ nhàng, tình cảm nhóm lại tình yêu gia đình với Hơi ấm ổ rơm,… ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư say sưa ấy trong suốt những tác phẩm của ông.
Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, lung linh rực rỡ một “ánh trăng” tròn đầy. Ánh trăng ấy là lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà hết sức sâu sắc về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những trăn trở suy nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.
Hai khổ thơ đầu tiên gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, tâm tình, kể về một quãng thời gian của tuổi thơ, tuổi trẻ, nhất là quãng thời gian chiến tranh gian khổ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị: “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh”. Câu thơ mở ra một không gian bao la, mênh mông sông nước, khoảng trời ấy nuôi lớn cả một tâm hồn tuổi thơ với bao khát vọng, khoảng rộng ấy được mở ra rồi thu lại khăng khít, gắn bó với quá khứ biết bao tình nghĩa. Điệp từ “với” được nhắc lại ba lần, nhấn mạnh sự thân thiết, gần gũi giữa con người với thiên nhiên:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Cuộc sống “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” tuy khó khăn, vất vả mà chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư và mênh mông hoài bão như thiên nhiên, như cánh rừng mặt bể. Chợt nhận ra, ta có một người bạn hiền hòa, gắn bó, “tri kỉ” – vầng trăng tròn đầy, hiền dịu. vẻ đẹp của trăng xoa dịu những vết thương do chiến tranh gây ra, xoa dịu những mỏi mệt, buồn đau của cuộc sống ấy; trăng vỗ về cho con người bằng những sẻ chia lặng im, bằng những đêm sát cánh bên nhau “đầu súng trăng treo”. Trăng theo ta trên mọi bước đường đi, là người bạn đồng hành tin cậy nhất. Vì lẽ ấy, trăng chính là hiện thân của quá khứ, của kí ức chan hòa tình nghĩa:
Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa Vầng trăng đã được nhân hóa cao độ để trở thành người bạn tinh thần của nhà thơ, một người bạn tri âm tri kỉ tưởng chừng sẽ không bao giờ quên được. Thế nhưng, giữa dòng hồi tưởng tươi đẹp và bình yên, tác giả chợt bất ngờ có những băn khoăn, vướng bận, mờ hồ, báo hiệu cho sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện. Từ “ngỡ” như điểm tiếp nối tinh tế giữa hai khổ thơ, làm bài thơ giữ được nét uyển chuyển trong cả nội dung và ngôn từ.
Khép lại nhẹ nhàng đẹp như mơ trong quá khứ ngòi bút tác giả đưa ta đến với hiện tại, với những đổi thay, xa cách trong lòng người. Chiến tranh qua đi, người lính trở về guồng quay xô bồ và náo nhiệt của cuộc sống. Tác giả nhận ra một quy luật đáng buồn của cuộc sống: khi được sống trong nhung lụa ấm êm, con người ta dễ quay lưng lại với quá khứ vất vả, nghèo nàn, dù đó có là một quá khứ mơ mộng, đẹp đẽ và đáng quý. Quy luật ấy đi từ sự lãng quên, đổi thay quá nhanh của con người:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
“ánh điện, cửa gương” là cách nói hoán dụ cho cuộc sống tiện nghi hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đổi thay trong hoàn cảnh sống, lòng người cũng dần đổi thay, khó nhận ra, mà hay là đã nhận ra nhưng cố tình quên đi. Vầng trăng từ chỗ là người bạn thân thiết gắn bó trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng thì một mực thủy chung tình nghĩa “đi qua ngõ” như đợi người bạn cũ nhận ra, thế nhưng người bạn cũ ngày xưa nay đã quen với ánh sáng của đèn điện vàng bọt giả tạo, giam mình trong bốn bức tường bê tông gạch đá chật hẹp tù túng mà tưởng cuộc sống đã sung sướng hơn xưa. Người ta đã để cho xi măng láng trơn tuột đi những rung động, xúc cảm tinh tế của trái tim, và trát kín cả những khe sáng huyền diệu từ quá khứ rọi về. Sống cuộc sống như thế, phải chăng ta đang đánh đổi cái giàu có trong tâm hồn lấy những tiện nghi hiện đại phù phiếm xa hoa, khi mà hạnh phúc đích thực luôn là một trái tim tràn đầy tình yêu thương!
Sự lãng quên ấy có thể là mãi mãi nếu không có một chuyển biến bất ngờ: thành phố bị mất điện. Hoàn cảnh bài thơ là bước ngoặt tạo cảm xúc dâng trào, giúp nhà thơ bộc lộ rõ nét cảm xúc, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Tình huống tưởng như không có gì mới mẻ, lạ lẫm, nhất là những năm đầu giải phóng như thời điểm sáng tác bài thơ – năm 1978, nhưng đặt vào hoàn cảnh tác giả, nó làm nổi bật lên sự đối lập tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Các từ ngữ “thình lình”, “vội”, “bật tung” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh; để rồi tất cả như sững lại, lặng đi bởi một vầng trăng tròn” “đột ngột” và lung linh. Chính khoảnh khắc ấy đã làm nổi bật lên ý nghĩa tuyệt đẹp của toàn bài: con người vội vã, gấp gáp với cuộc sống hiện đại khi nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống thì thật bàng hoàng, sững sờ. Đã có “ánh điện” sáng trưng, người ta đâu cần ánh trăng huyền diệu lờ mờ nữa, chỉ đến khi thứ ánh sáng nhân tạo kia mất đi, người ta mới nhận ra người bạn cũ từng nguyện mãi mãi không quên và sững người trước người bạn trăng tròn đầy, vẹn nguyên, luôn chung thủy đợi chờ. Khoảnh khắc người và trăng mặt đối mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng lên đến tràn đầy. Cuộc hội ngộ bất ngờ tạo rung động mạnh mẽ và thức tỉnh lương tâm con người; cái “đột ngột” không phải ở trăng, mà ở chính tâm trạng tác giả – tâm trạng thảng thốt, ngỡ ngàng của con người trước sự đổi thay của lòng mình và Sự vẹn tròn của trăng, để từ đó đi đến những day dứt, suy tư.
Nếu như khổ thơ thứ tư đẩy tình huống thơ đến cao trào thì khổ thơ thứ năm lại “rưng rưng” trong sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Nhà thơ đối diện với trăng trong cái lặng im có phần thành kính; từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa tạo ý thơ gợi mở cho người đọc, nhà thơ đối diện với trăng hay thiên nhiên đối diện với con người; và có lẽ cũng là hiện tại đối diện với quá khứ, bạc bẽo vô tình với thủy chung gắn bó. Bất ngờ gặp lại người bạn cũ, nhà thơ chợt nhận ra thứ mặt nạ của thời gian đã che lấp tất cả, trong giây phút ấy, nhà thơ tưởng như “rưng rưng” xúc cảm – tự hổ thẹn với chính sự đổi thay vô tình của bản thân. Nhưng cũng đan xen vào nỗi hổ thẹn đó, một cảm xúc nghẹn ngào vui sướng đang len lỏi vào trái tim khô cằn bấy lâu nay của nhà thơ, gặp lại trăng – gặp lại người bạn cũ, ông chợt hồi tưởng lại một quãng thời gian thương nhớ, với đồng, với bể, với sông với rừng. Cuộc sống hiện tại như ngừng lại nhường chỗ cho dòng kí ức ùa về, nhường chỗ cho giây phút tự nhìn lại bản thân. Câu thơ trải dài bao quát cả quá khứ và hiện tại, thiên nhiên và con người, lao động và chiến đấu, thủy chung tình nghĩa và bạc bẽo vô tình. Trăng còn gợi đến hình ảnh của hiện tại, của vẻ đẹp thiên nhiên mơ màng hùng vĩ, gợi lên những bừng tỉnh đột ngột để nêu lên một khát vọng lớn lao vào tương lai. Nhịp thơ nhanh, với một loạt các từ ngữ liệt kê “đồng”, “biển”, “rừng”, “sông” cuốn vào mạch cảm xúc của bài thơ, giúp người đọc như cùng chung cảm xúc với nhân vật, với hoàn cảnh trữ tình.
Từ những hồi tưởng và thức tỉnh, nhà thơ đi đến suy ngẫm và triết lí nhân sinh sâu sắc khái quát nội dung toàn bài thơ:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Trong cuộc gặp mặt bất ngờ, trăng và người như có sự đối lập. Trăng trở thành biểu tượng của sự vĩnh hằng bất biến, vầng trăng “cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho sự tròn đầy, trọn vẹn tình nghĩa của thiên nhiên, cuộc sống và con người trong quá khứ dù cho con người nay đã đổi thay “vô tình”. Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”, gợi cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của người bạn thủy chung. Hình ảnh thơ được lấy từ hiện thực – thiên nhiên bất biến, vĩnh hằng để khái quát nên một lẽ sống cao đẹp 1 tình nghĩa, trọn vẹn, chung thủy và vị tha. Tấm lòng đáng trân trọng ấy là tấm lòng của những người đồng chí đồng đội một thời sống chết vì nhau của đồng bào nhân dân đã san sẻ từng “chia nhau củ sắn bùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Cao đẹp biết bao là tình người vị tha, bao dung, độ lượng, vị tha để, người bạn vô tình được “giật mình” thức tỉnh và kịp có một cơ hội níu giữ quá khứ, níu giữ tấm lòng trong sạch, thanh cao.
Có lẽ vì thế mà chỉ ánh nhìn “im phăng phắc” là đã đủ, câu thơ cuối dồn nén nghẹn ngào tạo âm vang lớn trong lòng người đọc về những bừng tỉnh suy tư.
Ánh trăng gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị, thủ thỉ tâm tình, giọng thơ trầm tĩnh, Bài thơ không chỉ giống một câu chuyện nhỏ mà còn như một áng văn nghị luận xã hội đầy chất thơ, sự mạch lạc tuần tự của tự sự và nghị luận giúp bài thơ đi vào tâm trí người đọc thật dễ dàng, tự nhiên, khắc sâu triết lí sống cao đẹp, thủy chung có tình có nghĩa, bộc lộ niềm băn khoăn trăn trở trước thực tại:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
Chất tự sự và chất trữ tình đan xen hòa quyện vào từng âm điệu, dòng thơ. Các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện dòng cảm xúc mãnh liệt của tác giả. Nhịp thơ khi ngân nga, vang, vọng, khi dồn dập, mạnh mẽ, lúc trầm lắng ăm ắp suy tư tạo cho tác phẩm sự trôi chảy, mượt mà, tự nhiên và nhịp nhàng trong dòng cảm xúc dâng trào.
Câu chuyện của nhà thơ không chỉ dành riêng cho chính bản thân ông, nó còn có sức khái quát rất lớn với cả một thế hệ trải qua những năm dài mất mát của chiến tranh, nơi đạn bom, gian khổ. Câu chuyện của vầng trăng còn gặp lại nhiều câu chuyện khác – cùng với nỗi xót xa, trăn trở về cuộc sống đổi thay, như Ăn mày dĩ vãng với Ba Sương và Hai Hùng của Chu Lai, như Việt Bắc với “mình” và “ta” của Tố Hữu. Tất cả như đồng lòng nhất trí chung sức rung một hồi chuông lớn đến người đọc: đừng bao giờ quên quá khứ đừng bao giờ sông bạc bẽo vô tình. Cuộc sống dẫu có đổi thay lòng người dẫu có xa khác, nhưng đừng bao giờ quên đạo lí thủy chung “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, đừng bao giờ đánh đổi tình nghĩa sâu nặng lấy những phù phiếm hão huyền.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 4
“Văn chương chân chính dù sáng tác ở thời đại nào cũng góp phần gợi mở, định hướng giá trị sống cho con người hiện tại.” Quả thật vậy, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình những bài học nhân sinh sâu sắc và tác phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng là một tác phẩm văn học chân chính khi gửi gắm tới bạn đọc bài học có giá trị muôn thời – bài học về lối sống ân nghĩa, thủy chung.
Tác phẩm “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 khi đất nước đã giải phóng được khoảng ba năm. Bước ra khỏi cuộc sống chiến đấu gian khổ đề sống những ngày tháng hòa bình, độc lập, con người ta thường dễ dàng lãng quên đi những quá khứ gian lao mà tình nghĩa của một thời. Bởi vậy, để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người, Nguyễn Duy đã sáng tác nên bài thơ này,
Mở đầu tác phẩm, tác giả đưa người đọc trở về sống trong những ngày tháng quá khứ với những kỷ niệm khó phai:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hổi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Sự xuất hiện của những hình ảnh “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” gợi cho ta liên tưởng đến khoảng không gian bao la, khoáng đạt. Không gian ấy cứ mỗi lúc được mở rộng hơn trước mắt chúng ta. Kèm theo đó là sự lớn khôn, trưởng thành của nhân vật trữ tình. Mới ngày nào chỉ là một đứa trẻ hồn nhiên nô đùa trên đồng ruộng sông nước quê hương vậy mà giờ đã trở thành người lính trường thành xông pha trận mạc gian khổ. Gắn bó thân thiết cùng với người lính, “vầng trăng trở thành tri kỷ”, luôn đồng hành, chia ngọt sẻ bùi cùng người lính trong suốt những đêm dài chiến dịch. Bởi vậy mà người lính năm xưa đã từng khẳng định:
“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
“Ngỡ” có nghĩa là nghĩ, là tin, là tưởng. Nói ra điều này chứng tỏ người lính luôn tin tưởng rằng tình cảm gắn bó giữa mình và trăng sẽ mãi mãi bền chặt, không thể tách rời. tuy nhiên ngỡ không bao giờ quên có nghĩa là đã có lúc trót quên. Câu thơ mang chút ngậm ngùi, xót xa bởi những tình cảm gắn bó tưởng chừng không bao giờ thay đổi vậy mà giờ đã đổi thay. Dòng hồi tưởng về quá khứ khép lại nhưng cũng lại mở ra một bước ngoặt mới, tạo bước đệm để thể hiện được tư tưởng bài thơ.
Chiến tranh kết thúc, người lính rời xa núi rừng gian khổ về với cuộc sống phố phường hiện đại, nơi có “ánh điện”, “cửa gương” xa hoa, hào nhoáng. Cuộc sống ấy hoàn toàn đối lập với cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trước đây của người lính. Nhưng sự thay đổi về hoàn cảnh sống ấy lại tới một sự đổi thay khác – sự đổi thay trong lòng người:
“vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Người dưng” là người xa lạ không quen biết và đau đớn hơn là người dưng ấy lại đã từng là tri kỷ một thời. Thế mới biết sức mạnh cuộc sống vật chất ghê gớm đến mức độ nào. Nó có thể làm thay đổi cả lương tâm con người. Quên đi trăng đồng nghĩa với việc người lính đã quên đi quá khứ gian lao mà nghĩa tình, quên đi mất mát hi sinh của dân tộc, quên đi chính bản thân mình với những lý tưởng cao đẹp của một thời tuổi trẻ. Thế nhưng, một tình huống đã xảy ra:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Từ láy “đột ngột” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người lính khi gặp lại vầng trăng tròn vành vạnh trên bầu trời thành phố. Có thái độ ấy còn bởi vì bấy lâu nay người lính đã quên trăng, coi trăng là xa lạ nhưng vầng trăng vẫn hiện diện, vẫn thủy chung với con người một cách vẹn nguyên như thuở còn gian khó. Trong giây phút gặp lại “cố nhân” ấy, người lính có hành động “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tác giả không viết “ngửa mặt lên nhìn trăng” bởi lẽ ông đã thực sự coi trăng là một con người trong cuộc hội ngộ không hẹn trước. Chính trong lúc ấy, nhà thơ lại thấy “rung rung” bao nỗi niềm xúc cảm, muốn nói mà chẳng thể cất thành lời. Một lần nữa , các hình ảnh “đồng”, “sông”, “rừng”, “bể” lại một lần nữa xuất hiện mở ra những trang ký ức quá khứ nghĩa tình năm xưa. Trăng giờ đây hiện lên là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, đất nước; cho một thời quá khứ nghĩa tình; cho một thời tuổi trẻ với bao lí tưởng sống tốt đẹp.
Đoạn thơ cuối kết tinh những suy ngẫm của người lính về vầng trăng:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Cấu trúc “cứ…kể chi…” gợi ra hình ảnh người và trăng trong trạng thái đối lập tương phản” trăng mãi thủy chung, nguyên vẹn dù con người có bội bạc, lãng quên. Nghệ thuật nhân hóa góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước. Trong cuộc gặp gỡ, trăng không một lời trách mắng mà chỉ “im phăng phắc”. Phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của vị quan tòa tuy bao dung độ lượng nhưng vô cùng nghiêm khắc khiến con người phải giật mình. Cái “giật mình” ở đây là cái giật mình đầy ý nghĩa. Người lính “giật mình” là bởi đã nhận ra được lỗi lầm của bản thân, những vô tình, sai phạm đáng trách. “Giật mình” còn do sự ăn năn, hối lỗi, xấu hổ trước vầng trăng tình nghĩa vẫn vẹn nguyên, tự thấy bản thân cần phải thay đổi cách sống. Có được những giây phút như vậy, con người sẽ sống trong sáng hơn, lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Bài thơ đi dần về những triết lí sâu sắc của cuộc đời. Nó là lời nhắc nhở ta về một đạo lí sống từ ngàn xưa của dân tộc ta – lối sống ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Ta không được phép quên đi những mất mát hi sinh của những người đi trước, những người đã hi sinh mồ hôi và xương máu cho chúng ta ngày nay được hưởng một cuộc sống bình yên, độc lập. Bởi thế, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ phải biết sống có trách nhiệm, sống sao cho xứng đáng với những gì mình được hưởng.
Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi khổ khiến dòng cảm xúc liền mạch tạo cho bài thơ dáng dấp như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Tác giả xây dựng được hình tượng vầng trăng giàu ý nghĩa biểu tượng, từ đó giúp nhà thơ truyền tải những thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài thơ không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là cả với những thế hệ đã từng đi qua chiến tranh, những ngày tháng gian lao mà nghĩa tình.
Đi qua ngày tháng bom rơi đạn lửa, con người ta sống trong thời bình bởi vậy mà dễ dàng quên đi một thời đã qua. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giá trị muôn thời là bởi vậy. Nó đã định hướng một lối sống tình nghĩa, thủy chung không chỉ với thế hệ khi ấy mà cả hiện tại và mai sau.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 5
Trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở nhưng không bao giờ cũ trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam. Đến với trăng,khó ai có thể kìm lòng trước vẻ đẹp của nó. Nếu đến với trăng của các nhà thơ lớn của dân tộc như Thế Lữ có ” Nhớ rừng”; ”Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu hay ”Rằm tháng giêng, Cảnh khuya, Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh…ta đều thấy xuất hiện trước mắt một bức tranh đêm trăng đầy thơ mộng, bí ẩn và huyền ảo. Thế nhưng, đến với ”Ánh Trăng” của Nguyễn Duy, ta lại bắt gặp một tư tưởng hoàn toàn mới lạ. Trăng ở đây là quá khứ thuỷ chung, bất diệt; là người bạn nghĩa tình, tri kỉ; là bài học thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc.
Bao trùm cả bài thơ là một nỗi day dứt, ăn năn cứ kéo dài triền miên khôn nguôi. Ở ngay cái tên bài thơ cũng đủ để ta thấy được chủ đề của cả bài thơ. Tại sao Nguyễn Duy không đặt nhan đề là ”vầng trăng”, ”ông trăng” mà lại là ” ánh trăng”? Bởi lẽ, khác với ”vầng trăng”và ”ông trăng” là những hình ảnh cụ thể thì ”ánh trăng” là những tia sáng. Tia sáng ấy đã soi rọi vào góc tối của con người, đánh thức lương tâm của con người, làm sáng bừng lên cả một quá khứ đầy ắp những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương.
Từ lâu, trăng và người đã trở thành những đôi bạn tri kỉ, thân thiết:”Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần” thì đến ”Ánh trăng” quy luật ấy vẫn không hề thay đổi,trăng và người, người và trăng, họ vẫn vậy, vẫn gắn bó không rời. Hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi lại những kỉ niệm, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:
”Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Bốn câu thơ đầu gắn với giọng kể thủ thỉ, tâm tình ”hồi nhỏ”, ”hồi chiến tranh” đã đưa người đọc trở về quá khứ đã rất xa, một quá khứ đầy ắp những kỉ niệm, mở ra một khoảng không gian bao la, rộng lớn. Cái không gian ấy là ”đồng”, là ”sông”, là ”bể”, là một cuộc sống tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng con người được gắn bó, gần gũi và hoà hợp với thiên nhiên. Điệp từ ”với” như gắn kết ý thơ nhưng cũng là gắn kết con người với thiên nhiên, với vũ trụ, với vầng trăng tình nghĩa. Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ đã cho người đọc chúng ta thấy được một tuổi thơ hết sức đẹp đẽ, đó là những ngày tháng hạnh phúc và tươi đẹp nhất, được nô đùa dưới cánh đồng bát ngát, ngắm trăng trên bãi cỏ trước thềm, được nghe bà kể chuyện cổ tích dưới ánh trăng đêm. Những kí ức tuổi thơ thật đẹp làm sao! Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có một tuổi thơ gắn liền với ông trăng sáng tỏ:
”Ông trăng tròn sáng tỏ
soi rõ sân nhà em
trăng khuya sáng hơn đèn
ôi, ông trăng sáng tỏ
soi rõ sân nhà em”
Rồi đến lúc chiến tranh, ánh trăng lại cùng người lính trải qua biết bao những năm tháng gian khổ của đất nước, để vượt lên mọi khó khăn, mọi sự tàn phá của quân thù:
‘‘Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa mọc lên cao”
Ở đây, trăng và người vẫn là hai người bạn gắn bó bên nhau không rời ” thành tri kỉ”. Cái ”tri kỉ” ấy cũng giống như: ”Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” của Chính Hữu. Nó đều là sự san sẻ, cảm thông và thấu hiểu nhau sâu sắc. Trăng là người bạn để chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những nỗi đau thương, mất mát của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu, chan chứa yêu thương. Chính vì vậy mà, những ngày tháng tuổi thơ, những năm tháng kháng chiến đã trở thành kí ức chan hoà, tình nghĩa với nhân vật trữ tình.
”Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”
Với phép liên tưởng đầy nghệ thuật ”trần trụi với thiên nhiên” cùng lối so sánh độc đáo ”hồn nhiên như cây cỏ” đã cho người đọc chúng ta sự ấn tượng về ánh trăng trong quá khứ. Trăng và con người sống chân thành với nhau không chút giả tạo, dối trá. Vầng trăng trong sáng, vô tư như tuổi thơ, thật thà, chân chất như lòng nhiệt huyết sục sôi của người lính trẻ. Vì vậy mà, nhân vật trữ tình đã tự hứa với lòng mình:
”Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Giong thơ tưởng như đều đặn, thế nhưng chỉ với một từ ”ngỡ” như báo trước sự chuyển biến trong câu chuyện của nhà thơ. Cái tư ”ngỡ” ấy thể hiện sự tưởng tượng, là một khẳng định chắc nịch. Thế nhưng, cái từ ”ngỡ” ấy cũng chính là một bước ngoặt trong tâm trạng, thái độ của nhà thơ.
Thế rồi, chiến tranh qua đi, đất nước ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được cải thiện. Và như một lẽ thường tình, hoàn cảnh sống thay đổi, lòng người cũng dễ dàng đổi thay. Khổ thơ tiếp theo đã đưa người đọc trở về hiện tại với những biến đổi trong mối quan hệ giữa nhân vật trữ tình với vầng trăng xưa kia:
”Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Từ một cuộc sống chan hoà với thiên nhiên, nay cuộc sống của con người đã thu hẹp hơn. Không gian núi rừng hoang vu, rộng lớn đã thay bằng không gian phố phường hiện đại, hào nhoáng. Và hình ảnh vầng trăng- người bạn luôn kề vai sát cánh bên con người cũng đã bị thu hẹp lại. Không có con người bên cạnh, nó chỉ biết lủi thủi đi qua con ngõ nhỏ tối tăm, mù mịt. Tầm quan trọng của trăng cũng không còn như xưa. Ngày ngày, trăng vẫn hiện hữu trong đời sống con người, vẫn bên con người, đồng hành cùng con người dù có ở nơi đâu, chốn nào, mặc mọi thời gian, không gian, mặc mọi khó khăn, nhọc nhằn. Trăng vẫn vậy, vẫn tròn đầy,thuỷ chung, chẳng hề thay đổi nhưng con người thì đã đổi thay. Cái bạc bẽo, vô tình đến với người ta một cách từ từ, kín đáo, khó nhận ra.Từ” vầng trăng tri kỉ”, ”vầng trăng tình nghĩa ”bỗng chốc trở thành ”người dưng qua đường” lúc nào không hay. Chỉ một hình ảnh so sánh” vầng trăng” với ” người dưng qua đường” cũng đủ để thấy được thái độ thờ ơ, vô tâm của con người với người bạn của mình năm xưa. Một từ ”người dưng” thôi nhưng nghe sao mà đau lòng đến thế!
Thế nhưng ”sông có khúc, người có lúc” đâu phải cuộc đời con người lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Phải có những biến động, những bất ngờ đó mới chính là cuộc sống. Và ở đây cũng vậy, ta sẽ bắt gặp một tình huống bất ngờ xảy ra làm thay đổi cảm xúc của nhân vật trữ tình:
‘‘Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Trong khoảnh khắc bất ngờ từ bóng tối bước ra ngoài ánh sáng ấy, nhân vật trữ tình không khỏi bàng hoàng, ngỡ ngàng khi nhận ra ánh trăng vẫn tròn, vẫn đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn nguyên như xưa. Chính cái khoảnh khắc ấy đã tạo nên một bước ngoặt cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Trăng xưa bỗng chốc quay trở lại với nhân vật trữ tình tạo cho anh một cảm xúc mãnh liệt như được trở về quá khứ, bao kỉ niệm xưa bỗng chốc ùa về:
‘‘Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông là rừng”
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng, có phần thành kính: ”ngửa mặt lên nhìn mặt”. Nếu cái đối diện của Hồ Chí Minh là sự say đắm trước vẻ đẹp của đêm trăng, là một khát khao mãnh liệt được chạm tới trăng, được hoà mình vào trăng,vào thiên nhiên:
”Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Thì ở Nguyễn Duy, cái đối diện ấy là đối diện với quá khứ, với sự ăn năn, day dứt với người bạn tri kỉ của mình năm xưa. Lúc này, không chỉ có người đối diện với trăng mà còn là quá khứ với hiện tại, thuỷ chung với vô tình, bạc bẽo. Nhìn trăng,nhân vật trữ tình cũng như nhìn thấy chính mình trong quá khứ của ”hồi nhỏ”, ”hồi chiến tranh”. Và rồi, nhân vật trữ tình cũng nhận ra giá trị cũng như vẻ đẹp vầng trăng- người bạn năm nào của mình:
”Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Đằng sau cánh cửa, vầng trăng xuất hiện ”tròn vành vạnh” không chút thay đổi. Trăng lặng lẽ nhưng rất nhân hậu, bao dung, không oán hờn, không trách móc người bạn đã từng quay lưng với mình. Thế nhưng, cũng chính cái im lặng nghiêm khắc, cái sự cao thượng ấy lại khiến cho bản thân con người phải giật mình thức tỉnh. Cái giật mình của lương tâm con người thật đáng trân trọng. Nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở, tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn, tìm lại cái đẹp trong tâm hồn. ”Giật mình”để không chìm vào lãng quên, để không đánh mất quá khứ,đánh mất người bạn tốt của mình. Con người giật mình trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối, ăn năn đầy day dứt, cũng giống như câu thơ cuối bài thơ ”Ông đồ”: ”Hồn ở đâu bây giờ?”
Nhắc đến thơ Nguyễn Duy, có người nhận xét: ”Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, tha thiết cái hồn, cái vía của dân ca, ca dao Việt Nam. Những bài thơ của ông không cố gắng tìm những hình thức mới mẻ mà đi sâu vào cái nghĩa, cái tình muôn đời của con người Việt Nam. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Duy cũng không bóng bẩy mà gần gũi, dân dã, đôi khi còn hơi” bụi” phù hợp với ngôn ngữ thường nhật”. Qủa đúng như vậy! Chỉ qua bài ” ánh trăng” ta cũng đủ để thấy được tài hoa trong nghệ thuật viết thơ của Nguyễn Duy. Điều đặc biệt, cả bài thơ ”ánh trăng” chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến ta liên tưởng dòng hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, nó cứ triền miên mãi không nguôi. Hơn nữa, bài thơ còn gây xúc động bởi cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, thủ thỉ, lời nhắc nhở chân tình, giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua đó, Nguyễn Duy cũng muốn gửi gắm tới mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống ngàn đời của dân tộc” ân tình, thuỷ chung”; ”uống nước nhớ nguồn”; hãy sống trước sau như một, đừng thay lòng đổi dạ và quên đi cội nguồn của mình.
Từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm của con người đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà hào hùng, nghĩa tình với thiên nhiên, đất nước bình dị. ”Ánh trăng” có ý nghĩa sâu sắc, là lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho người lính chống Mĩ mà nó còn ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có chúng ta.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 6
Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ Cổ, Kim, Đông, Tây. Nhìn chung, xưa nay thi nhân tả trăng, vịnh trăng không phải chỉ vì trăng, mà vì con người, vì cuộc sống nhân sinh. Trăng thì muôn thuở vẫn vậy, nhưng khi đi vào thơ lại có muôn vàn sắc thái và biểu cảm khác nhau, bởi sự đa dạng, phong phú của cuộc sống, tình đời cũng như các cung bậc tâm trạng thi sỹ trong những hoàn cảnh riêng, được thi nhân gửi vào trăng, theo trăng. Thế nhưng, viết về trăng có mang lại giá trị tư tưởng và thẩm mỹ mới hay không lại phụ thuộc vào cái nhìn nghệ thuật của thi nhân. Một cái nhìn mới, lạ hóa đối tượng sẽ đem đến những ý nghĩa và giá trị mới về tư tưởng và thẩm mỹ. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một minh chứng cho điều đó.
“Ánh trăng” mang thần thái, dáng nét những thời gian, không gian sinh hoạt khác nhau của nhân vật trữ tình thể hiện ở ba điểm nhìn khác biệt nhau. Một là, ánh trăng hồi nhỏ và hồi chiến tranh ở rừng. Hai là ánh trăng từ hồi về thành phố. Ba là ánh trăng trong cảnh huống khi thình lình đèn điện tắt. Ba điểm nhìn với ba thời gian không gian khác nhau tạo nên một chuỗi liên kế về ánh trăng trong cảm xúc và suy tư của tác giả. Qua đó, tính tư tưởng, triết lý và thẩm mỹ của hình tượng thơ hiển lộ.
Nằm trong sự chi phối của cái nhìn nghệ thuật như thế, thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật trong bài thơ là hai hình tượng gắn liền với nhau. Mỗi thời gian đi liền với một không gian cụ thể, và hàm chứa những thông điệp thẩm mỹ, tư tưởng riêng.
Thời gian nghệ thuật trong bài thơ là thời gian được nhìn bằng khoảng và điểm. Thời gian khoảng bao gồm các chặng: Chặng thứ nhất là khoảng thời gian bao gồm hồi nhỏ và hồi chiến tranh:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trong khoảng thời gian hồi nhỏ, trăng gắn liền với nhân vật trữ tình trong những mối quan hệ hồn nhiên, chan hòa với đồng, với sông, với bể. Như vậy, trong Ánh trăng, thời gian này hàm chứa và gợi mở những hình ảnh và xúc cảm trong trẻo, tràn đầy chất thơ với thiên nhiên của nhân vật trữ tình, đến mức:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.
Vẻ đẹp của ánh trăng, vẻ đẹp của tâm hồn con người được gợi nhiều hơn tả, và gọi về trong trường cộng hưởng của người đọc mênh mông và diệu kỳ những ánh trăng của chính mình thời thơ trẻ trong veo tâm hồn thánh thiện. Tiếp theo, vẫn chung trong tín hiệu thân mật, gần gũi, tan hòa giữa con người với ánh trăng, khoảng thời gian ở rừng, trăng trở thành tri kỷ. Đồng thời, ánh trăng bây giờ có thêm sắc diện mới so với hồi nhỏ. Đó là, hồi nhỏ thơ ngây, vô tư trần trụi và hồn nhiên, bây giờ thì trăng đã mang chất suy tư của người bạn tri kỷ với người lính đi giải phóng quê hương, bảo vệ Tổ quốc. Trăng thành vẻ đẹp của lý tưởng hòa bình, êm dịu và bình yên. Trăng hàm chứa những suy tư, xúc cảm của những người thanh niên dâng hiến tuổi xanh cho Tổ quốc vì nghĩa lớn.
Khoảng thời gian thứ ba có một sự thay đổi trong mối quan hệ giữa trăng với người. Đó là khoảng thời gian “Từ hồi về thành phố”… Các tình tiết nói về cuộc sống sinh hoạt của nhân vật trữ tình lúc này đã khác với ngày xưa: Nếu ngày xưa là với đồng, sông, bể thì bây giờ là quen ánh điện, cửa gương, phòng buyn-đinh; ngày xưa chan hòa, tan thấm vào nhau còn bây giờ là phụ thuộc, lệ thuộc; ngày xưa là thiên nhiên, cây cỏ thì bây giờ là nhân tạo; ngày xưa là nông thôn, núi rừng, biển khơi thì bây giờ là phố phường. Vì vậy, trăng bỗng nhiên thành thừa, và những gì của hồi nhỏ và hồi chiến tranh ở rừng đã gắn liền với trăng, cùng trăng thì nay cũng theo đó mà trở nên bị lãng quên, đến mức:
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường.
Ở Truyện Kiều, trong quãng thời gian phải chìm nổi trong nhơ đục và hỗn tạp, Thúy Kiều nhìn trăng và nhớ về ngày xưa trong nỗi hổ thẹn và đau khổ:
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Trăng thề còn đó trơ trơ
Mà xa xôi mặt mà thưa thớt lòng…
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Thi tiên Lý Bạch nhìn trăng sáng đầu giường mờ ảo như sương, Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, nhưng bỗng nhớ quê hương, nhớ về trăng xưa với bao kỉ niệm nên đã cúi đầu thương nhớ:
Đầu giường đầy trăng sáng
Dưới đất ngỡ là sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
(Tĩnh dạ tứ – Lý Bạch).
Đi liền với ba khoảng thời gian đó là ba mảng không gian với những nét khác biệt, và thậm chí có sự trái ngược. Chính sự trái ngược về những đặc tính của không gian ấy là một trong những nguyên nhân kéo theo sự thay đổi có tính trái ngược của con người trong những thời gian khác nhau. Không gian thứ nhất là đồng, sông, bể. Không gian này gợi mở mối quan hệ gắn bó, thân thiết, chân tình và mộc mạc của người với trăng. Cái đẹp toát lên từ những hình ảnh:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.
Ở đây, dường như không còn khoảng cách giữa trăng với người, người tan thấm vào thiên nhiên và thiên nhiên hòa điệu với con người. Không gian Hồi chiến tranh ở rừng không được tác giả miêu tả, nhưng người đọc có thể hình dung ra được những đặc thù của nó trong quan hệ với người lính giải phóng quân. Và trong không gian ấy, trăng trở thành tri kỷ với người lính. Nhưng, không gian thứ ba thì mối quan hệ giữa người và trăng đã khác.
Trong tình huống thứ nhất, với những ánh điện, cửa gương, phòng buyn-đinh, con người, nhất là những người vừa trở về từ gian khổ khốc liệt, từ núi rừng heo hút và khó khăn mọi mặt trong đời sống sinh hoạt và chiến đấu thì dễ bập vào những cái thuận tiện và dễ dãi của vật chất sinh hoạt đời thường, thậm chí có những người bị tha hóa vì sa đà vào hưởng thụ cho bõ cơn thiếu khát những tháng ngày gian khó. Thế nên, trăng, với bao ý nghĩa và kỷ niệm sâu nặng ân tình, đã thành kẻ thừa Như người dưng qua đường. Cảnh huống thay đổi, tạo nên tình huống thứ hai khi:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình. Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người “giật mình” tỉnh ngộ, sự tỉnh ngộ về bản thân, về những giá trị cuộc sống, về bổn phận và trách nhiệm với cuộc đời, về tình thương, ân nghĩa, thủy chung. Ánh trăng như một tấm gương gọi về những kỉ niệm đẹp đẽ của cả một chuỗi thời gian của con người, để con người rưng rưng khi nhớ về những đồng, những bể, những sông, những rừng để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta. Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người. Những điều đó có giá trị thanh lọc con người!
Bài thơ “Ánh trăng” sử dụng thể thơ năm chữ, chủ yếu là tự sự. Nhưng khi đến cao trào thì trữ tình, dù dung lượng ít, vẫn làm bật lên những cảm xúc mới mẻ và tư tưởng sâu sắc. Ngôn từ giản dị nhưng được sử dụng đắc địa, có giá trị chuyển tải thành công tình cảm và triết luận của nhà thơ. Một đề tài cũ, những không gian tưởng chừng như đã quá quen, nhưng thi pháp mới với cái nhìn, quan niệm mới của Nguyễn Duy về ánh trăng thể hiện trong những điểm nhìn độc đáo đã tạo nên vẻ đẹp riêng, rất riêng của “Ánh trăng”.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 7
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Thế hệ này từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, chứng kiến bao hi sinh lớn lao của đồng đội nói riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc chiến. Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, là để giãi bày những cảm xúc và suy tư của mình trước thực tế có người còn ghi nhớ những mất mát hi sinh năm xưa, có người lại lãng quên quá khứ.
Cái hay của bài thơ này là câu chuyện đời thường được kể bằng những lời thơ giản dị, mộc mạc mà chứa đựng tình cảm, tư tưởng sâu xa. Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng diễn ra như sau: Hồi nhỏ sống ở làng quê ven biển và hồi chiến tranh sống ở rừng thì vầng trăng là tri kỉ, gần gũi, thân thiết:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.
Hồi nhỏ là hồi còn bé thơ, còn sống với làng quê với trăng sáng. Lúc ấy con người hồn nhiên, chưa toan tính điều gì. Trăng là một phần của thiên nhiên gắn kết với cuộc sống con người. Trang đến trang đi mang theo nhiều điều mơ ước, chứa đựng biết bao tâm tư tình cảm. Trăng với người như hình với bóng, không sao xa rời.
Những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh, “vầng trăng thành tri kỉ”, lúc nào cũng kề cận, soi bước hành quân, soi trong giấc ngủ. Nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính, của nhà thơ.
Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi,đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…
Trăng đã cùng con người vượt qua biết bao gian nan, vào sinh ra tử. Bởi thế, người lính cảm động biết bao, tự hứa với lòng “không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” ấy. Đến khi chiến tranh kết thúc, được về sống ở thành phố, cuộc sống thay đổi khiến con người cũng thay đổi:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Cuộc sống tiện nghi, đầy đủ, khác xa với những tháng ngày trước đó đã khiến con người quên hẳn người tri kỉ, người bạn chân thành năm xưa. Giờ đây, vầng trăng đi qua ngõ lạnh lùng và xa lạ như người dưng qua đường. Vầng trăng vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.
Sự cố mất điện khôi phục lại biết bao kỉ niệm, khiến con người đối diện lại với hoàn cảnh tương tự của năm xưa, vầng trăng sáng xuất hiện đánh thức kí ức và khiến con người thức tỉnh, nhận ra lỗi lầm của mình:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Con người đối diện với vầng trăng trong một tình huống bất ngờ. Chính cái bất ngờ ấy đưa con người sống thực với chính mình, sống thực với nguồn cội sự sống. Giọt nước mắt rưng rưng trên khóe mắt vừa là sự cảm động sau xa vừa là niềm tiếc hận bẽ bàng, tận cùng của đau xót:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng.
‘‘Ngửa mặt lên nhìn mặt” có nghĩa là nhìn lại mặt mình và thấy mình có lỗi, mình đã thành con người khác, con người đã quên đi những năm tháng gian lao mà tình nghĩa, quên đi những mất mát, hi sinh,… Những giọt nước mắt cho thấy sự thức tỉnh và hối lỗi của nhà thơ. Thực ra, có thể hiểu là “lòng rưng rưng “chứ không phải rưng rưng”, những giọt nước mắt trong sâu thẳm lòng người có sức lay động nhiều hơn những giọt nước mắt trên bờ mi.
Và nhà thơ đã “giật mình”dù trăng phăng phắc”. Người bạn tri kỉ ấy không nói, mà vẻ đẹp của người tri kỉ đã làm nhà thơ bừng tỉnh ngộ. Người ta có thể thấy qua “ trăng” những gương mặt người tri âm xưa. Với người này, đó có thể là hình bóng của thời bé dại. Với người khác, đó có thể là hình dáng của tháng năm êm đềm hạnh phúc đã qua. Riêng với nhà thơ, đó chính là gương mặt đồng đội trong những tháng năm đạn bom khốc liệt.
Nhà thơ “giật mình” trước sự suy thoái về đạo đức, về lối sống của xã hội, trong đó có bản thân mình: có đèn điện, quên vầng trăng; có hoà bình, quên quá khứ chiến tranh. Vì vậy, lời tự thú chân tình của tác giả chính là lời nhắc nhở về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa và đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, thân thương.
Cùng với nhạc phẩm “Bài ca không quên” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn, thi phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy gợi nhắc lẽ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung – truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chắc chắn rằng, mỗi người chúng ta đều có những lí do rất riêng để lí giải vì sao mình lãng quên một điều thiêng liêng nào đó; xin hãy thành tâm suy nghĩ và biết “ giật thức tỉnh khi đọc bài thơ này. Đó chính là giá trị nhận thức mà văn học mang lại.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân tình thủy chung cùng quá khứ.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 8
Ánh trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở, khơi gợi dòng cảm xúc bất tận của các nhà văn, nhà thơ. Ánh trăng qua mỗi dòng văn, dòng thơ của các tác giả khác nhau sẽ hiện lên với những hình ảnh riêng biệt. Nếu như ánh trăng trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu là “đầu súng trăng treo” đầy thơ mộng, thì ánh trăng của Nguyễn Duy lại đem đến hình ảnh ánh trăng như một người bạn tri kỉ trong những năm tháng gian lao chống giặc.
Tác phẩm “Ánh trăng” được nhà thơ Nguyễn Duy sáng tác vào năm 1978 khi đất nước đã giải phóng được khoảng ba năm. Bước ra khỏi cuộc sống chiến đấu gian khổ đề sống những ngày tháng hòa bình, độc lập, con người ta thường dễ dàng lãng quên đi những quá khứ gian lao mà tình nghĩa của một thời. Bởi vậy, để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người, Nguyễn Duy đã sáng tác nên bài thơ này, trong đó hình ảnh ánh trăng chính là sự ẩn dụ cho một người chứng kiến những khó khăn, gian khổ ấy.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã có thấy sự gắn bó giữa bản thân và vầng trăng:
”Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Trăng ở bốn câu thơ đầu được nhắc đến những cùng với hình ảnh đồng, sông, bể gợi lên không gian bao la nhưng đầy thân quen của những năm tháng ấu thơ, kết hợp với giọng kể thủ thỉ, tâm tình ”hồi nhỏ”, ”hồi chiến tranh” đã đưa người đọc trở về quá khứ đã rất xa, một quá khứ đầy ắp kỷ niệm của tác giả. Điệp từ ”với” như gắn kết ý thơ nhưng cũng là gắn kết con người với thiên nhiên, với vũ trụ, với vầng trăng tri kỷ. Đến khi ra chiến trường, trăng thành người bạn tri kỉ, gắn bó. Ánh trăng khi ấy là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến.
”Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”
Với phép liên tưởng đầy nghệ thuật ”trần trụi với thiên nhiên” cùng lối so sánh độc đáo ”hồn nhiên như cây cỏ” đã cho người đọc chúng ta sự ấn tượng về ánh trăng chân thành, không chút giả tạo và đầy tình nghĩa trong quá khứ. Ánh trăng ở trên trời, luôn hướng ánh sáng xuống thế gian làm bạn với các đồng chí, cũng chính vì vậy mà nhà thơ đã đinh ninh rằng bản thân sẽ chẳng bao giờ quên được ánh trăng nơi núi rừng ấy. Thế nhưng từ ”ngỡ” lại như báo trước cho sự chuyển biến trong suy nghĩ, tâm trạng và thái độ của nhà thơ.
Chiến tranh qua đi, đất nước ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được cải thiện. Và như một lẽ thường tình, hoàn cảnh sống thay đổi, lòng người cũng dễ dàng đổi thay:
”Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Nếu như trước đây ở trong rừng tối, những người chiến sĩ chỉ có ánh trăng làm bạn, ánh trăng soi rọi cho chiến sĩ sinh hoạt, thì bây giờ khi đã về thành phố, ánh trăng được thay thế bằng ánh đèn điện. Ánh đèn điện như làm lu mờ đi những tia sáng dịu nhẹ, chân thật phát ra từ vầng trăng trên đỉnh đầu. Ánh trăng vẫn vậy, vẫn tỏa sáng và ngày ngày hiện hữu trong đời sống con người, chỉ duy nhất có lòng người là đổi thay. Cái bạc bẽo, vô tình đến với người ta một cách từ từ, kín đáo, khó nhận ra: Từ” vầng trăng tri kỉ”, ”vầng trăng tình nghĩa ”bỗng chốc trở thành ”người dưng qua đường” lúc nào không hay. Chỉ với hình ảnh so sánh “vầng trăng” với ”người dưng qua đường” cũng đủ để thấy được thái độ thờ ơ, vô tâm của con người với người bạn của mình năm xưa. Nghe mới thật xót xa làm sao, khi mà chỉ với vài ánh đèn điện ở nơi phố thị xa hoa đã làm cho con người quên đi vầng trăng tình nghĩa sát cánh bên mình những năm tháng khó khăn gian khổ. Có lẽ vầng trăng sẽ mãi đi vào lãng quên nếu không có sự kiện thành phố bị mất điện:
”Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khoảnh khắc ấy như mở ra cảm xúc vỡ òa trong lòng tác giả. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” như diễn tả tâm trạng gấp gáp của tác giả. Chỉ khi không còn đèn điện, người ta mới “vội” bật tung cửa sổ để rồi “đột ngột” phát hiện ra vầng trăng tròn tỏa sáng lung linh vẫng đang hiện hữu. Chỉ khi không còn thứ ánh sáng nhân tạo kia, người ta mới nhận ra người bạn lâu năm vẫn đứng ở đó, vẹn nguyên, thủy chung và tròn đầy. Cuộc hội ngộ ấy đã thức tỉnh lương tâm con người, để từ đó tác giả thấy day dứt, suy tư, bao kỉ niệm xưa bỗng chốc ùa về:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông là rừng”
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng, có phần thành kính: ”ngửa mặt lên nhìn mặt”. Nếu sự đối diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự say đắm trước vẻ đẹp của đêm trăng, là một khát khao mãnh liệt được chạm tới trăng, được hoà mình vào trăng,vào thiên nhiên: ”Người ngắm trăng soi ngoài cửa / Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”, thì ở Nguyễn Duy, sự đối diện ấy là đối diện với quá khứ, với sự ăn năn, day dứt với người bạn tri kỉ của mình năm xưa. Nhìn trăng, nhân vật trữ tình cũng như nhìn thấy chính mình trong quá khứ để rồi nhận ra giá trị cũng như vẻ đẹp vầng trăng – người bạn năm nào của mình:
”Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ở đây, tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn tả vầng trăng như đang giận hờn, trách móc: “kể chi người vô tình”. Nhưng liệu có phải vầng trăng đang giận hờn hay không, hay đó chính là sự trách móc của chính tác giả đối với bản thân mình? Đằng sau cánh cửa, vầng trăng xuất hiện ”tròn vành vạnh” không chút thay đổi. Trăng lặng lẽ nhưng rất nhân hậu, bao dung, không oán hờn, không trách móc người bạn đã từng quay lưng với mình. Thế nhưng, cũng chính sự im lặng ấy lại khiến cho bản thân con người phải giật mình thức tỉnh. ”Giật mình” để không chìm vào lãng quên, để không đánh mất quá khứ, đánh mất người bạn tốt của mình.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Điều đặc biệt, cả bài thơ ”Ánh trăng” chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến ta liên tưởng dòng hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, nó cứ triền miên mãi không nguôi mà lại đầy sâu lắng. Qua đó, Nguyễn Duy cũng muốn gửi gắm tới mọi người lời nhắc nhở về thái độ sống “ân tình, thuỷ chung”, ”uống nước nhớ nguồn” của không chỉ riêng những người lính thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước mà còn của tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có chúng ta.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 9
Nhà văn Nguyễn Tuân có lần từng nói: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ trước bài thơ ấy dường như vẫn còn bị phong kín” vì vậy mỗi một sáng tác thơ ca đều phải mở ra một điều gì đấy mới mẻ về tư tưởng về nội dung về nghệ thuật trong tâm trí của người đọc.
Nếu Lí Bạch đã từng nâng chén cùng với trăng sáng trên cao để thấm thía nỗi cô đơn mình với bóng là ba, nếu Nguyễn Du đã để vầng trăng là nhân chứng cho mối lương duyên của Thúy Kiều – Kim Trọng, thì chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng coi trăng như một người bạn tri kỷ, thân thiết “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Cũng viết về vầng trăng, hình tượng vốn bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, nhưng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến sĩ, đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh trăng, một trong những tập thơ đánh dấu son quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy.
Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Người lính chiến từ giã chiến trường trở về giữa phố thị, sống trong cảnh hòa bình, đất nước đổi mới, trong lúc đó dường như sự đủ đầy vật chất, cuộc sống bộn bề đã khiến con người ta vô tình quên đi những năm tháng gian khổ nhưng ân tình thủy chung. Để khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra…
Trong 2 khổ thơ đầu mạch cảm xúc của Nguyễn Duy hướng về những kỷ niệm trong quá khứ, sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước đi của cuộc đời nhà thơ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Ngay từ khổ thơ đầu thì nhà thơ đã mở ra trong một dòng hoài niệm hết sức tha thiết về tuổi ấu thơ của chính mình bằng nhịp thơ đều đặn, với những câu thơ 5 chữ ngắn gọn, đầy cảm xúc. Đó là lời của một người lính từng đi qua chiến tranh gian khổ này về sống giữa Sài Gòn xa hoa, người lính ấy hồi tưởng về tuổi thơ, về thời trai tráng chinh chiến sa trường.
Nếu lúc nhỏ cuộc đời của cậu bé Nguyễn Duy gắn bó mật thiết với đồng ruộng, với dòng sông tươi mát, với vùng biển bao la, thì khi lớn lên vào cuộc chiến, cuộc sống của nhà thơ lại tiếp tục gắn bó sâu sắc với thiên nhiên núi rừng, như Tố Hữu nói trong Việt Bắc “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
Thế nhưng dẫu hoàn cảnh, điều kiện sống có đổi thay thì duy chỉ có một thứ chẳng hề thay đổi ấy là vầng trăng trên cao, vầng trăng ấy trong lòng của tác giả đã trở thành tri âm, tri kỷ, là người bầu bạn trong những năm tháng hoa niên, trong từng bước hành quân chiến đấu. Trăng chia sẻ những nỗi vui buồn, những niềm gian khó, đi đến đâu trăng theo đến ấy, thân thương, gần gũi vô cùng. Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ và vầng trăng được làm rõ qua mấy câu thơ.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Cuộc sống của tác giả, từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn bó mật thiết và “trần trụi” với thiên nhiên, không che giấu bất kỳ điều gì, tác giả sống một cách đơn giản, bình yên và hồn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mạnh mẽ dẻo dai.
Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ “ngỡ”, cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt mấy mươi năm cuộc đời kia.
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thế nhưng những cái “ngỡ” thường khó có thể duy trì vì cuộc đời vốn biến đổi không ngừng, bởi vật chất xưa nay luôn quyết định ý thức. Rời chiến trường, rời quê hương với những đồng ruộng, sông bể quê mùa, nhà thơ vào giữa phố thị, được sống trong một cuộc sống dư dả, xa hoa.
Nếu buổi trước kia phải vật vạ, mai phục nơi rừng sâu rậm rạp, phải chân lấm tay bùn với ánh đèn dầu mờ ảo thì nay cuộc sống đã đổi thay, “ánh điện cửa gương”, đều là những thứ mới mẻ, dễ khiến người ta ham thích và sống sung sướng mãi rồi cũng quen đi. Bất chợt nhà thơ chẳng biết từ lúc nào đã quên khuấy đi cái ánh sáng nhàn nhạt dịu nhẹ đến từ thiên nhiên, đến từ vầng trăng mà mình vẫn hằng coi là tri kỷ.
Không biết là do cuộc sống quá tất bật, bộn bề, hay lòng người vô tâm, bỏ quên kỷ niệm son sắt xưa cũ mà nay thấy vầng trăng ngự trên trời, cũng chẳng còn trân quý, chỉ là “người dưng qua đường”. Nói đến đây bỗng thấy thật xót xa, buồn tủi cho vầng trăng kia quá, từng một thời sát cánh, chia sẻ vui buồn từ đồng quê đến rừng già, từ ấu thơ đến trưởng thành, ấy mà chỉ vài năm ngắn ngủi, vài ánh điện lạ lẫm mọi thứ đã đổi thay.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Giữa sự trớ trêu và buồn tủi như thế, bỗng một tình huống bất ngờ xảy đến – mất điện, căn phòng tối om, khiến người lính vốn quen với ánh điện sáng trưng sửng sốt và hoang mang. Ông buộc phải tìm một nguồn sáng khác, cánh cửa mở ra, vầng trăng tròn “đột ngột” chiếu thẳng vào căn phòng tăm tối, chiếu thẳng vào tâm hồn của nhà thơ khiến ông giật mình.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Vầng trăng và nhà thơ dường như đối diện với nhau một cách trực tiếp và thẳng thắn nhất, mặt đối mặt, bao kỷ niệm ùa về ùa về trong tâm trí của tác giả như bão tố khiến đôi mắt này “rưng rưng” nước mắt, nào là vầng trăng tri kỷ vẫn một lòng một dạ sắt son giữa trời xanh, xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bờ biển thuở ấu thơ, con sông xanh mát.
Và có lẽ nhớ nhất chính là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ nhưng giàu những kỷ niệm không thể nào quên. Mà chỉ duy nhất một vầng trăng tri kỷ, vẫn bầu bạn, vẫn sẻ chia, vẫn dõi theo bước chân người lính chiến không rời.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Đối diện với trăng, nhà thơ dường như bị lép vế, bởi sự xấu hổ vì lỗi lầm vô tâm, nỡ bỏ quên những ân tình trong quá khứ, để chạy theo cuộc sống xô bồ tấp nập, theo “ánh điện cửa gương”, tách biệt với thiên nhiên, quên cả tri kỷ mà người đã từng “ngỡ không bao giờ quên”.
Trăng không hờn trách, không chỉ trích, trăng vẫn im lặng soi sáng, phủ lên nhà thơ thứ ánh sáng đẹp đẽ và nhân hậu. Điều ấy càng khiến con người ta thêm “giật mình”, thêm ngỡ ngàng, thậm chí là bàng hoàng về bản thân, sự im lặng đôi lúc chính là liều thuốc hữu hiệu, khiến chúng ta phải tự soi xét lại.
Sự bao dung, dịu dàng và thủy chung của vầng trăng khiến nhà thơ hiểu ra được nhiều điều, có lẽ cái “giật mình” ấy chính là sự tỉnh ngộ. Tỉnh ngộ để tìm lại bản thân, để sống tốt hơn, để nhớ lại và trân quý những gì tốt đẹp trong quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa, vầng trăng chính là một tấm gương sáng về lòng thủy chung của người tri kỷ, để người lính soi vào và suy ngẫm lại về bản thân mình suốt những năm qua đã sống thực sự nhân nghĩa hay chưa.
Vầng trăng xưa nay vốn đã rất quen thuộc với con người, trăng chiếu rọi xuống những ánh sáng nhàn nhạt, dịu nhẹ như người bạn, người thân, người tri kỷ sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp và đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.
Bởi dù đó có là những điều quá vãng, nhưng mãi luôn là những giá trị quan trọng xây dựng nên một tâm hồn, một cuộc đời, dễ dàng lãng quên đồng nghĩa với việc vô tâm, vô cảm với cuộc đời.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 10
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã có những tác phẩm hay, để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Một trong những bài thơ tiêu biểu là “Ánh trăng”, bài thơ được sáng tác năm 1978. Bài thơ như một lời nhắc nhở người đọc thái độ sống ân nghĩa thủy chung qua một hình thức nghệ thuật độc đáo, đặc sắc.
Trước hết, ánh trăng gợi lên trong lòng người đọc những kỉ niệm sâu sắc, ấm áp và nghĩa tình của người chiến sĩ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”
Tuổi thơ êm đềm, hiền lành và bình dị gắn với đồng, sông, bể đã nuôi dưỡng tâm hồn của người chiến sĩ. Điệp từ “với” lặp lại 3 lần thể hiện sự gắn bó, liên hồi và da diết của cảm xúc, nhịp thơ. Vầng trăng đã trở thành tri kỉ, thành người bạn tâm tình, gần gũi gắn bó với tuổi thơ tươi đẹp, trong sáng. Cứ như thế, trăng theo nhịp bước người chiến sĩ lớn dần theo năm tháng, đến cả những nơi gian khổ, hiểm nguy nhất, là trong chiến tranh:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”.
Vầng trăng mang vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc nguyên thủy như vẻ đẹp của thiên nhiên, khiến cho nhân vật trữ tình cảm nhận dường như sẽ không bao giờ có thể quên cái vầng trăng tri kỉ-tình nghĩa ấy. Vậy là vầng trăng không còn là vật vô tri vô giác mà đã trở thành người bạn, người đồng chí, đồng tình có linh hồn, nhịp đập và hơi thở riêng. Nhưng vầng trăng không chỉ gắn liền với những kỉ niệm, không chỉ đẹp lung linh, tươi mới mà còn là lời nhắc nhở thầm kín của tác giả với người đọc về lối sống nghĩa tình, thủy chung.
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện của gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”.
Cuộc sống thay đổi, con người cũng phải thay đổi mình để bắt nhịp với cuộc sống hiện đại để theo kịp nhịp nhảy của thời đại, nhưng một điều đáng buồn là vầng trăng tri kỉ-tình nghĩa năm nào giờ không còn nữa mà đã trở thành người xa lạ, dửng dưng.
Chính cuộc sống hiện đại, văn minh và những tiện nghi đã làm con người ta quên đi cái quá khứ khó nhọc mà anh hùng của mình, quên đi những gì bình dị, thiêng liêng nhất trong kí ức, đến nỗi giờ đây tất cả chỉ là người dưng nước lã, kẻ xa lạ, không quen biết. Một tình huống bất ngờ xảy ra và chính khoảnh khắc ấy đã làm nổi lên tất cả vấn đề mà nhà văn muốn gửi gắm:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”
Từ láy “thình lình” xuất hiện ở đầu khổ thơ đã diễn tả tình huống mất điện đột ngột vào ban đêm. Ba động từ “vội, bật, tung” để tìm ánh sáng đặt liền nhau đã diễn tả sự khó chịu, bức bối và hành động khẩn trương đi tìm nguồn sáng của con người. Hình ảnh vầng trăng tròn tình cờ và tự nhiên hiện ra giữa trời chiếu vào căn phòng tối om kia, vào khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng ấy.
Từ láy “đột ngột” được lựa chọn rất đắt nhằm diễn tả một tình huống hết sức bất ngờ. khổ thơ giống như một nút thắt khơi gợi tâm trạng suy ngẫm cho người đọc:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.”
Vầng trăng xuất hiện thật bất ngờ dẫn đến sự đối mặt đầy xúc động. ngửa mặt lên nhìn mặt diễn tả một động tác vừa trân trọng vừa thân mật. Điệp từ “mặt” xuất hiện hai lần trong một câu thơ nhấn mạnh sự giao cảm giữa trăng và người trong một tư thế tập trung, chú ý.
Một cái nhìn trực diện và cảm xúc thiết tha dâng trào trong lòng nhà thơ, đó là cảm xúc về những kỉ niệm ấu thơ, những gì thân thiết, gần gũi êm đềm trong sáng mà bấy lâu dường như bị lu mờ, phai nhạt dưới ánh điện cửa gương. Hình ảnh vầng trăng gợi nhớ đến thiên nhiên, nơi con người đã đi qua, đã sống và gắn bó như máu thịt. Cảm xúc “rưng rưng” là cảm xúc nghẹn ngào, bồi hồi, xúc động như trực trào nước mắt của nhân vật trữ tình:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Mạch cảm xúc suy tưởng của nhà thơ đã phát triển thành chiều sâu tư tưởng mang tính chất triết lí về trăng. Hình ảnh vầng trăng tròn vành vạnh biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên, viên mãn, tròn đầy không bị phai nhạt. “ánh trăng im phăng phắc” là sự im lặng như tờ, không một lời trách cứ, mặc cho con người vô tình.
Như vậy một cách hình tượng, nhà văn Nguyễn Duy muốn gửi đến thông điệp sắc về nhân sinh cho người đọc: con người có thể lãng quên quá khứ, thiên nhiên nghĩa tình nhưng vầng trăng, quá khứ luôn tròn đầy, viên mãn, rộng lượng, vị tha. Câu thơ có sự đối lập giữa trăng tròn vành vạnh và kẻ vô tình, giữa cái im lặng của trăng với sự giật mình, thức tỉnh của con người.
Kết hợp với biện pháp nhân hóa, hình ảnh ẩn dụ và các từ láy “vành vạnh, phăng phắc” đã gợi lên chính xác sự tròn đầy của trăng, đồng thời gợi lên một không khí tĩnh lặng, đủ để xoáy sâu vào lòng người sự suy ngẫm, day dứt. Cái giật mình là cảm giác và phản xạ tâm lí của một con người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình của bản thân và sự nông nổi trong cách sống của mình, cái giật mình của sự ăn năn, tự trách tự thấy mình cần phải thay đổi không được phản bội quá khứ.
Lời thơ kết hợp tự sự với trữ tình. Hình ảnh thơ bình dị, hàm súc, giàu sức gợi và mang nhiều ý nghĩa biểu tượng tất cả đã tạo nên một bài thơ hay, ám ảnh và giàu sức gợi.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 11
Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài thơ “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của anh đã từng đoạt giải thưởng báo Văn Nghệ. Hiện nay. Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác. Anh viết đều và khỏe. “Ánh trăng” là một trong những bài thơ của anh được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.
Hai khổ thơ đầu tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng lị thành tri kỉ.”
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.
Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với trăng:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”
Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hóa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa” bởi trăng từng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ như tác giả đã nói ở trên. Ấy thế mà có những thời gian tác giả tự thú là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa” ấy:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường. ”
Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, “quen ánh điện”, “cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng… dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những tháng năm gian khổ.
Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những năm tháng gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”. Con người ta thường hay đổi thay như vậy. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương”, quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đời không thèm để ý đến“vầng trăng” từng là bạn tri kỉ một thời. Phải đến lúc toàn thành phố mất điện:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”
“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy,… tác giả, bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả cứ “rưng rưng” nước mắt:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng”.
Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Tác giả không dấu được niềm xúc động mãnh liệt của mình. “Vầng trăng” nhắc nhở tác giả đừng bao giờ quên những tháng năm gian khổ ấy, đừng bao giờ quên tình bạn, tình đồng chí đồng đội, những người đã từng đồng cam cộng khổ. chia ngọt sẻ bùi trong những tháng năm chiến đấu đầy gian lao thử thách.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình… ”
Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình chiến đấu trong những tháng năm “không thể nào quên”.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thủy chung khiến người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 12
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sau chiến tranh, Nguyễn Duy tiếp tục làm thơ và thơ ông ngày càng trở nên đậm đà với một phong cách, giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán”.
Thơ Nguyễn Duy giản dị, gần gũi song đầy suy tư, chiêm nghiệm triết lí sâu sắc về cuộc đời và con người. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó của Nguyễn Duy.Tác phẩm được viết vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Qua bài thơ, Nguyễn Duy muốn lời nhắc nhở, thức tỉnh người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa, thủy chung cùng quá khứ, thức dậy trong tâm hồn người lính lòng trung hiếu vẹn tròn với cách mạng, với nhân dân về những năm tháng gắn bó với thiên nhiên, với đất nước.
Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Dòng xúc cảm của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ tâm tư, suy ngẫm chiêm nghiệm. Trước hết, bài thơ mở ra những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ xa xôi:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Với giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, tác giả đã gợi nên những kỉ niệm của một quãng thời gian dài từ khi còn nhỏ cho tới lúc trưởng thành trở thành người lính trong chiến tranh. Tất cả đều thấm đẫm ánh trăng. “Hồi nhỏ” gắn mình với thiên nhiên như với đồng ruộng, với sông bể của quê hương. Lớn lên trở thành người lính xông pha trận mạc gắn mình với rừng núi bao la, bát ngát.
Trong cuộc ấy, con người sống chan hòa với thiên nhiên, bình dị, ấm áp, hiền hòa. Và vầng trăng “tri kỉ”, “tình nghĩa” đã minh chứng cho sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Ở đây, Trăng được nhân hóa như con người và trở thành người bạn tuyệt vời cùng với con người: Trăng chia sẻ mọi vui buồn, gian khó, đồng cam cộng khổ xoa dịu những vết thương của chiến tranh bằng thứ ánh sáng dịu hiền nên trở thành người bạn “tri kỉ”, tri âm.
Con người sống “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như cây cỏ”, một cuộc sống thanh thản, giản dị và thỏa lòng. Và trăng với người sống chan hòa, gắn bó đằm thắm “tình nghĩa” với nhau. Vì vậy, lòng đã tự hẹn với lòng bằng một tấm lòng thủy chung, tình nghĩa, son sắt: “bao giờ quên”. Nhưng từ “ngỡ” như vừa thể hiện niềm xót xa, tiếc nuối, ân hận; lại vừa báo hiệu trước sự đổi thay một tình nghĩa đáng lẽ cần phải trân trọng.
Nếu như ở hai khổ thơ đầu, tác giả đưa người đọc trở về với quá khứ xa xăm, thì đến với khổ ba, Nguyễn Duy lại đã đưa người đọc trở về với hiện tại trong sự tác động của hoàn cảnh đến con người, khiến con người lãng quên vầng trăng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thành phố là một địa điểm khác, hoàn toàn mới mẻ, đối lập với không gian sống hồi nhỏ và khi còn là người lính trên chiến trường. Hình ảnh “ánh điện cửa gương” là hình ảnh hoán dụ, biểu tượng cho cuộc sống đủ đầy, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại nơi phồn hoa đô thị, rời xa với thiên nhiên.
Từ đó, nhà thơ đã diễn tả sự thay đổi tình cảm của con người: “Vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa” kia đã trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng đi qua ngõ nhưng con người hờ hững, thờ ơ, không còn nhận ra trăng từng là người bạn tri kỉ, tình nghĩa một thời nữa.
Câu chuyện tâm tình được kể ngắn gọn, súc tích, mộc mạc, giản dị mà chân thành; những câu chữ đầu dòng thơ không viết hoa đã diễn tả dòng suy tư miên man không dứt của nhà thơ trước sự chảy trôi của thời gian, năm tháng và sự thay đổi của lòng người trước cuộc sống tiện nghi.
Tưởng chừng như Trăng cứ thế mà chìm khuất đi mãi mãi, người với Trăng sẽ chẳng còn cơ hội mà gặp gỡ nhau. Bởi trước phồn hoa đô hội, dưới ánh sáng cửa gương, đèn điện, dưới sự bận bịu, lo toan cho cuộc sống của con người thì Trăng sẽ trở nên nhạt nhòa, chìm khuất nhưng nó đã có dịp bừng sáng lên khi một tình huống bất ngờ xảy đến, để rồi đánh thức biết bao nhiêu là suy ngẫm, kỉ niệm dội về trong lòng thi nhân:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Nếu ở các khổ thơ trước, giọng thơ đều đều, chậm dãi, miên man trong những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ thì đến khổ bốn, giọng thơ đã đột ngột cất cao, thể hiện sự choáng ngợp, bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của vâng trăng trước khung cửa sổ.
Mất điện, theo một lẽ tự nhiên khi con người chỉ tìm tới nơi có ánh sáng, hạnh động phản xạ như một thói quen “vội bật tung cửa sổ” và con người đã vô tình bắt gặp “vầng trăng tròn” tình nghĩa năm nào. Nghệ thuật đảo ngữ đã đẩy từ “đột ngột” lên đầu câu thơ, nhấn mạnh đến sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bàng hoàng của con người khi bắt gặp vầng trăng. Vầng trăng tròn vành vạnh, chan chứa tình nghĩa vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con người, vẫn luôn lặng lẽ tỏa sáng không hề hao khuyết.
Còn con người thì lãng quên vầng trăng nên khi bắt gặp vầng trăng mới cảm thấy bất ngờ, đột ngột đến như vậy. Mọi khoảng lặng xung quanh rất cần cho lúc này, mọi thứ như ngừng trôi đi, nhường chỗ cho hai tâm hồn gặp gỡ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng “Ngửa mặt lên nhìn mặt” và ngậm ngùi “rưng rưng” như trực trào nước mặt sắp khóc, vừa vui mừng, vừa nghẹn ngào không nói được thành lời. Từ “mặt” ở cuối câu thơ đầu là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa nghĩa của ý thơ: Nhà thơ đối diện với vầng trăng, người bạn tri kỉ mà mình đã lãng quên.
Người đối diện với trăng, trăng đối diện với người hay chính là quá khứ đối diện với hiện tại, thủy chung tình nghĩa đối diện với sự bạc bẽo, vô tình. Đối diện với trăng, nhà thơ như soi thấy cả mình trong đó, như được sống lại với những năm tháng gắn bó với thiên nhiên “đồng, sông, rừng, bể”.
Vì thế, đã làm cho con người nhà thơ “rưng rưng” xúc động. Sự xúc động ấy vừa là niềm vui khi được sống lại với quá khứ; lại vừa là giọt nước mắt của sự ăn năn, cảm thấy hổ thẹn, ân hận về sự đổi thay của chính mình. Giọng thơ chuyển từ sự bất ngờ, đột ngột chuyển sang xúc động “rưng rưng”. Điệp ngữ “như là”, kết hợp với biện pháp liệt kê hình ảnh “đồng – sông – rừng – bể” đã khiến nhịp thơ trở nên trầm lắng, chậm rãi và những lớp sóng của hoài niệm xa xăm cứ tự đâu ùa về thật xúc động thiêng liêng.
Từ hồi tưởng đến hiện tại, từ hiện tại tới xúc động rưng rưng và cuối cùng lắng dần vào trong những suy ngẫm, chiêm nghiệm. Đó là những phút giây bừng ngộ của tâm hồn nhà thơ mà cũng chính là lời nhắn nhủ thiết tha mà Nguyễn Duy muốn gửi gắm trong cuộc đời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Suốt chiều dài bài thơ, Trăng được miêu tả với rất nhiều những định ngữ khác nhau như: trăng tri kỉ, trăng tình nghĩa, vầng trăng tròn và cuối cùng kết tinh thành “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Điều đó đã cho thấy, trăng trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng, không thay đổi; biểu tượng cho sự tròn đầy, thủy chung, trọn vẹn của thiên nhiên tươi đẹp trong quá khứ, trong hiện tại và cả tương lai, cho dù lòng người đổi thay, khiếm khuyết “vô tình”.
Hình ảnh ánh trăng được nhân hóa với thái độ “im phăng phắc” gợi cho chúng ta liên tưởng tới cái nhìn nghiêm khắc như trách móc, nhắc nhở con người về thái độ “vô tình” bạc bẽo, lãng quên của chính mình. Nhưng đồng thời thái độ “im phăng phắc” đó của trăng cũng chất chứa cả sự bao dung, nhân từ, độ lượng của người bạn thủy chung, tình nghĩa. Bởi dù lòng người thay đổi nhưng trăng vẫn dõi theo người, vẫn lặng lẽ tỏa sáng, vẫn cứ “tròn vành vạnh”.
Dòng thơ cuối dồn nén biết bao nhiêu là cảm xúc trong cái “giật mình” của con người. Chính sự im lặng của trăng đã làm cho con người phải “giật mình” thức tình, hay đó chính là cái “giật mình” của nhân cách, của lương tâm, là lời sám hối chân thành để rửa sạch tội lỗi, để tâm hồn trở nên trong sạch và sống tốt đẹp hơn.
Lời thơ chuyển từ “vầng trăng tròn vành vạnh” sang hình ảnh “ánh trăng” chất chứa nhiều ý nghĩa khái quát: nếu như vầng trăng tròn là để nói về quá khứ thủy chung, tình nghĩa vẹn nguyên thì “ánh trăng” lại để nói đến vầng hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, của đạo đức soi rọi xua tan đi những bóng tối của sự lãng quên, bội bạc và làm con người thức tỉnh, tâm hồn trở nên trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn.
Vì thế, ánh trăng của Nguyễn Duy là một thứ vầng trăng mang đầy tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Nó trở thành một bài học không chỉ dành riêng cho những người lính mà còn có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời đại để rồi từ đó, tự mỗi người trong mỗi chúng ta sẽ tự đối diện với chính mình, với quá khứ xem mình đã sống ra sao, như thế nào…
Bài thơ kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa biểu cảm và tự sự, tạo nên như một câu chuyện riêng, một lời tâm sự chân thành, một lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà sâu lắng. Kết cấu và giọng điệu làm nổi bật chủ đề và tạo sức truyền cảm cho bài thơ.
Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa và chất chứa chiều sâu suy ngẫm, triết lí. Các câu thơ liền mạch, không dùng dấu câu, không viết hoa đầu dòng (trừ chữ cái đầu mỗi khổ thơ) như diễn tả dòng tâm tư triền miên, thiết tha, sâu lắng.
Tóm lại, qua bài thơ, người đọc thấy được những ẩn ý sâu xa và những bài học mang tầm triết lí sâu sắc mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người đọc, đó là thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung trong quá khứ.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 13
Trăng – hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, Vọng nguyệt của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. Ánh trăng là một bài thơ như vậy. Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ. Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là những nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được.
Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên của tác giả. Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được! Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới”.
Trăng luôn sát cánh bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đó, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đó, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đậm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng.
Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông, của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn – vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói lòa. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó. Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”.
Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hóa vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đọc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người.
Cũng chính phép nhân hóa đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ.
Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta.
“Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách.
Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình.
Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng những nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào!
Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương.
Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người. Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy chuyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình.
Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta. Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vây bọc và che chở cho con người.
Ánh trăng đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần quý giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.
Bài thơ không chỉ hay về mặt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 14
“Cát trắng” và “Ánh trăng” là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm”. (Đò Lèn)
“Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Ánh trăng”, “Đò Lèn”… là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ “Ánh trăng” rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng cố tình lãng quên.
Nếu như trong bài thơ “Tre Việt Nam” câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ “Ánh trăng” này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?
Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: “Hồi nhỏ sống với đồng – với sông rồi với bể”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông); từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể.
Tuổi thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cơ ấy như nhà thơ ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: “Ông trăng tròn sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… (Trăng sáng sân nhà em). Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành “tri kỉ”:
“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”
“Tri kỉ”: biết người như biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ – “Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng / Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” (Hồ Chí Minh).
Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới “Đầu súng trăng treo” (Chính Hữu). Nẻo đường hành quân của người chiến sĩ nhiều đêm đã trở thành “nẻo đường trăng dát vàng”. Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù:
“Và vầng trăng, vầng trăng Đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao”. (Phạm Tiến Duật)
Các tao nhân xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt”, còn anh bộ đội cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng: “hồi chiến tranh ở rừng – vầng trăng thành tri kỉ”.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện – một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ”
Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “Ngỡ không bao giờ quên – Cái vầng trăng tình nghĩa”.
Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: ở buyn-đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương… Và “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.”
Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.
Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc. Cuộc đời cũng có nhiều biến động li kì. Ghi lại một tình huống “cuộc sống thị thành” của những con người mới ở rừng về thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” gợi tả tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: “Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách”. Vần thơ của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”
Trăng xưa đã đến với người, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm trong bâng khuâng:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông là rừng”.
Nguyễn Tuân từng coi trăng là có nhân”, nhà thơ Xuân Diệu, trong bài “Nguyệt cầm” viết cách đây 60 năm cũng có câu: “Trăng thương, trăng hở, lời trăng gần. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng “đối diện đàm tâm”.
Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách, thế mà người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng. “Rưng rưng” nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước.
Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ (là) cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:… “như là đồng, là bể, như là sông, là rừng”. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía. Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình” là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.
“Ánh trăng” là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình.
Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng “ánh trăng” đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 15
Trong thơ ca, trăng vốn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các thi nhân. Ta biết đến ánh trăng làm bạn với Bác trong ngục; ta biết đến một vầng trăng huyền bí của Hàn Mặc Tử. Và ta còn phải nhắc đến trăng trong tác phẩm Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy. Vầng trăng tự nó như một thứ thuốc thử, một lời nhắc nhở đối với mỗi con người về cách sống, cách ứng xử trong cuộc đời.
Mở đầu bài thơ, là hình ảnh xa xôi mà bình dị giữa con người và trăng:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Lời thơ mộc mạc tựa như một lời thủ thỉ, tâm tình, kết hợp với điệp từ “với” cho thấy tuổi thơ đầy giản dị, mộc mạc, gắn bó với cỏ cây, thiên nhiên. Và trong những người bạn ấy, không thể thiếu vầng trăng mát lành, luôn ở bên cạnh chia sẻ mọi buồn vui khó khăn trong suốt quãng đời tuổi thơ, bởi vậy, “vầng trăng thành tri kỉ”.
Vầng trăng hơn một người bạn thấu hiểu và cảm thông cho những cảm xúc, những khó khăn, vất vả mà bạn phải trải qua. Trăng hiện lên trần trụi gần gũi, không chút toan tính, vụ lợi: trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ. Giữa trăng và người là hai hình tượng sóng đôi, song song đồng hành với nhau, nếu như trăng xuất hiện thì còn người lại luôn bị che khuất đi. Để rồi cuối khổ thơ thứ hai, con người phải giật mình, thảng thốt thốt lên:
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Những tưởng những năm tháng bên nhau, cùng chia sẻ gian khổ ngọt bùi, con người sẽ không thể quên được người bạn tri kỉ của mình. Nào ngờ cuộc đời có quá nhiều nỗi truân chuyên, nhiều điều lo lắng khiến ta vụt mất những điều giản dị và ý nghĩa mà không hề hay biết. Chữ “ngỡ” đặt đầu câu như một lời độc thoại thảng thốt, một lời ăn năn, xám hối muộn màng của con người. Hạnh phúc bình dị, đơn sơ thuở nào bị cái hào nhoáng, sa hoa vật chất tầm thường che khuất mất, để ta vô tình lãng quên những điều thiêng liêng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Khổ thơ thứ ba, vầng trăng đã được nhân cách hóa thành một con người cụ thể. Ngỡ rằng vầng trăng ấy vẫn là tri kỉ, tình nghĩa bền chặt nào ngờ giờ đây lại chẳng khác gì người dưng nước lã. Thời gian có sức tàn phá thật khủng khiếp, nó có thể biến một tình cảm vốn thiêng liêng, cao đẹp, nay trở thành những mối quan hệ như chưa hề quen biết. Sự thật phũ phàng bởi thời gian, bởi lòng người thay đổi khó mà lường trước được.
Trong vòng xoáy của đồng tiền, con người mải mê lao vào tìm kiếm những sa hoa, dục vọng, để rồi khi: “Thình lình đèn điện tắt/ phòng buyn đinh tối om” , khi ấy con người mới có thời gian tự chiêm nghiệm, suy ngẫm lại. Nguyễn Duy đã lấy một sự việc hết sức bình thường, mất điện, để biến nó thành nút thắt, đẩy bài thơ lên đến cao trào, cũng chính bởi phút giây đó con người mới có cơ hội tự suy nghĩ về chính những ứng xử của mình trong cuộc sống.
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Cả khổ thơ là những chuỗi hành động gấp gáp, liên tiếp nhau. Khi con người ta mất đi ánh sáng nhân tạo, lập tức phải tìm đến một nguồn sáng khác – ánh sáng tự nhiên. Và đột ngột họ gặp lại người bạn năm xưa. Họ ngạc nhiên, ngỡ ngàng, đến nỗi chẳng nói thành lời. Trăng vẫn vậy, vẫn vẹn tròn, thủy chung và biết bao cảm xúc ùa về trong tác giả: “Ngẩng mặt lên nhìn mặt/ có cái gì rưng rưng/ như là đồng là bể/ như là sông là rừng”.
Trong khoảnh khắc lặng im bất chợt, mặt người đối diện với mặt trăng, kí ức của những ngày gắn bó lại ùa về trong tác giả. Là đồng, sông, bể, rừng những người bạn gắn bó trong suốt thuở thiếu thời và những năm tháng kháng chiến kiên cường, gian khổ. Khuôn mặt của trăng chính là quá khứ ân nghĩa, thủy chung mà con người đã vô tình lãng quên. Qua bao nhiêu thăng trầm, biến động trăng vẫn vẹn nguyên, vẫn thủy chung độ lượng với con người:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Khổ thơ vận dụng hàng loạt các từ láy: vành vạnh, phăng phắc, mỗi từ láy lại mang đến những giá trị biểu cảm khác nhau. Từ láy vành vạnh cho thấy sự ân tình, thủy chung vẹn nguyên của vầng trăng từ quá khứ đến hiện tại. Từ láy phăng phắc lại là cái im lặng giúp cảnh tỉnh con người, cái nhìn đầy nghiêm khắc để con người nhận ra sự bội bạc của chính mình.
Nhưng đồng thời sự im lặng ấy cũng cho thấy thái độ bao dung, độ lượng của vầng trăng, hay rộng ra là của quá khứ, của nhân dân thủy chung tình nghĩa. Cái giật mình ở cuối bài cho thấy sự hối lỗi, đã nhận ra những sai lầm của bản thân. Thật tinh tế và khéo léo, Nguyễn Duy đã sử dụng hình ảnh vầng trăng, cùng với quá trình nhận thức của nhân vật trữ tình để làm bật lên tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Bằng giọng điệu tâm tình tự nhiên, chân thành, hình ảnh giàu tính biểu tượng bài thơ như một lời nhắc nhở đến muôn thế hệ. Nhắc nhở về lối sống ân tình thủy chung, biết ơn quá khứ, những người đã hi sinh để cho chúng ta có cuộc sống bình yên hạnh phúc như ngày hôm nay. Bài thơ ra đời đã lâu, nhưng vẫn giữ mãi giá trị nhân văn tốt đẹp của nó.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 16
Nguyễn Duy nhà thơ có nhiều sáng tác gần gũi, mộc mạc. Bài thơ “Ánh trăng” của tác giả được sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh bài thơ mượn những hình ảnh vô tri vô giác đánh thức và làm lay động cảm xúc của con người.
Bài thơ Ánh trăng mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gắn bó với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với thời gian diễn ra chiến tranh ác liệt:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
Hình ảnh “ánh trăng” có thể nói đã trở thành biểu tượng đẹp trong tuổi thơ của tác giả, gắn bó với kỉ niệm tuổi thơ đẹp và khó quên. Ánh trăng nhẹ nhàng lan tỏa từ cánh đồng quê hương, từ dòng sông bến nước nơi giúp nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi con người.
Đến thời gian khi chiến tranh vất vả, ác liệt thì ánh trăng từ người bạn tuổi thơ đã chuyển sang thành người bạn tri âm thủy chung, son sắt. Tác giả Nguyễn Duy tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội tham gia chiến tranh. Sự gắn bó giữa ánh trăng và người bộ đội thật đáng quý trọng biết bao. Khổ thơ tiếp theo tác giả đã biến ánh trăng trở nên gần gũi và sắt son:
Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trong bất kì hoàn cảnh nào thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”. Vầng trăng tỏa ánh sáng thể hiện tình nghĩa, chung thủy luôn nhắc nhở tác giả không được quên đi hình ảnh đáng nhớ và thủy chung đó. Nhưng tác giả đã lãng quên đi hình ảnh vầng trăng:
Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Trở về cuộc sống sau chiến tranh, hòa bình trở lại, cuộc sống với ánh đèn điện hiện đại tiện nghi đã khiến cho tác giả quên mất đi ánh trăng chính là quên đi người bạn tri kỉ ngày xưa. Trong hai khổ thơ sau giọng thơ chùng xuống, cách dùng từ “người dưng” gợi lên cảm giác xót xa.
Con người và ánh trăng từng là bạn tri kỉ, tri âm thân thiết nhưng giờ đây tác giả vô tâm, hờ hững xem như kẻ qua đường. Phép so sánh “như người dưng” đã khiến người đọc cảm thấy đau đớn và xót xa. Tình huống đặc biệt đã khiến tác giả nhận ra ngỡ ra nhiều điều:
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.
Đến khi “đèn điện tắt” tác giả giật mình nhận ra căn phòng tối om từ, sự chuyển biến nhanh chóng khiến mọi thứ trở nên thay đổi. Cửa sổ “bật tung”, tác giả cảm thấy hổ thẹn khi “đột ngột vầng trăng tròn”. Câu thơ này thể hiện rằng từ xưa đến này trăng vẫn tròn như thế, chỉ có con người vô tâm mới không nhận ra.
Đến khổ thơ này, tác giả nhận ra sự vô tâm, quên lãng của bản thân đối với quá khứ, ánh trăng từng là người bạn thân thiết một thời gắn bó giờ đây ta lãng quên thật hổ thẹn. Đến khổ thơ cuối:
Vầng trăng tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật minh
Phép đối lập song song đủ làm cho lương tâm con người nhận ra được nhiều điều. Tác giả dùng từ “vành vạnh”, “phăng phắc” để người đọc nhận ra sự nghiêm khắc của ánh trăng. Cuộc sống có nhiều sự thay đổi từ chiến tranh đến cuộc sống hiện đại mặc dù con người thay đổi, ánh trăng xưa vẫn tròn vẫn bao dung và rộng lượng với con người. Khổ thơ cuối để lại những sự xúc động, nghẹn ngào về ánh trăng thời hiện đại.
Giọng điệu bài thơ tâm tình, tự sự như là tự sự hoài niệm về quá khứ của tác giả gắn bó với trăng, người bạn thân thiết bên nhau từ tuổi thơ cho tới kháng chiến. Ánh trăng của tác giả như nhắc nhở với con người về quãng thời gian chiến tranh khi người lính gắn bó với thiên nhiên.
Bài thơ nhắc nhở về tính thủy chung, biết yêu thương và quý trọng nhau, sống không được quên đi quá khứ xưa.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 17
Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy ra đời năm 1978, năm đất nước đã bước vào công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước. Cuộc chiến tranh đã đi qua nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng trong tâm hồn nhiều thế hệ, như một quy luật cuộc sống sau chiến tranh với những bộn bề lo toan xây dựng đã làm người ta quên đi quá khứ, quên đi ân nghĩa của bao người. “Ánh trăng” ra đời trong dòng cảm hứng sám hối, tự truyện của văn học sau những năm 1978.
Ánh trăng trong văn học luôn là đề tài gắn với lãng mạn. Với Nguyễn Duy, ánh trăng biểu đạt một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại. “Ánh trăng” là hình ảnh của quá khứ, là nhân dân, người lính, lí tưởng chiến đấu, “Ánh trăng” được viết theo thể thơ năm chữ gồm sáu khổ và bố cục ba phần tương ứng với ba giai đoạn, ba hoàn cảnh khác nhau trong cuộc đời người lính. Hai khổ đầu là sự gắn bó giữa người lính với ánh trăng. Hai khổ sau là những lãng quên, hai khổ cuối cùng là lời tự thú, tự nhắc nhở mình không được lãng quên quá khứ.
Hình ảnh gắn liền với một quá khứ nghĩa tình gắn bó là ánh trăng tri kỉ: “Vầng trăng tình nghĩa”. Trong quá khứ ấy, người lính sống với vầng trăng, bầu bạn với vầng trăng. Thời gian của quá khứ được tính theo trình tự trước sau: hồi nhỏ: những kỉ niệm mộc mạc mà đáng nhớ, hồi chiến tranh ở rừng. Hai đoạn đó nghĩa tình gắn liền với trăng, vầng trăng là tri kỉ, tình nghĩa.
Ý nghĩa hàm ẩn trong những cách gọi tên vầng trăng đã nói lên mọi quan hệ gần gũi như máu thịt của người lính và vầng trăng – với nhân dân. Cuộc chiến tranh đã trôi qua, người lính trở về với những bộn bề cuộc sống hàng ngày. Những bộn bề đã che khuất vầng trăng.
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Hình ảnh đối lập với vầng trăng, ánh điện cửa gương – là hình ảnh của tiện nghi vật chất. Sự có mặt của những tiện nghi đã che lấp quá khứ, che lấp kí ức. Sự gắn bó với vầng trăng, những tình nghĩa với vầng trăng đã lùi vào quên lãng: “Vầng trăng đi qua ngõ /như người, dưng qua đường”.
Chỉ đến khi hình ảnh của những tiện nghi vật chất mất đi và sự bình lặng, trong đường tròn không thay đổi của vầng trăng tri kỉ xưa xuất hiện thì quá khứ bỗng như là một nhắc nhở, tràn về trong kí ức. Người đang lãng quên quá khứ. Trăng giờ như gương mặt của quá khứ, gương mặt sáng trong, giản dị, nghiêm khắc soi tỏ tâm hồn người:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng.
Trăng mang gương mặt của quá khứ: gương mặt sáng trong giản dị và nghiêm khắc soi tỏ tâm hồn người.
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Trăng hình như chưa bao giờ thay đổi “cứ tròn vành vạnh”. Cả bài thơ, sáu lần sử dụng hình ảnh vầng trăng để nói về quá khứ: vầng trăng khẳng định ý nghĩa tròn đầy như sự thuỷ chung trọn vẹn của nhân dân của những người đã từng nhường cơm sẻ áo cùng người lính.
Ánh trăng không thay đổi bao nhiêu thì nỗi day dứt trong tâm hồn người lính ấy càng sâu sắc bấy nhiêu. Tâm trạng tự thú, sám hối ở cuối bài thơ là lời nhắn nhủ với chính mình: không được lãng quên quá khứ, không được vô ơn. Cảm hứng tự thú và sám hối cũng đã được Nguyễn Minh Châu diễn tả trong truyện ngắn “Bức tranh” khắc họa bức chân dung sám hối của nhà văn đồng thời khẳng định bản chất tốt đẹp, hướng thiện vẫn luôn sống mãi trong tâm hồn người lính.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng là một hình thức để tỏ lòng sám hối. Bài thơ kết thúc bằng một lời nhắc nhở chính mình của những người trong cuộc. Với “Ánh trăng”, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh của nhân dân, một nhân dân thủy chung, độ lượng.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 18
Thời xưa cũng như thời nay, thiên nhiên là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà văn, nhà thơ, đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng trăng đã giật mình thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy một nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một “Ánh trăng”. Đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh vầng trăng tình nghĩa hiền hậu, bình dị, gắn liền với kỉ niệm một thời đã qua, một thời nhà thơ hằng gắn bó:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ
Nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la. Những “đồng, sông, bể” gợi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả hê được chan hòa ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Đến khi vào chiến trường, trăng thành người bạn tri kỉ, gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu: khi trăng treo trên đầu súng, lúc trăng soi sáng trên đường hành quân.
Vầng trăng ấy cũng là “quầng lửa” theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trăng thành người bạn chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ và những mất mát hi sinh, vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ với người lính. Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến – vầng trăng tri kỉ.
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Trần trụi và hồn nhiên là một vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, vô tư đến lạ thường, không cầu kì, không trang sức. Hình ảnh so sánh đã tô đậm thêm sức quyến rũ đến lạ thường của trăng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông của bể và của những người lính chân chất. Chính vẻ đẹp ấy đã khiến nhân vật trữ tình phải thốt lên “ngỡ không bao giờ quên / cái vầng trăng tình nghĩa”. Câu thơ như một lời thề thiêng liêng giữa rừng sâu nước độc. Hai tiếng nghĩa tình vang lên khiến cho ranh giới giữa con người với trăng tưởng chừng như mãi bền vững.
Thế nhưng từ hồi về thành phố, tình cảm của con người đã thay đổi. Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành người dưng, người khách qua đường xa lạ không quen biết. Còn con người đâu còn son sắt thủy chung. Một sự thay đổi phũ phàng khiến người ta không khỏi nhói đau, tình cảm xưa nay chia lìa. Nguyễn Duy đã diễn tả được cái đổi thay của lòng người. Nghệ thuật nhân hóa so sánh làm cho lời thơ trở thành lời tự thú chân thành của tác giả.
Tác giả là người dũng cảm, dám đối diện với chính mình. Và lời thơ thực sự nhức nhối, xót xa bởi sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử, với thiên nhiên mà còn là sự phản bội chính bản thân mình. Trong sâu thẳm cõi lòng mình, hình như tác giả đã hoàn toàn quên đi vầng trăng hay nói cách khác là trong trái tim đủ đầy của nhà thơ không còn chỗ cho vầng trăng dù chỉ là một phần nhỏ nhất. Ý thơ trở nên trầm lặng, suy tư. Cuộc sống hiện tại với đầy đủ tiện nghi có thể coi là ước mơ của bao người. Ước mơ ấy nay đã trở thành hiện thực nhưng cái đáng mừng kia đôi khi phải trả giá đánh đổi bằng một cái mất. Khổ thơ như lan tỏa một cảm giác buồn nhẹ nhàng, thấm thía.
Tưởng chừng như trăng cứ thế mà chìm khuất đi mãi mãi, người với trăng sẽ chẳng còn cơ hội mà gặp gỡ nhau. Bởi trước phồn hoa đô hội, dưới ánh sáng cửa gương, đèn điện, dưới sự bận bịu, lo toan cho cuộc sống của con người thì trăng sẽ trở nên nhạt nhòa, chìm khuất nhưng nó đã có dịp bừng sáng lên khi một tình huống bất ngờ xảy đến, để rồi đánh thức biết bao nhiêu là suy ngẫm, kỉ niệm dội về trong lòng thi nhân:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Nếu ở các khổ thơ trước, giọng thơ đều đều, chậm dãi, miên man trong những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ thì đến khổ bốn, giọng thơ đã đột ngột cất cao, thể hiện sự choáng ngợp, bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trước khung của sổ. Mất điện, theo một lẽ tự nhiên khi con người chỉ tìm tới nơi có ánh sáng, hành động phản xạ như một thói quen “bật tung cửa sổ” và con người đã vô tình bắt gặp “vầng trăng tròn” tình nghĩa năm nào.
Nghệ thuật đảo ngữ đã đẩy từ “đột ngột” lên đầu câu thơ, nhấn mạnh đến sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bàng hoàng của con người khi bắt gặp vầng trăng. Vầng trăng tròn vành vạnh, chan chứa tình nghĩa vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con người, vẫn luôn lặng lẽ tỏa sáng không hề hao khuyết. Còn con người thì lãng quên vầng trăng nên khi bắt gặp vầng trăng mới cảm thấy bất ngờ, đột ngột đến như vậy.
Loay hoay trong gian phòng tối ấy để rồi trào lên bao suy tư, trăn trở:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Nghệ thuật nhân hóa, so sánh, từ láy, điệp ngữ đã diễn tả vầng trăng tít tắp trên trời cao đang đăm đắm nhìn xuống con người nơi mặt đất để gợi nhớ. Kỉ niệm xưa ào ạt nhìn về, vẹn nguyên trong sáng khiến cho con người xúc động rưng rưng. Nhân vật trữ tình lặng lẽ đối diện với vầng trăng – người bạn trữ tình mà mình lãng quên. Trăng đối diện với con người, quá khứ đối diện với hiện tại, thủy chung, tình nghĩa đối diện với bạc bẽo, vô tình và vô tình khoảnh khắc khắc ấy khiến nhà thơ hổ thẹn, ân hận về sự thay đổi của mình.
Nhân vật trữ tình rưng rưng muốn khóc, anh ngơ ngác nhìn trăng, soi lòng mình vào trăng để nhận ra mình đã sai. Do vậy tâm hồn anh sẽ không thể nào tĩnh lặng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Vầng trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Trăng “tròn vành vạnh” là một vẻ đẹp viên mãn, “im phăng phắc” là im như tờ không một tiếng động nhỏ. Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế độc lập mà song song. Đối lập giữa sự đầy đặn của vầng trăng với cái hụt vơi của kẻ vô tình. Đối lập giữa cái im lặng của vầng trăng và sự thức tỉnh của con người. Cái sự giật mình thức tỉnh được diễn tả thật đáng quí vì khi ta giật mình thức tỉnh tức là đã nhận ra sự bạc bẽo của mình, nhận ra sai lầm của mình với quá khứ. Đó là thái độ ăn năn hối hận tự nhắc lòng mình hãy ngưng lại nhịp sống hối hả để tìm lại chính mình, tìm lại những gì đã mất, đã lãng quên. Đó là sự thức tỉnh đầy nhân bản để tâm hồn con người trở về trong trẻo, thánh thiện như xưa.
Nguyễn Duy đã thảng thốt lo âu trước sự thay đổi của con người khi chiến tranh đi qua, thế nhưng ông không mất niềm tin vào nhân cách của con người, giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Có lần ông đã khẳng định “Cái tâm hồn nguồn cội của dân tộc Việt luôn chan chứa những giá trị nhân văn cao cả nhất. Con người có thể bị lãng quên, có thể chối bỏ những điều đó trong tâm hồn cá nhân anh ta. Thế nhưng dù anh ta có làm bất cứ điều gì đi nữa thì những giá trị văn hóa thuần khiết nhất của dân tộc vẫn vậy, bao bọc, che chở an ủi anh ta một cách vô hình. Đó chính là những nét nhân văn nhất của tinh thần Việt”.
Ở đây trăng độ lượng bao dung. Phải chăng trăng tượng trưng cho sự cao quý của nhân dân tượng trưng cho vẻ đẹp gian lao sâu nặng nghĩa tình của tổ quốc. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp của tình bạn, tình chiến đấu không thể nào quên. Qua hình tượng ánh trăng nhà thơ nhắc nhở chúng ta rằng phải biết sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ và đó chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc ta.
“Ánh trăng” – hành trình về sự thức tỉnh hoàn thiện mình. Dù thời gian trôi đi, cuộc sống còn đổi thay nhưng những giá trị tinh thần, những tư tưởng đạo lý sẽ không thay đổi, sẽ còn mãi với thời gian bởi đó là một nét đẹp của người Việt, của dân tộc Việt. Chính vì thế mà Lương Kim Phương khi bình luận về bài thơ này đã khẳng định: “Bài thơ giống như một câu chuyện giàu chất thơ, đầy hiện thực cuộc sống. Tuy bài thơ không một chút đao to búa lớn mà sao khi đọc ta thấy như có ai đang quất vào mình đau đớn”.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 19
Là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy được biết đến với nhiều bài thơ hay, nhẹ nhàng, giàu cảm xúc chẳng hạn như Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam,… Một trong những bài thơ được nhiều người chú ý đó chính là bài thơ Ánh trăng. Bài thơ đã thể hiện được sự tài hoa của ông và thể hiện rõ chất suy tư trong thơ của Nguyễn Duy.
Bài thơ Ánh trăng được nhà thơ Nguyễn Duy viết năm 1978. Một lý do khiến bài thơ này được yêu thích là bởi nội dung bài thơ chứa đựng những tình cảm chân thành, mới lạ nhưng vô cùng sâu sắc. Ở hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã nhắc đến những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ nơi quê nhà:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Từ những ngày còn ấu thơ, vầng trăng đã gắn bó với tác giả. Nói đến trăng là nói đến dòng sông, đồng ruộng, biển cả. Vậy cho nên dù có đi đến nơi đâu thì vầng trăng vẫn cứ gắn bó với con người. Con người đi một bước, vầng trăng cũng đi theo một bước. Vốn dĩ ban đầu trăng là bạn, tới khi nhà thơ đi lính, tham gia vào chiến trường gian khổ và ác liệt, vầng trăng mới trở thành tri kỉ đối với nhà thơ. Lúc này đối với nhà thơ, trăng trở thành người bạn không thể thiếu. Trăng cùng với nhà thơ chia sẻ những ngọt bùi, cùng nhà thơ vượt qua những khó khăn trong cuộc đời người lính. Cũng chính vì thế mà nhà thơ hiểu vầng trăng hơn. Nhà thơ miêu tả về vẻ đẹp của ánh trăng với một cảm xúc trẻ trung, tươi mới:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Vẻ đẹp của trăng là một vẻ đẹp bình dị, chẳng cần khoác lên mình bất cứ thứ gì, trăng vẫn đẹp một cách vô tư và hồn nhiên. Cũng chính vì tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hòa mình vào thiên nhiên cỏ cây. Trăng đẹp như vậy, gần gũi như vậy trăng lại còn từng đồng cam cộng khổ với mình nên nhà thơ ngỡ rằng sẽ chẳng bao giờ có thể quên được vầng trăng tình nghĩa ấy.
Nhưng đó là nhà thơ nghĩ vậy còn thực tế cho thấy nhà thơ đã có lúc lãng quên vầng trăng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Nếu như ở tuổi thơ của mình tác giả sống gần gũi với thiên nhiên, với sông, với bể, với rừng thì giờ đây môi trường sống của nhà thơ đã thay đổi rồi. Ông sống ở thành phố, nơi có những ánh đèn chiếu sáng được mọi ngõ ngách, mọi không gian. Chính vì ánh sáng của đèn điện, của cửa gương mà người ta không còn nhớ đến ánh sáng của vầng trăng nữa. Dần dần, vầng trăng tình nghĩa ngày nào bị đẩy lùi vào quên lãng. Vầng trăng tượng trưng cho kỉ niệm, cho kí ức về những năm tháng đấu tranh gian khổ, cho những người bạn của tuổi thơ, cho những người đồng đội đã từng cùng nhau vào sinh ra tử. Vậy mà giờ đây, trăng trở thành người dưng qua đường. Khi cuộc sống thay đổi, nó kéo theo sự thay đổi trong suy nghĩ của con người. Vầng trăng có lẽ sẽ cứ trôi vào trong dĩ vãng như vậy nếu như không có chuyện thành phố bị mất điện:
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Trong khoảnh khắc đèn điện vụt tắt ấy, ánh sáng của vầng trăng hiện lên thật bất ngờ. Dường như cùng với ánh trăng, mọi kí ức năm xưa ùa về trong lòng tác giả. Đó là sông, là bể, là rừng, là những năm tháng nghèo đói, thiếu thốn nhưng vẫn luôn đong đầy hạnh phúc. Chính vì lẽ đó đã khiến cho nhà thơ trở nên rưng rưng:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng vẫn như vậy, tròn trịa và vẹn nguyên. Thứ duy nhất thay đổi đó chính là lòng người. Chính vì đối diện với vầng trăng mà vầng trăng không nói gì khiến cho nhà thơ cảm thấy hổ thẹn với chính bản thân mình. Đúng là vầng trăng tình nghĩa đã quá bao dung và độ lượng.
Với lối diễn đạt bình dị, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả. Giọng thơ sâu lắng với thể thơ 5 chữ cô đọng khiến cho bài thơ chan chứa cảm xúc. Qua bài thơ này, chúng ta cũng nên nhìn lại cách sống của bản thân để sống tốt đẹp hơn.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 20
Nguyễn Duy là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Bài thơ Ánh trăng của ông rất hay và đặc sắc. Nó gợi nhắc đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” và đánh thức trong mỗi con người chúng ta những kí ức đã lãng quên và nhắn nhủ chân tình với mình cũng như mọi người về lẽ sống chung thuỷ, nghĩa tình.
Bài thơ mở đầu bằng bốn dòng thơ ngắn, Nguyễn Duy như đã tìm về với tuổi thơ mình:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ.
Câu thơ làm sông dậy hình ảnh cậu bé hồn nhiên, lớn lên nơi ruộng, đồng, sông, bể. Rồi cậu bé ấy lớn lên, trở thành người chiến sĩ. Chữ “hồi” được lặp lại như một ranh giới giữa những tháng ngày ấu thơ và lúc trưởng thành, cảnh vật theo dòng ngày tháng đã đổi thay nhưng vầng trăng vẫn còn đó, là gạch nối vắt qua giữa hai thời và con người đã xem trăng là bạn tri kỉ. Vầng trăng trở nên bình dị, gần gũi, gắn chặt với những gì thân thương nhất của làng quê Việt Nam:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.
Có phải chăng trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, con người ta sống và đối xử với nhau chân thành hơn, vị tha hơn. Đó lá cái thời sống hồn nhiên, trong sáng như cây cỏ, không biết dối trá, giả tạo. Những tình cảm tự nhiên, chân thực thì sẽ vững bền theo dòng thời gian. Mối quan hệ thắm thiết giữa người và trăng làm cho nhân vật trữ tình tự khẳng định một tâm niệm:
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa.
Nhưng có nào ngờ nhân vật trữ tình ấy đã vội lãng quên. Ngỡ là như thế nhưng đâu hay:
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngỡ
Như người dưng qua đường.
Chính sự thay đổi khi hoà bình lập lại, người lính trở lại xây dựng quê hương, cuộc sống mỗi người ngày càng tốt tốt đẹp hơn để rồi họ quên đi những tháng ngày gian khổ đã qua. Ánh trăng được thay bằng ánh điện, có những tiện nghi, vật chất đầy đủ làm cho con người mau thích nghi và đồng thời cũng mau quên. Tác giả không có ý phê phán “ánh điện”, “cửa gương” mà muốn nhắc nhở mọi người rằng đừng để những giá trị vật chất ấy điều khiển chúng ta, đừng coi vầng trăng – người bạn tri kỉ ngày nào – chỉ như người qua đường.
Nhưng khi những gía trị vất chất kia tan biến thi cũng là lúc “người dưng” trở về:
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn.
Với tình huống này, bao nhiêu kỉ niệm hồn nhiên của thời ấu thơ, kỉ niệm với vầng trăng thời chiến tranh ở rừng lại trở về. Nó gợi lên bao niềm ân hận khôn nguôi khi đã nhận ra sự bạc bẽo, vô tình của mình. Cái đôi mặt giữa người và trăng thật cảm động, khiến người đọc phải hoà mình vào tâm trạng cua nhân vật trữ tình trong bài thơ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng.
Ngỡ như một giấc chiêm bao, những kỉ niệm đẹp xưa kia những tưởng đã mất nhưng nay lại hiện về, khiến nhân vật trữ tình xấu hổ, chỉ dám nhận lại của trăng một nửa quá khứ đẹp đẽ, còn nửa kia dành cho sự ăn năn vì đã quên đi vầng trăng vầng trăng ấy còn mang một ý nghĩa tượng trưng: là biểu tượng cho vẻ đẹp mộc mạc và biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình không thể nào quên và cũng không được quên. Đó có lẽ là lời hối cải sâu kín của Nguyễn Duy cho những “lãng quên” của mình.
Mặc cho con người ta vô tình, lãng quên nhưng ánh trăng muôn đời tròn vành vạnh, không trách móc hay đòi hỏi điều gì:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Nếu như trăng có giận hờn, trách móc thì có thể kẻ vô tình này sẽ đỡ ân hận hơn. Con người có thể lãng quên nhưng thiên nhiên muôn đời vẫn nguyên vẹn.
Bài thơ Ánh trăng thật đặc sắc, giản dị, chân thành và chứa đựng nhiều tâm sự, ẩn ý sâu kín. Nó như nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua và nhắc nhở con người sống thuỷ chung, nghĩa tình, “uống nước nhớ nguồn”.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 21
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sáng tác của ông thấm đẫm phong vị của ca dao, dân ca nhưng nhiều bài vẫn có cái ngang tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ đi sâu vào tâm hồn người đọc một cách tự nhiên và có lúc khiến người ta phải giật mình. Ánh trăng là một thi phẩm như thế. Nó tựa như một câu chuyện nhỏ có các sự kiện diễn biến theo trình tự thời gian. Lời thơ dung dị như lời kể nhưng chất thơ vẫn đong đầy và ẩn chứa những triết lí sâu sắc về con người, cuộc đời.
Mớ đầu bài thơ là những kỉ niệm êm đềm, tươi đẹp giữa trăng và người trong quá khứ. Một loạt những mốc thời gian được liệt kê, như một cuốn phim quay chậm :
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật mà chỉ là sự đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện : hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh… Thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, thơ dại đến khi trưởng thành và trong những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian. Cách gieo vần lưng “đổng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc chan hoà cùng thiên nhiên của tác giả. Khi lớn lên, bước chân vào đời lính gian khổ, giữa núi rừng hoang lạnh “vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng theo sát bước chân người lính, cùng chia sẻ buồn vui của cuộc sống chiến đấu. Ta chợt nhớ tới vầng trăng của tình đồng đội thiêng liêng trong sáng tác của Chính Hữu :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(Chính Hữu – Đồng chí)
Trăng thực sự là một người bạn thân thiết trong những năm tháng tuổi nhỏ và là người “tri kỉ” của người lính trong những tháng ngày khói lửa chiến tranh. Con người giản dị, hồn nhiên như bản tính vốn có của tự nhiên bao đời:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
Tính từ “trần trụi”, “hồn nhiên” được đặt ở hai đầu dòng thơ như muốn nhấn mạnh khí chất của con người. Trăng và người cứ hồn nhiên như thế, như sông, như đồng, như bể, như tâm hồn chân chất của những người nông dân mộc mạc, như tinh thần lạc quan, bay bổng của những người lính. Cách gieo vần lưng “thiên nhiên”, “hồn nhiên” làm cho âm điệu thơ liền mạch, khơi dòng cảm xúc dâng tràn trong tâm hồn thi nhân. Từ “ngỡ” như báo trước một sự đổi thay, một điều bất thường. Câu thơ như một lời tự nhủ của nhân vật trữ tình, cũng là bản lề mở ra sự biến chuyển của tứ thơ :
Từ hồi vê thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đì qua ngõ
như người dưng qua đường
Tác giả chỉ ra sự đối lập giữa hoàn cảnh của con người trong hiện tại và quá khứ. Quá khứ là những tháng ngày sống cùng thiên nhiên dân dã, mộc mạc, với đồng, với sông, với bể ; còn hiện tại là “ánh điện, cửa gương” nơi phố thị phồn hoa. Tác giả sử dụng thủ pháp hoán dụ để nói về cuộc sống đầy đủ, tiện nghi xa hoa, ồn ào của thành phố. Từ sự thay đổi của hoàn cảnh đã dẫn đến sự đổi thay của lòng người:
Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Người bạn “tri kỉ”, “tình nghĩa” tưởng không bao giờ quên được ấy giờ đây lại giống như “người dưng qua đường”. Phép nhân hoá càng gợi lên dư vị xót xa trong tâm hồn độc giả. Vầng trăng có tình cảm, có yêu thương, có thuỷ chung. Còn con người lại dửng dưng, vô tình, dễ đổi thay. Những ồn ào nơi cuộc sống phố thị, những ánh sáng của cuộc sống xa hoa làm lu mờ trái tim, xoá nhoà kí ức đẹp đẽ một thời. Đó không phải là điều cá biệt trong cuộc sống. Bởi vậy mà ông cha ta đã từng nhắc nhớ : “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”, khuyên con người ta không nên quay lưng lại với quá khứ.
Có lẽ, vầng trăng tri kỉ đó sẽ mãi bị “ngủ quên” trong miền kí ức nếu không có một tình huống bất ngờ xảy đến, buộc con người phải đối mặt :
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Đèn điện tắt cũng là lúc những ánh sáng của bóng điện cửa gương biến mất. Đó là tình huống tạo nên bước ngoặt để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Hai từ “thình lình”, “đột ngột” mang âm hưởng nhanh, mạnh, được đảo lên đầu câu, tạo sự đối lập giữa “phòng buyn – đinh tối om” và “vầng trăng tròn”. Giây phút nhìn thấy vầng trăng chứa chở bao cảm xúc ngỡ ngàng. Cái “đột ngột” trons sự xuất hiện của vầng trăng cũng chính là tâm trạng “đột ngột” của nhà thơ khi nhận ra vầng trăng tình nghĩa ngày nào. Trăng vẫn như xưa, vẫn đẹp một vẻ tròn đầy, vẹn nguyên. Sự xuất hiện ấy, lặng lẽ thôi mà đầy bất ngờ, mà có sức rung động mạnh mẽ đối với tâm hồn con người, thức tỉnh phần kí ức bị ngủ quẽn. Để rồi, khi đối diện với trăng, những cảm xúc ấy càng dâng tràn mạnh mẽ :
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bê
như lù sông là rừng
Niềm xúc động chen lẫn sự thành kính bao trùm không gian. Trăng và người, quá khứ và hiện tại, thuỷ chung và đổi thay đối diện với nhau. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ đa nghĩa, tạo nên sự đa dạng cho ý thơ. “Mặt” là trăng, là thiên nhiên, là quá khứ một thời bị lãng quên, và “mặt” còn là chính bản thân con người. Con người đang tự đối diện với chính mình, với một thời quá vãng. Khoảnh khắc đối diện ấy làm nhà thơ “rung rung” xúc động, bởi quá khứ vất vả mà ấm áp tình yêu cùng trăng bấy lâu tưởng chừng bị lãng quên nay lại ùa về, bởi con người đã nhận thức được giá trị của quá khứ, biết hổ thẹn và ân hận về sự đổi thay của mình.
Điệp từ “như là”, các hình ảnh liệt kê sông, đồng, bể, rừng cùng nhịp thơ dồn dập tạo nên dòng cảm xúc mãnh liệt, cuốn độc giả hoà theo với bao mênh mông, sâu lắng.
Khổ thơ cuối là dòng cảm xúc lắng sâu, trở thành những triết lí nhân sinh sâu sắc :
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
“Trăng tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đẩy, vẹn nguyên, thuỷ chung như nhất của thiên nhiên, của quá khứ. Nó đối lập với con người vô tình đổi thay, đối lập với ánh điện cửa gương dễ bị chi phối bởi hoàn cảnh. Hai tiếng “kể chi” như một lời khẳng định thể hiện sự bao dung độ lượng của trăng. Ánh trăng được nhân hoá và khoảnh khắc “im phăng phắc” là cái lặng im của sự nghiêm khắc mà bao dung, của sự thấu hiểu và độ lượng, tha thứ. Sự im lặng của trăng đủ để nhà thơ “giật mhìh” – cái giật mình của lương tâm thức tỉnh, của kí ức bị lãng quên ùa về. Cái giật mình ấy làm cho con người trở nên đáng trọng hơn. Bao ăn năn như bị dồn nén, tạo nên một sự ám ảnh sâu sắc về cái lặng im đầy ý nghĩa, về cái giật mình thảng thốt ấy.
Sử dụng thể thơ năm chữ quen thuộc, với lời thơ giản dị, mạch thơ tự nhiên, Nguyễn Duy như đưa ta vào một câu chuyện cuộc đời để ta tự rút ra cho mình cách sống, cách đối nhân xử thế. Bài thơ thức tỉnh mỗi chúng ta hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Cảm xúc thơ chân thành, tha thiết giúp cho bài thơ lắng sâu nơi tâm hồn người đọc như một khúc ca da diết, mãi ngân vang.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 22
Đối với con người vầng trăng là một hình ảnh vô cùng quen thuộc. Gần như đêm nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy ánh trăng. Nếu là trẻ nhỏ thì còn thích nữa vì có Ngày hội trăng rằm. Chính vì điều đó mà trăng xuất hiện trong thơ không khiến chúng ta ngạc nhiên. Trăng từng xuất hiện trong thơ của Bác, xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử,… nhưng mỗi bài thơ lại khai thác ánh trăng ở một khía cạnh khác nhau. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy cũng vậy.
Ánh Trăng được Nguyễn Duy sáng tác vào năm 1978 khi ông đang sống ở TP Hồ Chí Minh. Nếu nói về ý tứ mới mẻ thì toàn bộ bài thơ không có gì là mới. Thể thơ 5 chữ đã quá quen thuộc với các nhà thơ hiện đại. Hình ảnh ánh trăng trong thơ cũng đã quá quen thuộc nếu không muốn nói là cũ. Thế nhưng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn có sức lay động người đọc bởi nó xoáy sâu vào tâm lý hướng về nguồn cội của con người. Đối với nhà thơ Nguyễn Du, vầng trăng có thật nhiều ý nghĩa. Vầng trăng đã đồng hành cùng với ông suốt từ tấm bé vậy mà đã có lúc ông lãng quên nó. Mở đầu bài thơ, tác giả diễn tả một vầng trăng tri kỉ:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Cánh đồng, dòng sông, vầng trăng đều là những hình ảnh gắn liền với con người nơi miền quê. Chúng trở thành bạn, trở thành tri kỉ của con người. Tuổi thơ của mỗi người đều trải qua những kí ức tươi đẹp bên miền quê thanh bình như thế. Có khi đêm tối, trẻ con chạy đuổi nhau rồi thấy trăng dường như cũng đang bước theo mình. Chính vì vậy mà khi lớn lên, trở thành những người lính dũng mãnh nơi chiến trường ác liệt, những chiến sĩ nằm giữa rừng, ngửa mặt lên trời ngắm nhìn trăng. Họ hoài niệm về tuổi thơ, về quê hương thông qua vầng trăng. Cũng nhờ vầng trăng ấy, họ nguôi bớt nỗi nhớ quê hương, gia đình. Vầng trăng theo chân những người lính trên mỗi bước đường hành quân và trở thành một người bạn tri kỉ.
Chính sự tri kỉ đó khiến tác giả nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ có thể quên được vầng trăng:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Những năm tháng sống cuộc đời người lính, gian nan mà đầy hồn nhiên. Cái nét hồn nhiên ấy khiến con người trở nên mộc mạc, đơn sơ. Họ biết trân quý những gì mà họ đang có trong cuộc đời này, kể cả vầng trăng ngoài kia. Thế nhưng, cuộc sống của nhà thơ xoay vần sang một trang mới:
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Thời gian là thứ gì đó thật đáng sợ, nó cuốn con người ta vào vòng xoáy của cuộc đời với những lo lắng về cơm, áo, gạo, tiền. Dường như tâm trí của con người, của Nguyễn Duy đã lãng quên đi vầng trăng tri kỉ năm nào. Giờ đây, ánh điện sáng đã thay cho ánh sáng của vầng trăng. Một cuộc sống đầy đủ đã khiến cho người ta lãng quên đi những điều dung dị. Mặc dù vầng trăng ấy ngày ngày vẫn đi qua ngõ, đêm đêm vẫn tỏa ánh sáng khắp một vùng trời.
Thế nhưng, cảm xúc của nhà thơ lại một lần nữa đột ngột thay đổi:
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Khi mất điện, những ánh sáng phát ra từ những chiếc bóng đèn không còn nữa. Mọi cảnh vật trở nên tối om. Lúc này, con người ta mới khát khao nhìn thấy ánh sáng. Hình ảnh “vội bật tung cửa sổ” giống như một sự sực nhớ tới người bạn năm nào. Từ “đột ngột” cũng khiến người đọc cảm nhận được sự bất ngờ trong cảm xúc của tác giả. Vầng trăng lúc nào cũng ở đó và tràn đầy. Vậy mà con người đã lỡ lãng quên nó. Để bây giờ nhận ra thì ngỡ ngàng và trào dâng xúc cảm rưng rưng:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Mặt đối mặt với ánh trăng, nhà thơ có cảm giác rưng rưng giống như nhìn thấy bể, thấy đồng, thấy sông, thấy rừng như thuở còn thơ. Dường như nhà thơ đang tự trách chính mình vì sao lại lỡ quên đi những người bạn tri kỉ năm nào.
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Trăng tròn vành vạnh là vầng trăng tròn đầy nhất, đẹp nhất. Trăng đứng đó, nhìn người nhưng lại lặng im không nói điều gì. Giá như trăng cứ trách móc thì có lẽ người sẽ không giật mình. Ánh trăng sáng, để cho người ta soi mình vào đó và tự thức tỉnh mình.
Ánh trăng ở đây không đơn thuần là ánh trăng, nó đại diện cho nguồn gốc, cho cội nguồn. Bài thơ như nhắc nhở chúng ta hãy biết trân trọng những giá trị cao đẹp, đó là nguồn gốc của mỗi người.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 23
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng được viết tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc sống hòa bình, một số người đã từng trải qua thử thách, gian khổ, từng chứng kiến sự hi sinh lớn lao của đồng đội và nhân dân, từng gắn bó sâu nặng với thiên nhiên nhưng đã vội quên những gian nan, cơ cực và những kỉ niệm thắm thiết nghĩa tình của một thời chưa xa.
Bài thơ là một lần “giật mình” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng thức tỉnh bao người trước cái điều vô tình ấy.
Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. Vầng trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ.
Bài thơ không chỉ đề cập đến thái độ thờ ơ, quay lưng đối với những hi sinh, mất mát của thời chiến tranh mà còn là chuyện nghĩa tình, nhớ về cội nguồn, nhớ về những người đã khuất. Cao hơn nữa, Ánh trăng còn là lời nhắc nhở mỗi con người về lẽ sống chung thủy với chính mình.
Sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình đã tạo cho bài thơ dáng dấp của một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình được thể hiện bằng thể thơ năm chữ. Hai khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ về ánh trăng khi chiến đấu trong rừng. Khổ thứ ba là cảm xúc trước vầng trăng trong thành phố hòa bình. Nhịp thơ ở phần này tự nhiên, nhịp nhàng. Đến khổ thứ tư, giọng thơ thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của tác giả trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Giọng thơ trầm lắng, thiết tha ở hai khổ cuối rất hợp với sự hồi tưởng và suy tư lặng lẽ. Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự. Nhà thơ kể rằng:
“Hồi nhỏ sống với đồng,
Với sông rồi với bể;
Hồi chiến tranh ở rừng,
Vầng trăng thành tri kỉ.”
Nhà thơ tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Thế mà từ hồi về thành phố ăn sung mặc sướng, quen sống giữa những tiện nghi hiện đại, mới chỉ có mấy năm mà đã nhìn vầng trăng tình nghĩa như người dưng qua đường.Sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là tác nhân gợi nhớ để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.
“Thình lình đèn điện tắt,
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.”
Ánh trăng toả sáng căn phòng. Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy đã gây ấn tượng mạnh, thổi bùng nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 24
Nguyễn Duy là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước . Thơ của ông đầy ắp cảm xúc trữ tình và giàu triết lí sâu sắc. “Ánh trăng” sáng tác năm 1978 – ba năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng. Đây như một lời nhắc về những năm tháng khó khăn, cuộc đời người lính gắn bó với quê hương, thiên nhiên, đất nước.
Bài thơ Ánh trăng như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian hơn nữa bài thơ chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi khổ, cả bài chỉ có một dấu chấm việc này tạo nên sự liền mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trước hết là hình ảnh vầng trăng trong ký ức của nhân vật trữ tình.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hồi là mốc thời gian đưa nhân vật trữ lình trở về với kí ức tuổi thơ. Điệp từ “với” kết hợp phép liệt kê: đồng, sông, bể nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa con người và thiên nhiên, mở ra một không gian mênh mông, cao rộng. Cong người có thể ngắm trăng ở bất cứ nơi đâu. Phép nhân hoá giúp trăng trở thành một con người, một người tri kỉ. Theo thời gian, con người cũng bắt đầu trưởng thành rồi trở thành người thành người lính chiến đấu trong quân ngũ. Trong những đêm trèo đèo lội suối, băng rừng hay những đêm phục kích chờ giặc, trăng luôn đồng hành cùng người chiến sĩ dù bất cứ không gian nào.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Thuở ấy con người sống hồn nhiên, giản dị, chân thật, gắn bó với thiên nhiên như cây cỏ sông suối. Phép nhân hoá đã cho thấy trăng và người giờ đây không chỉ là người bạn tri kỉ mà đã trở thành người bạn tình nghĩa ngỡ như không thể quên, không thể tách rời.
Thời gian qua đi, con người giờ đây cũng thay đổi, hình ảnh vầng trăng hiện tại (năm 1978) trong suy nghĩ của tác giả cũng đã phai mờ theo năm tháng.
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Chiến tranh kết thức, người chiến sĩ trở về với cuộc sống đời thường. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng trở về với cuộc sống của người dân thành phố, mải mê với những điều mới lạ, những thiết bị tân tiến “ ánh điện cửa gương” không còn nhớ tới quá khứ, tới người bạn tri kỉ hồi nào. Vầng trăng vẫn xuất hiện theo vòng tuần hoàn của thời gian nhưng giờ đây lại hoà cùng với ánh điện, mờ nhạt trong tâm tưởng người lính. Cuộc sống tiện nghi hiện đại đã khiến tâm hồn con người có chút đổi thay, vô tình lãng quên đi quá khứ, cố nhân.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Một hiện tượng xảy ra trong đời sống của người dân thành phố, khi ấy không gian tối om và theo bản năng họ tìm tới ánh sáng của vầng trăng của thiên nhiên vũ trụ. Từ láy “thình lình, đột ngột” cho thấy sự bất ngờ trong giây phút gặp lại cố nhân. Ánh sáng của trăng soi tỏ căn phòng tối, soi vào từng ngóc ngách tâm hồn con người, soi cả vào kí ức đã bị lãng quên của nhân vật trữ tình. Để từ đây, họ nhận ra mình đã từng là một kẻ vô tình vô nghĩa với trăng, với quá khứ, với nhân dân, đất nước. Hiện tượng mất điện không quá xa lạ với người dân thành phố nhưng có lẽ đây là cái cớ để tác giả thể hiện chủ đề, tư tưởng, bước ngoặt trong câu chuyện của nhân vật trữ tình.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Nghệ thuật ẩn dụ được tác giả sử dụng thành công khi để mặt người đối diện đàm tâm với mặt trăng. Ánh sáng soi tỏ tâm tưởng của nhân vật trữ tình giúp họ nhận ra những sai lầm của bản thân. Để từ đây có thể bộc lộ được cảm xúc rưng rưng, nghẹn ngào đang dâng trào trong lòng họ.
Khổ thơ cuối bài mang ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
kể chi người vô tình”
Hình ảnh trăng vừa mang nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc cùng với đó là nghệ thuật nhân hoá ánh trăng trở thành một nhân chứng nghĩa tình , nghiêm khắc nhắc nhở con người về thái độ sống uống nước nhớ nguồn. Trăng bao dung độ lượng, không oán trách “ kể chi người vô tình” nhưng cũng khiến con người giật mình để nhìn lại bản thân đã là người vô tình vô nghĩa. Ở khổ thơ này ta thấy được hai hình ảnh song song mà đối lập: đối lập giữa cái tròn vành vạnh của trăng với sự hụt vơi trong lòng kẻ vô tình; đối lập giữa cái im phăng phắc của trăng và hành động giật mình của nhân vật trữ tình. Khổ thơ cuối bài mang ý nghĩa tư tưởng của vầng trăng đồng thời mang đầy tính triết lí, chủ đề của tác phẩm.
Bài thơ Ánh trăng thành công với giọng điệu tâm tình nhịp thơ trôi chảy tự nhiên mà sâu lắng, hình ảnh giàu giá trị gợi cảm mang tính triết lý sâu sắc. Qua đây tác giả muốn gửi tới tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ chúng ta một bài học về đạo lý: sống với hiện tại, nghĩ về tương lai và nhớ về quá khứ.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 25
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Thơ Nguyễn Duy đậm vẻ dung dị, hồn nhiên trong sáng nhưng lại thấm đẫm những chiêm nghiệm về cuộc đời khiến bạn đọc phải trầm tư sâu lắng, suy nghĩ chiêm nghiệm. Bài thơ Ánh trăng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Duy, nó gợi nhắc con người đặc biệt là người lính nhớ về quá khứ gắn bó với thiên nhiên đất nước.
Bài thơ Ánh trăng được sáng tác năm 1978 in trong tập thơ cùng tên. Nguyễn Duy viết bài thơ Sau khi cuộc kháng chiến đã kết thúc, con người trở lại với cuộc sống hiện đại quên đi quá khứ sau lưng. Bài thơ ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, ánh trăng sáng gắn bó với người lính trong suốt những năm tháng trên chiến trường đồng thời nhắc nhở con người phải sống ân nghĩa thủy chung, giữ trọn đạo lý tốt đẹp.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng thiên nhiên của tuổi thơ bình dị in sâu trong kí ức nhà thơ. Giọng thơ đền đạn trầm ổn như kể về một câu chuyện tốt đẹp trong quá khứ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”
Vầng trăng gắn bó với nhà thơ trong suốt quá khứ khi là một cậu bé. Hình ảnh trăng hiện lên cùng với “đồng, sông, bể”, cách gieo vần lưng làm cho câu thơ trở nên mềm mại uyển chuyển đồng thời thấy một tuổi thơ tươi đẹp mà tác giả gắn bó với thiên nhiên. Điệp từ “ với” càng khẳng định điều đó. Đến khi chiến tranh bùng nổ cậu bé năm nào trưởng thành và tham gia kháng chiến, vầng trăng cũng theo chân người lính trẻ, đồng hành với cậu từ những bước đầu gian khổ . Nhà thơ sử dụng từ “ hồi” để nhấn mạnh sự hồi tưởng về quá khứ khi có vầng trăng. Gắn bó suốt tuổi thơ cùng những năm tháng xông pha chiến trường, vầng trăng đối với người lính đã trở thành người bạn tri kỷ không thể thiếu.
Nhà thơ cũng đã bày tỏ tình cảm da diết của mình với vầng trăng tri kỉ:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”
Nhà thơ đã miêu là vầng trăng như một người bạn thực sự. Các từ “ trần trụi, hồn nhiên” thể hiện tính cách của vầng trăng là một người bạn chân thật và thẳng thắng như cây cỏ như thiên nhiên non mềm. Gắn bó với trăng như thế nhà thơ tưởng như sẽ không bao giờ quên đi ánh trăng, quên đi tình bạn tri kỉ thân thiện bao lâu nay. Như từ ngỡ đặt đầu câu như báo hiệu một chuyện gì không hay sẽ xảy ra. Chính nhân vật trữ tình đã quên đi ánh trăng tình nghĩa khi về với cuộc sống hiện đại:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Sau khi chiến tranh kết thúc, con người trở lại với đời sống hiện đại, trở lại với những cơ sở vật chất hiện đại “ ánh điện, cửa gương” thì dần quên đi cuộc sống gian khó của những ngày còn chinh chiến, con người mải tất bật với công việc , với nhịp sống nhanh, sống vội của người hiện đại nên đã quên đi vầng trăng tình nghĩa. Vậy nên vầng trăng đi qua ngõ thì như người dưng qua đường. Nghệ thuật nhân hóa cùng so sánh đã biến trăng thành một con người có tri giác . Và thật đau đớn thay khi vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa kia giờ là người dưng nước lã không còn một mảnh quan hệ với con người.
Nguyễn Duy đã xây dựng một tình huống truyện trong thơ, tạo kịch tích, nút thắt cho câu truyện thơ về vầng trăng:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”
Từ láy thình lình được đặt lên đầu câu nhấn mạnh đây là một tình huống đặc biệt chưa có sự chuẩn bị trước khiến con người bất ngờ. Trong không gian sáng ánh đèn điện, thì con người không nhìn thấy trăng và khi đèn điện vụt tắt, phòng building tối om con người đã hành động theo bản năng tìm đến ánh sáng của tự nhiên đó là bật tung cửa sổ. Động từ mạnh vội, bật, tung được đặt cạnh nhau cho thấy hành động nhanh mang tính bộc phát của con người. Từ đột ngột cho thấy thái độ bất ngờ ngạc nhiên đến kinh ngạc của con người khi nhìn thấy ánh trăng. Và hình ảnh vầng trăng tròn xuất hiện như một điều hiển nhiên, trăng vẫn tròn vẫn đẹp nhưng lòng người đã đổi thay phai nhạt.
Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm cho bao nhiêu kỉ niệm của tuổi thơ ùa về khiến nhà thơ thấy có gì đó “ rưng rưng” muốn khóc:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng”.
Gặp lại người bạn xưa, quá khứ ùa về như dòng thác, nhà thơ không kiềm được lòng mình mà rưng rưng muốn khóc. Trong một câu thơ tác giả đã sử dụng hai từ “ mặt” để , mặt ở đây là mặt trăng hay mặt người bạn tri kỉ lâu năm không liên lạc, người bạn gọi nhớ về những ngày tháng tuổi thơ tươi đẹp những năm tháng chiến tranh gian khổ ác liệt đồng hành cùng ánh trăng xưa. Chính nhà thơ như nhận ra sự bạc bẽo vô tình của mình
Kết thúc bài thơ là một chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về vầng trăng về con người
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình… ”
Trăng vẫn cứ tròn đầy trong trẻo, vẫn tròn vành vạnh. Từ láy vành vạnh như khẳng định sự nguyên vẹn của trăng khẳng định tình nghĩa khăng khít không phai nhạt theo thời gian của trăng mặc cho con người đã quên đi ánh trăng, quên đi tình nghĩa ngày nào. Ánh trăng như một người bạn nghiêm khắc nhưng bao dung. Dù người đã quên ánh trăng nhưng trăng vẫn ở đó mạng quá khứ nguyên vẹn thủy chung chờ đợi con người. Sự im lặng của trăng càng làm cho con người thấy được sự vô tình bạc bẽo của mình. Và cái giật mình kết thúc bài thơ là cái giật mình thức tỉnh lương tâm, tìm lại con người có tình nghĩa như phút ban đầu. Đó là cái giật mình đáng trân trọng mà con người cần có.
Ánh trăng dường như thoát ra khỏi câu truyện thơ đầy ý nghĩa của Nguyễn Duy để đến với độc giả, mỗi người đều có một ánh trăng riêng mình vô cùng chung thủy, tình nghĩa. Hình tượng ánh trăng sẽ mãi trường tồn cùng với tên tuổi Nguyễn Duy.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 26
Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 và được đưa vào tập thơ “Ánh trăng. Tập này đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984. Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.
Cuộc đời của mỗi con người dù đi đâu về đâu cũng không bao rời xa vầng trăng tình nghĩa. Chỉ có con người có lúc lãng quên trăng, chứ trăng bao giờ cũng ở bên người, sẵn sàng cùng người sẻ chia tâm sự. Chính vì thế, đối với ai trăng cũng sẵn sàng làm tri kỉ. Đối với Nguyễn Duy cũng vậy:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt thể hiện sự vận động của không gian – thời gian. Cái hay là bằng hình ảnh không gian (đồng-sông-bể-rừng) diễn tả sự vận động của thời gian: quá trình trưởng thành của tác giả (nhỏ-trưởng thành-đi chiến đấu)… Trong quá trình ấy, kỉ niệm đẹp biết bao con người sống với thiên nhiên, với trăng chan hòa, gắn bó không gì ngăn cách được. Từ “với” được điệp lại ba lần nhằm diễn tả một thời niên thiếu đi nhiều, được cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên: ngắm trăng trên đồng quê, trên dòng sông, trên bãi bồi. Vì vậy những kỉ niệm thời niên thiếu vui cùng trăng, sống với trăng đã trở thành những ấn tượng khắc sâu trong tâm trí không thể phai mờ.
Trưởng thành rồi đi chiến đấu trên những nẻo đường hành quân, phải lặn lội trong rừng sâu núi thẳm, trăng là bạn đồng hành đã chia sẻ ngọt bùi, cùng hân hoan trong niềm vui chiến thắng hoặc cùng ngậm ngùi, bồn chồn với nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Nên trăng là tri kỉ, là nghĩa tình.
Khổ thơ thứ hai là tiếng lòng hoài niệm về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vì tâm hồn người chiến sĩ vô tư hồn nhiên trải lòng ra với thiên nhiên nên không gì ngăn cách được. Con người lúc bấy giờ, cuộc sống lúc bấy giờ chân thật, vô tư, không lọc lừa, không có những toan tính mà sống tự nhiên “hồn nhiên như cây cỏ”, coi thiên nhiên là nhân vật, là con người. Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ không bao giờ có thể quên. Một ý thơ lay động tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “ngỡ không bao giờ quên”. Từ “ngỡ” như một điểm nhấn, mang tính dự báo là sẽ quên, trong đó như có lời tác giả tự trách mình…
“Từ hồi về thành phố
quen với ánh điện của gương
vầng trăng đi qua ngõ
như vầng trăng qua đường”
Ở thành phố đầy đủ tiện nghi vật chất, ở buyn đinh cao ốc, quen với ánh điện cửa gương, hoàn cảnh sống đã thay đổi con người cũng dễ đổi thay, có lúc trở nên vô tình, có kẻ trở thành “ăn ở bạc”. Cuộc sống hiện tại chói lòa ánh điện đã làm lu mờ ánh sáng hiền dịu của vầng trăng. Trăng được nhân hóa đi qua ngõ mà như người dưng qua đường. Tác giả xây dựng hai hình ảnh đối lập giữa vầng trăng tri kỉ của quá khứ với vầng trăng với vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người. Trước bao vinh hoa phú quý, người ta có thể phản bội lại chính mình, thay đổi tình cảm với nghĩa tình đã qua. Và đó cũng là một quy luật của cuộc sống tình cảm của con người. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã có lần viết:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao nào thấy núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Trăng đâu cao xa, trăng gần gũi, thân thương, trăng là nghĩa tình, là tri kỉ, không bao giờ phản bội. chỉ có con người hờ hững với trăng. Nguyễn Duy tự vấn, tự trách mình vô tình, coi trăng như “người dưng qua đường”.
Kết cấu của bài thơ có chút kịch tính khi chuyển qua khổ thứ tư gây bất ngờ, đột ngột:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Tình huống mất điện đột ngột trong đêm là chuyện hiếm gặp ở thành phố ta trong những năm tháng ấy (1978) khiến tác giả vốn đã quen với ánh sáng, không thể chịu nổi cảnh tối om nơi phòng buyn-đinh “vội bật tung cửa sổ” rồi “đột ngột vầng trăng tròn”. Các từ “vội”, “bật tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Ánh trăng tròn hiện lên giữa bầu trời sừng sững, giữa bầu trời ấy đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có? Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không bao giờ mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi.
Và trong cái khoảnh khắc “đột ngột” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rung rung” sống dậy, thổn thức lòng người:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rung rung
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm. Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.
Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng – biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.
Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.
Khổ thơ cuối cùng mang nhiều ý nghĩa đưa tới chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Trăng không trách móc, hờn giận “người vô tình”vì đó là vầng trăng độ lượng, khoan dung, là truyền thống nhân hậu của dân tộc.
Hình ảnh “Ánh trăng im phăng phắc” cũng là hình ảnh của lương tâm nghiêm khắc nhắc nhở từ chính sự im lặng của mình về sự thủy chung, gắn bó với quê hương, với thiên nhiên và con người. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. Mạch cảm xúc của bài thơ lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ. Đây là sự ăn năn tự trách để nhắc nhở mình phải sống có nghĩa tình đừng quên ân tình của quá khứ dù bất kì hoàn cảnh nào.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, “Ánh trăng” nhắc nhở con người về lẽ sống ân tình thủy chung với thiên nhiên đất nước. từ đó, ta thêm trân trọng quá khứ, có thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”.
Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc đã từng nhắc đến vầng trăng nghĩa tình, thủy chung ấy. Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách tâm tình hoá chính là một đặc trưng của lối thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu. Việc “dời đô” (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến – Tố Hữu gọi là “Thủ đô gió ngàn”) đã thành câu chuyện ân tình chung thủy của người cách mạng với rừng núi chiến khu, với đồng bào, với quá khứ, với chính mình.Đôi trai gái xưng hô theo lối rất dân gian: Ta – mình. Nỗi băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã bạn là ân tình – chung thuỷ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui
“Mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ! Nhưng “mình đi mình có nhớ mình” thì ân tình chung thuỷ đã được đẩy tới một mức thật sâu. Mình đi khỏi Việt Bắc là đi khỏi thời gian khổ, nơi gian khổ, có thể mình quên ta phụ ta. Nhưng mình có nhớ chính mình chăng, có phụ chính mình được chăng? Nơi phố đông, sáng đèn có còn nhớ đến những tháng ngày vất vả, gian lao, nghĩa tình, thủy chung nơi rừng núi? Những câu hỏi thâm thúy ân tình như vậy đã giúp Tố Hữu dân gian hoá, truyền thống hoá một vấn đề của cách mạng, vấn đề của hôm nay. Người ra đi cũng trả lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh thần như thế. Thế nhưng, khi đến với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, ta bòng “giật mình” hiểu ra, người ra đi năm ấy đã vội quên lời dặn dò của người ở lại năm xưa mất rồi.
Hình ảnh vầng trăng và người lính là hai hình tượng vốn có sự gắn kết bền chặt trong thi ca. Có lẽ, không gian chiến đấu của người lính thường là nơi rừng núi, không gian lặng lẽ, chỉ có trăng là sự vật rực rỡ nhất, gợi nhớ nhất, lặng lẽ đi vào tâm hồn người lính như một nguồn sống bất tận. Trong bài thơ Đồng chí, nhà thơ chính hữu đã có những lời thơ thật hay:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ vừa mang nét mờ ảo lại mang nét tả thực, có thể nói nó chính là cái táo bạo mới mẻ và nhà thơ khám phá. Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng cao cả về cuộc đời người chiến sĩ. Hình ảnh “rừng hoang sương muối” gợi sự khốc liệt, khắc nghiệt đến ghê rợn của thiên nhiên, của chiến tranh. Đối lập với thực tại khắc nghiệt ấy là hình ảnh bầu trời đêm “đầu súng trăng treo” vừa rất thực vừa rất lãng mạn:
“Súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại thống nhất hòa quyện – là cứng rắn và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mơ mộng – là chất chiến đấu và chất trữ tình – là chiến sĩ và thi sĩ.
Hiếm thấy một hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu. Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất chưa bao giờ lại gần đến thế nó chỉ cách nhau một chữ “treo” mà thôi. Phải chăng ngoài ý nghĩa lãng mạn nhà thơ còn muốn thể hiện một ý nghĩa sâu xa khác? Đó chính là mong muốn khát vọng về một ngày mai hòa bình và hạnh phúc? Sau đêm nay ngày mai bình minh sẽ ló dạng xua tan đi những cái buốt giá của thời gian và không gian?
Có thể nói ba câu thơ cuối cùng của bài thơ như một lời kết nhẹ nhàng và lắng đọng trong tâm trí của người chiến sĩ cũng như độc giả. Nó đã gợi cho người đọc biết bao nhiêu ấn tượng bao nhiêu suy nghĩ đặc sắc. Đó là ánh sáng của tự do, của độc lập mà chúng ta hướng tới trong một tương lai không xa.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Vì vậy, bài thơ dung những lời lẽ, tình đời, tình người vẫn vấn vương cùng người đọc.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 27
Là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy được biết đến với các bài thơ mộc mạc, bình dị và giàu cảm xúc giống như Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam,… Một trong những bài thơ được nhiều người chú ý đến đó là bài thơ Ánh trăng. Bài thơ đã thể hiện được nét tài hoa của ông khi khắc hoạ rõ những tâm tư trong thơ của Nguyễn Duy .
Bài thơ Ánh trăng được nhà thơ Nguyễn Duy viết năm 1978. Một lý do khiến bài thơ rất được yêu thích là bởi nội dung bài thơ chứa đựng những cảm xúc trong sáng, bình dị nhưng vô cùng sâu sắc. Ở hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã nhắc đến những kỉ niệm tươi đẹp của tuổi thơ nơi quê ngoại:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Từ những ngày còn nhỏ, vầng trăng đã gắn bó với con người. Nói đến trăng là nói về con sông, đồng ruộng và biển cả. Vậy cho nên dù có đi đến nơi nào thì vầng trăng vẫn luôn đồng hành với chúng ta. Con người đi một bước thì vầng trăng cũng đi theo một bước. Vốn dĩ ban đầu trăng là bạn, nhưng khi nhà thơ đi bộ đội, bước vào chiến trường gian khổ và khốc liệt thì vầng trăng mới thành tri kỷ của nhà thơ. Lúc này đối với nhà thơ, trăng trở thành người bạn không thể thiếu. Trăng cùng với nhà thơ chia sẻ những buồn vui cùng nhà thơ trải qua bao khó khăn của đời người lính. Cũng chính vì vậy mà nhà thơ hiểu vầng trăng hơn. Nhà thơ miêu tả về vẻ đẹp của vầng trăng với một cảm xúc trẻ trung, tươi mới:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Vẻ đẹp của trăng là một vẻ đẹp bình dị nên không phải khoác trên người bất kì điều gì thì trăng cũng đẹp một cách mộc mạc và hồn nhiên. Cũng chính vì tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên mà trăng hoà mình vào thiên nhiên cây cỏ. Trăng đẹp như vậy, gần gũi như vậy trăng vẫn chưa từng gắn bó với mình nên nhà thơ ngỡ rằng sẽ không bao giờ có thể quên đi vầng trăng nghĩa tình đó.
Nhưng đó là nhà thơ nghĩ thế chứ thực tế cho thấy nhà thơ đã có lúc quên vầng trăng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Còn ở tuổi của mình tác giả sống chan hoà với thiên nhiên, với sông, với suối, với núi rừng thì giờ đây môi trường sống của ông đã thay đổi hoàn toàn. Ông sống ở thành phố, nơi có những ánh đèn điện soi sáng hết mọi ngóc ngách, mọi không gian. Cũng vì ánh sáng của đèn, của tấm gương nên người ta không còn nhớ đến ánh sáng của vầng trăng nữa. Dần dần, vầng trăng tình nghĩa ngày ấy bị đẩy lùi vào lãng quên. Vầng trăng tượng trưng cho kỷ niệm, cho ký ức về những năm tháng chiến đấu vất vả, cho những người bạn của tuổi thơ, cho những người lính đã từng cùng nhau sống chết. Vậy mà giờ đây, trăng trở thành người dưng qua đường. Khi cuộc sống thay đổi, nó kéo theo những thay đổi trong nhận thức của người dân. Vầng trăng có lẽ sẽ mãi trôi đi trong dĩ vãng như vậy nếu như không có việc thành phố bị cắt điện:
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Nhớ khoảnh khắc đèn điện vụt tắt đó là ánh sáng của vầng trăng hiện lên thật kỳ diệu. Đi cùng với vầng trăng là bao kí ức ngày xưa ùa về trong tâm trí tác giả. Đó là sông, là biển, là núi, là những năm tháng nghèo đói, khó khăn nhưng cũng luôn đong đầy yêu thương. Chính bởi lẽ ấy đã khiến cho nhà thơ trở nên nghẹn ngào:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng vẫn thế, tròn và nguyên vẹn. Thứ duy nhất đổi thay đó chính là lòng người. Chỉ vì đối diện với vầng trăng mà vầng trăng không nói gì làm cho nhà thơ thấy xấu hổ với chính bản thân mình. Quả là vầng trăng nghĩa tình đã quá bao dung và rộng lượng.
Với cách diễn đạt giản dị, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã gây được nhiều cảm xúc cho bạn đọc. Giọng thơ sâu sắc với thể thơ 5 chữ cô đọng khiến cho bài thơ dạt dào cảm xúc. Thông qua bài thơ này, chúng ta nên nhìn lại lối sống của mình để làm tốt hơn nữa.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 28
Nguyễn Duy thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Sau giải phóng, Nguyễn Duy tiếp tục làm thơ và thơ ông càng trở nên đậm đặc với một phong cách, giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán”.
Thơ Nguyễn Duy giản dị, gần gũi nhưng giàu suy ngẫm, nhiều triết lý sâu sắc về cuộc sống và con người. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần uống nước nhớ nguồn của Nguyễn Duy. Tác phẩm được viết vào khoảng năm 1978, ba năm sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Qua bài thơ, Nguyễn Duy muốn lời nhắc, giáo dục người đọc lối sống “uống nước nhớ nguồn”, son sắt, thuỷ chung cùng quá khứ và khơi dậy trong tâm hồn người chiến sĩ sự trung hiếu vô hạn với tổ quốc, với nhân dân sau bao năm tháng gắn bó với quê hương, với đất nước.
Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được viết theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà thể hiện tâm tư, suy nghĩ trăn trở. Trước hết, bài thơ mở ra nhiều kí ức đẹp, tình cảm gắn kết giữa con người và vầng trăng của quá khứ xa xăm:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Với giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, tác giả đã gợi lại những kỷ niệm của một quãng thời gian dài từ khi còn bé cho tới lúc trưởng thành trở thành người lính trong cuộc chiến. Tất cả đều thấm đẫm ánh trăng. “Hồi nhỏ” gắn liền với thiên nhiên như với đồng ruộng, với dòng sông của quê hương. Lớn lên trở thành người lính xông pha chiến trận gắn mình với núi rừng mênh mông, bao la.
Trong cuộc đó, con người sống chan hoà với thiên nhiên, giản dị, chất phác, hiền lành. Và vầng trăng “tri kỉ”, “tình nghĩa” đã minh chứng cho sự gắn bó của con người với thiên nhiên, trời đất. Ở đây, Trăng được nhân hoá như con người và trở thành người bạn thân thiết cùng với con người: Trăng san sẻ mọi buồn vui, khó khăn, góp phần xoa dịu những vết thương của chiến tranh bằng thứ ánh sáng ấm áp nên trở thành người bạn “tri kỉ”, tâm giao.
Con người sống “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như cây cỏ”, một cuộc sống thanh thản, nhẹ nhàng và thoả lòng. Còn trăng với người sống gần gũi, gắn bó đằm thắm “tình nghĩa” với thiên nhiên. Vì vậy, lòng đã tự hẹn với lòng mình một tấm lòng thuỷ chung, tình nghĩa, son sắt: “bao giờ quên”. Nhưng từ “ngỡ” lại vừa thể hiện niềm đau xót, nuối tiếc, hối hận; cũng như báo hiệu cho sự thay đổi một tình nghĩa lẽ ra cần được trân trọng.
Nếu ở hai khổ thơ đầu, tác giả đưa người đọc tìm về với ký ức xa xôi, thì sang với khổ ba, Nguyễn Duy lại đã dẫn người đọc quay về với thực tại do những tác động của hoàn cảnh lên con người, làm con người quên vầng trăng.
Hình ảnh vầng trăng được nhân hoá với thái độ “im phăng phắc” gợi cho ta liên tưởng tới ánh mắt gay gắt như trách móc, nhắc con người về thái độ “vô tình” lạnh nhạt, thờ ơ của bản thân mình. Nhưng đồng thời thái độ “im phăng phắc” ấy của trăng cũng chất chứa cả lòng vị tha, bao dung và ấm áp của người bạn thuỷ chung, son sắt. Ối khi lòng người thay đổi nhưng trăng vẫn dõi theo người, vẫn âm thầm toả sáng và cứ mãi “tròn vành vạnh”.
Dòng thơ cuối cùng dồn nén bao nhiêu là xúc cảm về sự “giật mình” của con người. Nhưng sự im lặng của trăng đã làm cho con người phải “giật mình” tỉnh dậy, thì đó cũng là cái “giật mình” của nhân cách, của đạo đức, là lời sám hối chân thành để xoá đi lỗi lầm, để tâm hồn trở nên trong sáng và sống tốt hơn.
Lời thơ chuyển từ “vầng trăng tròn vành vạnh” sang hình ảnh “ánh trăng” chất chứa đầy ý nghĩa nhân văn: nếu vầng trăng tròn là để nhắc lại quá khứ thuỷ chung, tình nghĩa vẹn toàn thì “ánh trăng” còn muốn nói về vầng hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, của đạo lý đã xua đi những dấu vết của sự quên lãng, phản bội và làm con người tỉnh ngộ, tâm hồn trở nên trong sáng hơn, tốt đẹp hơn.
Vì thế, ánh trăng của Nguyễn Duy là một thứ vầng trăng mang đậm chất nhân văn và nhân bản sâu sắc. Nó trở thành một bài học không chỉ dành riêng cho những người lính mà có ý nghĩa với tất cả con người ở các thời đại để rồi sau chiến tranh, chính từng người trong số chúng ta sẽ phải tự vấn với bản thân mình, với quá khứ xem mình đã sống ra sao, thế nào. ..
Bài thơ kết hợp khéo léo, tự nhiên giữa đối thoại và tự sự, tạo nên thành một câu chuyện riêng, một lời tâm sự chân tình, một lời tự nhắc có giọng nhẹ nhàng mà sâu sắc. Kết cấu và giọng điệu làm nổi bật nội dung và tăng sức lan toả cho bài thơ.
Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa cô đọng, mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa và chất chứa chiều sâu suy tư, triết lý. Các câu liền mạch, không sử dụng dấu chấm, không viết hoa đầu dòng (ngoại trừ chữ cái đầu mỗi bài thơ) để thể hiện dòng tâm tư miên man, tha thiết và lắng đọng.
Tóm lại,thông qua bài thơ, người đọc thấy được nhiều ẩn ý sâu xa cùng những điều mang tính nhân văn sâu sắc mà nhà thơ muốn gửi tới người trẻ, đó là thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, sự thuỷ chung trong quá khứ.
Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy- Mẫu 29
Cuộc sống là những chuỗi biến động và thay đổi khiến con người không thể lường trước được. Khi chúng ta bị cuốn theo dòng chảy vô tận của cuộc sống mà vội vàng bỏ quên những kỷ niệm, những tình nghĩa nào cũng chưa xa trong quá khứ. Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ vĩ đại của dân tộc – cuộc chiến mà biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống vì sự độc lập của dân tộc, cuộc chiến mà trong nó chứa đựng bao nhiêu chiến công hiển hách, bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng, chúng ta thật xót xa khi phải chứng kiến thái độ thờ ơ, vô cảm của con người trước những mất mát tưởng chừng như không thể quên được. Văn học thời kì hiện đại nhận thức rõ điều đó. Nhiều tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh báo đầy bất ngờ và đau xót cho những con người đang loanh quanh trong nỗi lo cơm áo. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong số ấy.
Tác giả đặt tên cho bài thơ là Vầng trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình tượng ánh trăng – vầng trăng của thiên nhiên, của núi vàng và biển bạc. vầng trăng đó đã theo chân tác giả thuở còn thơ cho đến những năm tháng trưởng thành của tâm hồn con người với một vẻ đẹp dù hoang dã mà thanh cao. Cao hơn, con người cùng ánh trăng đã trở thành tri kỷ. Sợi dây gắn kết mối quan hệ ấy bền chặt, vắt qua bao biến chuyển của thời gian đến độ nhà thơ phải thốt lên:
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Cuộc đời không phải sự dài ngắn của ngày hôm nay và không phải lúc nào cũng thay đổi theo ý muốn của con người. Cái gì hôm qua ta nâng niu quý trọng bao nhiêu thì hôm nay nó sẽ trở thành dư thừa, vô dụng, trống rỗng, lạnh lẽo, . .. bấy nhiêu. Quá khứ có đẹp đến mấy cũng chỉ là quá khứ, Tần sẽ bị che lấp bởi những kế hoạch và dự định với biết bao khao khát mơ ước của cuộc sống thường nhật. Ở đây tác giả đã kể lên câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị quên lãng và bị che lấp bằng “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người, vầng trăng tri kỷ của những ngày chưa xa ấy, cay đắng thay, giờ đây cũng chỉ như “người dưng qua, đường”. Cái ngớ thân quen xưa nay trở nên lặng lẽ và lạ lẫm. Rồi ngay sau đó, nhà thơ đã tạo nên bước ngoặt của tác phẩm, khi mà tình huống bất ngờ “đèn điện tắt” diễn ra. Lúc ấy, con người đối diện với vầng trăng tròn đầy nghĩa tình trong quá khứ, để họ chợt nhận ra vẻ đẹp và giá trị nhân văn của những ngày xưa cũ đằng sau cái nhẹ nhàng, ấm áp của ánh trăng.
Trên cơ sở ấy, tác giả đã viết thành khổ thơ cuối cùng, khổ thơ mang đầy tính nhân văn sâu sắc của toàn bộ bài thơ:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Giọng thơ như một lời tâm sự, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả vận dụng rất khéo, cùng với nhịp điệu thơ liền mạch giàu tính nghệ thuật làm bật lên ý nghĩa của bài thơ. Nó không chỉ thể hiện nỗi đau của con người mà ẩn chứa bên trong bao điều nhà thơ muốn nói với cả xã hội đang xoay quanh vòng xoáy của những lo toan và tính toán.
Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và cũng càng không có tương lai! Tới những gì chúng ta đang có chỉ dựa trên kết quả của những điều đã qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm chỉ là kế thừa những việc cha ông mình và bản thân chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải tôn trọng và gìn giữ quá khứ mới có thể hướng về tương lai. Phải chăng đó chính là thông điệp mà tác giả Nguyễn Duy mong muốn gửi đến người đọc trong từng bài thơ?
Mục đích của nghệ thuật là chạm vào trái tim con người để làm thay đổi con người và xã hội theo hướng tốt hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng trong hình thức và nội dung, đã hoàn thành tốt sứ mệnh ấy. Khổ thơ cuối bài là chút “giật mình” của tác giả, chứa đựng trong đó những triết lý về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội này!
Trên đây là nội dung bài học Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy (29 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Cảm nhận, suy nghĩ của em về vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng (7 mẫu)
- Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng (8 mẫu)
- Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng (16 mẫu)
- Phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Ánh Trăng (11 mẫu)
- Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (15 mẫu)
- Cảm nhận bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (20 mẫu)
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)