Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích bao gồm hướng dẫn viết cùng 69 bài mẫu tham khảo do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho các em học sinh trau dồi thêm vốn từ, rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn ngắn ngày một hoàn thiện hơn.
Đề bài: Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích
Dàn ý Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích
1. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích (69 mẫu)
Giới thiệu đôi nét về tác phẩm, nhân vật cần phân tích. Nêu ngắn gọn những đặc điểm nổi bật của nhân vật.
2. Thân bài
– Giới thiệu hoàn cảnh xuất thân của nhân vật (nếu có): Tên, tuổi, quê hương…
– Phân tích những đặc điểm về ngoại hình và tính cách của nhân vật.
- Nêu lần lượt các đặc điểm thứ nhất, thứ hai… của nhân vật.
- Trích dẫn các chi tiết, câu văn trong bài liên quan đến đặc điểm đó của nhân vật; rồi dùng lí lẽ phân tích làm sáng tỏ.
– Đánh giá về nhân vật:
- Nhân vật đó đại diện cho tầng lớp xã hội nào?
- Qua nhân vật đó, tác giả muốn gửi gắm điều gì?
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật có gì đặc sắc?
3. Kết bài
Khẳng định lại những đặc điểm nổi bật của nhân vật. Đánh giá và suy nghĩ về nhân vật.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 1
Đã từ bao đời nay, hình ảnh người mẹ thường hiện hữu trong thơ ca. Mỗi nhà thơ khi viết về mẹ đều mang đến những nét riêng đầy xúc động. Nhiều người yêu thơ từng nhắc đến Mẹ và quả của Nguyễn Khoa Điềm, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy, Trở về với mẹ ta thôi của Đồng Đức Bốn… và trong những bài thơ hay viết về mẹ không thể không nhắc đến bài “Mẹ” của nhà thơ Đỗ Trung Lai. Bài thơ được in trong tập thơ Đêm sông Cầu, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân năm 2003.
Bài thơ “Mẹ” triển khai qua hai hình tượng sóng đôi: cau và mẹ, nhà thơ chọn một thứ cây rất gần gũi trong đời sống ở mỗi làng quê. Đã từ bao đời cây cau, quả cau cùng lá trầu trở thành một nét đẹp trong đời sống tinh thần người Việt. Hình ảnh quả cau, lá trầu xuất hiện trong mọi nghi lễ quan trọng của vòng đời con người từ khi sinh ra đời, cưới hỏi, lễ Tết đến sinh hoạt hằng ngày. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Xuyên suốt bài thơ, nhà thơ Đỗ Trung Lai đã khai thác thủ pháp nghệ thuật đối lập qua từng khổ thơ để đem đến cho người đọc những cảm nhận sự gần gũi giữa cau và mẹ:
“Lưng mẹ còng rồi
Cau thì vẫn thẳng
Cau – ngọn xanh rờn
Mẹ – đầu bạc trắng”.
Lời thơ ngỡ như lời nhận xét thông thường những đằng sau mỗi con chữ là bao đắng đót, xót xa khi nhận ra thời gian, nỗi vất vả cuộc đời đã hằn lên lưng còng, trên mái đầu bạc trắng của mẹ. Không cần nhiều lời chỉ qua hai hình ảnh lưng còng và mái đầu bạc trắng của mẹ mà gợi ra bao cảm nhận về công lao của mẹ, sự nhọc nhằn, đắng cay trong cuộc đời mẹ cho con khôn lớn, trưởng thành. Nhà thơ Trương Nam Hương khi viết về mẹ cũng có những câu đầy xúc động về tấm lưng còng của mẹ:
“Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến nôn nao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao”
(Trong lời mẹ hát).
Cùng với thời gian, cau ngày càng cao, mẹ ngày một thấp, dân gian có câu: “Gần đất xa trời” nhằm nói lên sự già nua, cái chết đang đến gần. Sự gần đất của mẹ theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng nghe bao nuối tiếc khi quỹ thời gian của mẹ không còn nhiều. Mẹ như ngọn đèn trước gió, như chuối chín cây, thời khắc con không còn mẹ đang đến ngày một gần:
“Cau ngày càng cao
Mẹ ngày một thấp
Cau gần với giời
Mẹ thì gần đất!”
Mỗi khổ trong bài thơ đều gắn với cau, hình ảnh người mẹ và miếng trầu bao đời đã trở nên quen thuộc. Ngày xưa, khi mẹ chưa già, quả cau bổ làm tư – vừa miếng với mẹ nhưng bây giờ quả cau bổ tám mẹ còn ngại to, ý niệm thời gian hiển hiện trong mỗi khổ của bài thơ, thời gian làm mẹ ngày một già đi, răng rụng dần nên miếng cau nhỏ nhưng vẫn khó khăn với mẹ.
Hình ảnh người mẹ được ví như miếng cau khô gầy, thời gian đã bào mòn tất cả, chỉ nay mai mẹ không còn trên thế gian nữa, nhà thơ không khỏi ứa nước mắt trước hình hài của mẹ.
Khổ kết với câu hỏi tu từ, người con thảng thốt nhận ra quỹ thời gian của mẹ không còn nhiều, không tránh khỏi quy luật cuộc đời và ngày con xa mẹ đang đến gần. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, chỉ có mây bay về xa như những nỗi niềm rưng rưng, dâng trào cảm xúc:
“Ngẩng hỏi giời vậy
– Sao mẹ ta già?
Không một lời đáp
Mây bay về xa.”
Bài thơ rất kiệm lời mà hàm chứa bao tình ý sâu xa, lời thơ dung dị, tự nhiên, không nhiều dụng công nghệ thuật nhưng vẫn gây xúc động người đọc bởi cảm xúc chân thành, chạm đến những gì thiêng liêng nhất của mỗi người, đó là tình mẫu tử.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 2
Nếu thơ Xuân Diệu có giọng điệu say đắm, rạo rực, thơ Hàn Mặc Tử có chút điên loạn, thơ Huy Cận có nỗi buồn ảo não thì thơ Vũ Đình Liên lại mang một giọng điệu hoài cổ. Mỗi người nghệ sĩ có phong cách thơ khác nhau, đây là nét riêng biệt để họ được phân biệt với các tác giả khác và cũng là ấn tượng riêng để bạn đọc nhớ đến họ. Tuy sáng tác không nhiều nhưng Vũ Đình Liên đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm giá trị, tiêu biểu là bài thơ “Ông đồ”.
Bài thơ được sáng tác năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây. Đây cũng là lúc các ông đồ không còn được trọng vọng do thời thế đã thay đổi. Nhan đề bài thơ gợi nhớ một nét đẹp đã lùi sâu vào dĩ vãng cùng sự tiếc thương vô cùng.
Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đắc ý, thời vàng son của ông. Như một sự tuần hoàn của chu kì thời gian, mỗi dịp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi những cánh đào hồng tươi khoe sắc thắm thì đó cũng là lúc ông đồ xuất hiện. Không gian làm việc của ông là bên phố. Ta hãy hình dung dưới những bông hoa đào cùng tiết trời se lạnh có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện và sự nhộn nhịp của bước chân người qua lại tạo nên một bức tranh thật tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy. Hoa đào và ông đồ đã song hành, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của thỏi mực, màu đỏ của giấy đã làm bức tranh thật sinh động.
Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà họ còn dành cho ông một lòng kính trọng. Ông đã phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa. Phải là một người am hiểu về Hán học, chữ Nho thì ông đồ mới có thể viết những nét chữ tài hoa đến như vậy. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” đã thể hiện được lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên cũng như của nhân dân ta dành cho ông đồ. Đây cũng là sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chơi chữ là một thú vui thể hiện cốt cách thanh cao của người thường thức nó. Đồng thời, người viết chữ cũng được xem như một nghệ sĩ tài ba bởi nét chữ thể hiện được cái tâm, cái chí của người sáng tạo. Không những viết đẹp mà ông còn viết nhanh, điều này thật đáng khâm phục. Những nét chữ uốn lượn một cách tài tình dưới đôi tay của một người có học thức khiến ai cũng muốn thuê ông viết cho câu đối đỏ. Có thể nói, thời đắc ý ông đồ vô cùng đông khách, người ta đến với ông vì sự thán phục những nét chữ phóng khoáng. Cả người viết chữ và người chơi chữ như có mối đồng cảm sâu sắc vì họ đều là người biết yêu và thường thức cái đẹp.
Nhưng khi thời thế thay đổi cũng là lúc ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều là thế nhưng nay họ đã đi đâu hết? Họ vẫn ở đó, vẫn xuất hiện trong cuộc sống thường nhật nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một. Tác giả đã miêu tả một khung cảnh quạnh hiu,vắng vẻ đến thê lương. Thời gian đã cuốn trôi đi những gì tươi đẹp của quá khứ khiến con người không khỏi xót xa, tiếc nuối. Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với bao đau đớn. Thực tại thú chơi chữ đã không còn được ưa chuộng, người chơi chữ, mua chữ cũng ít dần đi theo năm tháng. Nỗi buồn đã nhuốm sang cả cảnh vật, sang cả những gì vô tri vô giác. Giấy đỏ cũng biết buồn nên đã chẳng còn thắm, màu giấy đã phôi phai đi rồi nhạt dần, thỏi mực đã mài nhưng không được dùng đến nay cũng đọng lại trong nghiên. Biện pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ.
Nền Hán học đã suy tàn nhưng với mong muốn lưu giữ lại những giá trị văn hóa mà ông đồ già vẫn kiên trì ngồi bên hè phố như bao năm trước:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”
Nhưng sự xuất hiện của ông không được mọi người chú ý, quan tâm như thời vàng son. Bóng dáng ông cứ lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố mà không một ai hay biết. Hình ảnh ông đồ đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh ấy chỉ là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Sự tàn phai, úa rụng được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng cùng không khí lạnh lẽo của làn mưa bụi lất phất đã bao trùm lên toàn bộ khung cảnh khiến cảnh vật nhuốm màu sắc tâm trạng. Mọi người đã gạt ông đồ ra khỏi trí nhớ và kí ức, họ coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời.
Vũ Đình Liên đã bộc lộ nỗi xót xa, niềm hoài cổ của mình qua khổ thơ cuối:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ đã thực sự vắng bóng, đào vẫn khoe sắc hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên nhưng ta không còn thấy sự xuất hiện của ông đồ nữa. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta không khỏi thương tiếc cho một giá trị tinh thần đã không còn tồn tại. Những con người trước đây từng thuê ông đồ viết câu đối, những người từng tôn trọng ông đồ nay đã hoàn toàn thay đổi. Họ bận thích nghi với nền văn hóa mới từ Tây phương nên tâm hồn họ cũng không còn chỗ cho những tinh túy của văn hóa truyền thống. Câu hỏi tu từ vang lên ở cuối bài đọng lại bao sự cảm thương, hối tiếc cho những gì đã mất.
Bằng việc sử dụng hình ảnh hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh trái ngược của ông đồ ở thời kì vàng son và ông đồ khi thất thế. Thể thơ năm chữ đã giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách dễ dàng. “Ông đồ” là sự hoài niệm về những giá trị xưa cũ, bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 3
“Buổi học cuối cùng’ của tác giả An-phông-xơ Đô-đê như một tự truyện của chú bé Phrang vùng An-dát. Những lời tâm sự, suy nghĩ hồn nhiên, ngây thơ nhưng vô cùng xúc động của chú bé từ lúc rời khỏi nhà để đi đến lớp học, và những gì diễn ra trong buổi học Pháp văn cuối cùng để lại dấu ấn, dư âm sâu đậm trong lòng người đọc.
Câu chuyện mở đầu bằng buổi sáng trễ giờ học của chú bé Phrang. Bầu trời trong trẻo, những tiếng sáo hót véo von như có một mãnh lực ghê gớm khiến chú bé muốn bỏ trốn buổi học ngày hôm nay. Nhưng chú bé đã cưỡng lại được và một mạch chạy đến trường. Khi đi qua trụ sở xã, mọi người tụ tập rất đông với bầu không khí đầy căng thẳng, họ đứng ở bảng dán cáo thị – nơi thường đăng những tin chẳng lành: thất trận, trưng thu, các mệnh lệnh của chỉ huy Đức,… Là một cậu bé nhanh nhạy, hiểu biết nên ngay lập tức Phrang đã tự hỏi: “Lại có chuyện gì nữa đây?” . Cùng với đó là câu nhắc nhở của bác phó rèn khiến cho Phrang càng lo lắng hơn.
Không khí trường học thay đổi đến kì lạ, với tâm hồn của một chú bé nhạy cảm Phrang dễ dàng nhận ra những dấu hiệu ấy: nếu thông thường buổi học là những“tiếng ồn ào như chợ vỡ vang ra tận ngoài phố” “tiếng ngăn bàn đóng mở” ,… thì hôm nay tất cả chỉ là sự vắng lặng đến phát sợ, ai nấy đều đã ngồi vào chỗ. Và điều đặc biệt hơn, thầy Ha-men đối xử ân cần với Phrang thay vì giận dữ khi cậu bé đi học muộn: “Phrang, vào chỗ nhanh lên con, lớp học sắp bắt đầu mà không có con” . Thầy Ha-men ăn vận thật đẹp đẽ, sang trọng, thầy mặc bộ quần áo chỉ dành cho những dịp quan trọng: chiếc áo rơ-đanh-gốt, màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu, cùng với đó là sự xuất hiện của những người lớn tuổi. Không khí của lớp học trở nên trang trọng, khác thường. Khi buổi học bắt đầu, thầy Ha-men bằng giọng dịu dàng đã thông báo đây là buổi học Pháp văn cuối cùng, và niềm mong mỏi lớn nhất của thầy đó là: “Thầy mong các con hết sức chú ý” . Từng lời nói của thầy như nghèn nghẹn lại nơi cổ họng, bởi từ nay về sau công dân nước Pháp sẽ không còn được học tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Nghe những điều thầy thông báo Phrang choáng váng và hiểu ngay ra vì sao lại có không khí trang trọng của buổi học ngày hôm nay. Trước nỗi xúc động tột cùng, cậu bé đã không kìm được cảm xúc mà bật lên tiếng nguyền rủa: A! Quân khốn nạn… lời nói ấy không còn là của một chú bé ngây thơ, mà đó là lời của một con người yêu nước. Sau giây phút ấy chú bé đã vô cùng hối hận vì đã trốn học, lãng phí thời gian, chú quên cả những lời thầy mắng mỏ khi không thuộc bài. Những lời thầy Ha-men nói như chạm vào tâm can mỗi người: thói thờ ơ không học tiếng Pháp của học trò, phụ huynh và thầy tự phê bình chính bản thân mình đã lơ là việc dạy trong những năm tháng qua. Những lời bộc bạch của thầy cho thấy thầy Ha-men là người có tình yêu sâu sắc với nghề nghiệp, có ý thức công dân và tinh thần yêu nước nồng nàn. Cảm xúc chân thành của thầy đã tác động đến mọi người xung quanh trong đó có cả Phrang.
Buổi học cuối cùng ai nấy đều chú ý lắng nghe, như nuốt từng lời thầy giảng, không khí tập trung ấy khiến ai cũng nghẹn ngào: “Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này” , khắc ghi lời thầy dặn: “tiếng Pháp là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ được tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”. Và xúc động hơn nữa trong những giờ phút cuối cùng của buổi học thầy Ha-men đã viết lên bảng dòng chữ: Nước Pháp muôn năm và ra hiệu cho mọi người kết thúc buổi học. Hành động của thầy vừa cho thấy lòng yêu nước nồng nàn vừa đượm buồn, đồng thời như lời thúc giục mọi người hãy lên đường đấu tranh, đem tiếng Pháp trở lại.
Tác phẩm được viết ở ngôi thứ nhất qua những suy nghĩ, cảm nhận của chú bé Phrang làm cho câu chuyện trở nên chân thật, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ dung dị nhưng sâu sắc, giàu sức biểu cảm đã thể hiện trọn vẹn tình yêu nước của các nhân vật.
Bằng cách diễn đạt giản dị nhưng lôi cuốn, truyện Buổi học cuối cùng đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa muôn đời đó chính là lòng yêu nước gắn liền với tình yêu tiếng mẹ đẻ. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh chân lí: giáo dục lòng yêu nước từ những gì bình dị, nhỏ bé nhất.Tiếng mẹ đẻ gần gũi, dung dị, đó cũng chính là hồn cốt và tiếng nói của tinh thần dân tộc.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 4
Xuân Quỳnh (1942-1988) nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ như Thuyền và biển; Sóng; Tiếng gà trưa… biểu lộ một hồn thơ nồng nàn, đằm thắm dào dạt thương yêu. Bà thường viết về những gì bình dị gần gũi trong đời sống thường ngày. Thơ của bà thường có giọng điệu sôi nổi trẻ trung mạnh bạo và giàu chất trữ tình. “Tiếng gà trưa” được viết vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ thể hiện tình yêu thương tổ quốc, quê hương trong đó sâu lặng và thắm thiết là tình bà cháu.
“Tiếng gà trưa” đuợc viết theo thể thơ 5 chữ có sự biến đổi linh hoạt. Cách gieo vần liền ở những câu 2, 3 xen kẽ là vần dãn cách. Thể thơ này thích hợp kể lại kí ức và kỉ niệm. Bài thơ được mở đầu bằng tiếng gà Cục.. .cục tác cục ta vang lên xao động tâm hồn người chiến sỹ trên đường hành quân ra chiến trường đánh giặc:
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Tiếng gà cục tác buổi trưa để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người chiến sĩ nó gắn với kỉ niệm sâu sắc tuổi ấu thơ, chính vì vậy trong vô vàn âm thanh của làng quê, người chiến sĩ nghe thấy rõ nhất là tiếng gà cục tác. Vào một buổi trưa hè tại một làng quê vắng vẻ, trên đường hành quân người chiến sĩ được tiếp sức từ tiếng gà trưa.
“Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”.
Điệp từ “nghe” được đặt ở 3 câu đầu liên tiếp để nhấn mạnh giàu cảm xúc mà tiếng gà trưa đem lại: Với lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, lấy thính giác thay cho thị giác. Tiếng gà trưa đã làm xao động cả không gian làm xao động cả lòng người. Tiếng gà trưa làm thức dậy cả những kỉ niệm tuổi thơ. Cách hiểu nghĩa của cả hai câu thơ “Nghe xao động nắng trưa”, “Nghe gọi về tuổi thơ” thiên về nghĩa bóng thì câu thơ “Nghe bàn chân đỡ mỏi” thì thiên về nghĩa đen. Cách đảo trật tự ở các câu không giống nhau làm cho âm điệu các câu thơ thay đổi, tránh được sự nhàm chán và diễn tả sự bồi hồi xao xuyến của tâm hồn. Tiếng gà trưa được cảm nhận từ nhiều giác quan bằng cả tâm hồn.
Những câu thơ mở đầu không có ẩn ý hoàn toàn giản dị như một bài đồng dao nhưng nó làm cho lòng người đọc nhẹ lại vì sự trong trắng sinh động và thân thiết. Những kỉ niệm tuổi thơ sau mỗi câu thơ “Tiếng gà trưa” lại gợi lên kỉ niệm:
“Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái tơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng”.
Sau một câu kể là một câu tả, câu tả có kết cấu sóng đôi và lặp lại từ “Này” là từ dùng để chỉ và lưu ý người nghe tưởng tượng. Các tính từ “hồng”, “trắng”, “óng” đều là gam màu tươi sáng gợi lên bức tranh đàn gà lộng lẫy tác giả còn sử dụng biện pháp so sánh “Lông óng như màu nắng” gợi lên vẻ đẹp rực rỡ.
Tác giả tạo ra điều bất ngờ trong bài thơ không miêu tả tiếng gà trưa mà nói đến sự xuất hiện bất ngờ “ổ rơm hồng những trứng” đó là phép lạ mà tiếng gà trưa đem lại.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 5
Thạch Lam thường viết “những truyện không có chuyện”, chủ yếu là khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Một trong những tác phẩm của ông là truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật Sơn.
Truyện được in trong tập truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” (NXB Đời nay, 1937). Sơn là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, được nhà văn xây dựng để gửi gắm những tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Mở đầu truyện, Thạch Lam đã có những câu văn miêu tả tinh tế về sự thay đổi của thời tiết. Từ đó, nhân vật Sơn xuất hiện với những suy nghĩ, hành động hồn nhiên của một đứa trẻ. Cậu tung chăn tỉnh dậy, cậu thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Mọi người đều “đã mặc áo rét cả rồi”. Ở ngoài sân “Gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Bầu trời không u ám, toàn một màu trắng đục”. Những cây lan trong chậu “lá rung động và hình như sắt lại vì rét”. Nhân vật Sơn thức giấc và cảm nhận được cái lạnh, cậu vơ vội cái chăn trùm lên đầu rồi gọi chị Lan. Sau đó, Sơn được mẹ mặc cho một chiếc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Qua cách giới thiệu này, có thể thấy Sơn được sinh ra trong một gia đình khá giá, nhận được tình yêu thương của mọi người xung quanh.
Sống trong sự chăm sóc của mẹ và chị, nhưng Sơn không kiêu ngạo và xa cách. Cậu sống rất giàu tình cảm, biết yêu thương mọi người xung quanh. Điều đó được thể hiện qua tình cảm với người em gái đã mất. Khi mọi người nhắc đến Duyên – đứa em gái đáng thương của Sơn đã mất năm lên bốn tuổi. Người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”. Sơn cũng cảm thấy “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu xúc động khi thấy mẹ “hơi rơm rớm nước mắt”. Những suy nghĩ, cảm xúc ấy cho thấy Sơn là một cậu bé nhạy cảm, giàu lòng thương người. Hay như cách cư xử của Sơn với bọn trẻ con trong xóm – Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc – những đứa trẻ em nghèo khổ vẫn phải mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Đặc biệt nhất là hành động của Sơn đối với bé Hiên. Khi thấy Hiên đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Sơn cảm thấy thương xót cho con bé. Sơn chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt thoáng qua trong tâm trí Sơn – đó là đem chiếc áo bông cũ của em Duyên cho Hiên. Nghĩ vậy, cậu đã nói với chị gái của mình, nhận được sự đồng tình của chị. Chị Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Còn Sơn thì đứng yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Cảm xúc ấy cho thấy ý nghĩa của sự chia sẻ đem đến sự hạnh phúc cho cả người nhận và người cho. Có thể thấy rằng, nhân vật Sơn tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã giàu lòng yêu thương.
Qua nhân vật này, nhà văn đã gửi gắm bài học về tình yêu thương, cũng như tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ và đồng cảm của con người trong cuộc sống.
Như vậy, nhà văn Thạch Lam đã xây dựng truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” nhẹ nhàng mà thật sâu sắc. Cả tác phẩm thấm thía tình yêu thương giữa con người.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 6
Trong “Gió lạnh đầu mùa”, nhân vật Sơn đã được nhà văn khắc họa để gửi gắm những tư tưởng, tình cảm của mình.
Trong truyện, Sơn được khắc họa chủ yếu qua phương diện ngôn ngữ, hành động để từ đó làm nổi bật đặc điểm về tính cách. Thạch Lam ít miêu tả những nét về ngoại hình của nhân vật này. Mở đầu truyện, Sơn xuất hiện với hành động “tung chăn tỉnh dậy, cậu thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống”. Cậu cũng được mẹ mặc cho một chiếc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Những chi tiết cho thấy rằng Sơn được sinh ra trong một gia đình khá giả, cậu luôn nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc của mọi người trong gia đình.
Sơn hiện lên là một cậu bé sống tình cảm, nhân hậu. Nghe đến Duyên – đứa em gái đáng thương của Sơn đã mất năm lên bốn tuổi. Khi nhìn thấy người vú giá “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”, Sơn cảm thấy “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu còn xúc động khi thấy mẹ “hơi rơm rớm nước mắt”. Sơn luôn tỏ ra thân thiện và chơi cùng với bọn trẻ con trong xóm – Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc – những đứa trẻ em nghèo ở xóm trợ.
Nhưng cảm động nhất là hành động của Sơn khi thấy Hiên – cô bé hàng xóm không có áo ấm để mặc. Khi thấy Hiên đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”, Sơn chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt thoáng qua trong tâm trí Sơn – đó là đem chiếc áo bông cũ của em Duyên cho Hiên. Nghĩ vậy, cậu đã nói với chị gái của mình, nhận được sự đồng tình của chị. Chị Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Còn Sơn thì đứng yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Truyện mang giọng văn nhẹ nhàng mà sâu sắc, nhân vật Sơn được hiện lên đầy sinh động.
Qua nhân vật Sơn, nhà văn đã gửi gắm bài học giá trị về tình yêu thương con người trong cuộc sống.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 7
Nguyễn Ngọc Thuần là một cây bút chuyên sáng tác cho trẻ em. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là Vừa nhắm mắt, vừa mở cửa sổ. Nổi bật trong truyện là nhân vật người bố được khắc họa vô cùng chân thực, sinh động.
Qua những câu văn đầu tiên, người bố hiện lên với tình yêu thiên nhiên. Nhà của “tôi” có một khu vườn rất rộng. Người bố đã trồng rất nhiều hoa. Buổi chiều ra đồng về, bố thường dắt tôi ra vườn tưới nước cho cây. Tình yêu của người bố dành cho khu vườn cũng giống như dành cho đứa con.
Bên cạnh đó, nhân vật này còn là một một người tinh tế, kiên nhẫn. Sau một ngày làm việc mệt mỏi, người bố vẫn dành thời gian để trò chuyện và chia sẻ với đứa con của mình. Bố đã nghĩ ra những trò chơi thú vị để dạy con cách cảm nhận thiên nhiên. Ông đã bảo con nhắm mắt lại, sau đó dẫn cậu đi đến để chạm từng bông hoa một rồi đoán xem đó là hoa gì. Từ trải nghiệm đó, đứa con đã nhận ra được bài học ý nghĩa về sự yêu thương và biết ơn trong cuộc sống. Sau đó, người bố lại nghĩ ra một trò chơi khác, thay vì chạm thì bây giờ con sẽ chỉ được ngửi rồi gọi tên. Khi đã thuần thục, bố khen cậu là người có chiếc mũi tuyệt nhất thế giới. Lúc đó, nhân vật tôi cũng nhận ra rằng chính những bông hoa là người đưa đường, dẫn lối cho cậu trong khu vườn.
Không chỉ vậy, người bố còn rất nhân hậu, giàu tình yêu thương. Chính bố đã cứu thằng Tí thoát chết. Với những món quà của Tí, bố đã đón nhận bằng một niềm trân trọng và nâng niu. Mặc dù rất ít khi ăn ổi nhưng vì đó là món quà của Tý nên bố đã vui vẻ thưởng thức nó. Khi nhận được câu hỏi thắc mắc của “tôi”, bố đã giải thích cho tôi hiểu về ý nghĩa của những món quà: “Một món quà bao giờ cũng đẹp. Khi ta nhận hay cho một món quà, ta cũng đẹp lây vì món quà đó…”.
Có thể thấy, nhân vật người bố trong “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” là một người cha tuyệt vời, một tấm gương đáng để học theo.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 8
Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng thuộc khuynh hướng văn học lãng mạn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa. Nổi bật trong truyện là nhân vật Sơn.
Sơn được nhà văn khắc họa chủ yếu qua các phương diện lời nói, hành động, suy nghĩ và cảm xúc. Mở đầu truyện, nhà văn đã miêu tả thật tinh tế. Mùa đông đến không báo trước. Mẹ và chị đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Mọi người trong gia đều đã mặc áo rét. Nhân vật Sơn xuất hiện ngay từ đầu với hành động tung chăn tỉnh dậy, nhưng không bước xuống giường như mọi khi mà ngồi thu tay vào trong bọc. Cậu cảm nhận được cái lạnh, vộ i vơ cái chăn trùm lên đầu rồi gọi chị Lan. Cậu được mẹ mặc cho một chiếc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Qua đoạn mở đầu, nhân vật Sơn được khắc họa là một cậu bé, sống trong một gia đình khá giả. Cậu đã nhận được sự yêu thương và sự chăm sóc của người thân xung quanh.
Dù gia đình có khá giả, được sống trong sự đầy đủ và tình yêu thương, nhưng Sơn không kiêu ngạo và xa cách. Cậu lại rất giàu tình cảm, biết yêu thương mọi người xung quanh. Điều đó được thể hiện qua tình cảm với người em gái đã mất. Khi mọi người nhắc đến Duyên – đứa em gái đáng thương của Sơn đã mất năm lên bốn tuổi. Người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”. Sơn cũng cảm thấy “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu xúc động khi thấy mẹ “hơi rơm rớm nước mắt”. Những suy nghĩ, cảm xúc ấy cho thấy Sơn là một cậu bé nhạy cảm, giàu lòng thương người. Hay như cách cư xử của Sơn với bọn trẻ con trong xóm – Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc – những đứa trẻ em nghèo khổ vẫn phải mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Đặc biệt là hành động cao cả của Sơn đối với bé Hiên. Khi thấy Hiên đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Sơn cảm thấy thương xót cho con bé. Sơn chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt thoáng qua trong tâm trí Sơn – đó là đem chiếc áo bông cũ của em Duyên cho Hiên. Nghĩ vậy, cậu đã nói với chị gái của mình, nhận được sự đồng tình của chị. Chị Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Còn Sơn thì đứng yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Cảm xúc ấy cho thấy ý nghĩa của sự chia sẻ đem đến sự hạnh phúc cho cả người nhận và người cho. Nhân vật Sơn tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã giàu lòng yêu thương.
Nhân vật Sơn được khắc họa qua ngôn ngữ, hành động và suy nghĩ. Việc sử dụng ngôn từ giản dị cùng giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng, nhân vật Sơn hiện lên đầy sinh động, chân thực.
Qua nhân vật Sơn, nhà văn Thạch Lam muốn gửi gắm bài học về tình yêu thương, sự thấu hiểu và chia sẻ trong cuộc sống.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 9
“Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” của Nguyễn Ngọc Thuần là một câu chuyện giàu ý nghĩa. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật người bố.
Đầu tiên, người bố hiện lên là một con người yêu thiên nhiên. Khu vườn bố trồng rất nhiều hoa. Bố dành tình yêu cho khu vườn cũng giống như dành cho con vậy. Vào mỗi buổi chiều ra đồng về, người bố thường dẫn nhân vân “tôi” ra vườn, hai bố con thi nhau tưới nước cho cây cối. Sau đó, người bố còn nghĩ ra những trò chơi để đứa con dành thời gian trải nghiệm. Những trò chơi của bố cho thấy sự tỉ mỉ, kiên nhẫn của nhân vật này. Người bố yêu cầu con nhắm mắt lại, dắt con đến chạm hoặc sau đó là ngửi từng bông hoa và đoán tên của chúng. Qua mỗi trò chơi, người bố cũng dạy cho nhân vật “tôi” biết cách yêu thương, lắng nghe và thấu hiểu thiên nhiên, cũng như trân trọng mọi thứ xung quanh.
Không chỉ vậy, người bố còn là tốt bụng, giàu tình yêu thương. Một lần, cả nhà đang ăn cơm thì nghe thấy tiếng la hét lớn. “Tôi” đã đoán được hướng của tiếng hét, mẹ nhận ra hướng đó là ở phía bờ sông. Thế rồi, bố đã quăng chén cơm, bằng qua vườn chạy ra và cứu được thằng Tí. Khi thằng Tí đem những trái ổi đến tặng bố: “Trái ổi to được lựa để dành cho bố đều có bịch ni lông bọc lại đàng hoàng. Những trái ổi vừa to vừa mềm, cắn vài rất đã”. Vậy nên mặc dù người bố rất ít khi ăn ổi nhưng vì đó là món quà của Tý nên bố đã thưởng thức nó. Điều đó khiến “tôi” cảm thấy thắc mắc và người bố đã ân cần giải thích cho “tôi” hiểu được giá trị của những món quà. Có thể thấy rằng, nhân vật người bố giống như một tấm gương để đứa con noi theo, cũng là để mỗi người bạn đọc tự soi chiếu lại chính mình.
Như vậy, nhân vật người bố được khắc họa trong tác phẩm mang những phẩm chất tốt đẹp, giúp cho đứa con học tập được nhiều bài học quý giá.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 10
“Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” của nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần là một câu chuyện đơn giản nhưng đem đến cho người đọc bài học sâu sắc trong cuộc sống. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật người bố.
Nhân vật này đã được nhà văn khắc họa chủ yếu qua ngôn ngữ, hành động để từ đó bộc lộ về tính cách. Người bố là một con người giàu tình yêu thiên nhiên. Điều đó thể hiện qua khu vườn trong nhà luôn được chăm sóc cẩn thận. Mỗi mùa, cây cối trong vườn đều tươi tốt, muôn loài hoa khoe sắc. Không chỉ vậy, người bố hiện lên là một một người kiên nhẫn, cẩn thận. Sau quãng thời gian làm việc mệt mỏi, người bố vẫn dành để trò chuyện và chia sẻ với đứa con của mình. Bố đã nghĩ ra những trò chơi thú vị để dạy con cách cảm nhận thiên nhiên. Bố đã bảo con nhắm mắt lại, sau đó dẫn cậu đi đến để chạm từng bông hoa một rồi đoán xem đó là hoa gì. Từ trải nghiệm đó, đứa con đã nhận ra được bài học ý nghĩa về sự yêu thương và biết ơn trong cuộc sống. Sau đó, người bố lại nghĩ ra một trò chơi khác, thay vì chạm thì bây giờ con chỉ được ngửi rồi gọi tên. Khi đã thuần thục, bố khen cậu là người có chiếc mũi tuyệt nhất thế giới. Lúc này, đứa con cũng nhận ra rằng chính những bông hoa là người đưa đường, dẫn lối cho cậu trong khu vườn. Với những trò chơi của mình, người bố đã dạy cậu cách yêu thương, quan tâm dù chỉ là đóa hoa, ngọn cỏ.
Không chỉ vậy, người bố cũng là một người giàu tình yêu thương. Một lần, cả nhà đang ăn cơm thì mọi người nghe thấy tiếng hét. “Tôi” đã đoán ra được tiếng hét phát ra ở hướng nào, mẹ nói đó là ở bờ sông. Bố quăng chén cơm băng vườn chạy ra, cứu được thằng Tí. Từ đó, thằng Tí thường hay đem đến biếu bố những trái ổi to. Dù ít khi ăn ổi, nhưng bố vẫn nhận lấy và vui vẻ ăn. Khi “tôi” thắc mắc về điều đó và hỏi bố. Người bố đã đã giải thích cho cậu nghe ý nghĩa của món quà. Đó là sự trân trọng của bố với món quà được nhận. Từ đó, người bố đã giúp “tôi” nhận ra bài học giá trị của những món quà.
Nhân vật người bố chính là một tấm gương đáng để học theo. Em cảm thấy rất yêu thích và kính trọng nhân vật này.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 11
Nguyễn Quang Thiều là một nhà văn có nhiều sáng tác viết cho thiếu nhi. Một trong số đó là truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi”. Nổi bật trong truyện là nhân vật Mon – một cậu bé tốt bụng.
“Bầy chim chìa vôi” xoay quanh câu chuyện của hai nhân vật là Mon và Mên. Khoảng hai giờ sáng, Mon tỉnh giấc, rồi quay sang gọi Mên. Cậu cảm thấy lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ở ngoài bãi sông. Mưa lớn khiến tổ chim chìa vôi ở dải cát giữa sông dần bị nhấn chìm. Sau một lúc trò chuyện, cả hai quyết định sẽ ra đưa bầy chim vào bờ. Từ chiều qua, nước đã dâng lên nhanh hơn. Nước dâng lên đến đâu, chim bố và chim mẹ lại dẫn bầy con tránh nước đến đó. Cứ thế, chúng tiến đến phần cao nhất của dải cát. Đến sáng, bầy chim đã bứt khỏi dòng nước, bay lên cao. Tấm thân của nó vụt ra khỏi mặt nước, bay cao hơn hẳn lần cất cánh đầu tiên. Chứng kiến cảnh đó, Mon và Mên đều cảm thấy hạnh phúc, sung sướng.
Dù chỉ là một đứa trẻ, nhưng Mon đã có suy nghĩ, lo lắng cho đàn chim chìa vôi làm tổ ở ngoài sông. Mon lo lắng những chú chim có thể bị nước sông cuốn trôi. Cậu liên tục đặt câu hỏi cho anh trai: “Anh bảo mưa to không?”, “Nước sông lên có to không?”, “Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đấy không?”. Dù cậu đã tự nghĩ đến những chuyện vui khác, nhưng vẫn nghĩ đến bầy chim: “Những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”.
Điều đó khiến Mon đưa ra đề xuất với anh trai: “Hay mình mang chúng nó vào bờ?” và rồi cậu quả quyết: “Mình phải đem chúng nó vào bờ, anh ạ”. Thế rồi, Mon và Mên cùng nhau ra ngoài bờ sông để Khi nhìn thấy bầy chim đã an toàn, Mon đã khóc khi nhìn thấy bầy chim chìa vôi có thể cất cánh bay lên, đó là giọt nước mắt của hạnh phúc và niềm vui. Mon hiện lên là một cậu bé nhân hậu, giàu tình yêu thương động vật.
Với nhân vật Mon, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được bài học về lòng nhân hậu, cùng với tình yêu thiên nhiên.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 12
Bầy chim chìa vôi là một tác phẩm của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Nhân vật chính trong truyện là Mon – một cậu bé nhân hậu, giàu tình tinh yêu.
Nội dung của truyện kể về việc Mon tỉnh giấc, rồi quay sang gọi Mên. Mon lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ở ngoài bờ sông. Mưa lớn khiến tổ chim chìa vôi ở dải cát giữa sông bị nhấn chìm. Sau một lúc trò chuyện, cả hai quyết định sẽ ra bờ sông để đưa những chú chim vào bờ. Từ chiều qua, nước đã dâng lên nhanh hơn. Nước dâng lên đến đâu, chim bố và chim mẹ lại dẫn bầy con tránh nước đến đó. Cứ thế, chúng tiến đến phần cao nhất của dải cát. Đến sáng, bầy chim đã bứt khỏi dòng nước, bay lên cao. Tấm thân của nó vụt ra khỏi mặt nước, bay cao hơn hẳn lần cất cánh đầu tiên. Chứng kiến cảnh đó, Mon và Mên đều cảm thấy hạnh phúc, sung sướng.
Có thể thấy, dù còn nhỏ tuổi, nhưng Mon lại rất hiểu chuyện. Cậu biết suy nghĩ, lo lắng cho đàn chim chìa vôi làm tổ ở ngoài sông. Mon lo lắng những chú chim có thể bị nước sông cuốn trôi. Những câu hỏi của Mon dành cho anh trai đã thể hiện được điều đó: “Anh bảo mưa to không?”, “Nước sông lên có to không?”, “Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đấy không?”. Dù cậu đã tự nghĩ đến những chuyện vui khác, nhưng vẫn nghĩ đến bầy chim: “Những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”.
Điều này cũng xuất phát từ tình yêu thương các loài động vật của cậu bé Mon. Cậu đã đề nghị anh Mên: “Hay mình mang chúng nó vào bờ?” và rồi cậu quả quyết: “Mình phải đem chúng nó vào bờ, anh ạ”. Thế rồi, Mon và Mên cùng nhau ra ngoài bờ sông để Khi nhìn thấy bầy chim đã an toàn, Mon đã khóc khi nhìn thấy bầy chim chìa vôi có thể cất cánh bay lên, đó là giọt nước mắt của hạnh phúc và niềm vui.
Tác giả đã thông qua lời nói và hành động cụ thể để làm nổi bật nét đặc điểm, tình cách của nhân vật Mon. Ngoài ra ngôn từ trong sáng, hình ảnh gần gũi, quen thuộc cũng góp phần miêu tả cậu bé một cách chân thực, sinh động.
Như vậy, qua nhân vật Mon, tác giả đã gửi gắm thông điệp ý nghĩa, giá trị đến người đọc. Đó chính là bài học về tình yêu thương và trân trọng thiên nhiên.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 13
Nguyễn Quang Thiều là một nhà văn nổi tiếng, với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó có truyện ngắn Bầy chim chìa vôi. Trong truyện, nhân vật Mon được khắc họa là một cậu bé giàu tình yêu thương.
Truyện kể về cuộc trò chuyện của hai anh em Mon và Mên. Gần hai giờ sáng, Mon tỉnh dậy. Cơn mưa lớn khiến nước sông dâng nhanh. Cậu lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ở ngoài bãi sông. Sau một hồi trò chuyện, Mon đã đề nghị với Mên sẽ chèo đò ra sông vào giữa đêm để cứu giúp, mang bầy chim non vào bờ. Khi đến nơi, cả hai nhìn thấy những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước bay lên, tạo nên một dòng cảm xúc khó tả, cảm động bất ngờ trong lòng hai bạn nhỏ.
Nhân vật Mon hiện lên là một cậu bé tốt bụng. Vì lo cho đàn chim chìa vôi, cậu không thể ngủ ngon giấc. Mon tỉnh dậy lúc hai giờ sáng, rồi đánh thức anh trai là Mên đang nằm bên cạnh dậy. Cậu liên tiếp hỏi Mên những câu hỏi như: “Anh bảo mưa to không?”, “Nước sông lên có to không?”, “Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đấy không?”. Liên tục những câu hỏi lặp lại cho thấy sự lo lắng của Mon. Cuối cùng, cậu nói với anh trai: “Em sợ những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”. Dường như vì quá lo lắng, Mon còn hỏi Mên rằng tại sao những chú chim chìa vôi lại làm tổ trên bãi cát giữa sông. Tại sao chúng không lựa một nơi an toàn, cao và khô ráo hơn, để chúng an toàn trong đêm mưa bão.
Mặc dù Mon đã nằm xuống, cố gắng để ngủ lại, nhưng cậu vẫn không thể ngủ được, bèn thủ thỉ với anh mình, ngập ngừng gọi “Anh ơi…” rồi đưa ra quyết định rằng “mình phải đem chúng vào bờ, anh ạ”. Có thể thấy, đây là một quyết định rất quả quyết, thể hiện Mon là một cậu bé mạnh mẽ, quá quyết, không thể bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm nước sông đang lên, từ những lo lắng đã biến thành quyết định. Quyết định đi cứu những chú chim non không đến từ người anh trai là Mên mà lại đến từ chính Mon.
Như vậy, qua nhân vật Mon, tác giả đã gửi gắm thông điệp sâu sắc về tình yêu thương, trân trọng dành cho loài vật.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 14
Người thầy đầu tiên là một tác phẩm nổi tiếng của Ai-tơ-ma-tốp. Trong đó, nhân vật thầy Đuy-sen được nhà văn khắc họa hiện lên đầy chân thực và sinh động.
Nhân vật “tôi” nhận được bức thư của dân làng mời về dự lễ khánh thành ngôi trường mới do nông trường xây dựng. Trong số những người được mờ có cả bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va. Sau khi trở về Mát-xcơ-va, nhân vật tôi đã nhận được thư của bà viện sĩ. Trong thư, bà kể về tuổi thơ bất hạnh và về người thầy đầu tiên của mình. An-tư-nai mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Cô phải sống với chú thím, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tình cảm. Thầy Đuy-sen đã giúp đỡ để An-tư-nai có thể đi học.
Trong kí ức của An-tư-nai, thầy Đuy-sen là một người có tấm lòng nhân hậu, bao dung và giàu tình yêu thương. Thầy là người đã giúp các em học sinh có một ngôi trường để đến học. Chính thầy cũng đã khơi dậy khao khát được đi học của các em: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi…?”; Thầy còn an ủi khi biết được hoàn cảnh của An-tư-nai: “An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Khi thấy học sinh phải lội qua suối giữa mùa đông lạnh giá, thầy đã bế hoặc cõng các em qua suối. Học sinh trong làng đều rất yêu mến thầy Đuy-sen. Riêng An-tư-nai lại thầm ước có một người anh trai như thầy. Câu chuyện của bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va đã thôi thúc nhân vật tôi vẽ một bức tranh về “Người thầy đầu tiên”.
Dưới lời kể của “tôi”, thầy Đuy-sen hiện lên là một người hết lòng vì học trò. Khi thấy học trò phải mang những bao ki-giắc, thầy đã động viên, an ủi. Lời nói quan tâm ấy như xua đi bao mệt nhọc cùng sự giá lạnh của trời đông. Trước hành động của bọn nhà giàu sống trên núi, thầy Đuy-sen không hề tỏ ra tức giận, mà thầy lại “nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự”. Sau mỗi buổi học, thầy còn cố gắng kiếm đủ gỗ để làm một chiếc cầu bắc qua dòng suối dưới chân đồi. Nhận ra phương án này không khả thi, thầy Đuy-sen lại tiếp tục lấy đá cùng những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối, giúp học trò đi lại không bị ướt chân. Thầy làm tất thảy mọi việc với mong muốn học trò sẽ luôn an toàn trên con đường tới trường. Có thể thấy, tất cả những lời nói, hành động đã minh chứng cho tấm lòng nhân hậu, trái tim cao cả của thầy Đuy-sen.
Tóm lại, nhân vật thầy giáo Đuy-sen hiện lên với những phẩm chất tốt đẹp của một người giáo viên. Điều đó càng khiến mỗi người thêm yêu mến và cảm phục nhân vật này.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 15
Người thầy đầu tiên là một trong những tác phẩm hay của Ai-tơ-ma-tốp. Trong đó, nhân vật thầy Đuy-sen được khắc họa vô cùng chân thực.
Thầy Đuy-sen được khắc họa chủ yếu qua hành động, lời nói. Thầy hiện lên là một người có tấm lòng nhân hậu, bao dung và giàu tình yêu thương. Thầy đã giúp học sinh trong làng có một ngôi trường để đến học. Thầy đã khơi dậy khao khát được đi học của các em: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi…?”. Vào mùa đông lạnh giá, khi thấy học sinh phải lội qua suối, thầy đã bế hoặc cõng các em qua suối. Sau mỗi buổi học, thầy còn cố gắng kiếm đủ gỗ để làm một chiếc cầu bắc qua dòng suối dưới chân đồi. Nhận ra phương án này không khả thi, thầy Đuy-sen lại tiếp tục lấy đá cùng những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối, giúp học trò đi lại không bị ướt chân.
Đặc biệt, thầy Đuy-sen hiện lên qua cảm nhận của nhân vật An-tư-nai. Mồ côi cha mẹ, An-tư-nai phải sống với chú thím, bị thiếu thốn cả về vật chất lẫn tình cảm. Thầy Đuy-sen đã giúp đỡ để An-tư-nai có thể đi học. Trong kí ức của An-tư-nai, thầy Đuy-sen là một người có tấm lòng nhân hậu, bao dung và giàu tình yêu thương. Thầy đã an ủi khi biết được hoàn cảnh của An-tư-nai: “An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Khi An-tư-nai bị ngã ở suối, thầy đã đỡ cô bé lên lên bờ, lót chiếc áo choàng cho cô bé ngồi, còn mình thì vẫn tiếp tục công việc. Cũng nhờ có thầy Đuy-sen mà An-tư-nai đã cố gắng học hành và trở thành một viện sĩ.
Thầy Đuy-sen còn trở thành tấm gương cho học trò về cách sống lạc quan, tự trọng. Trước hành động của bọn nhà giàu sống trên núi, thầy Đuy-sen không hề tỏ ra tức giận, mà thầy lại “nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự”. Thầy tìm cách để thấu hiểu, giúp đỡ học sinh nhiều hơn. Có thể thấy, tất cả những lời nói, hành động đã minh chứng cho tấm lòng nhân hậu, trái tim cao cả của thầy Đuy-sen.
Như vậy, thầy Đuy-sen là một nhân vật có những phẩm chất tốt đẹp. Quan nhân vật này, tác giả cũng gửi gắm đến bạn đọc những bài học giá trị.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 16
Ai-tơ-ma-tốp là nhà văn người Cư-rơ-gư-dơ-xtan. Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông là “Người thầy đầu tiên”. Nổi bật trong truyện là nhân vật thầy giáo Đuy-sen.
Qua lời kể của nhân vật “tôi”, thầy Đuy-sen hiện lên là một con người nhiệt huyết, trách nhiệm với công việc. Chính thầy Đuy-sen là người đã biến một vùng đất hoang tàn thành trường học. Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến trường với sự tò mò “xem thử thầy giáo đang làm gì” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy Đuy-sen “mỉm cười, niềm nở” quệt mồ hôi trên mặt, rồi ôn tồn hỏi: “Đi đâu về thế, các em gái”. Trước các “vị khách” nhỏ tuổi, thầy hiền hậu nói: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi…?”
Thầy Đuy-sen còn là một người giàu lòng yêu thương, luôn thấu hiểu trái tim trẻ thơ. Ở lần gặp gỡ đầu tiên, thầy đã khơi dậy trong lòng các em nhỏ người miền núi niềm khao khát được đi học. Khi biết hoàn cảnh của An-tư-nai, thầy đã an ủi một cách thật chân thành: “An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Câu nói ấy cùng với nụ cười hiền hậu của Đuy-sen đã khiến cho cô gái dân tộc thiểu số bé nhỏ, bất hạnh “thấy lòng ấm hẳn lại”. Cũng chính thầy Đuy-sen đã khơi dậy khao khát được đi học của An-tư-nai.
Không chỉ là người trực tiếp giảng dạy, thầy Đuy-sen còn luôn quan tâm đến cuộc sống của học sinh. Mỗi khi đi học, các em học sinh đều phải lội qua một con suối. Đến mùa đông, nước băng lạnh buốt khiến các em không thể lội qua được nữa. Để giúp học sinh có thể đến lớp, thầy Đuy-sen đã bế các em qua suối, lưng thì cõng, tay thì bế để các em nhỏ có thể an toàn tới trường học. Ngay cả khi bọn nhà giàu ngu xuẩn, bộ mặt láo xược lên mặt chế giễu, cười cợt, thầy vẫn lạc quan kể chuyện vui cho học sinh quên đi mọi sự. Những lúc rảnh rỗi, thầy còn lấy đá và những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suốt để bước qua cho khỏi bị ướt chân. Khi An-tư-nai bị ngã ở suối, thầy đỡ An-tư-nai lên lên bờ, lót chiếc áo choàng cho An-tư-nai ngồi, còn mình thì vẫn tiếp tục công việc. Đối với An-tư-nai, thầy Đuy-sen giống như một người thân, thậm chí cô bé con mong muốn thầy trở thành anh trai của mình.
Như vậy, nhân vật thầy Đuy-sen hiện lên trong văn bản “Người thầy đầu tiên” là một con người một con người đáng ngưỡng mộ và yêu mến.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 17
Đoạn trích “Đi lấy mật” trích trong tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam”. Cậu bé An là nhân vật trung tâm được khắc họa qua nhiều phương diện.
Nội dung của đoạn trích kể về hành trình đi lấy mật của An với tía nuôi và thằng Cò. Ở đây, nhân vật An được khắc họa chủ yếu qua hành động, lời nói, suy nghĩ, cảm xúc cũng như mối quan hệ với các nhân vật khác. Đầu tiên, nhân vật An hiện lên là một cậu bé nghịch ngợm, hiếu động nên đã có những hành động như: “Chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé”; “Đảo mắt khắp nơi để tìm bầy ong mật”; “Reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp”; “Ngước nhìn tổ ong như cái thúng… ”.
Dù vậy, An vẫn là một cậu bé biết suy nghĩ, ham tìm hiểu. An chăm chú lắng nghe thằng Cò nói về cách xem ong, về sân chim. Hay khi nghe má nuôi dạy cách lấy mật, nếu không hiểu gì, An lại hỏi ngay: “Sao biết nó về cây này mà gác kèo”, “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa, tại sao vậy má?”…
Không chỉ tinh nghịch và ưa khám phá, cậu còn có con mắt quan sát thật tinh tế và sâu sắc. Dưới con mắt của An, cảnh rừng U Minh hiện lên sống động và hoang sơ, trù phú: “Buổi sáng, đất rừng yên tĩnh”, còn “ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng giống như là nó bao qua một lớp thủy tinh”.
Những trạng thái, cảm xúc của nhân vật này cũng hết sức đa dạng. An mệt mỏi sau một quãng đường dài. Cậu vui vẻ và thích thú khi nhìn thấy đàn chim, tổ ong… An cảm thấy yêu mến và khâm phục tía nuôi, má nuôi; hay cãi nhau với Cò nhưng cũng rất yêu quý cậu… Nhân vật An đã được khắc họa qua hành động, lời nói cụ thể. Tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất, đoạn trích được kể qua chính lời của nhân vật An góp phần khắc họa tính cách nhân vật chân thực hơn. Đồng thời tác giả còn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, đậm chất Nam Bộ. Từ đó, nhân vật An đã hiện lên mang vẻ đẹp của con người Nam Bộ.
Như vậy, nhân vật cậu bé An hiện lên với vẻ những đặc điểm tính cách hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng rất ham học hỏi, tìm hiểu.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 18
Văn bản “Đi lấy mật” được trích trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi. Nổi bật trong đó là nhân vật cậu bé An đã để lại nhiều ấn tượng.
An là nhân vật chính, cũng đóng vai là người kể chuyện. Cậu đã được nhà văn khắc họa qua nhiều phương diện khác nhau. Trong hành trình đi lấy mật cùng với tía nuôi và Cò, An đã có được một nhiều nghiệm thú vị. Trước hết, An cũng giống như bao đứa trẻ khác, nghịch ngợm nên đã có những hành động như: “Chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé”; “Đảo mắt khắp nơi để tìm bầy ong mật”; “Reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp”; “Ngước nhìn tổ ong như cái thúng… ”. Qua những hành động này, có thể thấy An là một đứa trẻ khá hiếu động và nghịch ngợm.
Hồn nhiên là vậy nhưng An vẫn biết suy nghĩ, ham tìm hiểu. Cậu luôn nhớ về lời má nuôi dạy, về cách lấy mật, lời thằng Cò nói về cách xem ong, về sân chim. Khi nghe má nuôi dạy cách lấy mật, nếu không hiểu gì, An lại hỏi ngay: “Sao biết nó về cây này mà gác kèo”, “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa, tại sao vậy má?”… Bên cạnh đó, không chỉ tinh nghịch và ưa khám phá, cậu còn có con mắt quan sát thật tinh tế và sâu sắc. Dưới con mắt của An, cảnh rừng U Minh hiện lên sống động và hoang sơ, trù phú: “Buổi sáng, đất rừng yên tĩnh”, còn “ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng giống như là nó bao qua một lớp thủy tinh”. Điều này cho thấy, An là một cậu bé có tinh tế, biết phát hiện ra những cái đẹp của thiên nhiên.
Trong đoạn trích, tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhân vật An là người kể chuyện. Cùng với đó, nhà văn còn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, đậm chất Nam Bộ. Từ đó, nhân vật An đã hiện lên chân thực, sinh động hơn.
Có thể thấy rằng, cậu bé An hiện lên với vẻ hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng rất ham học hỏi, tìm hiểu.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 19
Đi lấy mật trích trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi. Nổi bật trong đoạn trích là nhân vật An.
Đoạn trích kể về trải nghiệm đi lấy mật ong rừng của An cùng Cò và cha nuôi. Trước hết, An hiện lên là một cậu bé có tình yêu thiên nhiên và có những quan sát vô cùng tinh tế. Dưới con mắt của An, rừng núi U Minh hiện lên với vẻ hoang sơ, kì vĩ song cũng rất thơ mộng, trữ tình. Trong suốt hành trình, An luôn chăm chú quan sát khung cảnh xung quanh. Bức tranh thiên nhiên rừng U Minh hiện lên qua đôi mắt hồn nhiên của An. An đưa mắt quan sát ở trên cao với hình ảnh bầu trời: “Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như nó là bao qua một lớp thủy tinh”. Cậu tiếp tục cảm nhận thiên nhiên bằng khứu giác, xúc giác, thị giác: “…ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi đất nhè nhẹ tỏa lên, phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời”. Tất cả đã cho thấy sự nhạy cảm trong tâm hồn của nhân vật An.
Bên cạnh đó, An còn là một cậu bé rất ham học hỏi, thích tìm hiểu về mọi thứ xung quanh. Trong lần đầu tiên được theo tía nuôi vào rừng lấy mật, An luôn chú ý đến những điều mới lạ xung quanh. Cậu còn chăm chú lắng nghe Cò giải thích về cách phân biệt ong mật, đặt ra nhiều câu hỏi cho tía nuôi, tò mò về “sân chim”. An đã nhớ lại những lời má nuôi kể về cách gác kèo ong. Cậu cũng có những so sánh giữa việc học trong sách với thực tiễn bên ngoài. Cuối cùng, cậu đã đúc kết ra được sự khác biệt trong cách “thuần hóa” ong rừng của người dân vùng U Minh so với những cách nuôi ong trên thế giới: “Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả”.
Như vậy, với nhân vật An, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người sâu sắc và ngợi ca tâm hồn trong sáng của trẻ thơ.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 20
Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ là một trong số ít những tác phẩm viết về tình cha con. Trong truyện này, tác giả xây dựng một vài nhân vật: người con, người cha, thằng Tí, bà Sáu… Nhưng với tôi, người để lại nhiều ấn tượng hơn cả là nhân vật người cha.
Nhân vật người cha xuất hiện song hành cùng người con và xuyên suốt câu chuyện. Trong mắt người con, cha hiện lên là một người đảm đang, gần gũi với con “bố trồng nhiều hoa, bố làm cho “tôi” cái bình tưới nhỏ bằng thùng sơn, hai bố con cùng nhau tưới hoa”. Không chỉ có vậy, bố còn là người có cách giáo dục đặc biệt. Bố không dạy lí thuyết sách vở chung chung mà dạy con mọi thứ bằng thực hành, hướng dẫn con để con tự cảm nhận. Hàng ngày bố yêu cầu con nhắm mắt, sờ và đoán các loài hoa trong vườn. Ban đầu chưa quen, con chỉ đoán được một hai loại, dần dà con đã đoán được hết các loài hoa trong vườn của bố, hơn thế nữa con còn thuộc hết khu vườn, vừa nhắm mắt vừa đi mà không chạm phải một vật gì. Bài sờ hoa đoán đã thuộc, người cha tăng độ khó lên, lần này cha cho con ngửi mùi các loài hoa và đoán tên. Trò chơi của bố được lặp lại cho đến khi người con thuộc hết các loài hoa trong vườn thì thôi. Như vậy người đọc không chỉ thấy được phương pháp giáo dục hiện đại của người cha mà còn thấy được sự tỉ mỉ, ân cần trong cách dạy con, thấy được tình yêu thiên nhiên, trân trọng những điều giản dị nhất của người cha.
Bên cạnh đó, thông qua việc giảng giải cho người con về món quà, về sự huyền diệu của tên gọi người đọc còn thấy đây là một người cha sống tình cảm và có hiểu biết rộng. Khi biết con thích gọi tên thằng Tí, người cha đã lí giải cho con “mỗi cái tên là một âm thanh tuyệt diệu. Người càng thân với mình bao nhiêu thì âm thanh đó càng tuyệt diệu bấy nhiêu”. Rồi khi thằng Tí đem cho ổi, mặc dù cha không thích ăn những vẫn ăn ổi nó tặng, người con thắc mắc “sao bố kính trọng nó quá vậy”. Người bố trả lời người con chân thành “bố không cưỡng lại được trước món quà. Một món quà bao giờ cũng đẹp. Khi ta nhận hay cho một món quà, ta cũng đẹp lây vì món quà đó”. Câu nói của nhân vật bố có thể hiểu: món quà chính là tình cảm, tấm lòng của người tặng đã gửi gắm vào đó nên món quà dù lớn hay nhỏ đều đẹp. Cách chúng ta nhận, trân trọng món quà của người tặng cũng thể hiện nét đẹp của chính mình.. Qua đây chúng ta cảm nhận được tình cảm cha con gắn bó tha thiết, người cha đã thể hiện tình yêu thương với đứa con thông qua những bài học sâu sắc từ cuộc sống, biết yêu thương, lắng nghe và thấu hiểu từ thiên nhiên, biết trân trọng mọi thứ xung quanh mình.
Nhân vật người cha được khắc họa qua hành động, cử chỉ, lời nói, cảm xúc, suy nghĩ và qua mối quan hệ với những nhân vật khác (thằng Tí, bà Sáu, hàng xóm…). Khi khắc họa nhân vật người cha, tác giả sáng tạo nhiều chi tiết có giá trị biểu hiện đặc sắc như: người cha nhảy xuống cứu thằng Tí, cầm hai chân dốc ngược; …. Tác giả lựa chọn ngôi kể thứ nhất với điểm nhìn là người con kể về người cha khiến cho câu chuyện được kể hấp dẫn, hồn nhiên và người con dễ dàng bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của mình với cha, ví như “bố cười khà khà khen tiến bộ lắm, bố tôi bơi giỏi lắm”…
Xây dựng nhân vật người cha song hành cùng người con không chỉ giúp người đọc thấy được mối quan hệ cha con, tình cảm cha con trong gia đình mà tác giả còn cho người đọc thấy bài học bổ ích về phương pháp giáo dục hiện đại: học bằng thực hành. Đồng thời cũng nhắn nhủ tới các bậc làm cha làm mẹ hãy yêu thương con cái, tạo cho con môi trường lành mạnh, gần gũi chan hòa với thiên nhiên. Thời buổi công nghệ số, con trẻ xem, chơi điện thoại, ipad quá nhiều, vì thế gần gũi giao hòa, cảm nhận thiên nhiên là điều hết sức cần thiết.
Nhân vật người cha để lại trong lòng tôi rất nhiều ấn tượng đẹp, đó không chỉ là tình cảm chân thành với người con mà còn là cách chơi, cách dạy con, cách giảng giải cho con về tất cả những điều mà con khúc mắc. Thầm nghĩ, sau này tôi cũng sẽ hướng dẫn và gần gũi con cái của mình giống như người cha trong câu chuyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 21
Truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” là một tác phẩm đặc sắc và nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Đây là một câu chuyện đầy thú vị và hấp dẫn về hành trình phiêu lưu của Dế Mèn qua nhiều vùng đất của các loài vật khác nhau. Chương đầu tiên của chuyện là “Bài học đường đời đầu tiên” đã miêu tả rõ nét cả ngoại hình và tính cách của Dế Mèn, đồng thời đó cũng là câu chuyện về bài học đầu tiên của Dế Mèn.
Ngay phần mở đầu, nhà văn đã giới thiệu một cách chi tiết về chú dế này. Dế Mèn là một chú dế khỏe mạnh, cường tráng và có lối sống khoa học: “Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm”, “chẳng bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng”. Dưới cái nhìn tinh tế, trí tưởng tượng phong phú và kỹ lưỡng, Tô Hoài đã tái hiện chân chung của một chàng dế thanh niên thật đẹp và sinh động: “thân hình cường tráng, đôi càng mẫm bóng, những vuốt ở chân và ở khoeo cứng và nhọn hoắt”, “ chỉ cần lia qua là những ngọn cỏ đã ngã rạp xuống”…
Dế Mèn luôn tự tin về bản thân mình, mỗi bước đi của cậu trở nên “trịnh trọng, khoan thai”, cho ra cái dáng điệu của “con nhà võ”. Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả hình dáng bên ngoài của Dế Mèn, nhà văn còn đi sâu vào tính cách của chú dế này, cho người đọc cảm nhận một chú dế nhỏ bé cũng có những nét tính cách khác nhau. Dế Mèn là một chú dế tự tin, yêu đời và luôn tự hào về bản thân mình, luôn hãnh diện với bà con hàng xóm vì vẻ ngoại hình và sức mạnh của mình. Nhưng chính từ sự tự hào và tự tin thái quá của tuổi trẻ mà Dế Mèn lại trở thành kiểu tự cao, tự đắc, kiêu căng và xốc nổi.
Dế Mèn đem cái sức mạnh của mình đi để chòng ghẹo hàng xóm chứ không phải là giúp đỡ, hàng xóm chỉ là nhường nhịn không thèm chấp với Mèn nhưng chú lại nghĩ đó là họ sợ mình, không ai dám đối đầu với mình. Chính vì thế sự ảo tưởng ngông cuồng của Dế Mèn lại càng được đà đẩy lên cao, bản thân tự cho mình là “một tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi”. Rồi chính bản tính kiêu căng, hống hách và ngông cuồng ấy của Dế Mèn đã để lại cho chú dế một bài học nhớ đời, bài học đắt giá ấy đã đánh đổi bằng cả mạng sống của anh bạn hàng xóm là Dế Choắt.
Trái ngược hoàn toàn với Dế Mèn, Dế Choắt là một kẻ gầy gò, ốm yếu, bộ dạng không có sức sống lại không có sức làm. Dế Mèn là hàng xóm nhưng lại chỉ biết chê bai, khinh bỉ, khi Dế Choắt nhờ giúp cũng chẳng bận tâm. Bản tính ngông cuồng của Dế Mèn đã nảy ra ý tưởng trêu chị Cốc, hắn rủ Dế Choắt nhưng Dế Choắt thì sợ không dám, còn căn ngăn nhưng không được. Sau khi trêu chị Cốc, Dế Mèn thì chui tọt vào hang sâu của mình lẩn trốn, mà đâu ngờ người bị chị Cốc tóm được lại là Choắt, Dế Choắt đã gánh chịu mọi hậu quả từ trò đùa dại dột của Dế Mèn. Chỉ đến khi Dế Choắt thoi thóp, Dế Mèn mới ân hận nhận ra lỗi lầm, tuy vậy cũng nhờ có Dế Choắt mà Dế Mèn có được bài học quý giá: “Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn cũng mang vạ vào mình đấy”.
Bằng nghệ thuật miêu tả tài tình và bút pháp nhân hóa so sánh điêu luyện, nhà văn Tô Hoài đã cho người đọc thấy được chân dung sống động về một chú dế. Bên cạnh đó còn rút ra những bài học sâu sắc trong cuộc sống, đó là phải luôn biết khiêm tốn, giúp đỡ người khác và khi mắc lỗi phải biết sửa chữa lỗi lầm.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 22
Người thầy đầu tiên là một truyện ngắn xuất sắc của Ai-tơ-ma-tốp kể về thầy giáo Đuy-sen qua hồi ức bà viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va, vốn là học trò trước đây của thầy Đuy-sen.
Hình ảnh một người thầy tuyệt đẹp và đáng kính là cảm nhận sâu sắc nhất của mỗi chúng ta khi đọc truyện ngắn này. Khi đến vùng núi quê hương của cô bé An-tư-nai. Thầy Đuy-sen còn trẻ lắm. Học vấn của thầy lúc đó chưa cao, nhưng trái tim thầy dạt dào tình nhân ái và sôi sục nhiệt tình cách mạng. Một mình thầy lao động hằng tháng trời, phạt cỏ, trát lại vách, sửa cánh cửa, quét dọn cái sân…, biến cái chuồng ngựa của phú nông hoang phế đã lâu ngày thành một cái trường khiêm tốn nằm bên hẻm núi, cạnh con đường vào cái làng nhỏ của người Kir-ghi-di, vùng Trung Á nghèo nàn lạc hậu
Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến thăm trường với bao tò mò “xem thử thầy giáo đang làm gì, ở đấy cũng hay” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy Đuy-sen “mỉm cười, niềm nở” quệt mồ hôi trên mặt, rồi ôn tồn hỏi: “Đi đâu về thế, các em gái”. Trước các “vị khách” nhỏ tuổi, thầy hiền hậu nói: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi…?”
Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại, cử chỉ của thầy rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động tâm hồn tuổi thơ. Mới gặp các em nhỏ xa lạ lần đầu mà thầy đã nhìn thấy, đã thấu rõ cái khao khát muốn được học hành của các em: “các em chả sẽ học tập ở đây là gì?” Thầy “khoe” với các em về chuyện đắp lò sưởi trong mùa đông…, thầy báo tin vui trường học đã làm xong “có thể bắt đầu học được rồi”. Thầy mời chào hay khích lệ? Thầy nói với các em nhỏ người dân tộc miền núi chưa từng biết mái trường là gì bằng tất cả tình thương mênh mông: “Thế nào, các em có thích học không? Các em sẽ đi học chứ?”
Thầy Đuy-sen quả là có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm. Chỉ sau một vài phút gặp gỡ, vài câu nói nhẹ nhàng, thầy đã chiếm lĩnh tâm hồn tuổi thơ. Thầy đã khơi dậy trong lòng các em nhỏ người miền núi niềm khao khát được đi học.
Với An-tư-nai, thầy nhìn thấu tâm can em, cảm thông cảnh ngộ mồ côi của em, thầy an ủi và khen em một cách chân tình: “An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Câu nói ấy cùng với nụ cười hiền hậu của Đuy-sen đã khiến cho cô gái dân tộc thiểu số bé nhỏ, bất hạnh “thấy lòng ấm hẳn lại”.
Đuy-sen là người thầy đầu tiên, người thầy khai tâm khai sáng cho An-tư- nai. Thầy hiền hậu, thầy yêu thương tuổi thơ. Thầy đã đốt cháy lên trong lòng các em ngọn lửa nhiệt tình khát vọng và khát vọng đi học. Đuy-sen là hình ảnh tuyệt đẹp của một ông thầy tuổi thơ. Con đường tuổi trẻ là con đường học hành. Trên con đường đầy nắng đẹp ấy, anh chị và mỗi chúng ta sẽ được dìu dắt qua nhiều thầy, cô giáo. Cũng như An-tư-nai, trong tâm hồn mỗi chúng ta luôn luôn chói ngời những người thầy, những Đuy-sen cao đẹp.
Ai-ma-tốp đã viết nên một truyện ngắn dưới dạng hồi ức chân thực, cảm động. Hình ảnh Đuy-sen – người thầy đầu tiên và hình ảnh An-tư-nai, cô bé mồ côi khát khao được đi học, được tác giả nói đến với tất cả sự ca ngợi, với niềm thương mến bao la. Người thầy trong truyện ngắn là người thầy của tình thương đến với tuổi thơ, đem ánh sáng cách mạng làm thay đổi mọi cuộc đời. Ngọn lửa tình thương như toả sáng trang văn Ai-ma-tốp, mãi mãi làm ấm áp lòng người. Thầy Đuy-sen càng trở nên gần gũi trong niềm thương mến của tuổi thơ chúng ta.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 23
Cậu bé Mên là nhân vật mà em yêu thích nhất trong truyện ngắn Bầy chim chìa vôi của nhà văn Nguyến Quang Thiều.
Mên là một cậu bé vừa có vẻ trưởng thành của người lớn, vừa mang nét tinh nghịch của trẻ em. Sự trưởng thành của cậu, thể hiện rõ nét trong mối quan hệ với em trai của mình là Mon. Chính sự tin tưởng, dựa dẫm và đặt câu hỏi liên tiếp về mọi thắc mắc của Mon, đã làm cho hình dáng của Mên càng thêm chín chắn trưởng thành. Trong các tình huống xảy ra, Mên là người giải đáp, đưa ra quyết định và chỉ huy cho hai anh em cùng làm. Tựa như việc quyết định lấy đò, chèo ra bờ sông xem bầy chìa vôi non, hay kéo đò vào bờ để cất kẻo trôi trong đêm mưa vậy. Nhưng ở Mên, cũng có những nét trẻ con lộ rõ. Thể hiện qua những lần chợt sợ hãi khi nghĩ về bố – một chi tiết rất thú vị, đặc trưng về tâm lí của trẻ em.
Nhưng tuyệt vời nhất ở nhân vật Mên, thì phải nhắc đến trái tim ấm áp, giàu tình yêu thương của cậu. Hành động lo lắng, cùng em trai chèo đò ra bờ sông trong đêm mưa gió để kiểm tra tình hình mấy chú chìa vôi non đã khẳng định được điều đó. Từng giây phút thấp thỏm theo nhịp vỗ của cánh chim của nhân vật Mên, đã thể hiện được một tâm hồn giàu tình yêu thương của cậu. Sự yêu thương ấy, khiến cậu lo lắng, rồi vui sướng vỡ òa đến bật khóc khi những chú chim được an toàn.
Có thể nói, nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã rất thành công khi xây dựng nên một nhân vật hay và ấn tượng như cậu bé Mên trong truyện Bầy chim chìa vôi.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 24
Cậu bé An trong đoạn trích Đi lấy mật, là một nhân vật mà em rất yêu quý và ấn tượng ngay từ lần đầu tiên đọc tác phẩm.
An là một cậu bé với tình yêu dành cho thế giới thiên nhiên xung quanh minh vô cùng cháy bỏng. Đồng thời, ở cậu cũng luôn rạo rực khát khao được học hỏi và khám phá những cái mới. Nét tính cách này đã được thể hiện rõ qua hành trình đi lấy mật của An cùng cha nuôi và thằng Cò. Trong hành trình lấy mật, An chăm chú và tận hưởng mọi thứ xung quanh mình bằng cả tâm hồn và mọi giác quan. Cậu “đảo mắt khắp nơi” khi nghe lời kể của thằng Cò, rồi nhìn chăm chú, “mắt không rời khỏi tổ ong” mà cha nuôi chỉ. Dù mệt nhọc, vất vả khi lần đầu đi rừng, An vẫn không hề than thở một lời, quyết tâm theo mọi người tiến về phía trước. Tinh thần ấy của cậu bé khiến em vô cùng khâm phục. Tình yêu thiên nhiên ở An được thể hiện rõ nét qua sự thích thú của cậu khi lần đầu được đi “săn ong”. Qua sự thán phục, chăm chú lắng nghe khi cha nuôi và thằng Cò kể về rừng cây, về loài ong mật. Rồi lại ngây ngất trước vẻ đẹp của núi rừng.
Ở nhân vật An, em còn thấy những nét tính cách trẻ con, tinh nghịch rất thú vị, Khi cậu “chen vào giữa, quẩy tòn ten một cái gùi bé” để theo cha nuôi vào rừng. Rồi lại giận dỗi thằng Cò khi bị nó trêu chọc. Nhưng An giận nhanh mà quên cũng nhanh, chẳng mấy mà cậu lại tíu tít với thằng Cò như trước.
Những đặc điểm ấy đã cùng nhau tạo nên sự thú vị và hấp dẫn cho nhân vật vật An nói riêng cũng như đoạn trích Đi lấy mật nói chung.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 25
Người thầy đầu tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của đại văn hào Aitmatov. Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 7 sách mới. Trong đoạn trích Người thầy đầu tiên, bên cạnh hình ảnh thày Đuy-sen với tấm lòng nhân hậu yêu thương học sinh thì An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va lại là một cô bé kiên cường mạnh mẽ, để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
An-tư-nai là một cô bé có hoàn cảnh rất đặc biệt. Em không được may mắn như những bạn bè cùng trang lứa vì mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải ở cùng với chú thím. Tuy nhiên, An-tư-nai rất nghị lực và cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Khi được thầy Đuy-sen hỏi “Thế em con ai?”, An-tư-nai lặng thinh, có chút tự ái vì không muốn ai thương hại mình. Nhờ tình yêu thương và sự giúp đỡ của thầy Đuy-sen, An-tư-nai không ngừng cố gắng học tập và trở thành một viện sĩ.
Mặc dù thiếu vắng tình cảm từ cha mẹ nhưng An-tư-nai vẫn luôn nuôi dưỡng cho mình tâm hồn trong sáng cùng bản tính tốt bụng, lương thiện. Biết thầy vất vả trữ sẵn củi để sưởi ấm cho lớp học, An-tư-nai sẵn sàng trút lại ki-giắc. Khi thấy lũ nhà giàu ở trên núi đi qua “quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tóe lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất”, em vô cùng bất bình “Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm!”. An-tư-nai cũng luôn quan tâm, giúp đỡ những người xung quanh. Em không ngần ngại cùng thầy xếp đá qua dòng nước cho các bạn đi lại an toàn, thuận tiện. Có thể thấy, An-tư-nai sáng ngời một vẻ đẹp thuần khiết, tươi mát như “dòng suối trong trẻo”.
Không những thế, An-tư-nai còn là một cô học trò trọng nghĩa tình. Em luôn mong ước thầy Đuy-sen là anh ruột của mình, “yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ”. Sau này, khi trở thành một viện sĩ, An-tư-nai muốn lan tỏa câu chuyện về thầy Đuy-sen với mọi người. Cô đã nhờ người họa sĩ kể lại những kỉ niệm tươi đẹp từng trải qua khi có sự quan tâm của người thầy đáng mến.
Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện là An-tư-nai, tác giả đã làm nổi bật tính cách, tâm trạng của cô bé. An-tư-nai chính là tấm gương sáng về sự hiếu học và tâm hồn cao đẹp. Đoạn trích “Người thầy đầu tiên” sẽ mãi khắc ghi trong lòng độc giả khắp thế giới về hình ảnh một cô học trò trong sáng, giàu tình cảm. Hi vọng những giá trị nhân văn, tốt đẹp của tác phẩm luôn sống mãi với thời gian.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 26
“Truyện cô bé bán diêm” là một tác phẩm tiêu biểu của An- đéc- xen. Dưới ngòi bút đầy chất thơ của nhà văn, cô bé bán diêm đã phải chết. Em bé đã chết mà đôi má vẫn hồng và đôi môi đang mỉm cười. Hình ảnh cái chết đấy thật đẹp đã thể hiện sự hạnh phúc, mãn nguyện của cô bé, có lẽ em đã thanh thản, tại nguyện vì chỉ mình em được sống trong những điều huy hoàng, kì diệu. Cái chết của em bé bán diêm thể hiện tấm lòng nhân hậu, nhân ái của nhà văn dành cho số phận trẻ thơ, đó là sự cảm thông yêu thương và trân trọng thế giới tâm hồn. Thực tế em bé đã chết rất tội nghiệp, đó là cái chết bi thảm, làm nhức nhối trong lòng người đọc, em đã chết trong đêm giao thừa rét mướt, em nằm ngoài đường sáng mùng một đầu năm trong khi mọi người vui vẻ ra khỏi nhà, kẻ qua người lại mà không hề ai quan tâm đến em, em đã chết vì lạnh, vì đói ở một xó tường, đó là cái chết đau đớn nhưng chắc chắn sẽ thanh thản về tâm hồn. Như vậy, bằng ngòi bút nhân ái lãng mạng của nhà văn, qua cái chết của cô bé bán diêm tác giả muốn tố cáo phê phán xã hội thờ ơ lạnh lùng với những nỗi bất hạnh của những người nghèo khổ bất hạnh, đặc biệt đối với trẻ thơ. Đồng thời, nhà văn còn muốn gửi gắm thông điệp tới người đọc: đó là hãy biết san sẻ yêu thương đừng phũ phàng hoặc vô tình trước nỗi đau bất hạnh, cay đắng của các em bé. Cái chết của em sẽ mãi ám ảnh trong lòng người đọc, khơi dậy cho ta về tình yêu thương con người.
Qua nhân vật cô bé bán diêm, Anđecxen nói lên tiếng nói yêu thương với những đứa trẻ đáng thương, tội nghiệp. Đồng thời cũng là lời phê phán những con người thờ ơ, thiếu tình yêu thương với những con người khó khăn.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 27
“Đất rừng phương Nam” là một sáng tác tiêu biểu của nhà văn Đoàn Giỏi. Tác phẩm không chỉ mở ra bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, trù phú của mảnh đất phương Nam mà còn tái hiện chân thực vẻ đẹp con người nơi đây. Họ đều là những người dân thuần hậu, chất phác, giàu tình cảm và rất dũng cảm. Các đức tính tốt đẹp này còn được khắc họa một cách rõ nét qua nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”.
Thông qua lời miêu tả của “tôi”, chú Võ Tòng thường không mặc áo, chỉ mặc một chiếc quần “cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới, nhưng coi bộ đã lâu không giặt”. Chú còn trang bị một lưỡi lê, đeo nó ở bên hông. Đặc biệt, trên người chú Võ Tòng xăm rất nhiều chữ bùa màu xanh lè. Khuôn mặt hiền hậu còn có một hàng sẹo dài chạy từ thái dương xuống cổ. Như vậy, chỉ với vài nét phác họa, tác giả đã mang đến cho người đọc những hình dung cụ thể về người đàn ông phóng khoáng, mạnh mẽ.
Thế nhưng, đằng sau vẻ bề ngoài “kì hình dị tướng” lại là một Võ Tòng hiền hậu, lương thiện và chất phác. Khi trò chuyện với chú bé An, chú luôn nhẹ nhàng, thân mật hỏi thăm “Ngồi xuống đây, chú em”. Chú còn tinh tế chọn ra một thỏi thịt khô nướng lớn nhất cho “tôi”. Đối với tía nuôi của An, chú tỏ ra tôn trọng, giữ đúng lễ độ nhưng không làm mất đi sự thân mật “Phải không anh Hai?”. Không chỉ vậy, với những người xung quanh, chú luôn ân cần giúp đỡ mà không nghĩ tới chuyện báo đáp. Vì thế, ai ai “cũng mến gã ở cái tính tình chất phác, thật thà”. Bên cạnh đó, chú Võ Tòng còn là một người vô vùng can trường, dũng cảm. Giây phút thấy con hổ chúa từ sân phóng vào nhà, chồm lên người mình, chú Võ Tòng không hề run sợ hay nao núng. Chú nhanh nhẹn cầm lấy cái mác bên người, trực tiếp đâm thẳng vào hàm dưới con hổ. Bằng sự nhanh trí, dứt khoát, chú đã thành công hạ gục nó. Quay ngược về quá khứ, khi thấy tên địa chủ có những lời nói, hành động ngang ngược, không phân rõ đúng sai phải trái, chú Võ Tòng đã quyết liệt dùng nhát dao chém trả. Đứng trước quyền thế, chú chẳng lấy làm lo lắng mà can đảm đối mặt. Cuối cùng, bản lĩnh nam nhi không cho phép chú Võ Tòng hèn nhát. Thay vì nghĩ tới việc trốn chạy, chú đã “đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc, bó tay chịu tội”.
Có thể thấy, nhân vật Võ Tòng hiện lên thật chân thực với bao phẩm chất cao đẹp. Con người chú luôn sáng ngời sự chất phác, thật thà, hiền lành. Thấy chuyện bất bình hay hiểm nguy, chú không lo sợ mà dũng cảm đối diện.
Bằng việc sử dụng kết hợp ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba, nhà văn đã khắc họa nhân vật Võ Tòng một cách toàn diện, cụ thể. Ngoài ra, ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ cũng góp phần miêu tả sắc nét hình ảnh người đàn ông phóng khoáng, khí phách, sống lẻ loi nơi rừng sâu.
Nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng” chắc chắn sẽ mãi in sâu trong lòng độc giả bởi những vẻ đẹp đức tính, phẩm chất. Nhân vật cũng chính là đại diện cho người dân Nam Bộ thuần hậu, tốt bụng.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 28
“Dọc đường xứ Nghệ” là một trích đoạn tiêu biểu của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Búp sen xanh”. Đoạn trích đã mang đến cho bạn đọc những hình dung cụ thể về thời niên thiếu của Người khi sống bên gia đình qua nhân vật Côn.
Đầu tiên, khi dừng chân tại vùng đất Diễn Châu, được nghe cha kể về truyền thuyết “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, cậu bé Côn đã thẳng thắn chỉ ra căn nguyên của mọi việc xung quanh câu chuyện. Với khả năng phân tích, nhìn nhận vấn đề cốt lõi bằng tư duy khách quan, đa chiều, Côn nhận thấy nhà Triệu quá nham hiểm, chàng Trọng Thủy lại ngoan ngoãn làm theo lời cha, nàng Mị Châu thì ruột để ngoài da. Đồng thời, Côn còn thẳng thắn nêu lên hạn chế của vua Thục khi không nhận ra bản chất của kẻ thù, trọng chữ tín mà không đề phòng. Mặc dù vậy, cậu vẫn công tâm khi công nhận cách xử sự của vua An Dương Vương ở cuối truyện.
Tuy nhỏ tuổi nhưng Côn đã có những am hiểu sâu sắc về cuộc sống. Sau khi nghe cha kể xong các sự tích gắn liền với hòn Hai Vai và núi “Tướng quân rơi đầu”, Côn không tiếc lời ngợi ca ước mơ chính đáng ở người xưa. Đồng thời, cậu còn thể hiện tấm lòng trân trọng, ngợi ca tài năng và trí tưởng tượng phong phú của các tác giả dân gian.
Ngoài ra, Côn còn là một cậu bé có tâm hồn yêu mến văn thơ và biết đề cao công bằng, tôn trọng lẽ phải. Điều này được khắc họa rõ nét qua chi tiết ba cha con cụ Phó bảng tới thăm mộ đại thi hào Nguyễn Du. Sau khi chạnh lòng trước cảnh “hương khói vắng tanh” nơi đại thi hào yên nghỉ, Côn đã không khỏi thắc mắc vì sao Nguyễn Du lại không được lập đền thờ như thằng ăn trộm bị đánh chết.
Để làm nổi bật nhân vật cậu bé Côn, tác giả đã có những sáng tạo về hình thức nghệ thuật. Trước hết, việc sử dụng ngôi kể thứ ba giúp độc giả có cái nhìn toàn diện, chân thực về câu chuyện thời thơ ấu của Người. Tiếp đến, nhà văn còn thành công trong việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói, hành động và suy nghĩ.
Nhân vật Côn trong đoạn trích “Dọc đường xứ Nghệ” hiện lên thật chân thực với vẻ đẹp về nhân cách và tâm hồn. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng cậu đã có thể hiểu sâu biết rộng, mang trong mình những suy nghĩ sâu sắc. Mong rằng, các câu chuyện gắn liền với cuộc đời của Người sẽ luôn in sâu trong tâm trí dân tộc Việt Nam.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 29
Đoàn Giỏi là nhà văn quân đội trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Tên tuổi của ông gắn liền với tiểu thuyết nổi tiếng “Đất rừng phương Nam”. Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng về cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống và con người nơi vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt, đến với đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, chúng ta sẽ thấy được những đức tính tốt đẹp của con người phương Nam thông qua nhân vật Võ Tòng.
Từ đôi mắt trẻ thơ của cậu bé An, Võ Tòng hiện lên với vẻ phong trần, bụi bặm. Chú Võ Tòng có một thân hình cường tráng, luôn cởi trần, chỉ mặc một chiếc quần kaki còn mới nhưng lâu không giặt, bên hông đeo lủng lẳng chiếc lưỡi lê. Nổi bật nhất là vết sẹo dài trên mặt “một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ”. Tất cả các chi tiết trên đã gợi cho người đọc ấn tượng về một người đàn ông “kì hình dị tướng”. Thế nhưng, vẻ ngoài có chút bặm trợn ấy không làm người khác ghê sợ mà còn tạo thiện cảm với cậu bé An “có đôi chút cảm tình với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy”.
Song, trái ngược với diện mạo kì lạ lại là những nét đẹp về tính cách, tâm hồn trong con người Võ Tòng. Khi trò chuyện với An, chú Võ Tòng đã có lời nói hết sức gần gũi, thân thiện và vui vẻ. Chú gọi An là “chú em”, xưng hô thân mật “qua” hoặc “chú”. Bên cạnh đó, khi trao đổi với tía nuôi của An, chú luôn giữ lễ phép, tôn trọng nhưng không đánh mất sự thân thiết “Phải không anh Hai?”.
Chú Võ Tòng còn là một người vô cùng dũng cảm. Giây phút con hổ nhảy chồm lên người, chú không hề hoảng sợ, lo lắng mà bình tĩnh xử lí mọi chuyện. Chú giữ nguyên tư thế nằm ngửa, với lấy cái mác bên người rồi đâm thẳng vào hàm dưới của con hổ. Đó còn là lúc chú “nhẹ nhàng” dùng chiếc nỏ giết chết thằng giặc Pháp mà “cái thằng cách năm, sáu thước không hay biết gì”.
Bằng việc sử dụng hòa hợp ngôi kể thứ nhất xưng “tôi” và ngôi kể thứ ba, Đoàn Giỏi đã khắc họa một cách chân thực nhân vật Võ Tòng. Từ đó, chú Võ Tòng hiện lên thật rõ nét với những vẻ đẹp đức tính, phẩm chất đáng quý. Ngoài ra, ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ cũng góp phần để lại ấn tượng sâu đậm cho bạn đọc về hình ảnh người đàn ông phóng khoáng, mạnh mẽ, sống cô độc nơi rừng sâu.
Nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng” quả là một con người lương thiện, tốt bụng và dũng cảm. Nhân vật cũng chính là hình ảnh đại diện cho người dân hiền hậu, chân chất nơi vùng đất phương Nam trù phú. Có thể nói, nhà văn Đoàn Giỏi thật tài tình khi tái hiện sắc nét cuộc sống, thiên nhiên và con người Nam Bộ.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 30
Nhắc tới nhà văn Sơn Tùng, chúng ta sẽ nhớ ngay tới cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Búp sen xanh”. Tác phẩm đã đem đến cho bạn đọc những hình dung cụ thể, chân thực về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời niên thiếu tới tuổi trưởng thành. Đặc biệt, đến với đoạn trích “Dọc đường xứ Nghệ”, ta sẽ thấy được một cậu bé Côn ham học, thích tìm hiểu.
Trên đường đi, cậu bé Côn luôn chú ý quan sát vạn vật xung quanh. Trong đôi mắt trẻ thơ của Côn, quê hương hiện lên với “những ngôi đền cổ kính”, với “dãy núi xa xa rất nhiều hình nhiều vẻ”. Ngắm nhìn các di tích, cảnh sắc ấy, Côn không khỏi tò mò, thắc mắc. Vì thế, cậu bé đã mạnh dạn hỏi cha về các sự tích gắn liền với chúng “Thưa cha, con muốn được cha chỉ bảo chúng con về sự tích ngôi đền ni, về tên của các hòn núi kia, trông lạ mắt quá cha ạ.”. Có thể thấy, Côn là một người ham học hỏi, thích tìm hiểu mọi thứ xung quanh. Đứng trước những điều mới lạ, cậu luôn muốn tìm tòi, khám phá sâu rộng. Côn khao khát được hiểu hơn về cuộc sống, về cội nguồn dân tộc. Như vậy, ngay từ thơ bé, cậu bé Côn đã rèn luyện và bồi đắp cho bản thân một tinh thần ham học đáng ngưỡng mộ.
Bên cạnh đó, Côn còn là cậu bé có suy nghĩ chín chắn, thấu đáo. Sau khi nghe cha kể xong chuyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, cậu bé đã thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của mình về các nhân vật. Côn phê phán việc vua Thục “không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu”. Nhưng đồng thời, cậu bé cũng coi trọng hành động của An Dương Vương ở cuối câu chuyện. Có thể thấy, dù tuổi còn nhỏ nhưng Côn đã có những lí giải, phân tích hết sức chín chắn. Đặc biệt, giây phút đứng trước mộ Nguyễn Du, Côn cảm thấy vô cùng chạnh lòng, xót xa mà nhớ đến mấy câu thơ “…Rằng sao trong tiết Thanh minh/ Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?…”. Cậu bé luôn thắc mắc, hoài nghi tại sao thằng trộm bị đánh chết được lập đền thờ còn Nguyễn Du công lao to lớn lại không.
Với việc sử dụng ngôi kể thứ ba, người đọc đã có cái nhìn khách quan, cụ thể về câu chuyện và nhân vật Côn. Ngoài ra, tác giả Sơn Tùng còn xây dựng thành công nhân vật qua lời nói, suy nghĩ. Từ đây, Côn hiện lên thật sắc nét với bao phẩm chất tốt đẹp, đáng ngưỡng mộ. Không chỉ vậy, các từ ngữ địa phương “ni”, “dớ dận” cũng làm câu chuyện trở nên gần gũi, thân quen.
Nhân vật Côn quả là một cậu bé điềm đạm, thông minh, yêu thích học hỏi. Theo dòng thời gian, những câu chuyện gắn liền với Người như “Dọc đường xứ Nghệ” nói riêng và “Búp sen xanh” nói chung sẽ mãi in sâu trong tâm trí dân tộc Việt Nam. Cảm ơn nhà văn Sơn Tùng đã mang đến một tác phẩm giàu giá trị như vậy.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 31
Đoạn trích “Buổi học cuối cùng” trích từ tác phẩm “Chuyện kể của một em bé người An-dát” đã mang đến cho độc giả một câu chuyện cảm động về buổi học cuối cùng của các em vùng An-dát. Thông qua đoạn trích, nhà văn người Pháp An-phông-xơ Đô-đê còn khắc họa rõ nét hình ảnh người thầy Ha-men – một người có lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc tha thiết.
Bốn mươi năm làm nghề giáo viên, thầy Ha-men luôn hết lòng phụng sự, dốc trọn nhiệt huyết. Vì thế, vào buổi học cuối cùng, thầy vẫn đến lớp như bao ngày. Thầy ăn vận trang trọng, lịch sự “mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng”. Có thể thấy, thầy Ha-men luôn quý trọng từng giây, từng phút được đứng trên bục giảng để chỉ bảo kiến thức cho học trò. Dù ngày hôm ấy là buổi học cuối cùng nhưng thầy vẫn tâm huyết, tận tình. Thầy không tỏ thái độ giận dữ khi học trò mắc lỗi như mọi hôm mà chỉ nhẹ nhàng bảo ban “Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con”. Trong giờ học, thầy vẫn kiên nhẫn giảng giải tất cả kiến thức “Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình”. Có thể thấy, tấm lòng yêu nghề, khát khao cống hiến luôn rực cháy tận trong sâu thẳm con người thầy Ha-men.
Bên cạnh đó, thầy Ha-men còn là một người có lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc da diết. Khi buổi học diễn ra, thầy không quên nói về vẻ đẹp của tiếng Pháp. Thầy nhắc nhở, dặn dò học trò của mình “phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên”. Hay trong giờ viết tập, thầy còn chuẩn bị “những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát.”. Thầy hi vọng học trò của mình luôn biết yêu mến, nâng niu, trân trọng ngôn ngữ dân tộc. Từ đây, ta có thể cảm nhận được tình yêu da diết mà thầy Ha-men dành cho tiếng mẹ đẻ – “ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất”. Giây phút tiếng kèn của lính Phổ vang lên ngoài cửa sổ, thầy đã không kìm nổi nỗi xúc động ở bản thân “đứng dậy trên bục, người tái nhợt”. Lúc này đây, mọi lời nói đã nghẹn ứ nơi cổ họng. Sau cùng, bằng tất cả ý chí và quyết tâm, thầy đã cầm phấn viết lên bảng dòng chữ “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”. Như vậy, tận sâu trong thâm tâm và trái tim thầy là hình bóng Tổ quốc và tiếng nói dân tộc. Hình ảnh thầy đứng dựa vào tường, chẳng nói một lời mà chỉ giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi… đi đi thôi!” làm chúng ta không khỏi cảm động.
Để làm nổi bật hình tượng nhân vật Ha-men, nhà văn Đô-đê đã sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật độc đáo. Trước hết, ông đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật. Nhân vật thầy Ha-men hiện lên thật chân thực, rõ nét qua các chi tiết miêu tả trang phục, cử chỉ, lời nói, hành động,… Ngoài ra, việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng “tôi” cũng giúp Phrăng dễ dàng bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc về thầy Ha-men và buổi học cuối cùng.
Mỗi khi nhắc tới đoạn trích “Buổi học cuối cùng”, chúng ta sẽ chẳng thể nào quên hình bóng người thầy Ha-men yêu nghề, yêu tiếng nói dân tộc và yêu Tổ quốc tha thiết. Mong rằng, những giá trị nhân văn, tốt đẹp của tác phẩm sẽ luôn sống mãi theo dòng chảy thời gian.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 32
“Buổi học cuối cùng” được trích từ tác phẩm nổi tiếng “Chuyện kể của một em bé người An-dát” của cố nhà văn An-phông-xơ Đô-đê. Đoạn trích đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng về hình tượng người thầy giáo Ha-men yêu nghề, yêu dân tộc và đất nước sâu sắc.
Đầu tiên, hình ảnh thầy Ha-men hiện lên là một người thầy tận tình, tâm huyết trong công việc. Vào buổi học cuối cùng, dù rất đau buồn nhưng thầy vẫn hoàn thành mọi trách nhiệm của bản thân. Khi thấy cậu học trò Phrăng đi học muộn, thầy không trách móc nặng lời mà chỉ nhẹ nhàng bảo ban “Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con”. Thầy còn kiên nhẫn giảng giải mọi kiến thức như thể “muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi”. Bốn mươi năm tận tình cống hiến, thầy luôn làm tròn trách nhiệm ở bản thân. Có thể thấy, tất cả hành động, cử chỉ, lời nói đều minh chứng cho tấm lòng của người thầy yêu nghề, của “người cha” bao dung, luôn yêu thương những cô cậu học trò.
Không chỉ vậy, thầy Ha-men trong “Buổi học cuối cùng” còn là một người yêu nước vô bờ. Điều này được thể hiện rõ qua suy nghĩ của thầy đối với tiếng Pháp. Thầy ca tụng tiếng Pháp và khẳng định tiếng Pháp chính là vũ khí, là chìa khóa đưa đất nước thoát khỏi ách đô hộ của quân Phổ. Thầy đã truyền cảm hứng cho cả lớp, khơi dậy ở học sinh niềm tin, sự tự hào và tình yêu với tiếng nói dân tộc, để các em ý thức được việc gìn giữ tiếng mẹ đẻ. Cuối buổi học, dù đau xót tột cùng đến mức không nói thành lời, thầy vẫn mạnh mẽ viết lên bảng dòng chữ thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. Qua đây, chúng ta cảm nhận được tình yêu của thầy dành cho tiếng Pháp, cũng là tình yêu đối với môn học mà thầy giảng dạy suốt 40 năm qua. Gần như cả cuộc đời thầy đã dành trọn tâm huyết cho việc gìn giữ tiếng nói dân tộc.
Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng “tôi”, thầy Ha-men hiện lên thật chân thực từ điểm nhìn của nhân vật cậu học trò Phrăng. Ngoài ra, tác giả còn rất thành công khi khắc họa thầy Ha-men qua lời nói, hành động,…
“Buổi học cuối cùng” sẽ mãi in sâu trong lòng bạn đọc bởi câu chuyện xúc động của các em học sinh vùng An-dát. Qua đoạn trích, ta còn cảm nhận được tình yêu nghề, yêu tiếng nói dân tộc và yêu đất nước da diết ở thầy Ha-men. Cảm ơn nhà văn Đô-đê đã mang tới một tác phẩm giàu giá trị và ý nghĩa như vậy.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 33
“Bụng và Răng, Miệng, Tay, Chân” là một trong những sáng tác nổi tiếng của tác giả người Hy Lạp – Ê-dốp. Bốn nhân vật trung tâm gồm Tay, Chân, Răng, Miệng được nhà văn khắc họa vô cùng khéo léo. Thông qua hành động, lời nói của các nhân vật này, em đã tự rút ra những bài học ý nghĩa.
Trước hết, Răng, Miệng, Tay, Chân được giới thiệu là “mấy thành viên cơ thể”. Họ thực hiện các công việc khác nhau. Tay thì phụ trách gắp thức ăn. Răng lại làm nhiệm vụ xơi đồ ăn. Ai nấy đều cảm thấy bản thân phải cong lưng làm lụng còn anh Bụng chỉ việc “ung dung chén tràn”, ngồi chơi mà vẫn có ăn.
Chính bởi suy nghĩ đó mà tất cả đã đi đến thống nhất: nghỉ việc. Từ đây, ta thấy bốn thành viên cơ thể đều có thói tị nạnh, thiếu hiểu biết và suy nghĩ không thấu đáo. Trong quá trình họp bàn, cả bốn sôi nổi bày tỏ “Đình công được quyết định ngay/ Để anh Bụng phải chung tay cùng làm”. Ngay ngày hôm sau, Tay dừng việc gắp thịt, Miệng từ chối không xơi còn Răng thì ngồi chơi. Mọi việc cứ diễn ra theo đúng quyết định trước đó. Tuy nhiên, chỉ vài hôm sau, Tay, Chân và Miệng thấy mệt mỏi, rã rời vô cùng. Bọn chúng chẳng còn tí tẹo sức lực. Trông ai cũng ủ rũ như kẻ không hồn “Người rã rời, oặt ẹo đôi Tay/ Miệng khô, đắng ngắt cả ngày/ Chân không mang nổi thân gầy đói ăn”.
Sau tất cả, các thành viên đã thức tỉnh và hiểu ra sai lầm của bản thân. Cả bốn bộ phận đều nhận thấy anh Bụng không phải là kẻ lười biếng, ham ngủ mà cũng làm việc vất cả “chẳng được chơi phút nào”. Từ đây, Răng, Tay, Chân và Miệng bừng tỉnh về việc chung tay đoàn kết.
Bằng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, hình ảnh thân thuộc kết hợp cùng cách kể bằng văn vần, Ê-dốp đã khiến câu chuyện trở nên gần gũi với người đọc. Ngoài ra, tác phẩm còn để lại ấn tượng sâu đậm cho độc giả nhờ nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Các nhân vật là bộ phận trên cơ thể con người, được nhân hóa và khắc họa thông qua hành động, suy nghĩ.
Có thể nói, từ bốn nhân vật Răng, Miệng, Tay, Chân, Ê-dốp muốn nhắn nhủ tới tất cả mọi người việc sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc. Đặc biệt, trong một tập thể, chúng ta càng phải kết nối, gắn chặn với nhau hơn.
Qua truyện ngụ ngôn “Bụng và Răng, Miệng, Tay, Chân”, em nhận thấy bản thân cần ứng xử, hành động văn minh hơn nữa. Bốn nhân vật chính là tấm gương phản chiếu, giúp em hiểu ra tác hại, hậu quả của thói ghen tị, soi mói và so bì với người khác.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 34
Nhắc tới truyện ngụ ngôn, chúng ta không thể nào bỏ qua câu chuyện quen thuộc “Đẽo cày giữa đường”. Nhân vật người thợ mộc với sự thiếu hiểu biết, không có chính kiến đã để lại nhiều ấn tượng cho bạn đọc.
Trước hết, người thợ mộc này là kẻ có ý chí. Anh ta sẵn sàng bỏ ra toàn bộ vốn liếng để mua gỗ về. Anh ta muốn dùng số gỗ đó để đẽo cày bên vệ đường. Cuối cùng, người thợ mộc cũng thực hiện được mong ước của mình.
Tuy nhiên, sự thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức đã giết chết ý chí ở anh ta. Mỗi khi nghe người khác nhận xét, bàn luận, anh ta lại thay đổi theo lời nói đó. Lần thứ nhất, anh ta đẽo cày vừa cao, vừa to. Lần thứ hai, anh ta nhận thấy ý kiến của bác nông dân cũng hợp lí nên đẽo thấp và nhỏ hơn. Sau cùng, người thợ mộc vẫn chưa nhận ra sai lầm, tiếp tục nghe theo “Nghe được lãi nhiều, anh ta đem bao nhiêu gỗ còn lại đẽo tất cả loại cày để cho voi cày.”. Để rồi, anh ta đẽo ra vô vàn chiếc cày nhưng không bán được cái nào, vốn liếng thì dần cạn kiệt.
Như vậy, qua những chi tiết khắc họa hành động và suy nghĩ, ta thấy nhân vật này là kẻ không có chính kiến, lập trường vững vàng. Anh ta muốn làm giàu từ đôi bàn tay của mình nhưng chính việc thiếu hiểu biết đã dập tắt mong ước đó.
Bằng ngôn ngữ, hình ảnh thân thuộc, gần gũi, tình huống truyện đơn giản, tác giả dân gian đã sáng tạo nên một câu chuyện thú vị, dễ nhớ, dễ hiểu. Ngoài ra, nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật còn đến từ việc khắc họa nhân vật thông qua hành động, suy nghĩ.
“Đẽo cày giữa đường” đã mang tới cho bạn đọc hình dung cụ thể về một kiểu người thường thấy trong xã hội: ít hiểu biết nên dễ bị dao động, thay đổi. Từ những việc làm của nhân vật người thợ mộc, em nhận thấy bản thân phải biết sống có chính kiến, biết suy nghĩ toàn diện mọi vấn đề.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 35
Ếch ngồi đáy giếng” là một truyện ngụ ngôn quen thuộc với mỗi chúng ta. Hình ảnh con ếch trong truyện đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc. Thông qua hình tượng nhân vật này, em tự rút ra những bài học ý nghĩa về cách ứng xử và nhìn nhận vấn đề.
Ngay ở phần mở đầu, tác giả dân gian đã giới thiệu vài nét tiêu biểu về hoàn cảnh sống của con ếch. Nó sống trong một cái giếng, bên cạnh chỉ toàn những con vật bé nhỏ như cua, ốc, nhái. Có thể thấy, không gian sinh sống thật nhỏ bé, hạn hẹp.
Tiếp đến, tác giả dân gian tập trung khắc họa con ếch qua suy nghĩ, hành động. Con ếch trong câu chuyện là con vật cực kì hoang tưởng, hay ngộ nhận. Điều này được thể hiện rõ ràng qua việc nó đề cao bản thân “oai như một vị chúa tể”. Con ếch thường ngộ nhận, hiểu sai về chính mình. Nó hay cất tiếng kêu ồm ộp làm loài vật khác run sợ. Nó nghĩ đơn giản rằng bầu trời bao la ngoài kia chỉ bé như cái vung. Và hơn hết, nó tự nhận mình giống như vị chúa tể oai hùng. Đây quả là con vật có suy nghĩ hoang tưởng, đề cao bản thân thái quá. Bên cạnh đó, con ếch còn có tính cách trâng tráo, tự kiêu, thiếu hiểu biết. Nó hay làm ra những hành động xấu xí. Chính bởi bản tính kiêu căng, ngạo mạn nên khi ra khỏi cái giếng, nó vẫn nghênh ngang đi lại, bỏ ngoài mắt mọi thứ quanh mình. Cuối cùng, tính tự phụ của bản thân đã hại chết con ếch. Nó bị một chú trâu giẫm bẹp dí.
Với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, hình ảnh thân thuộc cùng nghệ thuật xây dựng nhân vật qua hành động, suy nghĩ, tác giả dân gian đã làm nổi bật hình ảnh con ếch. Từ đây, người xưa muốn gửi gắm bài học giá trị về việc sống khiêm tốn, không được kiêu ngạo, nghênh ngang.
Mỗi khi nhắc tới “Ếch ngồi đáy giếng”, ta sẽ không thể nào quên nhân vật con ếch có cái nhìn hạn hẹp, quen thói tự kiêu. Hình ảnh con ếch đã và đang nhắc nhở mỗi người cần sống, ứng xử văn minh, tốt đẹp hơn.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 36
“Em bé thông minh” là một trong những truyện cổ tích nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Tác phẩm đã đề cao trí tuệ nhân dân thông qua nhân vật em bé thông minh.
Nhân vật em bé trong truyện được đặt vào rất nhiều các thử thách. Lần thứ nhất là câu đố của viên quan đưa ra câu hỏi: “Trâu một ngày cày được mấy đường – câu trả lời của cậu bé: “Ngựa của ông một ngày đi được mấy bước”. Tiếp đến, vua đưa ra câu đó với dân làng “Phải nuôi ba trâu đực để chúng thành chín con”, thì cách giải quyết của cậu bé là khóc lóc, trình bày với vua rằng cha không chịu đẻ em bé. Mục đích là để cho vua thừa nhận yêu cầu của mình là vô lí. Lần thứ ba, vua lại đặt ra thử thách phải sẻ một con chim sẻ làm thành ba mâm cỗ – câu trả lời: một chiếc kim may làm thành con dao xẻ thịt chim. Cuối cùng là câu đố của sứ giả nước láng giềng: phải xâu được một sợi chỉ qua con ốc. Cậu bé đã giải quyết bằng cách hát một bài đồng dao có câu trả lời: buộc sợi chỉ vào con kiến, một bên bịt lại, bôi mỡ một bên, kiến sẽ mang sợi chỉ sang.
Việc tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ được tài năng, phẩm chất và trí thông minh của mình. Đây là một yếu tố không thể thiếu với truyện cổ tích kiểu nhân vật thông minh. Đồng thời, các thử thách cũng nhằm tạo tình huống cho sự phát triển tính cách của nhân vật cũng như sự phát triển của cốt truyện.
Với mỗi thử thách, em bé đều có cách giải quyết của cậu bé đầy thú vị. Đó là dùng cách “gậy ông đập lưng ông”, để người đưa ra câu đố tự cảm thấy phi lý. Cách giải quyết thể hiện kinh nghiệm đời sống phong phú. Có thể thấy rằng cách giải quyết của cậu bé đầy thú vị: dùng cách “gậy ông đập lưng ông”, để người đưa ra câu đố tự cảm thấy phi lý. Cách giải quyết thể hiện kinh nghiệm đời sống phong phú.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 37
Nhân vật thầy giáo Đuy-sen giàu tình yêu thương và hi sinh cho học trò trong đoạn trích Người thầy đầu tiên, là nhân vật văn học mà em yêu thích nhất.
Trong đoạn trích, người thầy giáo hầu như không được miêu tả về ngoại hình, mà chủ yếu hiện lên qua những hành động cụ thể. Chỉ một chi tiết duy nhất nói về dáng vẻ của thầy khi thầy gặp các học trò của mình thì lại là vẻ dính đầy bùn đất. Nhưng điều đó không hề khiến người đọc cảm thấy chê trách gì thầy. Mà trái lại càng thêm yêu quý thầy hơn.
Bởi vì thầy lấm lem như vậy, là do đã tự mình sửa sang lại lớp học, cắt rạ trải nền để cho học sinh được học trong sự ấm áp. Để cho các bạn học sinh băng qua suối đến lớp không bị ướt, bị rét, thầy Đuy-sen còn cõng rồi bế các bạn qua suối. Và còn đắp đất thành những ụ nhỏ cho các bạn dẫm lên đi qua suối nữa. Đôi chân trần của thầy dẫm dưới dòng nước buốt nhưng chẳng ảnh hưởng đến hành động của thầy. Ngay cả những lời cười chê của bọn nhà giàu cũng chẳng khiến thầy lay chuyển.
Sự hy sinh cao cả ấy của thầy Đuy-sen còn hơn cả bao lời mật ngọt. Chính chúng đã thể hiện sâu sắc nhất tình yêu thương và đức hi sinh cao cả của thầy dành cho những người học trò nhỏ của mình.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 38
Đọc truyện ngắn Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, em rất ấn tượng về nhân vật người bố. Ông là một người cha tuyệt vời với những phẩm chất tốt đẹp và cao thượng.
Người cha xuất hiện qua lời kể của nhân vật tôi, với một hình tượng cao lớn và ấm áp. Ông đã truyền cho con trai mình tình yêu chan hòa với thiên nhiên, cây cối xung quanh mình. Ông không truyền những tình cảm ấy một cách sáo rỗng, mà gửi gắm qua những trò chơi thú vị trong chính khu vườn của gia đình. Ông dạy cho con trai mình cách cảm nhận, nhìn ngắm và dạo chơi trong khu vườn bằng khứu giác, bằng vị giác, chứ không chỉ bằng thị giác như thông thường. Nhờ vậy, mà cậu bé đã cảm nhận thiên nhiên bằng cả trái tim và tâm hồn mình. Rồi từ đó, bằng một cách bình dị mà cậu yêu thiên nhiên như một người bạn thân thiết.
Người bố không chỉ làm cha, mà ông còn là một người thầy, một người bạn của con trai mình. Ông đồng hành cạnh bên con trong từng bước trưởng thành của cuộc đời. Ông không chỉ dạy con cách yêu và cảm nhận thiên nhiên, mà còn dạy cho con những điều hay lẽ phải của cuộc sống qua những điều nhỏ nhặt. Tựa như khi ông ân cần giải thích cho con về giá trị của một món quà. Không phải một món quà đắt tiền mới là quý giá. Mà những món quà chứa đựng tâm sức, tình cảm của người tặng mới thực sự quý giá, như trái ổi được lựa chọn kĩ lưỡng, hay một nụ hôn chúc ngủ ngon. Sự sâu sắc và thấu hiểu của tâm hồn người cha đã thể hiện trọn vẹn qua bài học này. Sự gần gũi giữa người bố dành cho con trai mình, còn thể hiện qua những bí mật của riêng hai người. Cái nháy mắt ngầm hiểu của ông với con trai trước người khác, về bí quyết nghe được những âm thanh từ xa khiến em cảm nhận được mối quan hệ sâu sắc của hai cha con họ. Tất cả đã được tạo nên bởi một người bố quá đỗi yêu thương con và giàu sự thấu hiểu.
Không chỉ là một người cha tuyệt vời, người bố trong đoạn trích còn hiện lên với dáng vẻ của một con người mạnh mẽ, cao thượng. Điều đó thể hiện qua hành động ông thả vội bát cơm, chạy vụt ra sông để nhảy xuống nước cứu cu Tí bị đuối nước. Hành động mạnh mẽ và dứt khoát ấy thể hiện bản lĩnh và tình yêu thương con người của ông. Có lẽ chính vì vậy mà ông được mọi người yêu quý, trân trọng. Được bạn của con trai thường ưu ái mang sang tặng những quả ổi ngon nhất. Và cách ông nâng niu những món quà nhỏ bé ấy lại càng khẳng định thêm cho nhân cách cao đẹp ấy.
Có thể nói, nhân vật người bố trong đoạn trích Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ là một biểu tượng tuyệt vời về hình tượng người cha trong lòng em. Ông ấy là một vầng sáng ấm áp và vững chãi đồng hành bên cạnh con trai của mình, giúp con có một tuổi thơ tươi đẹp.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 39
Trong truyện ngắn Bầy chim chìa vôi của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, thì Mên là nhân vật mà em có ấn tượng sâu sắc nhất.
Mên là một đứa trẻ có trái tim ấm áp, giàu tình yêu thương dành cho loài vật. Tình cảm ấy đã được thể hiện rõ nét qua sự lo lắng, quan tâm và yêu quý mà em dành cho những chú chim chìa vôi non. Trong đêm mưa gió, Mên cùng với em trai của mình là Mon bất chấp những nguy hiểm và khó khăn để cùng nhau chèo đò ra bờ sông để tìm xem tình hình của những chú chim non. Trong khoảnh khắc như huyền thoại – những chú chìa vôi cất cánh bay lần đầu tiên trong đời, Mên đã tập trung và chăm chú đến mức cả cơ thể như đang ngùn ngụt tỏa hơi nóng. Trái tim của em như hòa làm một với những chú chim bé bỏng kia. Để khi chúng run rẩy vỗ cánh, tim em cũng run rẩy theo. Khi cánh chim hẫng một nhịp, rơi xuống mặt nước, em cũng hẫng cùng. Và khi chú chim bình an bay vụt lên, sà vào bờ cát, thì em cũng sung sướng reo hò theo, đến rơi cả nước mắt. Những chi tiết ấy đã khắc họa rõ nét một tâm hồn tràn ngập tình yêu thương dành cho động vật của Mên.
Ở nhân vật Mên, còn xuất hiện cùng lúc hai đặc điểm thú vị tương phản nhau. Đó chính là nét trẻ con và sự trưởng thành. Hình dáng trưởng thành của Mên thể hiện qua sự cương quyết trong lời nói với em trai “Chứ còn sao”, “Nào xuống đó được rồi đấy”, “Phải kéo về bến chứ, không thì chết”. Thể hiện qua sự mạnh mẽ trong hành động “quấn cái dây buộc đò vào người nói và gò lưng kéo””. Cùng với đó, ở Mên cũng có sự trẻ con, khi cũng biết sợ bị bố phát hiện lén ra bờ sông trong đêm mưa.
Chính những đặc điểm ấy, đã kết hợp cùng nhau, tạo nên một nhân vật Mên đặc biệt, khó nhầm lẫn với các nhân vật khác trong truyện ngắn Bầy chim chìa vôi.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 40
Trong truyện ngắn Bầy chim chìa vôi của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, em đặc biệt yêu thích nhân vật Mon – một cậu bé với trái tim giàu tình yêu thương động vật.
Mon là con út trong gia đình. Cậu luôn dành tình yêu thương và sự tin tưởng lớn lao dành cho anh trai Mên của mình. Điều đó thể hiện rõ nét qua các lời thoại của nhân vật này. Cậu luôn gọi “Anh ơi”, “Anh Mên” trước khi nói bất cứ điều gì. Và khi đưa ra hành động giải cứu bầy chim trong đêm, cậu bé cũng gọi anh đi cùng mình.
Đặc biệt nhất ở nhân vật Mon, chính là trái tim ấm áp của cậu. Ẩn sau thân hình bé nhỏ, là một tâm hồn lớn lao và dũng cảm. Cậu dám giấu bố để thả con cá bống đi. Đặc biệt, cậu đã bất chấp nguy hiểm trong đêm mưa gió, để cùng anh trai ra bờ sông giải cứu những chú chim chìa vôi non. Cậu bé đã lo lắng, thấp thỏm cùng những nhịp cảnh bay non nớt kia, để vỡ òa hạnh phúc đến bật khóc nức nở khi chúng bình an vào bờ.
Chính tâm hồn tràn ngập tình yêu thương dành cho những chú chim nhỏ bé ấy của Mon, đã khiến em trở nên thật đẹp và giàu có. Ở em, có một trái tim nhân hậu mà ai cũng yêu quý và kính nể
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 41
Đọc truyện ngắn Bầy chim chìa vôi của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, em thích nhất là nhân vật cậu bé Mon.
Mon là một cậu bé tuy nhỏ tuổi, nhưng lại có trái tim yêu thương động vật vô cùng mạnh mẽ và to lớn. Tình cảm ấy được thể hiện rõ nét qua từng hành động và lời thoại của em. Như khi thấy bố bắt được con cá bống, Mên đã lén bắt cá và thả đi. Dù em khá sợ bố, nhưng cũng chẳng hề hấn gì tới việc em “giải cứu” cho chú cá cả. Tình yêu thương động vật của Mon, thể hiện rõ nhất là đối với tổ chim chìa vôi non ở bãi cát giữa sông. Giữa đêm mưa gió, em tỉnh giấc không ngủ được vì lo cho bầy chim non. Bao suy nghĩ của em đều xoay quanh những chú chim ấy, lo chúng bị ướt, lo chúng bị nhấn chìm. Là một đứa trẻ, những suy nghĩ của em dễ bị phân tán, nhưng rồi em vẫn quay về tiếp tục hỏi anh Mên về đàn chim non. Chính em còn quyết tâm rủ anh Mên cùng nhau đi ra bờ sông giữa đêm mưa gió, bất chấp nguy hiểm để “mang chúng nó vào bờ”. Sự quyết tâm ấy của Mon khiến em vô cùng nể phục. Bởi ẩn sau một cơ thể bé nhỏ lại là một tinh thần dũng cảm và trái tim to lớn đến thế.
Bên cạnh đó, nhân vật Mon cũng là một người em trai hết sức yêu quý và tin tưởng anh mình. Trong truyện ngắn, hầu hết các lời thoại của nhân vật đều bắt đầu bằng cụm từ “Anh ơi”, “Anh Mên”. Lúc nào Mon cũng gọi anh của mình bằng sự tin yêu và gắn bó. Trong tình huống khó khăn, em đặt trọn niềm tin ở anh trai mình, và rất mong có anh ở bên, cùng đồng hành. Điều đó khiến em vô cùng cảm động trước tình cảm anh em thân mật của Mon dành cho Mên.
Nhờ những đặc điểm ấy, mà nhân vật Mon đã khiến em vô cùng yêu quý và ấn tượng, ngay từ lần đọc truyện đầu tiên.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 42
Cậu bé An trong đoạn trích Đi lấy mật, là một nhân vật mà em rất yêu quý và ấn tượng ngay từ lần đầu tiên đọc tác phẩm.
An là một cậu bé với tình yêu dành cho thế giới thiên nhiên xung quanh minh vô cùng cháy bỏng. Đồng thời, ở cậu cũng luôn rạo rực khát khao được học hỏi và khám phá những cái mới. Nét tính cách này đã được thể hiện rõ qua hành trình đi lấy mật của An cùng cha nuôi và thằng Cò. Trong hành trình lấy mật, An chăm chú và tận hưởng mọi thứ xung quanh mình bằng cả tâm hồn và mọi giác quan. Cậu “đảo mắt khắp nơi” khi nghe lời kể của thằng Cò, rồi nhìn chăm chú, “mắt không rời khỏi tổ ong” mà cha nuôi chỉ. Dù mệt nhọc, vất vả khi lần đầu đi rừng, An vẫn không hề than thở một lời, quyết tâm theo mọi người tiến về phía trước. Tinh thần ấy của cậu bé khiến em vô cùng khâm phục. Tình yêu thiên nhiên ở An được thể hiện rõ nét qua sự thích thú của cậu khi lần đầu được đi “săn ong”. Qua sự thán phục, chăm chú lắng nghe khi cha nuôi và thằng Cò kể về rừng cây, về loài ong mật. Rồi lại ngây ngất trước vẻ đẹp của núi rừng.
Ở nhân vật An, em còn thấy những nét tính cách trẻ con, tinh nghịch rất thú vị, Khi cậu “chen vào giữa, quẩy tòn ten một cái gùi bé” để theo cha nuôi vào rừng. Rồi lại giận dỗi thằng Cò khi bị nó trêu chọc. Nhưng An giận nhanh mà quên cũng nhanh, chẳng mấy mà cậu lại tíu tít với thằng Cò như trước.
Những đặc điểm ấy đã cùng nhau tạo nên sự thú vị và hấp dẫn cho nhân vật vật An nói riêng cũng như đoạn trích Đi lấy mật nói chung.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 43
Đọc đoạn trích Đi lấy mật, em rất ấn tượng với nhân vật An.
An là một cậu bé nhỏ tuổi, có lòng khát khao hướng đến thiên nhiên. Chính vì vậy, mà cậu đã cùng cha nuôi và thằng Cò vào rừng để xem cảnh săn ong. Cậu chăm chú quan sát và cảm nhận từng cảnh vật, ngọn cây trên đường đi, và phải trầm trồ không ngớt bởi vẻ đẹp hoang sơ, kì vĩ của rừng U Minh. Tinh thần ham học hỏi của An, thể hiện qua chi tiết cậu tự so sánh những điều mà má nuôi mình – một người dân sống ở vùng rừng núi kể với những điều mình đọc được trong sách. Sự tư duy ấy khiến cậu tò mò không hiểu vì sao ở đoạn rừng này lại không hề có tiếng chim chóc kêu.
Không chỉ vậy, An còn là một cậu bé ngoan ngoãn, luôn yêu thương và kính trọng người thân của mình. Tuy ba má nuôi không phải là người sinh ra mình, nhưng An vẫn rất yêu quý, và nghĩ về ba má bằng những suy nghĩ tốt đẹp và nghe theo từng lời dạy bảo. Đặc biệt, cậu rất thân với thằng Cò. Tuy thằng Cò là một đứa trẻ lớn lên ở nơi rừng núi, nhưng An vẫn rất thân thiết, thậm chí là ngưỡng mộ khả năng đi rừng của Cò. Tuy có đôi lúc giận dỗi, nhưng đó cũng chỉ là thoáng qua của những đứa trẻ nghịch ngợm mà thôi.
Có thể nói, An là hiện diện của một đứa trẻ tuổi mới lớn, với trái tim đầy ắp yêu thương và tình cảm trong sáng. Cậu sống chan hòa với người thân, hòa mình vào thiên nhiên xung quanh mình và cảm nhận tất cả bằng tâm hồn rộng mở.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 44
Nhân vật người bố trong đoạn trích Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ là một người bố tuyệt vời.
Ông là một người có hiểu biết sâu rộng và suy nghĩ sâu sắc. Điều đó thể hiện qua những chi tiết nhỏ, như cách ông dạy cho con trai chơi những trò chơi khám phá thiên nhiên khu vườn bằng các giác quan mới, cách ông cấp cứu cấp tốc cho thằng Tí khi nó bị đuối nước. Đặc biệt, sự sâu sắc trong trí tuệ của người bố được khẳng định qua chi tiết ông chia sẻ cách nghĩ của mình về giá trị của những món quà. Không phải một món quà đắt tiền mới là giá trị. Mà chính những món quà nhỏ, giản dị, nhưng chứa đựng tình cảm chân thành nhất thì mới có giá trị to lớn. Cách lý giải của người bố đã khiến em rất xúc động và thán phục.
Người bố còn hội tụ những phẩm chất vô cùng tốt đẹp khác. Như là một người dũng cảm và mạnh mẽ. Ngay khi biết tin có người đuối nước, ông liền quăng chén cơm rồi băng vườn chạy ra, lao ngay xuống nước cứu người. Ông cũng là một người giàu tình yêu thương thiên nhiên, cây cỏ và luôn muốn gắn kết, dẫn dắt cho con trai mình hòa vào với thiên nhiên. Và tất nhiên, ông cũng là một người bố tuyệt vời, luôn yêu thương và gắn bó với con trai mình. Chính ông vừa là cha, vừa là thầy và cũng vừa là bạn của con trai. Cùng con lớn lên mỗi ngày.
Nhân vật người bố trong đoạn trích Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, thực sự là một người bố tuyệt vời. Đọc truyện, em cảm giác như mình đang được gặp gỡ và đắm mình trong tình yêu thương dịu dàng của bố vậy.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 45
Đọc đoạn trich Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, em đặc biệt ấn tượng và yêu thích nhân vật người bố.
Người bố trong câu chuyện là một người bố tuyệt vời vô cùng. Ông ấy yêu thương con trai bằng cả trái tim mình. Ông ở bên con vừa với tư cách của một người cha, vừa với tư cách của một người thầy, một người bạn. Ông dạy cho con trai mình cách dùng khứu giác rồi thính giác để cảm nhận, phân biệt thế giới xung quanh mình qua những trò chơi ngộ nghĩnh và thú vị. Mỗi khi con trai thành thạo trò chơi này, ông lại nghĩ ra một trò chơi khác. Chính từ các trò chơi vui vẻ ấy, ông đã truyền cho con trai mình tình yêu thương và hòa nhập với thiên nhiên xung quanh mình.
Em ấn tượng nhất về bài học mà người bố dạy cho con trai mình về những món quà. Cách ông giải thích về giá trị thực sự của một món quà khiến em rất bất ngờ và cảm động. Đích thực, một món quà đẹp là vì tình cảm của người nhận và người trao, chứ không phải vì bất kì lý do nào khác. Cách lý giải ấy đã cho thấy được sự cao thượng, lớn lao trong suy nghĩ của nhân vật người cha.
Đặc biệt, ở ông còn có cả sự mạnh mẽ và dũng cảm vô cùng. Khi ông đã vọt ra bờ sông, nhảy xuống và cứu sống thằng Tí bị đuối nước. Hành động vừa nhanh chóng lại dứt khoát cho thấy một người anh hùng trong đời thực đang hiện diện trong cơ thể người cha ấy. Ông còn khéo kéo chổng ngược hai chân thằng Tí dốc xuống để sơ cứu cho nó nữa chứ. Chi tiết ấy đã khẳng định cho cả trí tuệ và sự hiểu biết của nhân vật.
Với tất cả những phẩm chất tốt đẹp ấy, nhân vật người bố đã trở thành một biểu tượng về nhân vật người bố trong tâm trí người đọc.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 46
Trong đoạn trích Người thầy đầu tiên, em đặc biệt ấn tượng với nhân vật thầy giáo Đuy-sen.
Thầy Đuy-sen là một người thầy giáo mẫu mực, giàu lòng yêu thương và hi sinh cho những người học trò nhỏ của mình. Trong mùa đông gió rét với tuyết rơi trắng xóa. Thầy tự mình đắp tường, trải rơm cho lớp học khiến cả người mình lấm len bùn đất. Vậy nhưng thầy vẫn đón tiếp những người học trò của mình bằng nụ cười tươi ấm áp. Để giúp các bạn nhỏ đến trường, thầy đã bất chấp lạnh lẽo, cõng các bạn lội qua con suối, rồi còn đắp đất thành các ụ nhỏ cho các bạn đi qua không bị ướt nữa. Tinh thần hi sinh cao cả ấy của thầy khiến em vô cùng xúc động.
Đặc biệt, thầy Đuy-sen còn hiện lên với vẻ hiền từ, kiên nhẫn và tinh tế. Khi nghe được An-tư-nai là trẻ mồ côi, thầy đã liền thay đổi chủ đề câu chuyện để tránh làm cô bé buồn rầu. Rồi khi thấy bọn nhà giàu đầu đội mũ lông cáo đỏ cười cợt, chê bai mình, thầy chỉ nhẫn nhịn, rồi tìm cách kể câu chuyện cười cho học trò để các em quên đi những điều tiêu cực.
Chao ôi, thật vĩ đại biết bao tấm lòng người thầy giáo. Sự hi sinh và che chở của thầy Đuy-sen đã giúp không chỉ các bạn nhỏ mà còn cho cả những người đọc được sưởi ấm trong tình yêu thương vô bờ của thầy.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 47
Thầy giáo Đuy-sen là một người thầy giáo tuyệt vời và vĩ đại. Chân dung của thầy hiện lên sáng ngời qua lời kể của người học trò nhỏ An-tư-nai đã khắc sâu vào tâm trí của người đọc.
Thầy Đuy-sen là một người giáo viên, nhưng những lần xuất hiện của thầy đều thật mộc mạc và giản dị, thậm chí là tuềnh toàng. Lần đầu tiên gặp mặt, thầy xuất hiện từ trong trường với cơ thể bê bết đất, mồ hôi đầy mặt và nụ cười niềm nở trên môi. Nụ cười ấy của thầy đã giúp cho những đứa trẻ nhỏ bớt ngại ngùng và lo âu. Nhưng sự vĩ đại của thầy, thì thể hiện rõ nhất ở những điều mà thầy đã làm cơ. Thầy tự mình đắp lò sưởi và bắc ống khói, rồi trải rơm dưới nền nhà cho lớp học. Trong tiết trời lạnh lẽo với những trận tuyết đầu mùa, thầy đã bé, cõng các em nhỏ lội qua dòng suối để đến trường. Thầy lấy đá và những tảng đất để cố đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối cho các bạn nhỏ đi qua cho khỏi bị ướt chân. Dù thầy đi chân không trên dòng nước buốt đến chết cóng đi được nhưng vẫn làm không hề ngơi tay, để các em nhỏ sớm ngày đến lớp.
Không chỉ giàu tình yêu thương và hi sinh cho các học trò của mình. Thầy Đuy-sen còn có một trái tim tinh tế, khi nhiều lần xử lí tình huống khéo léo vô cùng. Như lúc nhỡ lời hỏi về bố mẹ của An-tư-nai, vừa biết cô bé là trẻ mồ côi, đã lập tức đổi chủ đề và nhờ cô một việc khác. Hay khi thầy dẫn học sinh qua suối và bị bọn nhà giàu cười nhạo. Để các bạn nhỏ không phải buồn, thầy đã nghĩ ra một chuyện vui nào đó khiến cả lũ phá lên cười, quên mất mọi sự.
Thầy giáo Đuy-sen đã hiện lên qua kí ức của cô học trò nhỏ toàn vẹn như thế đó. Thầy có trái tim vĩ đại giàu tình yêu thương và đức hi sinh cao cả. Chính thầy đã thắp lên tương lai cho các em nhỏ đến trường, trong đó có cả An-tư-nai.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 48
Trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, nhân vật mà em yêu thích nhất chính là cụ Bơ-mơn.
Cụ Bơ-mơn là một họa sĩ già với đam mê hội họa cháy bỏng. Cả đời cụ lúc nào cũng khao khát có thể vẽ nên một kiệt tác để đời. Tuy nhiên, cuối cùng cuộc đời cụ đã kết thúc sau một đêm mưa bão. Cụ đã thiêu đốt sinh mệnh của mình, bất chấp nguy hiểm về tính mạng để vẽ lên chiếc lá cuối cùng cho cây khô trước cửa sổ phòng bệnh Giôn-xi. Bởi cô không còn động lực sống nào cả, chỉ gửi gắm tính mạng mình theo những chiếc lá ngoài kia. Vậy nên, cụ Bơ-mơn đã dồn hết tất cả những gì mình có vào chiếc lá ấy cùng tình thương sâu sắc cụ dành cho gái trẻ với ước mong cứu được cô. Chính nhờ vậy, cụ không chỉ giúp Giôn-xi lấy lại được niềm tin của cuộc sống. Mà còn tạ nên được một tác phẩm vĩ đại. Tác phẩm ấy mang theo những yêu thương, nhân hậu của một tấm lòng cao cả, vượt lên những giá trị thông thường. Và nó là cầu nối, để cho Giôn-xi tiếp bước cụ Bơ-mơn thực hiện những hoài bão còn dang dở trong tương lai.
Với tấm lòng nhân hậu và trái tim cao cả, cụ Bơ-mơn thực sự đã trở thành một biểu tượng lớn lao trong lòng người đọc hôm nay và mai sau.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 49
Trong truyện Chiếc lá cuối cùng, cụ Bơ-mơn là nhân vật mà em ấn tượng và yêu quý nhất.
Trước hết, chính bởi vì cụ có một trái tim giàu tình yêu thương và đức hi sinh cao cả. Trong đêm mưa bão, cụ Bơ-mơn đã bất chấp tất cả để hoàn thành nên kiệt tác chiếc lá cuối cùng trước cửa sổ phòng bệnh của Giôn-xi. Chính chiếc lá ấy đã đem đến sự sống cho cô gái vốn đã sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi không trở về nữa. Trong cơn gió bão, mưa lạnh, cụ Bơ-mơn vẫn kiên cường để vẽ từng nét bút, từng đường nét sao cho chiếc lá ấy thật giống như chiếc lá cuối cùng vốn còn sót lại hôm qua. Chính tấm lòng nhân hậu, quyết tâm cứu người của cụ đã thổi hồn cho chiếc lá ấy trở thành một kiệt tác nghệ thuật.
Cùng với đó, ở cụ Bơ-mơn còn cháy sáng một trái tim của người họa sĩ luôn khát khao cống hiến. Tất cả những tài hoa, hi vọng, tình yêu và sự sống của cụ đã được cụ thổi hết vào tác phẩm cuối cùng của mình là chiếc lá. Cụ không chỉ truyền cho Giô-xi niềm tin vào cuộc sống mà còn truyền cho cô những hi vọng và đam mê cháy bỏng với nghệ thuật.
Có thể nói, cụ Bơ-mơn là một hiện thân trọn vẹn của con người nghệ sĩ chân chính. Với trái tim luôn thổn thức vì nghệ thuật và luôn ấm áp tình yêu thương con người.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 50
Nhân vật Thánh Gióng trong truyền thuyết Thánh Gióng là một biểu tượng về hình tượng người anh hùng trong văn hóa dân gian nước ta.
Thánh Gióng là người anh hùng xuất phát từ nhân dân, của nhân dân. Bởi vì chàng xuất hiện khi đất nước lâm nguy, và chỉ cất tiếng gọi đầu tiên khi nghe thấy lời kêu gọi của sứ giả. Có thể nói, lý do mà Thánh Gióng xuất hiện chính là đánh giặc cứu nước. Với sứ mệnh cao cả ấy, chàng sinh ra và lớn lên với nhiều điều kì lạ.
Thánh Gióng còn là người anh hùng của nhân dân, sinh ra từ nhân dân. Bởi để nuôi chàng lớn lên, cả làng đã cùng nhau góp gạo thổi cơm, rồi may áo cho chàng mặc. Sự lớn lên của chàng, là sự góp sức của toàn thể nhân dân. Sức mạnh của chàng là sự đoàn kết của toàn dân. Nhờ vậy, đã tạo nên một Thánh Gióng dũng mãnh phi thường, không kẻ thù nào địch nổi.
Người anh hùng Thánh Gióng là hình tượng người anh hùng trong lòng nhân dân ta. Với sức mạnh lớn lao, chiến đấu vì hoàn bình của dân tộc. Người anh hùng ấy dù thời gian trôi qua, vẫn sẽ sống mãi trong trái tim của người dân Việt ta.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 51
Trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa, nhân vật mà em yêu thích nhất là cậu bé Sơn. Bởi vì cậu có một trái tim vô cùng ấm áp và nhân hậu.
Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng ở Sơn có một tình yêu thương vô cùng to lớn. Điều đó thể hiện qua từng chi tiết nhỏ trong câu chuyện. Như khi Sơn di chuyển về phía mẹ, đã “kéo chăn lên đắp cho em” đang ngủ say. Đặc biệt, sự nhân hậu của cậu bé được thể hiện rõ nhất qua cách cậu đối xử với cô bé nhà nghèo là Hiên.
Vốn là con của một gia đình khá giả, nhưng Sơn vẫn chơi cùng Hiên đứa trẻ nhà nghèo mà không hề có sự phân biệt đối xử hay coi khinh cô bé. Cậu xem cô bé là bạn và cùng nhau chơi đùa. Khi thấy Hiên chỉ mặc chiếc áo cũ rách dù trời rất rét, cậu đã rủ chị Lan về lấy cái áo bông cũ ở nhà chi Hiên mặc. Hành động ấy cho thấy tấm lòng giàu tình yêu thương và biết chia sẻ cho hoàn cảnh khó khăn của Sơn. Dù sau này, vì sợ bị mẹ mắng nên Sơn có tìm cách gặp Hiên để lấy lại áo, thì đó cũng chỉ là nỗi lo sợ của đứa trẻ con thơ ngây mà thôi.
Từ đó, em cảm nhận được ở nhân vật Sơn một trái tim ấm áp vô cùng. Chính tình yêu thương, chia sẻ của Sơn đã sưởi ấm cho không chỉ cô bé Hiên, mà còn cho cả người đọc nữa trong những ngày trời đông giá rét.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 52
Thánh Gióng là người anh hùng mang tính biểu tượng của dân tộc Việt Nam ta suốt bao đời nay.
Theo truyền thuyết, Thánh Gióng có sự ra đời và lớn lên vô cùng kì lạ, khác hẳn với người thường. Cậu chỉ cất tiếng nói đầu tiên và lớn lên khi đã nhận nhiệm vụ đánh giặc cứu nước. Chi tiết ấy cho thấy sứ mệnh lớn lao của nhân vật này khi xuất hiện trên trần gian. Đặc biệt, Thánh Gióng lớn lên nhờ tình yêu thương, đùm bọc của bà con xóm làng. Cả làng cùng góp gạo thổi cơm, may áo nuôi gióng lớn. Thế nên chúng ta có thể khẳng định được, Gióng là người anh hùng của nhân dân, sinh ra từ nhân dân, đại biểu cho sức mạnh đoàn kết của nhân dân ta.
Sau khi nhận ngựa sắt, giắp sắt, gậy sắt, Thánh Gióng dũng mãnh lao về phía giặc Ân. Một mình chàng tả xung hữu đột, mạnh mẽ đánh cho lũ giặc không cách nào phản kháng. Khi gậy sắt gãy, Gióng nhổ bụi tre ngà để tiếp tục giết giặc. Quyết không bỏ sót kẻ nào trên lãnh thổ nước ta. Sự dũng mãnh, thiện chiến ấy của Thánh Gióng chính là biểu tượng của sức mạnh yêu nước mạnh liệt. Cuối cùng sau khi quét sạch giặc Ân, hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, Gióng cưỡi ngựa và bay về trời.
Nhân vật Thánh Gióng với các chi tiết kì ảo, là hiện thân của hình tượng người anh hùng cứu nước trong lòng nhân dân. Đó là người anh hùng mạnh mẽ, xuất hiện khi đất nước lâm nguy và là đại diện cho tinh thần đoàn kết của nhân dân.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 53
Nhân vật Sơn trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của nhà văn Thạch Lam là một nhân vật có trái tim nhân hậu mà em vô cùng yêu quý.
Sơn là con trai của một gia đình có điều kiện. Cậu được mẹ yêu chiều, mua cho những chiếc áo len đắt tiền ở Hà Nội. Cậu cũng có bà vú già quan tâm chăm sóc. Dù vậy, Sơn không hề sinh hư mà vẫn luôn ngoan ngoãn, yêu thương mọi người. Điều đó thể hiện qua hành động kéo chăn cho em ngủ, hay nhẹ nhàng sờ lên chiếc áo cũ của em Duyên đã mất và nhớ về em. Đặc biệt là qua các Sơn đối xử với Hiên.
Cậu chơi với Hiên như với một người bạn thân thiết, mà không hề xem thường cô dù cô là cô bé nhà nghèo. Khi thấy Hiên đứng co ro tím tái trong trời đông giá rét, Sơn thấy động lòng thường, nên rủ chị Lan lấy cái áo bông cũ cho Hiên mặc. Hành động và suy nghĩ ấy cho thấy một trái tim giàu tinh yêu thương và chia sẻ lớn lao trong một cơ thể bé nhỏ.
Qua những chi tiết ấy, em thêm yêu thương và cảm mến cậu bé Sơn. Và mong sao, trong cuộc sống này sẽ có thêm nhiều trái tim ấm áp như thế trong những ngày mùa đông lạnh giá.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 54
Chú bé Phrăng trong buổi học cuối cùng của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê là một nhân vật đặc biệt để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Mở đầu đoạn trích ta thấy Phrăng hiện lên là một cậu bé vô tư, hồn nhiên và có phần hơi lười học, thỉnh thoảng cậu còn trốn học để đi chơi.
Thế nhưng cậu cũng là một đứa trẻ vô cùng nhạy cảm. Cậu bé vô lo vô nghĩ ấy đã dễ dàng nhận ra sự khác lạ đang diễn ra xung quanh mình. Và hơn hết chú cũng là một công dân vô cùng yêu nước. Tình yêu nước tha thiết được thể hiện rất rõ trong buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp. Khi nghe thầy giảng bài, cậu bỗng thấy yêu tiếng Pháp đến lạ, thấy những bài giảng của thầy hôm nay thật dễ hiểu.
Và khi nghe thầy nói rằng từ nay trở đi cậu không còn được học tiếng Pháp nữa thì bỗng dung cậu thấy choáng váng, ân hận vì trước đây đã mải chơi. Diễn biến tâm trạng của Phrăng cho thấy ở cậu có một tình yêu nước mãnh liệt.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 55
Trong chương trình Ngữ Văn 7, em đã được tìm hiểu rất nhiều những tác phẩm văn học đặc sắc, những nhân vật văn học ấn tượng. Trong đó, em đặc biệt ấn tượng với nhân vật Võ Tòng, trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng
Không ai biết chú Võ Tòng tên thật là gì? Quê quán ở đâu? Người ta chỉ biết chú có tên là Võ Tòng từ khi chú giết chết một con hổ chúa hung bạo. Hai hố mắt sâu hoắm và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua, long lại, sắc như dao;…Chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt. Ngoại hình của chú thật phóng khoáng thể hiện sự mãnh mẽ gan dạ.
Cuộc đời của chú Võ Tòng thật bất hạnh, khi chú phải chịu nỗi oan ức thê thảm đã đẩy chú vào ngục tù. Trước khi đi tù, chú có gia đình đàng hoàng, vợ là người đàn bà xinh xắn. Lúc vợ chửa đứa con đầu lòng, vì thèm ăn măng. Chú bèn xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụi măng. Khi về, đi qua bờ tre nhà tên địa chủ, chú bị tên địa chủ vu vạ cho là ăn trộm. Chú cãi lại, tên địa chủ đánh vào đầu chú, chú đánh lại và tự lên nhà việc nộp mình. Sau khi ra tù, vợ chú đã làm lẽ tên địa chủ. Đứa con trai độc nhất chú chưa biết mặt đã chết từ khi chú ngồi trong tù. Chú không đi tìm tên địa chủ để quyết đấu mà bỏ làng ra đi vào rừng ở quanh năm săn bắt thú.
Chú Võ Tòng là người mạnh mẽ, gan dạ lại có tinh thần yêu nước sâu sắc. Được thể hiện trong cuộc chiến đấu với con hổ chúa. Khi đánh lại tên địa chủ và dũng cảm ra nhà việc nhận tội. Khi sẵn sàng làm nỏ tẩm thuốc cho ông Hai để bắn quân giặc.
Như vậy, chú Võ Tòng là nhân vật tiêu biểu đại diện cho những người dân Nam Bộ, phóng khoáng, mạnh mẽ, gan dạ, có tinh thần yêu nước nồng nàn, da diết
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 56
Nguyễn Dữ là một nhà văn thành công với thể loại truyền kì khi ông nói đến những chuyện kì ảo được lưu truyền trong dân gian. Và đặc biệt là tác phẩm “Truyền kì mạn lục” đã tạo nên một thiên cổ tùy bút ra đời trong nửa đầu thế kỉ XVI. Trong đó tiêu biểu là Chuyện chức phán sự đền Tản Viên cùng vẻ đẹp nhân vật Ngô Tử Văn.
Ngay từ đầu tiên tác giả đã đưa người đọc đến với một nhân vật miêu tả một cách trực tiếp. Tên là Soạn quê ở huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta thường khen là một người cương trực. Lời giới thiệu ngắn gọn, trực tiếp theo kiểu truyền thống nhưng cũng phần nào giúp ta hiểu rõ tính cách nhân vật.
Ngô Tử Văn còn là người có hành động giúp dân trừ bạo mà đốt đền. Bởi trong làng có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thanh có viên Bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian. Tử Văn tức quá một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Đó là một tinh thần khẳng khái, cương trực, hành động vì dân trừ bạo với tinh thần dân tộc diệt trừ hồn ma tên giặc xâm lược. Hành động đốt đền thể hiện rõ con người Ngô Tử Văn. Trước khi đốt đền thì tắm gội sạch sẽ, khấn trời hành động trang nghiêm tôn trọng thần linh. Sau khi đốt đền thì “vung tay không cần gì cả” hành động không phải là liều lĩnh nhất thời, cũng không phải vì danh lợi mà vì nghĩa vong thân.
Là một người liều lĩnh nên khi đốt đền xong Ngô Tử Văn không suy nghĩ quá nhiều. Lúc đó tình thế của chàng bị hồn ma Bách hộ họ Thôi một người khôi ngô, cao lớn xưng là cư sĩ đòi dung trả đền nhưng Tử Văn vẫn mặc kệ vẫn ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Đó là hành động tin tưởng vào chính nghĩa vào những việc mình đã làm. Sau đó thổ công một ông già áo vải mũ đen phong độ nhàn nhã tính khiêm tốn khiến Ngô Tử Văn ngạc nhiên “sao nhiều thần quá vậy”. Khi thổ công kể rõ sự tình thì chàng lại muốn kiện Diêm Vương. Vẫn là sự tin tưởng vào công lí và chính nghĩa.
Là một người cương trực nên Tử Văn không hề sợ điều gì và đã có vụ sử kiện ở dưới âm phủ vì hồn ma tướng giặc kiện Ngô Tử Văn đốt đền. Tướng giặc đã giả mạo thổ thần, làm hại dân, qua mặt Diêm Vương. Tướng giặc vẫn tồn tại vì các thần ở những đền miếu lân cận ăn của đút nên bao che cho kẻ ác, vì các phán quan Diêm Vương chưa làm hết trách nhiệm, không theo sát thực tế. Hồn ma kiện Tử Văn ở Minh ti làm Diêm Vương quát mắng Tử Văn, bênh vực hồn ma nhưng Tử Văn không hề run sợ cứng cỏi minh oan cho mình. Lần hai hắn đổi giọng nhân nghĩa làm Diêm vương cử người đến đền Tản viên lấy chứng cứ thì Tử Văn rất thông minh khi yêu cầu đính thân Diêm Vương đến đền để xác minh. Và cuối cùng công lí đã chiến thắng cái ác khi hồn ma bị giam nhốt vào ngục Cửu U Diêm Vương đã mắng trừng phạt hồn ma và ban thưởng cho Tử Văn. Chính hành động trượng nghĩa ấy đã giúp Tử Văn không những không bị nghi oan mà còn được thưởng đó là việc được sống trở lại, ban thưởng xôi lợn và được nhận chức phán sử đền Tản Viên. Phán xử là chức quan xem xét về các vụ kiện tụng, giúp việc cho người xử án chức quan thực hiện công lí. Ngô Tử Văn xứng đáng được nhận chức quan này vì chàng là người dân chủ, dám bảo vệ đến cùng công lí, chính nghĩa. Sự chiến thắng của Tử Văn là sự thưởng công xứng đáng, khẳng định chân lí sẽ chiến thắng tà ác và thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Công bằng và hạnh phúc chỉ đến khi người chính trực biết đấu tranh với cái xấu, cái ác sự tà gian.
Truyện với cách xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn giàu kịch tính kết hợp yếu tố kì ảo cùng nghệ thuật tương phản xuyên suốt. Qua hình tượng Tử Văn tác phẩm ca ngợi chính nghĩa, tinh thần quyết liệt tà gian. Ngụ ý phê phán gắn liền với tâm sự thời thế của nhà văn, bài học nhân sinh cùng niềm tin vào lẽ phải tin vào điều đúng đắn phải có bản lĩnh chống lại cái gian tà trong cuộc chiến cam go.
Đọc xong tác phẩm mà đã để lại trong lòng người đọc bài học sâu sắc trong cuộc sống phải tin vào lẽ phải vào chính nghĩa và có tinh thần đứng lên đấu tranh. Hãy tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn, đáng sống hơn.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 57
Nguyễn Dữ là tác giả nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với danh tiếng của bộ truyện “Truyền kỳ mạn lục”, tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” của nền văn học nước nhà. Trong đó “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là tác phẩm đặc sắc, ca ngợi tính cách dũng cảm, kiên cường, chính trực, dám chống lại cái ác đến cùng, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn – một trí thức nước Việt.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi truyền kỳ. Đây là thể loại văn học phản ánh hiện thực cuộc sống qua những yếu tố kỳ ảo hoang đường. Nhân vật trong bộ truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ sáng tác bộ truyện trong khoảng thời gian ông đã cáo quan ở ẩn vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Minh chứng rõ ràng cho tính cách cứng cỏi của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.
Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, cướp nơi trú ngụ của thổ thần nước Việt, lại còn gian trá bày trò đút lót rồi tác yêu tác quái với nhân dân trong vùng. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lời đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng.
Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chứng không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuất, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.
Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.
Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút, tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt.
Truyện gây ấn tượng bằng một loạt những chi tiết kì ảo, cốt truyện giàu kịch tính, cách xây dựng nhân vật sắc nét, ngôn ngữ kể chuyện trau chuốt, súc tích. Truyện ca ngợi nhân vật Ngô Tử Văn, một trí thức nước Việt khảng khái, nhân cách cứng cỏi, cao đẹp, qua đó bộc lộ niềm tin vào công lí, vào việc chính thắng tà.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 58
Nguyễn Dữ là tác giả nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với danh tiếng của bộ truyện “Truyền kỳ mạn lục”, tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” của nền văn học nước nhà. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI, ghi chép lại những câu chuyên lạ trong dân gian. Tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đơn thuần. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh ảo, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, tham lam. Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, Nguyễn Dữ vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, tình người, tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và ông đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ. Trong số đó có tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đã đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn; đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà.
Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Ở làng Tử Văn sống có một ngôi của tên tướng giặc chết trận làm yêu làm quái trong dân gian. Trước sự việc ngôi đền bị uế tạp và yêu quái có thể làm hại dân, “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung hành động. Chàng đã dám làm việc mà mọi người đều kính sợ, không ai dám làm, đó là đốt đền.
Theo quan niệm của dân gian, đốt đền là một chuyện động trời, là động đến thần thánh. Tử Văn cũng biết điều đó nhưng chàng không sợ. Hành động của Tử Văn xuất phát từ tính cách “vốn ghét sự gian tà” của chàng. Sự khẳng khái, bộc trực của Tử Văn đã dẫn đến một hành động dũng cảm vì dân trừ hại. Sự tức giận của Tử Văn không phải là sự tức giận cho riêng mình mà là sự tức giận cho mọi người dân đang bị yêu quái quấy nhiễu. Vì thế mà việc làm đốt đền của Tử Văn là đáng ca ngợi. Hành động đó xuất phát từ ý muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ. Và đó cũng là hành động châm ngòi nổ cho một cuộc chiến giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Nguyễn Dữ thật tài tình khi tạo ra hai hình tượng đối lập: một bên là sự ngay thẳng của Tử Văn còn kia là sự gian trá, xảo quyệt của viên Bách hộ họ Thôi, một tên tướng giặc bại trận phải bỏ thân nơi đất khách. Không nơi nương tựa, không người cúng tế, hồn ma lưu vong của tên tướng giặc đã cướp ngôi đền của Thổ thần lại còn tác oai tác quái, gây hoạ cho dân lành. Hắn còn xảo trá tới mức đút lót, dọa nạt những thần xung quanh. Khi Tử Văn đốt đền, hắn dùng lí lẽ đạo Nho để buộc tội, lấy oai linh quỷ thần để dọa nạt. Tử Văn không sợ thì hắn xuống tận Diêm Vương để cầu cứu. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, bắt nạt mọi người. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lời đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn.
Tuyên chiến với một kẻ thù đầy sức mạnh hiểm ác, lúc đầu Tử Văn “đơn thân độc mã”, nhưng chàng tin vào việc làm và sức mạnh chính nghĩa của mình. Hành động “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên” của Tử Văn trước lời đe dọa của tướng giặc không phải là hành động bất cẩn của kẻ liều mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa trong tay. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng. Câu hỏi của Tử Văn với Thổ Công: “Hắn có thực là tay hung hãn có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là câu hỏi của kẻ hoang mang lo sợ mà là câu hỏi của người muốn “biết địch biết ta” để giành lấy thắng lợi. Trong cuộc chiến đấu, Tử Văn có được sự trợ giúp của Thổ Thần, nhưng với một người bị đánh đuổi khỏi nơi ở của mình, không dám đấu tranh, “phải đến nương tựa đền Tản Viên”, “phải tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi” thì Tử Văn có thể đặt hết niềm tin hay không? Cho nên, về cơ bản thì Tử Văn không hề có âm phù, dương trợ. Trong khi đó cuộc đấu tranh của chàng ngày càng gay go quyết liệt.
Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Tình thế của chàng ngày càng nguy hiểm.Hồn ma tên tướng giặc áp giải chàng xuống âm phủ,hắn quyết bẻ gãy ý chí của chàng trước mặt Diêm Vương để giành phần thắng về mình. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Nhưng ở chốn thâm cung, chàng khẳng định điều này đâu phải là dễ. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chứng không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng.Nhưng do chỉ nghe một bên nguyên, Diêm Vương – vị quan tòa xử kiện, người cầm cán cân công lý cũng đã có lúc tỏ ra hồ đồ. Chính khi đứng trước pháp luật tử Văn càng tỏ rõ chàng là người có khí phách. Chàng không chỉ “kêu to”, khẳng định “Ngô Soạn này là kẻ ngay thẳng ở trần gian”, chàng còn dũng cảm vạch mặt tên bạo tướng gian tàn với lời lẽ rất “cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Giữa chốn công đường nơi âm phủ, tính cách Tử Văn vẫn là bộc trực, khảng khái, vẫn một quyết tâm sắt đá. Chàng chiến đấu đến cùng vì lẽ phải. Cứ từng bước, Ngô Tử Văn đã đánh lui tất cả sự phản công, kháng cự của kẻ thù, cuối cùng là đánh gục hoàn toàn tên tướng giặc gian manh xảo trá. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuất, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.
Sau khi được minh oan ở minh ti, Tử Văn trở về nhà chưa được một tháng thì Thổ công đến bảo Tử Văn nên nhậm chức phán sự ở đến Tản Viên. Thổ công nói: “người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau” và khuyên Văn nên nhận. Thế là Văn vui vẻ nhận lời. Việc được nhận chức ở đền Tản Viên đã nói lên thắng lợi của chàng trong cuộc đấu tranh với tên hung thần xảo quyệt. Sự thắng lợi này đã khẳng định chàng là người tốt, chính nghĩa, dám đấu tranh để thực hiện công lí. Con người của chính nghĩa đã được đứng ra để thực hiện công lý là một thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Nguyễn Dữ đã kết hợp thành công yếu tố ảo và thực. câu chuyện diễn ra đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của thế giới âm cùng với những hồn ma, bóng quỷ với những việc khác thường: người chết đi sống lại từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm lại về cõi dương. Nhưng chuyện lại có vẻ như rất thực bởi cách dẫn người khác, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự việc. Yếu tố kì ảo giúp câu chuyện thêm phần li kì, hấp dẫn. yếu tố thực làm tăng tính xác thực, làm câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Tóm lại, câu chuyện đề cao nhân vật Ngô Tử Văn – đại diện cho tầng lớp trí thức nước Việt: khảng khái, nhân cách cứng cỏi, cao đẹp, giàu tinh thần dân tộc, chuộng chính nghĩa, dũng cảm, cương trực, dám đấu tranh chống lai cái ác trừ hạ cho dân qua đó bộc lộ niềm tin vào công lí, vào việc chính thắng tà gian. Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút, tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt. Truyện gây ấn tượng bằng một loạt những chi tiết kì ảo, cốt truyện giàu kịch tính, cách xây dựng nhân vật sắc nét, ngôn ngữ kể chuyện trau chuốt, súc tích.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 59
Các nhà văn, nhà thơ thời xưa khi sáng tác văn chương thường quan niệm “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Phải chăng cũng vì vậy mà hình tượng của người trí thức được yêu mến và nhắc đi nhắc lại trong nhiều tác phẩm lúc bấy giờ? Nguyễn Dữ cũng đã góp thêm nét vẽ chân dung người trí thức đương thời qua hình ảnh nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” trích trong áng thiên cổ kì bút “Truyền kì mạn lục”. Qua câu chuyện mang đậm yếu tố kì ảo này, chân dung Ngô Tử Văn khảng khái, cương trực quyết tâm chống lại cái xấu, cái ác mang những phẩm chất của một kẻ sĩ hiện lên thật rõ nét.
Ngô Tử Văn xuất hiện bằng những lời giới thiệu rất ngắn gọn và cụ thể về tên họ, quê quán, tính tình và phẩm chất. Đây là một lối giới thiệu rất đặc trưng của văn xuôi trung đại. Tác giả đã để cho nhân vật hiện lên qua những nét rất cơ bản nhưng đặc biệt trực tiếp giới thiệu được tính cách, phẩm chất của nhân vật để từ đó dẫn dắt đến những sự việc hoặc những tình tiết xảy ra trong câu chuyện “Chàng khảng khái, nóng nảy, thấy gian tà thì không thể chịu được”. Đó không phải chỉ là những lời đánh giá chủ quan mà như một lời nhận xét rất khách quan “vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực. Tính cách ấy, Tử Văn vẫn giữ nguyên tới cuối tác phẩm và là tiền đề cho hành động quyết liệt của nhân vật sau này. Không vòng vo, nhân vật Tử Văn đã nhanh chóng đến với người đọc một cách vô cùng chân thực mang bóng hình của một bậc trí thức, nhà Nho cương trực.
Qua cuộc chiến đấu quyết liệt với tên Bách hộ họ Thôi, Ngô Tử Văn như “vàng đã qua thử lửa” sáng lên tinh thần dũng cảm, cương quyết trước gian tà, thực hiện đúng trách nhiệm của một người có học thức nhận biết được cái xấu, cái ác. Nghe tin ngôi đền trong làng bị yêu quái hị Thôi quấy nhiễu, với tính tình nóng nảy và bộc trực, không chịu đứng nhìn cái ác đang hoành hành, Tử Văn “rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. “Đốt đền” đó là một hành động mà không phải ai cũng dám làm, bởi đền miếu là những nơi của tín ngưỡng, linh thiêng “mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn”. Nếu chỉ thoáng qua thì chắc hẳn nhiều người sẽ nghĩ đây là một hành động bồng bột, thiếu suy nghĩ của một kẻ đang trong cơn nóng giận. Nhưng không, trước hành động đốt đền, Ngô Tử Văn đã tắm gội chay sạch, khấn trời đất công khai và đàng hoàng rồi mới châm lửa đốt. Người trí thức này hiểu được sự linh thiêng của thần thánh, trời đất, cũng nhận biết được hành động mình đang làm nên đã tiến hành đầy đủ những nghi lễ chứ không phải là hành động làm càn của một kẻ vô học. Đó không phải là một sự liều lĩnh nữa, mà ở đây đã chứng tỏ bản lĩnh dám đương đầu với những khó khăn, thử thách để giành lại ngôi đền, giành lại cuộc sống bình yên cho dân làng của Ngô Tử Văn. Chàng đốt đền bởi chàng bất bình, tức giận vì hồn ma viên bách Hộ đã chiếm giữ ngôi đền để tác oai tác quái trong nhân gian, tất cả là vì lợi ích chung của nhân dân chứ không bởi bất kì một lí do cá nhân nào của Tử Văn. Không phân biệt con người hay ma quỷ, lẽ công bằng đều được chàng thực thi. Chàng như ánh sáng của chính nghĩa không chỉ dũng cảm đẩy lùi gian tà mà còn đánh vào sự mê tín, mê hoặc làm cho con người ta trở nên yếu đuối, nhu nhược. Phải chăng ý thức trách nhiệm cùng lương tâm của một kẻ sĩ đã không cho phép Tử Văn chỉ đứng nhìn ngay cả khi biết những hành động đó có thể làm cho chàng gặp nguy hiểm? Sự khẳng khái của chàng một lần nữa thể hiện qua thái độ coi thường tên tướng giặc với những lời lẽ hăm dọa của hắn. “Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Chàng ung dung khi đối mặt với những nguy hiểm bởi chàng tự tin vào chính nghĩa mà mình đang nắm giữ, tin hành động của mình là hành động theo lẽ phải. Sự tự tin của người trí thức một lần nữa chứng tỏ bản lĩnh phi phàm, cái cần thiết nhất để Tử Văn có thể bảo vệ chính nghĩa. Chính bởi theo chính nghĩa nên chàng đã được thần linh dang tay phù trợ giúp. Thổ Công đã giúp chàng hiểu rõ được bộ mặt xảo trá của kẻ thù, hiểu được trước mắt có biết bao khó khăn đang chờ chàng và mách kế để tiếp thêm động lực cho Tử Văn trong cuộc chiến tranh đầy cam go ấy.
Ngô Tử Văn đã bắt đầu bước đến những hồi căng thẳng nhất của trận chiến sinh tử ấy. Cuộc đấu tranh không hề đơn giản, nó khốc liệt và dai dẳng, nó không chỉ ở cõi trần, cõi người mà còn cả âm ti, địa phủ. Chàng bị quỷ bắt xuống địa ngục và sắp phải đối mặt với những hình phạt ghê rợn thế nhưng tinh thần khẳng khái ấy vẫn không hề bị lu mờ mà còn sáng lên hơn bao giờ hết. Không chùn bước, chàng kêu to khẳng định: “Ngô Soạn là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”. Vững lòng tin về nhân phẩm của mình, chàng đã dám nói lên, dám kêu oan và sau nữa là dám vạch trần bộ mặt của kẻ gian tà. Trước lời kết tội của Diêm Vương, Tử Văn đã cầu xin được phán xét minh bạch công khai không một chút nhún nhường. Dù bị tên Bách hộ một mực vu oan giáng họa nhưng chàng không hề nao núng, sợ hãi làm cho lời lẽ và thái độ của tên tướng giặc kia trở nên xảo trá và khiến hắn tự lột chiếc mặt nạ xấu xa của chính mình. Chiếc mặt nạ của hắn rơi xuống cũng là lúc lá cờ chiến thắng của chính nghĩa giương lên mà chính Tử Văn là người cầm lá cờ ấy một cách kiêu hãnh. Đứng trước công đường, đối mặt với những khó khăn, khí phách của của đấng quân tử càng được thể hiện sáng rõ.
“Phú quý bất năng dâm
Bần tiện bất năng di
Uy vũ bất năng khuất”
Những yếu tố kì ảo xuất hiện trong tác phẩm không chỉ tăng thêm sự hấp dẫn của tác phẩm mà còn vừa làm bật lên sự chính trực, bản lĩnh cứng cỏi nhân vật Ngô Tử Văn vừa tô đậm thêm chiến thắng của con người trước cái xấu và cái ác. Nhìn sâu hơn vào câu chuyện, dường như Nguyễn Dữ đang muốn gửi gắm ước nguyện về một anh hùng của chính nghĩa sẽ đứng lên bảo vệ cho đất nước, nhân dân như cách mà Tử Văn đã bảo vệ dân làng trước sự xâm chiếm của tên tướng giặc phương Bắc. Phải yêu quý, và gắn bó với quê hương biết chừng nào, phải xót xa và đau đớn trước nỗi đau dân nước biết chừng nào, những hành động của Tử Văn mới quyết liệt và dữ dội đến thế! Đó là sự chiến đấu đến cùng, là sự tự tôn dân tộc, là sự quyết tâm sắt đá khó lòng lay chuyển. Chính bởi vậy, chiến thắng của Tử Văn lại càng có ý nghĩa hơn, nó sẽ khơi dậy tinh thần yêu nước, yêu công bình và sẵn sàng xả thân vì chính nghĩa của biết bao những trí thức lúc bấy giờ.
Cuộc chiến đấu không khoan nhượng của Ngô Tử Văn là một tấm gương phản chiếu nhân cách cao đẹp, bản lĩnh cứng cỏi, thái độ kiên quyết chống lại những thế lực đen tối của một kẻ sĩ. Lời bình kết thúc câu chuyện “Vậy kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi” cùng với hình tượng Ngô Tử Văn như một lời kêu gọi, một lời động viên, cổ vũ thôi thúc người trí thức hành động quyết liệt để công bằng, chính nghĩa sẽ tồn tại vĩnh hằng, vĩnh cửu ở mọi thời đại.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 60
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong những truyện hay, tiêu biểu nhất trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Nổi bật nhất trong tác phẩm là kẻ sĩ cương trực thẳng thắn Ngô Tử Văn, nhân vật đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, đồng thời tác giả cũng gửi gắm những tư tưởng, quan điểm về xã hội con người qua nhân vật này.
Nhân vật Ngô Tử Văn là hình tượng kẻ sĩ tiêu biểu của văn học trung đại, cương trực, khẳng khái. Khác với những câu chuyện trong Truyền kì mạn lục giới thiệu về nguồn gốc xuân thân nhân vật, hành trình số phận nhân vật từ đầu đến cuối (Vũ Nương) thì trong tác phẩm này chỉ chọn một thời điểm, một lát cắt có ý nghĩa nổi bật nhất để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Truyện có kết cấu như một màn kịch ngắn, qua màn kịch này toàn bộ tính cách, phẩm chất của nhân vật được phô bày.
Mở đầu tác phẩm, tác giả giới thiệu Tử Văn vốn là người “khẳng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được…” và toàn bộ câu chuyện phía sau là để chứng minh cho nhận định ban đầu ấy. Tính cách cương trực, thẳng thắn, ghét gian tà được bộc lộ trực tiếp qua ngôn ngữ, hành động nhân vật.
Trước hết là hành động Tử Văn đốt đền của tên tướng giặc họ Thôi. Vào cuối đời Hồ có tên tướng giặc Bách hộ họ Thôi, tên này tử trận gần miếu thổ thần nên đã cướp đền của Thổ công để trú ngụ. Khi ở đền hắn chẳng những không phù hộ cho nhân dân mà còn tác oai tác quái trong nhân gian. Thấy sự gian tà Tử Văn vô cùng tức giận: “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, rồi châm lửa đốt đền”. Hành động đó cho thấy sự dũng cảm của Tử Văn, trong khi tất cả mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, sợ hãi thì Tử Văn đã có hành động vô cùng quyết liệt, trừ hại cho nhân dân. Sau khi đốt đền, chàng “vung tay không cần gì cả”, Tử Văn đã quyết đấu, quyết sống mái một phen với kẻ gian tà. Hơn nữa hành động của chàng không phải là hành động bột phát mà đã có sự suy nghĩ và chuẩn bị từ trước: tắm gội, khấn trời rồi mới thực hiện hành động đốt đền của mình.
Tuyên chiến với kẻ thù có sức mạnh lại vô cùng hiểm ác, nhưng Tử Văn không hề sợ hãi. Trước những lời buộc tội của hồn ma bằng đạo lý nho gia, hay hăm dọa: “biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ”, Tử Văn vẫn tin vào sức mạnh chính nghĩa, công lý “ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Ngô Tử Văn vô cùng dũng cảm, tự tin. Thái độ ung dung, thản nhiên, coi thường lời buộc tội và đe dọa, đó không phải hành động của kẻ bất cần, không sợ sống chết mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa. Câu hỏi trước vị thổ thần “Liệu hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?” cho thấy Tử Văn muốn biết rõ thế ta địch để có những đối phó hợp lí.
Trước những lời dọa dẫm Tử Văn vẫn nhất quyết không nghe lời hắn xây lại đền, đêm hôm ấy Tử Văn bệnh càng thêm nặng và có hai tên quỷ sứ đến bắt đi xuống âm ty. Đến đây cuộc chiến đấu càng trở nên gay go, quyết liệt hơn. Diêm Vương chỉ nghe từ một phía. Trước tình thế bị áp đảo, Tử Văn càng tỏ ra bình tĩnh và bản lĩnh hơn, chàng tâu trình đầu đuôi sự việc, lời lẽ vô cùng cứng cỏi, không hề có chút nhún nhường. Sở dĩ Tử Văn có được sự bản lĩnh ấy cũng là bởi một phần nhận được sự trợ giúp từ vị thổ thần đất Việt: “Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi trăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả”. Dù chỉ là yếu tố phù trợ, nhưng nhờ có nó mà Tử Văn có thêm tự tin. Nhưng cũng cần khẳng định rằng sự bản lĩnh của Ngô Tử Văn vẫn chủ yếu là ở bản tính vốn dũng cảm của chàng và xuất phát từ khát vọng cao cả muốn được thực thi công lý, đem lại bình yên cho nhân dân.
Phần thắng đã thuộc về Tử Văn, thuộc về người cương trực, nghĩa khí, kẻ có tội – tên Bách hộ họ Thôi đã bị trừng trị thích đáng. Ngô Tử Văn được đền bù xứng đáng, Diêm Vương sai lính đưa về cõi dưỡng thể, xét Tử Văn đã có công trừ hại giúp dân nên được chia một nửa xôi lợn do dân cúng tế với vị Thổ thần. Hơn nữa Tử Văn còn được Thổ thần tiến cử giữ chứng phán sự đền Tản Viên. Qua kết thúc có hậu này, tác giả Nguyễn Dữ muốn đề cao triết lí ở hiền gặp lành của nhân dân ta.
Xây dựng nhân vật Ngô Tử Văn tác giả chủ yếu phác họa tính cách nhân vật qua hệ thống ngôn ngữ và hành động, không chú trọng miêu tả tâm lí nhân vật. Đặt nhân vật vào lát cắt, tình huống có vấn đề để từ đó làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Ngoài ra, cũng cần kể đến những yếu tố li kì giúp hoàn thiện vẻ đẹp phẩm chất nhân vật và giúp truyện phát triển hợp lý.
Qua nhân vật Ngô Tử Văn nói riêng và tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên nói chung, Nguyễn Dữ đã đề cao vẻ đẹp kẻ sĩ cương trực, sẵn sàng đứng lên tiêu diệt cái xấu, cái ác. Đồng thời cũng thể hiện triết lí ở hiền gặp lành của dân tộc ta. Tác phẩm còn thể hiện tài năng nghệ thuật xây dựng truyện đặc sắc của Nguyễn Dữ.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 61
” Người đàn ông cô độc giữa rừng” chính là nhan đề của một văn bản trích tiểu thuyết ” Đất rừng phương Nam”. Tại đây, nhà văn Đoàn Giỏi đã xây dựng bối cảnh nhân vật xoay quanh khuôn khổ 3 nhân vật: Ông Hai, bé An và chú Võ Tòng. Nhân vật Võ Tòng trong văn bản được tác giả chú ý nhiều nhất và Võ Tòng cũng là nhân vật khiến em ấn tượng nhất.
Xuyên suốt câu chuyện là hình ảnh một con người phóng khoáng kì bí. Vậy nên chẳng ai biết về quê quán, tên thật và lai lịch của chú là gì? Ngta chỉ biết về nguồn gốc cái tên Võ Tòng là do sự việc giế hổ trong rừng để lại một cái sẹo dài từ thái dương xuống cổ. Sự việc giết hổ của chú Võ Tòng trong “đất rừng phương Nam” gợi nhắc tới người đọc về cái tên Võ Tóng trong “thủy hử”, chính vì vậy mà người ta có sự liên tưởng và đôi chút sợ hãi khi nhắc đến cái tên này. Ngoại hình của chú được người đời coi là “kì hình dị tướng”; chú cởi trần, mặc chiếc kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt. Bên hông đeo lủng lẳng1 lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, lại còn thắt cái xanh tuya-rông. Mái tóc hung hung giống bờm ngựa dài tới gáy. Bắt gặp lần đầu sẽ nghĩ chú là người khó gần và hơi sợ hãi nhưng đã quen biết thì ta sẽ có cái nhìn hoàn toàn khác về chú- một con người dễ gần, thân thiết; điều đó không chỉ thể hiện qua cách cư xử với người quen biết mà còn qua cách đón tiếp với những người xa lạ. Qua cách cư xử với An và ông Hai ta cũng có thể dễ dàng nhận biết; cách đón tiếp không hề khoa trương:” ngồi xuống đây, chú em”; ” Có gì đâu anh Hai, vì nghĩa chung mà…”;..Cách nói chuyện có chút đơn giản, phóng khoáng làm người ta có sự nghĩ ngợi về cuộc đời của chú. Theo lời truyện tụng của người hàng xóm cũ của chú, ta thấy được số phận đau thương của người đàn ông có vẻ ngoài mạnh mẽ nhưng trong là con người đôi lúc cũng có thể gục ngã. Chú từng có một gia đình rất hạnh phúc, lúc vợ chú mang thai thèm ăn măng, bản tính thương vợ nên đã đi đào măng nào ngờ bị tên địa chủ vu oan, ra sức đánh mắng, Chú liên tục thanh minh nhưng đều bị ngó lơ. Ai cũng biết sự thật nhưng chẳng dám đứng ra làm chứng bởi biết gia thế tên địa chủ chẳng tầm thường. trong lúc tên địa chủ đánh Võ tòng thì vô tình đã đánh lên đầu của chú, với quan niệm của bản thân, Chú VTong không nhường nhịn nữa, bắt đầu đáp trả khiến tên địa chủ bị thương nặng. Sau khi kết thúc, chú không rời đi và chạy trốn mà quả quyết ở lại để chịu hình phạt mà bản thân đã biết trước. Sau khi ra tù, tưởng chừng sẽ có 1 cuộc sống ấm êm nhưng số phận không cho phép, nghe tin vợ đã lấy tên địa chủ, con trai mất, dường như những hi vọng trong cuộc sống đang dần bị đánh mất. TRong con người của chú chỉ còn sự cô độc, quyết định vào rừng ở ẩn. Đó ắt hẳn là 1 trong số những lí do khiến cho phong cách chú thay đổi đáng kể, chú chẳng còn quan tâm tới miệng lưỡi người đời, đó là 1 đức tính đáng để ta học hỏi.
Nhân vật VTong được tác giả Đoàn Giỏi khắc họa vô cùng tỉ mỉ, chú chính là đại diện cho người dân Nam Bộ, vừa dũng cảm gan dạ vừa cương trực thật thà. Hơn hết chính là tấm lòng, tinh thần yêu nước. Đó đã được kể lại vô cùng chi tiết qua cuộc trò chuyện của Ông hai và chú VTong; cũng được thể hiện vô cùng sâu sắc qua tác phẩm ” Đất rừng phương Nam” lẫn con người chú VTong. Con người có đức tính đáng khâm phục- Yêu nước, sẵn sàng chinh chiến để bảo vệ đất nước.
Thực sự, nhân vật VTong đã chạm đến trái tim người đọc 1 cách rất gần gũi và chân thật. Nhân vật đã gửi gắm nhiều tầng thông điệp và ý nghĩa sắc son về giá trị con người đến độc giả.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 62
“Bầy chim chìa vôi” là một tác phẩm nổi bật trong vô vàn sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Truyện đã khắc họa thành công nhân vật Mên với tấm lòng nhân ái, tâm hồn trong sáng, hồn nhiên.
Hai giờ sáng là khoảng thời gian tất cả mọi người đã yên giấc ngủ thì Mên vẫn còn trằn trọc, thao thức. Khi thấy em trai quay qua hỏi chuyện nước sông lên, bên ngoài Mên tỏ ra cáu gắt nhưng tận sâu trong lòng, cậu lại lo lắng hơn bao giờ hết. Cậu lo đàn chim non ở giữa bãi cát sẽ bị cuốn trôi mất. Cuối cùng, trong thời tiết mưa gió và đêm tối, cậu quyết định cùng em lấy đò để đi ra đoạn sông. Có thể nói, những hành động và lời nói của Mên đã cho thấy cậu có tình yêu dành cho những sinh linh bé nhỏ.
Chứng kiến khoảnh khắc bầy chim chìa vôi bứt mình ra khỏi dòng nước chảy xiết, Mên đã đứng lặng người mà chẳng thể thốt lên lời nào. Giây phút đàn chim non thực hiện thành công chuyến bay trong đời, cậu hạnh phúc đến nỗi bật khóc. Cậu vui sướng đến mức chẳng nhận ra bản thân đã rơi nước mắt từ lúc nào. Từ đây, ta càng thêm yêu quý tấm lòng nhân ái, biết trân trọng sự sống ở Mên. Cậu cảm nhận mọi thứ xung quanh đời sống bằng tâm hồn nhạy cảm, trái tim đong đầy yêu thương.
Bằng việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, gần gũi với trẻ em, nhà văn đã khắc họa chân thực tấm lòng, vẻ đẹp trong trẻo của trẻ thơ. Bên cạnh đó, việc miêu tả nhân vật thông qua lời nói và hành động cụ thể cũng góp phần xây dựng thành công tính cách, tâm trạng nhân vật Mên.
Qua truyện “Bầy chim chìa vôi”, ta càng thêm yêu mến tâm hồn trong trẻo, tấm lòng nhân hậu ở những đứa trẻ như Mên. Từ đây, nhà văn Nguyễn Quang Thiều cũng bày tỏ thái độ nâng niu, ca ngợi tình yêu thiên nhiên, biết trân trọng sự sống của trẻ thơ. Đồng thời, gửi gắm bài học về việc sống giao hòa với thiên nhiên.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 63
Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã ghi dấu trong lòng độc giả nhỏ tuổi bằng tác phẩm “Bầy chim chìa vôi”. Chắc hẳn, bất cứ ai khi lật giở từng trang sách của ông đều không thể quên được nhân vật cậu bé Mon. Mon hiện lên với vẻ đẹp của tình yêu thương động vật và tấm lòng trân trọng sự sống.
Để làm nổi bật sự nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn của Mon, tác giả mở đầu câu chuyện bằng đoạn hội thoại giữa Mon và Mên lúc 2 giờ sáng. Bất chợt Mon thức giấc, trở mình gọi anh “Anh Mên ơi, anh Mên!”. Ngay sau đó, cậu liên tục hỏi Mên về tình hình bên ngoài với hàng loạt câu nghi vấn: “Anh bảo mưa có to không?”, “Nhưng anh bảo nước sông lên có to không?”, “Thế bãi cát giữa sông đã ngập chưa?”, “Thế anh bảo chúng nó có bơi được không?”. Mon lo sợ nước sông lên cao sẽ nhấn chìm và làm chết bầy chim chìa vôi non ở dải cát “Em sợ những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”. Chốc chốc, Mon lại thì thào hỏi anh “Anh đã nhìn thấy chim chìa vôi nó bay từ bãi cát vào bờ bao giờ chưa?”, “Thế làm thế nào bây giờ?”. Dường như trong tâm trí, Mon dành hết mối bận tâm của mình cho an nguy của bầy chim. Thậm chí, cậu không hề để ý thời tiết ngoài kia, thương xót bầy chim tới nỗi rủ Mên cứu chúng vào bờ. Ta có thể thấy ở Mon chứa đựng tình yêu thương động vật sâu sắc.
Không dừng lại ở đó, Mon quyết định cùng anh lấy đò chèo ra bờ sông. Chi tiết ấy càng làm nổi bật tấm lòng trân trọng sự sống của Mon. Cậu không ngần ngại “lội bì bõm đẩy”. Trời nhá nhem tối, hai anh em vẫn “căng mắt nhìn ra giữa dòng sông”. Trong lúc ấy, Mon hạnh phúc kêu lên “Anh ơi, kia kìa, bãi cát.”. Câu nói ấy diễn tả được trạng thái vui mừng khi biết được bầy chim vẫn an toàn trên dải cát. Chứng kiến “cảnh tượng như huyền thoại hiện ra. Từ mặt nước sông, những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên”, cậu choáng ngợp đến mức “không kêu lên được một tiếng nào. Người chúng như đang ngùn ngụt tỏa hơi nóng.”. Mon vô cùng xúc động xen lẫn hạnh phúc vì “cuối cùng bầy chim non đã thực hiện xong chuyến bay quan trọng, đầu tiên và kì vĩ nhất trong đời chúng”. Cậu đã khóc lúc nào không hay. Những giọt nước mắt ấy được bật ra từ một tâm hồn trong trẻo, vô tư và tràn đầy niềm yêu thương.
Bằng ngôn từ trong sáng, hình ảnh gần gũi, thân quen, nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật Mon với những phẩm chất tốt đẹp. Mỗi lời nói, hành động của Mon đều cho thấy tình cảm yêu mến với động vật và tấm lòng trân trọng sự sống. Qua đó, tác giả bày tỏ cái nhìn trìu mến với trẻ thơ cũng như thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 64
Nhắc đến nhà văn Đoàn Giỏi, ta không thể không nghĩ tới cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Đất rừng phương Nam”. Đây là tác phẩm tiêu biểu đưa tên tuổi của ông đến gần hơn với bạn đọc. Bên cạnh nhân vật trung tâm là cậu bé An, tác giả cũng dành nhiều tình cảm cho nhân vật Cò. Trong đoạn trích “Đi lấy mật”, cậu hiện lên với vẻ xốc vác của một người chuyên đi rừng và tràn ngập tình yêu thiên nhiên.
Dưới con mắt của An, Cò là một cậu bé khỏe mạnh, có thể “đội cái thúng to tướng, trong thúng đựng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra buộc lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách.”. Trái ngược với An, Cò được sinh ra và lớn lên ở vùng rừng núi U Minh. Chính vì vậy, cậu đã quen với việc đi rừng. Cho nên, không việc gì có thể làm khó được cậu ta. Trong khi An thấm mệt sau quãng đường dài đi “ăn ong”, Cò lại “coi bộ chưa thấm tháp gì”. Dáng vẻ khỏe khoắn của Cò hiện ra với hình ảnh “cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong từng còn chả mùi gì nữa là!”. Không những thế, Cò rất giàu năng lượng, đi không biết mệt là gì.
Cò cũng là cậu bé thông minh, lém lỉnh và có tài quan sát tỉ mỉ. Biết An lúng túng trước câu hỏi của mình, cậu “vênh mặt lên cười” rồi tận tình giảng giải cho An “Bây giờ mày cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ.”. Cò còn có khả năng phân biệt các loài chim, loài ong trong rừng. Cậu bình thản khi thấy An khen những chú chim bay qua. Cuối cùng, dưới sự chỉ bảo của Cò, An đã tìm được kèo ong gác trên cây. Tất cả những điều đó cho thấy sự gắn bó với tự nhiên ở An nói riêng, người dân nơi đây nói chung.
Bằng cách sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng “tôi” cùng ngôn ngữ trong sáng, hình ảnh gần gũi, bình dị, tác giả đã miêu tả thành công nhân vật Cò. Thông qua hình tượng nhân vật, nhà văn thể hiện tình yêu của mình đối với vùng đất, con người phương Nam.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 65
Đi lấy mật” được trích từ tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” – một sáng tác tiêu biểu của nhà văn Đoàn Giỏi viết về con người, cuộc sống Nam Bộ. Đoạn trích không chỉ tái hiện sinh động câu chuyện vào rừng lấy mật mà còn khắc họa chân thực hình tượng nhân vật An với tâm hồn trẻ thơ trong trẻo.
Trước hết, An là một người tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên và cuộc sống da diết. Cậu cảm nhận sự sống nơi đất rừng bằng tất cả các giác quan. Trong giây phút nghỉ ngơi bên tía nuôi và Cò, cậu đã có cơ hội ngắm nhìn khung cảnh rừng tràm chìm trong nắng mai. Cậu luôn chú tâm lắng nghe âm thanh của thiên nhiên “Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được”. Không chỉ vậy, An còn bắt được mùi hương hoa tràm thơm quyện vào gió và lan tỏa khắp nơi. Có thể nói, bức tranh thiên nhiên rừng U Minh hiện lên thật sinh động, chân thực qua cái nhìn tinh tế của An.
An còn là cậu bé ham học hỏi, say mê tìm hiểu và khám phá mọi thứ trong cuộc sống. Trên quãng đường theo chân tía nuôi vào rừng lấy mật, An vẫn ghi nhớ lời kể của má nuôi về việc người dân gác kèo nuôi ong. Cậu rất lấy làm tò mò, không “hình dung được “ăn ong” ra sao. Hay mỗi lần nghe má kể, cậu luôn đặt ra vô vàn câu hỏi như “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa! Tại sao vậy má?”. Điều này đã cho thấy khát khao học hỏi, tìm tòi sâu rộng gốc rễ vấn đề. Khi được Cò chỉ cho kèo ong gác trên cây tràm, An tiếp tục nghĩ về chuyện má kể. Bởi vậy, cậu đã so sánh việc học từ thực tiễn với trong sách vở. Cuối cùng, An nhận thấy rằng “Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả”.
Bằng ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ cùng việc xây dựng nhân vật thông qua lời nói, hành động, nhà văn Đoàn Giỏi đã phác họa thành công nhân vật An với phẩm chất tốt đẹp, đáng quý. Bên cạnh đó, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” cũng góp phần bộc lộ tâm tư, suy nghĩ của nhân vật.
Qua đoạn trích “Đi lấy mật”, ta càng thêm yêu mến vùng đất Nam Bộ tươi đẹp cùng những con người hiền lành, dễ mến. Nhân vật cậu bé An sẽ mãi để lại rung cảm sâu sắc cho bạn đọc. Từ đây, nhà văn Đoàn Giỏi muốn bày tỏ tình yêu với thiên nhiên đất trời và con người nơi đây.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 66
Nguyễn Ngọc Thuần là cây bút quen thuộc với rất nhiều bạn đọc thiếu nhi. Các tác phẩm của ông luôn dạt dào cảm xúc, đầy ắp tình yêu thương con người, cuộc sống. Trong số đó, chúng ta không thể nào bỏ qua “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”. Truyện đã khắc họa nhân vật “tôi” một cách tinh tế với vẻ đẹp tâm hồn trong sáng.
Được sống trong tình yêu cùng lời chỉ bảo của bố, “tôi” luôn chịu khó, say mê học hỏi. Khi bố dạy cách nhận biết các loài hoa từ việc nhắm mắt và chạm, “tôi” vẫn còn bỡ ngỡ, gặp khó khăn và hay nói sai. Nhưng nhờ sự động viên ở bố cùng ý chí quyết tâm của bản thân, cậu đã đoán được tên hai loại hoa là mồng gà, hướng dương. Cuối cùng, “tôi” có thể nói đúng tên tất cả các loài hoa trong vườn mỗi khi nhắm mắt và đưa tay ra chạm. Có thể thấy, “tôi” là một cậu bé kiên trì, nhẫn nại, thấy khó khăn nhưng không nản chí, buông bỏ.
Bởi vậy, “tôi” còn là người có tài đoán trúng các sự vật dù nhắm mắt. Mỗi lần bố giấu đồ, cậu đều có thể tìm ra vị trí chính xác. Hay chỉ cần lắng nghe tiếng bước chân, cậu cũng đoán được khoảng cách của đối phương. Chú Hùng từng nghĩ “tôi” ăn gian trong trò chơi này nhưng cuối cùng, chú phải công nhận “cháu có con mắt thần”. Đặc biệt, tài năng ấy còn giúp thằng Tí thoát chết khi “tôi” nhanh chóng chỉ được phương hướng xuất hiện tiếng hét lúc nó bị đuối nước. Bên cạnh đó, “tôi” rèn luyện cho bản thân cái tài đoán tên hoa từ việc nhắm mắt rồi ngửi mùi hương.
“Tôi” thật may mắn và hạnh phúc khi có người bố giàu tình yêu thương. Mỗi lần bố đố là một lần chỉ bảo cho cậu. “Tôi” luôn lắng nghe, tiếp thu sâu sắc lời dạy dỗ, nhắc nhở từ bố. Nhờ có bố, cậu biết yêu thiên nhiên và trân trọng vẻ đẹp cuộc sống xung quanh nhiều hơn. Lúc nhắm mắt, vươn tay ra chạm và đọc tên từng món quà, cậu đã chạm phải người bố. Cậu vui vẻ nói rằng “A! Món quà của tui đây rồi. Ôi cái món quà này bự quá!”. Như vậy, tình cảm gia đình thắm thiết đã góp phần bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ trong sáng, đẹp đẽ ở “tôi”.
Qua tác phẩm, “tôi” còn hiện lên là một người tinh tế, biết trân trọng mọi thứ xung quanh. Cậu yêu thích cái tên của bạn mình – thằng Tí. Mỗi khi có cơ hội, “tôi” thường gọi tên bạn nhiều lần để lắng nghe sự diệu kì từ âm thanh ấy. Không chỉ vậy, “tôi” còn yêu thiên nhiên sâu sắc. Cậu coi hoa là “món quà nhỏ”, khu vườn trồng đầy hoa là “món quà lớn”. Cậu cảm nhận vẻ đẹp cuộc sống, tự nhiên bằng cả trái tim nồng nhiệt, chân thành.
Thông qua việc khắc họa nhân vật từ lời nói, hành động, suy nghĩ, tác giả đã để “tôi” tự bộc lộ tình cảm của bản thân một cách chân thực. Ngoài ra, các hình ảnh gần gũi, thân quen cũng góp phần gợi tả cuộc sống hòa hợp giữa con người và tự nhiên. Từ đây, nhà văn muốn nhắc nhở mỗi người hãy biết sống yêu thương, giao hòa với thiên nhiên nhiều hơn.
Đoạn trích “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” sẽ mãi để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc về nhân vật “tôi” ham học hỏi, giàu tình cảm. Qua đây, nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần bày tỏ tình cảm yêu mến, nâng niu và trân trọng những tâm hồn trẻ thơ.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 67
Nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp đã ghi dấu trong lòng bạn đọc trên khắp thế giới bởi những sáng tác giàu chất thơ. Trong đó, tác phẩm “Người thầy đầu tiên” với hình ảnh người thầy Đuy-sen mang trong mình trái tim ấm nồng, nhân hậu khiến độc giả không khỏi kính trọng, yêu mến.
Qua lời kể chân thực, thầy Đuy-sen hiện lên mang nét đẹp của một người thầy hết lòng vì học sinh. Thấy lũ trẻ vác những bao ki-giắc nặng nhọc, thầy đã kịp thời an ủi động viên bằng cái nháy mắt đầy hóm hỉnh và lời nói dịu dàng: “Những cái bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi.”. Câu nói ấy như xua tan biết bao mệt nhọc của lũ trẻ trong trời đông lạnh giá. Mặc kệ tiết trời rét buốt, thầy vẫn miệt mài bế các em qua suối, “Lưng thì cõng, tay thì bế và cứ như thế thầy lần lượt đưa hết các em sang.”. Đứng trước lời giễu cợt của đám nhà giàu trên núi, thầy “dường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết” rồi “nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự”. Chứng kiến các em nhỏ lội suối lạnh cóng đôi chân, thầy thương xót và “cố gắng kiếm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối”. Trong quá trình đắp ụ đất đá, không may An-tư-nai ngã xuống nước, thầy Đuy-sen bỏ dở công việc đang làm, nhảy ngay đến chỗ cô học trò nhỏ, bế em chạy lên bờ và ủ ấm đôi tay lạnh cóng của em. Thầy làm mọi việc với mong muốn lũ trẻ được an toàn trên đường đến trường. Mọi lời nói, hành động của thầy đều cho thấy trái tim nhân hậu, giàu lòng yêu thương.
Bên cạnh đó, thầy Đuy-sen còn hiện lên với những suy nghĩ sâu sắc và nỗi lo cho tương lai của học sinh “Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.”, “Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành.”. Thầy luôn hi vọng các cô cậu học trò được vươn xa, mở mang thêm nhiều kho báu kiến thức của nhân loại.
Với việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng “tôi”, tác giả đã thể hiện một cách chân thực những suy tư, tình cảm và cảm xúc của nhân vật An-tư-nai về người thầy Đuy-sen. Thầy Đuy-sen hiện lên thật sống động qua lời kể đầy kính trọng, yêu mến. Qua đây, ta cũng thấy được thái độ ngợi ca, trân trọng mà Ai-tơ-ma-tốp gửi tới những người thầy kính yêu.
Đoạn trích “Người thầy đầu tiên” đã khắc họa thành công hình ảnh người thầy Đuy-sen nhân hậu. Văn bản gửi gắm cho chúng ta bài học về sự biết ơn, ghi nhớ công lao của thầy cô.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 68
Tác giả Nguyễn Ngọc Thuần là cây bút xuất sắc chuyên sáng tác cho trẻ em. Tác phẩm của ông mang đến một thế giới hồn nhiên, vui tươi và tràn ngập cảm xúc. Văn bản “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” đã để lại cho người đọc những ấn tượng khó phai về hình ảnh người bố ấm áp, giàu tình yêu thương.
Xuyên suốt câu chuyện, người bố hiện lên với vẻ đẹp của một người cha luôn quan tâm, chăm sóc và dạy dỗ con. Tâm hồn con được tưới tắm, trưởng thành qua những lời nói ân cần của bố “Đố con hoa gì?”, “Bố thấy con hé mắt!”, “Thật không?”. Mỗi lời chỉ bảo nhẹ nhàng, tinh tế đã khơi dậy trong nhân vật “tôi” lòng tự hào, biết ơn. Bố luôn bên cạnh, đồng hành “tôi” trên mọi hành trình của cuộc sống. Bố không buông lời chê bai mà sẵn sàng an ủi, khích lệ “Nhưng bố nói không sao cả, dần dần tôi sẽ nói đúng”. Bố còn khéo léo đến độ làm hẳn cho “tôi” “một bình tưới bằng cái thùng đựng sơn rất vừa tay”. Nhân vật “tôi” lớn lên trong tình yêu thương của bố, khả năng nhắm mắt đoán vật được rèn luyện thông qua những lần bố dạy. Có thể nói, bố trở thành người thầy tận tụy, giáo dục “tôi” mọi điều tươi đẹp trong cuộc sống. Tình yêu thương to lớn của bố đã giúp “tôi” học hỏi được nhiều thứ xung quanh.
Không những vậy, bố còn đặc biệt để ý, giúp đỡ mọi người. Khi “tôi” xác định chính xác tiếng hét ở đâu, bố vội vàng “quăng chén cơm rồi băng vườn chạy ra” để cứu người. Trong giây phút hiểm nguy, bố không ngần ngại nhảy xuống dòng nước, kịp thời cứu thằng Tí khỏi “lưỡi hái tử thần”: “Bố tôi ẵm nó về nhà. Bụng nó đầy nước, bố phải nắm ngược hai chân dốc xuống như làm xiếc”. Từng cử chỉ, hành động như tô đậm tấm lòng nhân hậu, thương người của bố.
Ngoài ra, bố còn là người yêu thiên nhiên sâu sắc. Bố trồng rất nhiều hoa trong vườn. Sau những buổi “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, bố thường dẫn “tôi” ra vườn chăm chút các loài hoa. Tình yêu của bố đã truyền năng lượng tích cực cho người con.
Qua góc nhìn của nhân vật “tôi”, bố sống tình cảm, chan chứa yêu thương. Bố luôn khuyên con trân quý mọi món quà dù lớn hay nhỏ “Bố không cưỡng lại được trước món quà. Một món quà bao giờ cũng đẹp. Khi ta nhận hay cho một món quà, ta cũng đẹp lây vì món quà đó.”. Chỉ khi ta hiểu được tấm lòng của người tặng, ta mới thấy món quà giá trị biết bao.
Rõ ràng, việc lựa chọn ngôi kể thứ nhất xưng “tôi” đã đem đến những tác dụng to lớn trong việc khắc họa những tính cách, phẩm chất tốt đẹp của người bố. Qua lời kể của người con, người bố hiện lên với tấm lòng vì con, luôn quan tâm đến mọi người và sống chan hòa với thiên nhiên.
Có thể nói, qua nhân vật người bố, tác giả muốn nhắn nhủ chúng ta bài học về giá trị của gia đình và lối sống hòa hợp với môi trường tự nhiên. Chắc chắn, ngay cả khi trang sách đã khép lại thì vẻ đẹp của người bố vẫn sống mãi trong lòng độc giả.
Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích- Mẫu 69
Bằng lối viết lôi cuốn cùng tấm lòng tràn đầy yêu thương, nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp đã đem đến cho người đọc những suy tư sâu sắc về tình cảm thầy trò đẹp đẽ, thiêng liêng trong văn bản “Người thầy đầu tiên”. Bên cạnh nhân vật Đuy-sen, An-tư-nai được tác giả khắc họa và xây dựng với sự kiên cường cùng tấm lòng nhân hậu.
Hoàn cảnh của cô bé An-tư-nai vô cùng đặc biệt. Em không được may mắn như những bạn bè cùng trang lứa vì mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải ở cùng với chú thím. Tuy nhiên, An-tư-nai rất nghị lực và cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Khi được thầy Đuy-sen hỏi “Thế em con ai?”, An-tư-nai lặng thinh, có chút tự ái vì không muốn ai thương hại mình. Nhờ tình yêu thương và sự giúp đỡ của thầy Đuy-sen, An-tư-nai không ngừng cố gắng học tập và trở thành một viện sĩ.
Mặc dù thiếu vắng tình cảm từ cha mẹ nhưng An-tư-nai vẫn luôn nuôi dưỡng cho mình tâm hồn trong sáng cùng bản tính tốt bụng, lương thiện. Biết thầy vất vả trữ sẵn củi để sưởi ấm cho lớp học, An-tư-nai sẵn sàng trút lại ki-giắc. Khi thấy lũ nhà giàu ở trên núi đi qua “quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tóe lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất”, em vô cùng bất bình “Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm!”. An-tư-nai cũng luôn quan tâm, giúp đỡ những người xung quanh. Em không ngần ngại cùng thầy xếp đá qua dòng nước cho các bạn đi lại an toàn, thuận tiện. Có thể thấy, An-tư-nai sáng ngời một vẻ đẹp thuần khiết, tươi mát như “dòng suối trong trẻo”.
Không những thế, An-tư-nai còn là một cô học trò trọng nghĩa tình. Em luôn mong ước thầy Đuy-sen là anh ruột của mình, “yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ”. Sau này, khi trở thành một viện sĩ, An-tư-nai muốn lan tỏa câu chuyện về thầy Đuy-sen với mọi người. Cô đã nhờ người họa sĩ kể lại những kỉ niệm tươi đẹp từng trải qua khi có sự quan tâm của người thầy đáng mến.
Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện là An-tư-nai, tác giả đã làm nổi bật tính cách, tâm trạng của cô bé. An-tư-nai chính là tấm gương sáng về sự hiếu học và tâm hồn cao đẹp. Đoạn trích “Người thầy đầu tiên” sẽ mãi khắc ghi trong lòng độc giả khắp thế giới về hình ảnh một cô học trò trong sáng, giàu tình cảm. Hi vọng những giá trị nhân văn, tốt đẹp của tác phẩm luôn sống mãi với thời gian.
*****
Trên đây là hơn 69 mẫu Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích lớp 7 do thầy cô biên soạn. Hy vọng nội dung trong bài học hôm nay sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình đạt điểm số cao nhất nhé.
Đăng bởi thầy cô trường THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập, lớp 7
- Giải Bài 9.29 trang 81 Toán 7 tập 2 SGK Kết nối tri thức với cuộc sống
- Giải Bài 9.30 trang 81 Toán 7 tập 2 SGK Kết nối tri thức với cuộc sống
- Giải Bài 6.33 trang 21 Toán 7 tập 2 SGK Kết nối tri thức với cuộc sống
- Giải Bài 6.27 trang 20 Toán 7 tập 2 SGK Kết nối tri thức với cuộc sống
- Giải Bài 6.28 trang 20 Toán 7 tập 2 SGK Kết nối tri thức với cuộc sống
- Giải Bài 6.29 trang 20 Toán 7 tập 2 SGK Kết nối tri thức với cuộc sống