Học TậpLớp 9

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (21 bài mẫu)

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 21 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí

Mục lục

Dàn ý Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí chi tiết

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (21 bài mẫu)

Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử được tác giả Ngô gia văn phái ghi chép lại, ngoài việc tái hiện lại hiện thực xã hội lúc bấy giờ còn khắc họa thành công hình ảnh người anh hùng Quang Trung, đặc biệt qua hồi thứ 14 của tác phẩm.

2. Thân bài

* Quang Trung Nguyễn Huệ là người có sự mạnh mẽ quyết đoán khi hành động

  • Khi nghe tin giặc đã đến kinh thành: Ông “định thân chinh cầm quân đi ngay”
  • Chỉ trong vòng một tháng có thể làm được nhiều việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi vua, hạ lệnh xuất quân…

* Là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trong mọi trường hợp:

  • Phơi bày những tội ác của giặc để nhắc nhở nhân dân, nêu ra các tấm gương quả cảm để tiếp thêm sức mạnh cho quân sĩ.
  • Biết cách thuyết phục những kẻ mềm lòng, dễ thay lòng đổi dạ.
  • Khen, chê, thưởng, phạt đúng người đúng việc.

* Có tầm nhìn xa trông rộng khi nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tính đánh đã có sẵn”, cách ngoại giao khi chiến tranh kết thúc…

* Tài thao lược, dùng binh như thần: Chỉ huy cuộc hành quân thần tốc.

* Hình ảnh vị vua tài năng còn hiện lên lẫm liệt khi chính ông cũng tham gia vào trận chiến, xông pha trước những mũi tên của giặc.

3. Kết bài

Qua ngòi bút tài tình, điêu luyện của Ngô gia văn phái, nhân vật Quang Trung Nguyễn Huệ đã hiện lên thật chân thực, đẹp đẽ, vừa tài năng lại vừa lẫm liệt, anh dũng.

21 mẫu Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 1

Hình tượng người anh hùng đã đi sâu vào trong tiềm thức của nhân dân, đi vào văn học với một dáng vẻ quen thuộc của người anh hùng dân tộc. Từ văn học hiện đại ta bắt gặp hình tượng người chiến sĩ cách mạng, anh hùng của thế kỉ XX trong những trang văn, lời thơ của những nhà văn, nhà thơ cách mạng. Về với văn học trung đại, chúng ta lại được chiêm ngưỡng hình tượng người anh hùng làm lên lịch sử vẻ vang cho dân tộc trong đó có hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung được các tác giả Ngô Gia văn phái tái hiện lên qua những trang văn lịch sử về thời đại hào hùng của dân tộc. Hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên thật cao đẹp trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”. Đó là một con người có khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người.

“Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc cả về nội dung cũng như nghệ thuật. Với nội dung viết về những sự kiện lịch sử diễn ra trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX ( cuối Lê đầu Nguyễn), tác phẩm đã xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng Quang Trung với sự kiện tiêu biểu trong hồi thứ 14: Quang Trung đại phá quân Thanh.

Hình ảnh vua Quang Trung hiện lên đầu tiên là một vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt, hành động quyết đoán.

Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc Hà chiếm giữ kinh thành Thăng Long thì lúc đó Nguyễn Huệ mới chỉ là Bắc Bình Vương đang ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo Nguyễn Huệ đã định “thân chinh cầm quân đi ngay” song trước lời bàn của các tướng sĩ, ông đã nhận thấy rằng cần phải lên ngôi hoàng đế, “chính vị niên hiệu”, “giữ lấy lòng người”.rồi mới đàng hoàng xuất quân. Đó chính là một sự sáng suốt, sự sáng suốt của vị chỉ huy biết làm gì để đem đến những lợi chung cho sự nghiệp. Chính vì thế mà chỉ trong một ngày Nguyễn Huệ đã làm xong 2 việc lớn: lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và cũng ngày 25 tháng Chạp, Mậu Thân, đã kịp thời hạ lệnh xuất quân.Ông hiểu rất rõ việc cầm quân đánh giặc là không hề đơn giản, cũng cần có đủ uy quyền để nắm bắt lòng dân lúc bấy giờ. Việc lên ngôi trong tình thế cấp bách ấy đủ để thấy sự sáng suốt trong trái tim của con người luôn biết vì đất nước, vì nhân dân.

Hành động quyết đoán là thế, Quang Trung còn là người mưu lược sáng suốt. Hãy cùng nghe những lời Quang Trung dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ra Bắc: “trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng …”,và để khích lệ lòng yêu nước của tướng sĩ, để nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của địch, ông đã dẫn ra một hệ thống song hành liên tục: “cứ một triều đại phong kiến phương Bắc thì đi liền với một nhân vật kiệt xuất, tiêu biểu phương Nam”. Rồi để giúp tướng sĩ nhận ra chân tướng “Phù Lê diệt Trịnh” của Tôn Sĩ Nghị, nhận ra dã tâm, bản chất xâm lược của quân Thanh. Nguyễn Huệ đã khẳng định chủ quyền của dân tộc “đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng” và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của quân Thanh, nêu bật dã tâm của chúng “bụng dạ ắt khác…cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải”, ông khéo léo khích lệ tướng sĩ khi ngợi ca truyền thống đánh giặc của tổ tiên để từ đó mà kêu gọi tướng sĩ “ những kẻ có lương tri, lương năng hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn”. Lời lẽ phân tích của đấng minh quân thật rõ ràng, lập luật thật chặt chẽ khiến ta nhớ tới “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và nhớ tới “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, hai vị tướng kiệt xuất thuở trước. Có thể nói Quang Trung thật sáng suốt khi nhận thấy rõ bản chất của kẻ thù và cũng rất sáng suốt khi khơi gợi lòng yêu nước cho nên quân lính nhất nhất “xin vâng lệnh không dám hài lòng”.

Không chỉ mưu lược ở việc điều binh mà trong việc khiển tướng, Vua Quang Trung cũng rất sáng suốt, cẩn trọng. Trên cương vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tôi là một điều quan trọng. Qua lời lẽ phân tích của ông đối với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, những người mà đáng lẽ ra đang có tội “quan thua chém tướng” song Quang Trung rất hiểu năng lực của họ cho nên ông đã nhận rõ các tướng lĩnh của mình đều là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng biến là không có tài”. Vì thế ông đã xếp Ngô Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Hiểu rõ tướng lĩnh của mình, Quang Trung không phạt họ mà trái lại họ còn an ủi động viên họ “biết lo xa biết làm cho kẻ địch chủ quan kiêu ngạo”. Nhờ có sự sáng suốt am hiểu bề tôi tường tận, ân uy đúng mực như vậy bậc anh quân đó đã tập hợp, tổ chức được lực lượng giống như Lê Lợi xưa kia:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phu tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”

Với tầm cỡ của một người tài, trí tuệ sáng suốt, mưu lược siêu phàm thì tầm nhìn xa trông rộng là một điều không thể thiếu. Ở vị vua này, tầm nhìn xa trông rộng của ông đã đem đến sự tự tin, thắng lợi cho nhân dân ta. Cho dù quân Thanh đang đóng gần hết đất Bắc Hà nhưng nhờ sự sáng suốt tự tin, mưu lược tiến đánh đã sẵn “mười ngày đánh đuổi người Thanh”. Nhưng đó không phải là cái đích lớn mà đích lớn Quang Trung tính đến đó là “khéo lời lẽ để dẹp yên binh đao” cho nên Nguyễn Huệ đã sáng suốt chọn Ngô Thì Nhậm vào việc giao dịch với nhà Thanh sau này. Nhưng tầm nhìn của ông còn xa hơn nữa. Ngay cả khi ngồi trên lưng voi trước trận đánh, Quang Trung đã chuẩn bị kế hoạch cho mười năm sau, quả là một nhà chính trị văn hoá, một đấng minh quân, một người anh hùng tài trí có tầm nhìn chiến lược sâu sắc biết bao. Điều này khiến chúng ta có thể khẳng định được rằng Quang Trung là con người có tài trí sáng suốt, điều cần thiết ở đấng quân minh mà không phải ai cũng có được.

Không chỉ nhanh nhẹn, tài trí trong hành động quyết đoán, việc điều binh khiển tướng mà dưới ngòi bút của tác giả “Ngô gia văn phái” nhân vật người anh hùng áo vải còn mang vẻ đẹp của vị tướng có tài thao lược hơn người. Điều này thể hiện vô cùng rõ nét trong cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy.

Đó là sự nhanh nhẹn của một nhà quân sự, một bậc kỳ tài trong việc dùng binh. Dưới sự sáng suốt trong việc chỉ huy của Quang Trung, đội quân của ông đã lớn mạnh không ngừng. Sáng suốt trong việc nhận định tình hình của giặc để rồi chớp lấy thời cơ, tổ chức chiến dịch thần tốc có một không hai trong lịch sử. Nghệ thuật cầm quân và tài năng quân sự, tài thao lược của Quang Trung chính là ở phương diện thần tốc bất ngờ. Ngày 25 tháng Chạp xuất quân từ Phú Xuân (Huế),ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt khoảng 350km qua núi, qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh, chỉ trong vòng một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp (cách khoảng 150km). Và đêm 30 tháng Chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Mà tất cả đều là đi bộ. Có sách còn nói vua Quang Trung sử dụng cả biện pháp dùng võng khiêng, cứ hai người khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung định kế hoạch chỉ trong vòng 7 ngày, mồng 7 tháng Giêng sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long. Trên thực tế, đã thực hiện kế hoạch sớm hai ngày: trưa mồng 5 đã vào Thăng Long. Hành quân xa liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi,rã rời, nhưng nghĩa binh Tây Sơn “cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề”, “từ quân đến tướng, hết thảy cả năm đạo quân đều vâng mệnh lệnh, một lòng một chí quyết chiến quyết thắng”. Đó là nhờ tài năng quân sự lỗi lạc ở người cầm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.

Tài thao lược của Quang Trung còn thể hiện rõ khi chọn cách đánh bất ngờ, biết giặc kiêu căng khinh suất là tổ chức đánh ngay, biết chọn tướng chỉ huy, hoạch định hướng tiến công, phối hợp giữa các cánh quân. Kết quả tài thao lược được thể hiện rõ ở đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi khiến quân Thanh không kịp trở tay. Cách đánh bất ngờ thần tốc táo bạo đến mức khi quân Tây Sơn kéo vào thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề được tin cấp báo . Vì vậy quân tướng nhà Thanh nhìn thấy quân Tây Sơn như nhìn thấy “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Sự thảm bại của quân Thanh là kết quả tất yếu. Như trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi có viết:

“Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”

Quang Trung cùng với quân đội của mình làm nên mốc son chói lọi trong lịch sử của dân tộc, một chiến thắng thần tốc với tài mưu lược, dụng binh khiển tướng tài ba của mình.

Hình ảnh vua Quang Trung hiện lên trong hồi thứ 14 không chỉ là người có trí tuệ sáng suốt, hành động quyết đoán, mưu lược hơn người mà đây còn là hình ảnh của một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến trận. Quang Trung cưỡi voi chỉ huy chiến dịch thần tốc nhưng phong thái ung dung tỉnh táo khác thường. Quang Trung đã tự tin khẳng định “10 ngày đánh đuổi” quân Thanh thể hiện trí tuệm sáng suốt, biết làm chủ trong mọi tình thế. Chính phong thái ung dung tự tin của con người có tài thao lược đã tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng. Dưới những trang văn hào hùng mang tính sử thi của đoạn trích, ta như nhìn thấy hình ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ cưỡi trên lưng voi chỉ huy 1 đội quân dàn trận chữ “Nhất” tiến vào Thăng Long:

“Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh”.

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã có nhiều ông vua từng thân chinh cầm quân đánh giặc nhưng vừa nắm quyền chỉ huy, vừa quyết đoán phương lược, vừa đốc xuất chiến dịch và đi với 1 mũi tiến công xông pha nơi hòn tên mũi đạn thì chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi ban mai, trong khói toả mù trời của súng đạn, Quang Trung với khí phách lẫm liệt, hào hùng đã khắc tạo một hình tượng đẹp trong chiến trận, vượt ra khỏi tầm vóc của người anh hùng áo vải,hình tượng ấy bỗng vụt sáng, trở thành hình tượng cao quý của bậc vĩ nhân. Hình ảnh ấy đã được sử sách còn ghi lại “ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu” tấm áo bào đỏ của vua Quang Trung sạm đen khói súng. Hình tượng người anh hùng ấy đã trở thành một hình tượng đẹp đẽ về người anh hùng với khí phách hiên ngang lẫm liệt trong văn học cổ Việt Nam, trở thành một tượng đài bất hủ trong văn học cổ dân tộc. Đây là hình tượng người anh hùng thực sự mới có đủ tầm vóc khiến cho các tác giả Ngô Gia văn phái, những con người tận trung với triều Lê không thể bỏ qua chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung và hiện thực nhà Lê yếu hèn “cõng rắn cắn gà nhà” để trở thành những người ghi chép lịch sử tận tâm, tận hiếu, viết thực, viêts hay về lịch sử dân tộc.

Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca chiến thắng còn in dấu trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du một nhà thơ đương thời:

“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương …”

“Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14 là một sự cống hiến vô giá của các tác giả Ngô Gia văn phái về những trang tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung. Như một thứ ánh sáng trong những phút đầu còn le lói nhưng vẫn lấp lánh hào quang ấy, hình tượng vị vua anh hùng mỗi lúc một cao rộng, lan toả để rồi khắc sâu vào tâm khảm chúng ta vẻ đẹp trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người và một khí phách hào hùng lẫm liệt. Trong chúng ta hôm nay vẫn lưu truyền một giai thoại về người anh hùng mưu trí, tài năng, vị vua anh minh, sáng suốt của dân tộc

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 2

Tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm văn học được viết theo lối chương – hồi, mang đậm giá trị lịch sử. Phản ánh một cách sinh động và đầy biến động xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Trong tác phẩm, các tác giả Ngô gia văn phái đã xây dựng một tượng đài của nhân vật lịch sử, đó chính là người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ.

Người anh hùng Nguyễn Huệ được xây dựng trong tác phẩm là một người của dân tộc với mưu lược tài toàn, trí tuệ hơn người cùng tài cầm quân xuất chúng, là một người kiêu hùng và quyết đoán với những hành động mạnh mẽ, dứt khoát. Ngay khi nghe được tin quân Thanh kéo sang xâm lược và chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập tức “tế cáo trời đất” và lên ngôi hoàng đế. Lập tức kêu gọi binh lính, đốc thúc đại quân tất cả cùng kéo ra bắc đánh dẹp quân Thanh. Qua đó có thể thấy Nguyễn Huệ là một người quyết đoán, đối với những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước ông không hề chần chừ, do dự mà cầm quân đánh giặc.

Trước khi đem quân ra Bắc đánh giặc, Nguyễn Huệ không quên gọi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp vào để bàn mưu lược. Điều đó cho thấy ông tuy có sự quyết đoán, dũng mãnh và trí tuệ hơn người nhưng vẫn rất coi trọng ý kiến của bậc hiền tài, chiêu mộ ý kiến của hiền thần, thể hiện rõ ông là một bậc minh quân sáng suốt. Nắm được số lượng binh lính của quân địch là rất lớn, gần 30 vạn quân. Nhận thấy tương quan lực lượng giữa ta và địch có phần chênh lệch nên ông đã ra sức chiêu mộ binh lính, mở cuộc duyệt binh lớn nhằm nâng cao sức mạnh của quân ta. Lên kế hoạch tiến công đánh giặc với bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu. Có thể thấy với những mưu lược ấy, chủ tướng Nguyễn Huệ không chỉ cốt nâng cao sức mạnh cho quân mình mà còn bố trí, chuẩn bị những kế hoạch chu toàn, làm tiền đề cho thắng lợi vang dội sau này. Với những lập luận sắc bén, thấu tình đạt lí đã khơi dậy nhuệ khí chiến đấu và lòng tự tôn của toàn quân ta, phát huy được sức mạnh tinh thần to lớn của đại dân tộc.

Là một vị chủ tướng, Nguyễn Huệ đề cao tính kỉ luật, quy định chặt chẽ đối với nghĩa quân, xử phạt nghiêm khắc đối với những kẻ hai lòng, phản bội đất nước. Đội quân của Nguyễn Huệ đã có cuộc hành trình thần tốc do người chủ tướng đề ra chiến lược cho quân lính thay phiên nhau đi, cứ ba người một tốp thay phiên nhau khiêng võng đi. Đoàn quân cứ đi triền miên không dừng lại mà ai cũng đều được nghỉ, do đó đội quân Tây Sơn đã hành binh cực kì thần tốc. Cách chống lại vũ khí của giặc của nghĩa quân cũng vô cùng độc đáo, các khiên được bao phủ rơm ướt bên ngoài làm cho hỏa tiễn của địch không thể phát huy tác dụng.

Có thể thấy các tác giả Ngô gia văn phái đã khắc họa chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ một cách sống động và chân thực, một người anh hùng trí tuệ, oai phong lẫm liệt. Các tác giả tuy từng làm dưới triều Lê nhưng đã đứng trên lập trường dân tộc để ca ngợi vua Quang Trung như vậy, điều đó làm cho tác phẩm mang nhiều giá trị hơn.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 3

Hoàng Lê nhất thống chí – một cuốn tiểu thuyết lịch sử được viết bằng chữ Hán đã ghi lại những dấu mốc quan trọng trong lịch sử của Ngô gia văn phái. Qua tác phẩm nó đã để lại trong người đọc một hình ảnh người con của Việt Nam – tài năng yêu quê hương đất nước, cống hiến cả cuộc đời cho nhân dân. Đó là Quang Trung – vị anh hùng của dân tộc người có công lớn trong việc đại phá quân Thanh. Đặc biệt qua đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, Quang Trung hiện lên với một khí chất thật đẹp, tài chí trong mọi chiến lược.

Quang Trung một anh hùng có nhiều tài năng, nhưng trước hết phải kể đến tính mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Trong suốt đoạn trích ông xuất hiện với hình ảnh một con người có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất quyết đoán. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi ông “tế cáo trời đất” lên ngôi vua, hạ lệnh xuất quân, chỉ trong vòng một tháng mà ông đã làm được bao nhiêu việc lớn.

Cùng với hành động quyết đoán, Quang Trung còn là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có cái nhìn tổng quan về trận chiến, về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể ” để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Những tội ác của quân giặc đã được ông phơi bày ra để nhắc nhở nhân dân, rồi tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho các tướng sĩ bằng những tấm gương quả cảm từ thời xa xưa như Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng.. Ông còn có cách thuyết phục những kẻ “mềm lòng” dễ thay lòng đổi dạ vừa mềm mà chặt. Ông đưa ra những lời khen chê, thưởng phạt đúng người đúng việc, ta thấy rõ điều đó qua trường hợp của Sở và Lân.

Có thể nói, ông là người có tầm nhìn xa trông rộng khi ông nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tính đánh đã có sẵn” rồi ông còn nhìn xa hơn khi nghĩ cách ngoại giao khi chiến tranh kết thúc để đất nước phục hồi lại, yên ổn, nuôi dưỡng phát triển để rồi sau này “ta có gì sợ chúng”.

Vua Quang Trung là vị tướng cầm quân có tài thao lược hơn người với cách dùng binh như thần. Chúng ta không thể khỏi kinh ngạc trước sự chỉ huy và sự thần tốc của quân lính khi đi đánh giặc, trong thời gian ngắn mà đường dài quân đội của ông vẫn chỉnh tề, tuân theo mọi chỉ huy của ông.

Trải qua cuộc hành quân dài, xa xôi chịu nhiều gian khổ nhưng dưới sự chỉ huy của Quang Trung cả đội quân đã chiến thắng quân địch một cách tuyệt đối bởi các chiến lược tài tình của ông. Vị vua tài năng hiện lên thật lẫm liệt khi ông cũng chính mình xông ra trận chiến, tiến công, cưỡi voi, xông pha trước những mũi tên của quân địch.

Dưới ngòi bút tài tình, điêu luyện của Ngô gia văn phái, người đọc đã cảm nhận được hình ảnh một ông vua lẫm liệt anh dũng đầy tài năng. Vua Quang Trung đã làm rạng danh dân tộc, đem lại bình an cho nhân dân và ông xứng đáng là một tượng đài bất tử trong lòng người dân Việt Nam.

Cùng tìm hiểu chi tiết về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí, bên cạnh bài Phân tích nhân vật Quang Trung trong đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí, các em có thể tham khảo thêm: Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí, Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí, Nghệ thuật xây dựng nhân vật vua chúa trong Hoàng Lê nhất thống chí, Phân tích hồi thứ mười bốn để chứng minh nhận xét: Hoàng Lê nhất thống chí… những trang viết thực và hay để củng cố thêm kiến thức cho mình.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 4

Trường phái văn học của đại gia đình họ “Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nổi tiếng với bộ sách gồm thơ , phú rồi truyện kí không chỉ đặc sắc về nghệ thuật mà còn có giá trị lịch sử cao. Nổi bật trong đó phải kể đến “ Hoàng Lê nhất thống chí” như một thiên sử đồ sộ kể lại những thăng trầm của đất nước thời Trịnh Sâm, phong trào Tây Sơn và sự lật đổ nhà Thanh. Lồng lộng trong khúc tráng ca là hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung.

Hình tượng người anh hùng Tây Sơn được khắc họa tập trung qua hồi 4, hồi 5 và hồi 14. Ở đó người anh hùng hiện lên với đủ tâm tài chí dũng, là một trong những lý do xứng đáng để dẫn đến sự sụp đổ của triều đại Lê-Trịnh và thắng lợi vẻ vang của nghĩa quân Tây Sơn. Với khí thế sấm chớp, hình tượng người anh hùng áo vải sánh ngang với các bậc anh hùng vĩ đại khác trong lịch sử.

Một trong những điều cốt yếu để làm nên một người anh hùng là lấy “ nhân nghĩa” làm đầu( Nguyễn Trãi đã đề cập trong “ Bình Ngô đại cáo”.). Và ở Quang Trung, mọi hành động, suy nghĩ của một người anh hùng đều xuất phát từ cái tâm đẹp, một tấm lòng luôn nghĩ cho dân ,luôn lo lắng cho nước. Khác với những tên vua hèn hạ bán nước như Lê Chiêu Thống, tình yêu nước mãnh liệt trong lòng vị tướng tài đã thổi bùng lên ngọn lửa căm giận trong ngài khi hay tin lũ bán nước, biết quân Thanh sắp tràn vào lãnh thổ nước nhà: ngài “ giận lắm, định cầm quân thân chinh đi ngay.” Tình yêu nước thổi vào những lời hiệu triệu đến với các binh sĩ một giọng hùng hồn , hào sảng, dứt khoát, thể hiện quyết tâm cao đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Ngài tin tưởng vào truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta từ thời Bà Trưng bà Triệu, rằng tội ác của quân giặc, quân ta nhất định không thể dung tha. Đến đây ta nghe như vang vang bên tai lời hiệu triệu của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ngày nào gửi đến binh sĩ, thúc giục tinh thần đấu tranh. Tinh yêu nước đã mang trong đó cả linh hồn dân tộc tự ngàn đời.

Không chỉ yêu nước, thương dân, Quang Trung còn là một người vô cùng tài giỏi. Điều đó thể hiện qua trí tuệ sắc bén, tầm nhìn xa trông rộng của ông trong việc nhận định thời cuộc, vừa dự tính đánh thế nào mà còn dự tính trước sẽ ứng xử ra sao khi giành thắng lợi. Nhờ sáng suốt anh minh, ông hiểu được binh lính nhân dân là nòng cốt nên ông tập trung khích lệ tinh thần chiến đấu của các binh sĩ, thậm chí còn cho họ ăn Tết trước khi bước vào chiến trận. Đặc biệt là cuộc hành quân thần tốc và đánh bại quân Thanh chỉ trong vòng 5 ngày, sớm hơn nhiều so với dự kiến đã trở thành điều làm kinh ngạc con người ở mọi thời đại, càng chứng tỏ tài dùng binh, trí tuệ đáng khâm phục ở người anh hùng ấy.

Ở Quang Trung cũng không thể thiếu cái chí của một người anh hùng. Chí khí thể hiện ở quyết tâm cao độ, hành động quyết đoán và nhanh chóng của ông. Khi hay tin đánh giặc chỉ trong vòng một tháng ông đã hoàn thành đủ mọi nghi lễ tế cáo,quy tụ đủ số quân binh cần thiết và hành quân thần tốc làm nên chiến thắng chớp nhoáng đối với nhà Thanh.

Quang Trung còn là một vị tướng vô cùng dũng cảm. Ông trực tiếp mặc áo giáp cưỡi voi, xông pha ra trận , vừa vạch ra đường lối đánh giặc vừa trực tiếp là người chỉ mũi giáo vào quân thù. Người anh hùng ấy với lòng dũng cảm, quyết hi sinh thân mình để bảo vệ sự bình yên của non sông xã tắc hòa cùng khí thế xung thiên ngút trời làm mờ sao Ngưu, sao đẩu của nghĩa quân Tây Sơn khiến quân địch đớn hèn nhụt đi ý chí mà thất bại nhanh chóng.

Với sự hội tụ của cả tâm, tài, chí và dũng, Quang Trung xứng đáng trở thành linh hồn của cả nghĩa quân Tây Sơn, cũng là tinh thần dân tộc của con người thời bấy giờ. Đúng như Nguyễn Trãi nói: dân tộc ta “ anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”. Họ là Lý Thường Kiệt, là Lê Lợi, là Nguyễn Trãi, và bây giờ đến Quang Trung. KHác nhau về thời đại nhưng những người anh hùng ấy đều mang trong mình khí thế non sông, hồn thiêng sông núi, là niềm tự hào của cả một dân tộc, một đất nước, là những huyền thoại vĩ đại để con người đời sau nhớ về.

Hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã nhắc ta nhớ về một thời đại vàng son trong lịch sử dân tộc , tăng thêm ý thức dân tộc, tự nhắc mình phải tiếp bước cha ông trên con đường xây dựng, bảo vệ đất nước.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 5

Hoàng Lê Nhất thống chí là tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái. Những sự kiện lịch sử được ghi chép lại một cách đầy chi tiết và đảm bảo tính chân thực. Ngoài các sự kiện đã xảy ra trong cuộc chiến tranh chấp quyền lực giữa nhà Lê và phong trào Tây Sơn, tác phẩm còn tập trung phác họa, tái hiện chân dung anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, điều này được thể hiện rõ nét trong hồi thứ 14.

Trước hết, ta có thể thấy Quang Trung là một con người đầy quyết đoán. Mỗi việc làm của mình, nhà vua đều suy nghĩ rất thấu đáo, biết được mục đích cần phải làm và quyết tâm hành động để làm nên nó. Điều đó được chứng minh bằng các sự kiện cụ thể. Khi biết rằng giặc Thanh đang đánh chiếm thành Thăng Long – vị trí quân sự quan trọng của quân ta, ông không hề tỏ ra sợ hãi hay nao núng mà họp bàn các tướng lĩnh để đề ra những kế sách, sau đó đích thân cầm quân lên đường. Phải có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí lớn thì vừa Quang Trung mới có hành động tức thời và quả quyết đến như vậy. Khi nghe những lời phải của các trọng thần, ông không hề do dự mà lập tức ” đắp đàn trên núi Bân”, làm lễ tố cáo trời đất và các thần sông núi, tạo ra áo mũ vừa mà lên ngôi hoàng đế. Quang Trung lên ngôi vua cũng là lúc nhận về mình trọng trách lớn lao với dân, với nước, vì vậy mà khi vừa lên ngôi, sau khi lễ xong liến cấp tốc xuất quân vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân.

Không chỉ là người tướng lĩnh quyết đoán, giàu mưu lược mà Quang Trung Nguyễn Huệ còn biết trọng dụng người tài. Trước sự kiện quân Thanh kéo đánh nước ta, Nguyễn Huệ đã hỏi ý kiến của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nhằm đề ra kế sách vẹn toàn nhất. Sau khi đưa đại binh cả thủy lẫn bộ tới Nghệ An, nghe được lời khuyên khi gặp người cống sĩ Nguyễn Thiếp ông liền tổ chức ngày việc kén lính, chiêu mộ quân sĩ. Khi hoàn thành thì mở ngày cuộc duyệt binh và chia quân thành tiền, hậu, tả, trung để đối phó với địch. Sau khi ban bố lời phủ dụ binh lính và tướng sĩ, Quang Trung quyết hạ lệnh tiến cống, chỉ ra kế hoạch, phương hướng đối phó với bè lũ nhà Thanh trong chớp mắt. Những hành động thần tốc, ý nghĩ mạnh mẽ và kiên quyết ấy cho thấy một bản lĩnh hơn người của vị vua dân tộc.

Ở vua Quang Trung, không chỉ có sự cương trực, quyết đoán mà còn là một người có trí tuệ anh minh, nhãn quan tỏ tường. Ông biết phân tích những điểm yếu, điểm mạnh giữa ta và địch, biết nhận định đúng sai và đưa những quyết định đúng thời điểm. Đó là điều mà làm nên những chiến thắng khi thực hiện các chiến lược mà ông đã vạch ra. Những lời phủ dụ vừa thâm sâu vừa ân tình đó ông truyền đạt đã tác động vào ý chí, kích thích sự chiến đấu của nghĩa quân.” Quân Thanh sang xâm lấn nước ta chớ bảo là ta không nói trước”. Những lời lẽ đầy sức thuyết phục như vậy phát ra từ một người tài năng và nhiệt huyết càng khiến quân sĩ nể phục mà vâng lệnh: “Xin vâng lệnh, không dám hài lòng”.

Sự thông minh xuất chúng ấy còn được thể hiện ở khả năng dùng người tài ba của ông. Biết chọn Ngô Thì Nhậm, một người giỏi lý lẽ lại khéo lời làm tướng dẹp loạn đao binh đưa lại phúc cho muôn dân thiên hạ.” Lần này ta ra, thân hành cầm quân bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?”. Đặc biệt, trong cách xử trí Sở và Lân trên núi Tam Điệp cũng khiến người người phải nể phục.

Nhờ vậy mà cuộc chiến do Nguyễn Huệ thân chính đã mang lại những chiến thắng thần tốc, vàng dội non sông. Đó là những cuộc hành binh nhanh chóng từ Huế đến Tam Điệp chỉ trong vòng một tuần. Tới Thăng Long vào 30 tháng chạp để lên đường, ngày mùng 5 năm sau đã hoàn thành nhiệm vụ. Tại huyện Phú Xuân, bắt sống được hàng loạt quân Thanh trên đường trốn chạy. Tại làng Hà Hồi, quân ta vây kín khiến giặc sợ hãi, xin hàng và giao nộp toàn bộ khí giới, lương thực cho quân Nam. Trận chiến tại đồn Ngọc Hồi quyết liệt, quân Thanh sau khi tự làm hại mình thì không chống cự nổi, giày xéo lên nhau mà chạy tán loạn. Quần ta thắng lớn, quân Thanh đại bại trong nhục nhã, tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ chết tại trận.

Người anh hùng Nguyễn Huệ, một người tướng lĩnh tài ba, vị minh quân của dân tộc qua từng trang viết được khắc hoạ thật rõ nét. Qua đó, ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, về những danh nhân của thời đại xưa. Từ đó, cố gắng học tập, rèn luyện và hoàn thiện để bản thân mỗi ngày thật mạnh mẽ, trưởng thành, sống với lý tưởng yêu nước mà ông cha đã gìn giữ, phát huy

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 6

“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một trận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương”

(Ngô Ngọc Dụ)

Vua Quang Trung, vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Vẻ đẹp uy nghi, trí tuệ của vua Quang Trung đã được phản ánh đầy đủ, trọn vẹn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14.

Hồi thứ thứ 14 kể về lần thứ ba ra Bắc Hà của Nguyễn Huệ. Ông đã tạo nên chiến công kì tích nhất trong lịch sử Việt Nam, với tốc độ tiến công thần tốc, chỉ trong 10 ngày ông đã tiêu diệt gọn quân Thanh, lấy lại nền độc lập cho đất nước. Chỉ trong đoạn trích ngắn này, nhưng vẻ đẹp khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người đã được biểu lộ rõ nét nhất.

Đọc Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, ấn tượng đầu tiên của người đọc đối với vị anh hùng này chính là ở trí tuệ sáng suốt và vô cùng mạnh mẽ, quyết đoán. Ngay khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc, chiếm giữ kinh thành Thăng Long bấy giờ Nguyễn Huệ mới là Bắc Bình Vương và ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo, lòng yêu nước trào dâng ông đã định cầm quân đi ngay. Song trước sự khuyên ngăn, suy nghĩ kĩ lương, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi, để danh chính ngôn thuận cầm quân ra Bắc. Ngay sau khi lên ngôi Nguyễn Huệ – niên hiệu là Quang Trung đã ra lệnh xuất quân ngay. Không chỉ vậy, để giành được chiến thắng với kẻ địch mạnh, đòi hỏi phải có một trí tuệ sáng suốt. Quang Trung đã rất mưu lược, sáng suốt khi nhận định tương quan tình hình hai bên, ra lời hịch vừa để khích lệ binh tướng, vừa để răn đe, cảnh tỉnh với những kẻ hai lòng. Ông vô cùng sáng suốt khi nhận rõ bản chất của kẻ định, và khơi dậy lòng yêu nước ở những người chiến sĩ. Trước những lời lẽ đanh thép, sắc sảo của ông tướng sĩ trên dưới một lòng đều nhất nhất tuân lệnh: “xin vâng lệnh không dám hài lòng”.

Không chỉ vậy, sự mưu lược của ông còn được thể hiện trong cách nhận xét về thế mạnh và cái yếu của bề tôi. Ông hiểu năng lực của Sở và Lân, họ chỉ là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tùy cơ ứng biến là không có tài”. Bởi vậy ông không trách cứ, xử tội họ. Ông cử Ngô Thì Nhậm – người có tài mưu lược để bên cạnh mà hỗ trợ hai vị tướng. Cách hiểu người, dùng người đúng đắn, trách người đúng tội đúng việc làm cho quân tướng ai nấy đều hài lòng và khâm phục. Nhờ có sự am hiểu như vậy, đã giúp ông thu phục nhân tâm của mọi người.

Và cuối cùng sự sáng suốt của ông còn thể hiện trong tầm nhìn xa trông rộng. Ông nắm rõ tình hình, quân Thanh bành trướng đang đóng quân gần hết Bắc Hà, nhưng ông cùng vô cùng tự tin chỉ trong mười ngày sẽ đánh đuổi sạch bóng quân Thanh. Nhưng ông không chỉ lo nghĩ đến việc dẹp yên giặc, mà con nghĩ trước cách ứng xử với chúng sau khi chúng bị đánh đuổi về nước. Là một nước lớn, khi thua trận tất yếu sẽ sinh sự cay cú mà đem quân trả thù, bởi vậy ông đã cử Ngô Thì Nhậm, dùng “khéo lời để dẹp yên binh đao”. Làm việc ấy cũng là để cho nhân dân nghỉ sức, ta có điều kiện trong vòng mười năm xây dựng đất nước, củng cố quân sự, lúc bấy giờ giặc Thanh có xâm lược ta cũng không còn phải ngần ngại gì nữa. Qua tất cả những sự việc đó, đã cho hậu thế thấy một con người tài trí sáng suốt, liệu việc như thần.

Không chỉ dừng lại là một con người có tài trí sáng suốt, mà dưới ngòi bút của Ngô Gia Văn Phái, Quang Trung còn là một người có tài thao lược hơn người. Ngay sau khi hạ lệnh xuất quân ra Bắc, ông lập tức lên đường, vừa đi vừa tuyển quân, khiến cho binh lực mạnh lên không ngừng. Ông có cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch sử, làm cho ai cũng không khỏi kinh ngạc, từ Phú Xuân ra đến kinh thành Thăng Long ông chỉ đi mất có bốn ngày, trong khi đi còn tuyển quân, phương tiện di chuyển thô sơ chủ yếu đi bộ, phần còn lại đi ngựa. Chính tốc độ hành quân thần tốc ấy cũng là một yếu tố làm cho kẻ địch bất ngờ.

Đồng thời ông lựa chọn thời cơ chính xác, chớp cơ hội tết nguyên đán giặc sơ hở, lo ăn chơi để đánh một trận tiến quân lớn, đập tan tất các các ngả quân của chúng. Ở mỗi trận đánh có có cách đánh hết sức linh hoạt, khiến cho kẻ thù choáng váng, tưởng “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Và chính điều đó đã dẫn đến thắng lợi tất yếu của quân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thug. Quang Trung cùng với các tướng sĩ của mình đánh một mốc son chói lọi và hào hùng vào trang sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Đẹp đẽ nhất là khi vua Quang Trung chỉ huy đội quân tướng sĩ trên chiến trường, đó là vẻ đẹp của sự oai phong, lẫm liệt, khó ai có thể bì kịp. Vua Quang Trung thân chinh cầm một mũi tiến công, chỉ huy xông ra trận. Trong ánh sáng của buổi sớm, khói của súng đạn, vị anh hùng thân cưỡi voi, mình mặc áo bào lẫm liệt xông ra chiến đấu với kẻ thù. Một tạo hình uy nghi, lẫm liệt và vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh đó đã trở thành tượng đài bất hủ của dân tộc Việt Nam.

Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 đã tạc lên tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ thành công xuất sắc. Ông là con người toàn tài, vị vua anh dũng, sáng suốt, đánh tan quân xâm lược, đem lại độc lập cho dân tộc. Vẻ đẹp trí tuệ của vua Quang Trung cũng chính là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp, khí phách của dân tộc Việt Nam.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 7

Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.

Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi ngay”.

Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, ” đốc suất đại binh” ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.

Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:

Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.

Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc,…

Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. Chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa giành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.

Tài dùng binh như thần: Cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.

Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế…

Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)

Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 8

Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kỳ mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt ba vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm – Xoài Mút trong một trận thủy chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ- vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên Gò Đống Đa lịch sử bất tử.

Đọc Hồi thứ 14 ” Hoàng Lê nhất thống chí”, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ.

Những tác giả- những người con ưu tú của dòng họ Ngô thì ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của những cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với Thái Hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ ” hắn” mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng chẳng hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.

“Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét.”

Nên biết rằng lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được Thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự bại vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: “E rằng chẳng bấy lâu nữa, hắn lại trở ra,, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?” Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự báo linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn.

Nguyễn Huệ là một con người ” biết nghe và quyết đoán”. Ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết đưa vào, Nguyễn Huệ “giận lắm” định “cầm quân đi ngay” nhưng trước lời bàn “hãy chính vị hiệu”, ông đã nghe theo để ” giữ lấy lòng người” rồi mới xuất quân đi đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế Trời Đất, thần Sông, thần Núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung đã chứng tỏ cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi Tổ Quốc đứng trước họa xâm lăng.

Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa thế mà 29 đã hành quân tới Nghệ An : gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân “đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”, nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ “ăn ở hai lòng … sẽ bị giết ngay tức khắc”, vạch trần thói tàn bạo tham lam của người phương Bắc để kích thích lòng căm thù, kêu gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ … để quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân ra tới Tam Điệp hội sưu với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành năm đạo binh lớn ” gióng trống lên đường ra Bắc”.

Nguyễn Huệ thật “lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân.” Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc : bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết ” thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối”. Tại đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, ” quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người.” Trong khi đó, một trận “rồng lửa” đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào ” tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên” làm cho Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngữ không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp … nhằm hướng Bắc mà chạy.” Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào Thăng Long trước kế hoạch hai ngày.

Nhãn quan quân sự – chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm ” người khéo lời lẽ” để “dẹp nỗi việc binh đao”, đem lại “phúc cho dân.”

Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:

“Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình”

(“Ai tư vãn” – Ngọc Hân công chúa)

Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc. Nó làm cho trang văn ” Hoàng Lê nhất thống chí” thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 9

Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc – tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.

Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.

Vua Quang Trung còn nổi tiếng là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn khái quát ấy còn giúp ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể ” để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”. Vì vậy, ông đưa ra mọi quyết định đều cân nhắc trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông đưa vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, khiến cho quân sĩ được khích lệ tinh thần, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ “mềm lòng” dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.

Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất quan trọng. Ông đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.

Xây dựng hình tượng vua Quang Trung với vẻ đẹp dũng mãnh, tài trí, có tài có đức, đại diện cho hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 10

Nguyễn Huệ – người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.

Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà hoàng thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn”’ nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân:” Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn…”. Trong khi nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp, chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc” thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.

Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống” phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn. Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.

Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bời vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ:” Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?… Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.

Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc…”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn”, “bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng’

Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Nhưng ông cũng luôn luôn để phòng hậu hoạ: “ Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”. Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ’ để “dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: “Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả”. Đó là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.

Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần” mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 11

Vua Quang Trung là một nhân vật lịch sử có nhiều phẩm chất đáng ngưỡng mộ. Hoàng Lê nhất thống chí, đặc biệt là hồi thứ 14 đã tái hiện lại những nét đặc trưng của Quang Trung một cách chân thực, khiến độc giả cảm nhận được sự mạnh mẽ và quyết đoán của người anh hùng này. Ông không chỉ là một vị vua có xuất thân từ dân chúng, mà còn là một người có tài hoa và phẩm chất đạo đức tốt. Tài hoa của ông được thể hiện rõ nét trong các trận chiến quan trọng của đất nước.

Sự quyết liệt của vua Quang Trung trong việc đánh giặc cũng là một điểm nhấn đáng kể. Ngay khi tin tức quân Thanh xâm lược đến nước ta, ông đã không ngần ngại tự lên ngôi vua, tuyển mộ lính và cầm quân để đánh trả địch. Thậm chí, ông còn tiến hành hành quân ra Bắc một cách nhanh chóng, khiến địch không kịp phản ứng. Sự mạnh mẽ và quyết liệt của vua Quang Trung đã giúp ông giành được nhiều chiến thắng trước quân Thanh. Những trận đánh quan trọng như Chi Lăng, Ngọc Hồi – Đống Đa đã được lịch sử ghi nhận như những chiến công vang dội của ông và quân đội của mình.

Không những thế, vua Quang Trung còn là một vị tướng lãnh đạo sáng suốt, có tầm nhìn xa, rộng. Trong trận đánh quan trọng tại Đống Đa, vua Quang Trung đã sử dụng một kế hoạch chiến lược đột phá để đánh tan quân giặc. Kế hoạch này đã được tính toán cẩn thận trước khi chiến đấu bắt đầu, và được thực hiện một cách tài tình bởi vua Quang Trung. Với kế hoạch này, ông đã khiến quân giặc đánh lẻ và bị tách ra khỏi đồng minh của mình, rồi sau đó tiêu diệt chúng một cách dễ dàng.

Điều đáng chú ý là trước khi triển khai kế hoạch đột phá, vua Quang Trung đã sử dụng một chiến thuật khác để làm giảm áp lực của quân giặc. Ông đã tổ chức một bữa tiệc rượu cho các chỉ huy quân đội của mình, nhằm tăng cường sĩ khí và động viên tinh thần cho quân đội. Bằng cách này, vua Quang Trung đã tạo ra một bầu không khí tươi vui, lạc quan giữa quân đội, giúp họ sẵn sàng cho trận đánh quan trọng sắp tới.

Vua Quang Trung không chỉ có tài quân sự xuất sắc mà còn có bộ óc sáng suốt, tầm nhìn rộng và khả năng lập kế hoạch chiến lược tuyệt vời. Ngay cả trong thời gian ngắn, ông đã tìm ra chiến lược phù hợp để đánh bại giặc và đưa quân đội tiến lên. Không chỉ vậy, ông còn có khả năng phân biệt những nhân tài thực sự và thăng cấp cho họ vị trí cao hơn trong quân đội, chẳng hạn như Ngô Thì Nhậm. Từ đó, lòng tin và tôn trọng của quân dân dành cho vua càng tăng cao. Bên cạnh đó, vua Quang Trung cũng đã thành công trong việc thuyết phục toàn bộ quân đội với những kế sách và chiến lược tài tình như bắt giữ các điệp viên, chặn đánh địch tình báo…

Vua Quang Trung từ xưa đến nay vẫn luôn được kính nể như một biểu tượng của dân tộc. Những chiến công vang dội của Quang Trung đã đi vào lịch sử và truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ sau này. Vua Quang Trung là một nhân vật xuất sắc trong lịch sử Việt Nam, một người đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người dân và lịch sử quốc gia.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 12

Được biết đến như một trong những anh hùng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, vua Quang Trung là niềm tự hào của dân tộc. Với tài năng quân sự phi thường, Nguyễn Huệ đã thất thủ đánh lại và đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, đem lại chiến thắng cho dân tộc. Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh đầy đủ chân dung của vua Quang Trung. Khám phá sự xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn, chúng ta không thể không cảm thấy ngưỡng mộ và kính phục. Đó là một vị tướng với tài năng, nghị lực và trí tuệ phi thường, đem lại niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam.

Quang Trung – anh hùng áo vải của Tây Sơn, có nhiều phẩm chất đáng kính nể và học tập. Hành động của ông khi đốc suất đại binh tiến vào Thăng Long vào dịp Tết Nguyên đán cũng cho thấy tài năng quân sự tài ba của ông. Khi đó, kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất, và vua Quang Trung cũng hiểu rằng sức mạnh tinh thần là vũ khí quan trọng nhất. Không chỉ có tài cầm quân, ông còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ một cách mạnh mẽ, làm dấy lên lòng yêu nước, căm thù giặc và truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ. Quang Trung đã sử dụng sự thuyết phục một cách khéo léo trong lời dụ của mình, không kém phần sức mạnh so với hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Ông đã lấy những nhân vật anh hùng của dân tộc như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo và Lê Thái Tổ để khơi gợi lòng tự hào của quân đội. Ông cũng biết cách sử dụng người tài, như việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của ông, khi Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình để kích thích lòng quân bên trong và làm cho giặc kiêu căng bên ngoài. Các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã hết sức khâm phục Nguyễn Huệ vì tài dùng người của ông.

Không những thế, vua Quang Trung còn là người đã có khả năng dự đoán và tính toán chính xác những sự kiện sắp xảy ra trong trận đánh. Ông là một người tự tin trong chiến thắng, nhưng cũng luôn cẩn trọng với hậu quả của cuộc chiến. Nguyễn Huệ đã chọn Ngô Thời Nhậm để giải quyết vấn đề binh đao. Trong quân đội, ông đã chọn cách giảm thiểu thiệt hại bằng cách sử dụng tấm ván và rơm để tạo thành một màn che bảo vệ quân sĩ. Điều đó cho thấy tài năng cũng như tâm huyết của vua Quang Trung với việc bảo vệ dân và giảm thiểu thiệt hại trong cuộc chiến.

Nhóm Ngô gia văn phái đã thuật lại chi tiết về chiến thắng của Quang Trung trước quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí. Nhờ cách thuật lại sinh động, người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung. Ông không chỉ là một nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ nhập thần”, mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước và có ý thức dân tộc sâu sắc. Quang Trung là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát, và sự tôn kính, yêu mến của mọi người đối với ông sẽ kéo dài mãi mãi.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 13

Quang Trung vị tướng tài, vị anh hùng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung dân tộc ta đã giành được thắng lợi vẻ vang trước kẻ xâm lược nhà Thanh ngang tàn, hung hãn. Tất cả những vẻ đẹp, tầm vóc của vị anh hùng đều được tái hiện một cách chân thực và đầy đủ nhất qua hồi thứ mười bốn trích “Hoàng Lê nhất thống chí”.

Đoạn trích là lời ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ tài đức song toàn và sức mạnh vô song. Vẻ đẹp của vua Quang Trung được thể hiện trên nhiều mặt khác nhau, mỗi phương diện đều được miêu tả kĩ lưỡng, giọng điều hào hùng, ngợi ca.

Trước hết người anh hùng áo vải Quang Trung là người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén. Ngay khi nghe tin giặc đã chiếm một vùng đất lớn của ta, Quang Trung không hề sợ hãi, nao núng mà định cầm quân đi ngay. Với ý thức dân tộc và lòng tự tôn sâu sắc, ông không thể chần chừ chứng kiến cảnh nước nhà bị quân thù dày xéo. Nghe lời khuyên từ quần thần, ông quyết định lên ngôi vua, đây là quyết định hết sức sáng suốt, có ý nghĩa quan trọng: làm cho cương vị rõ ràng, danh chính ngôn thuận để cầm quân; không chỉ vậy còn giúp thống nhất nội bộ, tránh được sự hai lòng của binh lính.

Hành động của ông không chỉ hội tụ được người tài mà còn giúp lấy lòng dân. Ông rất sáng suốt, nhanh nhạy trong việc phân tích tình hình thời cuộc, tương quan giữa ta và địch, điều đó được thể hiện rõ trong bài dụ tướng sĩ ở Nghệ An. Trong bài dụ ông khẳng định chủ quyền của dân tộc ta với phương Bắc “đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng”; nêu lên dã tâm xâm lược và hành động phi nghĩa của kẻ thù; đồng thời ông nêu lên lời kêu gọi binh sĩ đồng tâm hiệp lực đánh giặc.

Lời dụ như một bài hịch ngắn dọn kích thích lòng căm thù giặc và lòng yêu nước của quân sĩ. Sự sáng suốt của ông còn thể hiện trong việc xét đoán và dùng người, với mỗi đối tượng ông đều có khen chê rõ ràng để mỗi cá nhân nhận ra khuyết điểm của mình. Với Ngô Thì Nhậm ông hết lòng khen ngợi, đó là kế sách thông minh, giúp quân ta tránh được mũi nhọn kẻ thù, làm cho quân địch chủ quan, tự mãn mà không phòng bị. Với Sở và Lân, Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyến điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.

Không chỉ vậy, Quang Trung còn là người có tư tưởng quyết chiến, quyết thắng và có tầm nhìn xa, trông rộng. Quân Thanh khi mới vào nước ta thế và lực rất lớn, thế nhưng ngay khi khởi binh Quang Trung đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long. Là một người tài trí, có tầm nhìn xa ông còn nhận ra bản chất thâm độc của kẻ thù, khi bại trận, là một nước lớn nhất định sẽ đem quân trả thù. Vì vậy, ông đã tính sẵn kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng, để đảm bao cho dân ta có cuộc sống yên ổn, bình phục lại sau chiến tranh. Quang Trung quả là một vị vua tài trí, tâm sáng, không chỉ lo giành độc lập mà còn lo đến đời sống nhân dân, đến việc xây dựng đất nước sau này.

Trong quá trình chỉ huy chiến đấu, tài mưu lược và tài dụng binh như thần được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Trước khi xuất quân ra Bắc ông đã mở tiệc khao quân và hẹn mùng bảy sẽ gặp lại ở thành Thăng Long. Đây không chỉ là lời nói để động viên binh sĩ mà là lời tiên đoán thần kì dựa trên sự tính toàn tài tình và phương lược có sẵn của vua Quang Trung. Chớp thời cơ giặc ngủ quên trên chiến thắng, ông nhằm vào đúng ngày tết Nguyên Đán để tiến đánh quân Thanh. Ông đã tạo ra một cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử, từ Phú Xuân ra Thăng Long chỉ mất hơn một tuần: 25 tháng chạp ở Phú Xuân, 30 đến Tam Điệp, đêm 30 bắt đầu tiến đánh thành Thăng Long; vừa đi ông vừa tuyển thêm binh sĩ. Tiến đánh mà vẫn đảm bảo yếu tố bí mật. Ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, đảm bảo yếu tố bất ngờ khiến kẻ địch không kịp trở tay.

Trong từng trận đánh Quang Trung ông vận dụng hết sức linh hoạt các binh pháp khác nhau: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, làm chúng hoảng sợ; trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn siêu phách lạc. Bởi vậy, chỉ đến ngày mùng năm tết ông đã dẹp sạch bóng quân thù trên bờ cõi nước ta, sớm hơn cả những gì ông đã dự tính từ trước.

Đẹp đẽ nhất, khắc họa rõ nét nhất hình ảnh vua Quang Trung chính là khi ông đích thân cầm quân ra trận. Dưới cảnh khói mù mịt trời, cách gang tấc không thể nhìn rõ mặt người nổi bật lên là hình ảnh vị vua lẫm liệt, mặc áo bào, cưỡi voi, anh dũng xông ra trận. Hình ảnh đó cho thấy rõ hơn tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt của vua Quang Trung. Ông chính là linh hồn của trận đấu, làm cho tướng sĩ tin tưởng hơn vào chiến thắng của quân ta.

Xây dựng nhân vật Quang Trung, tác giả đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, kết hợp tự sự, miêu tả một cách hợp lí, chân thực, sinh động. Khắc họa chân dung vị anh hùng rõ nét với tính cách quả cảm, dũng mãnh, tài dùng binh như thần.

Trích đoạn đã cho chúng ta thấy được toàn bộ vẻ đẹp oai hùng, dũng mãnh của vua Quang Trung trước kẻ thù xâm lược, ông là đại diện tiêu biểu cho sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam. Vị anh anh ấy mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, là tấm gương sáng để thế hệ trẻ học tập và noi theo.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 14

Trong các vị anh hùng dân tộc, vua Quang Trung là một trong các vị anh hùng được tất cả mọi người quý trọng và ngưỡng mộ bởi ở ông có rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp. Có lẽ vì vậy mà vua Quang Trung cũng đã trở thành một đề tài sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm văn học mang ý nghĩ ngợi ca. Và một trong số những tác phẩm đó, chúng ta không thể không nhắn đến “Hoàng Lê Nhất thống chí” đã miêu tả vị anh hùng dân tộc thật đẹp và oai hùng biết bao.

Trước tiên hình ảnh Quang Trung hiện lên là một người anh hùng có hành động mạnh mẽ và quyết đoán. Từ đầu đến cuối đoạn trích, vua Quang Trung vẫn luôn là người chủ động trong mọi hành động và chỉ trong vòng một tháng, ông đã làm được biết bao nhiêu việc quan trọng như tế cáo trời đất “lên ngôi hoàng đế”. “đốc suất đại binh ra bắc”, tuyển quân lính và mở ra những cuộc duyệt binh lớn đặc biệt là đánh đuổi được giặc xâm lược… Không chỉ có hành động đầy mạnh mẽ quyết đoán, Nguyễn Huệ còn hiện lên là một người anh hùng có trí tuệ sáng suốt và vô cùng nhạy bén. Điều này trước tiên được thể hiện ngay ở việc ông lên ngôi hoàng đế: ngay khi mấy chục vạn quân Thanh tràn vào nước ta để xâm lược, đất nước đang rơi vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” thì việc Quang Trung lên ngôi thống nhất đất nước là vô cùng hợp lí để có thể thống nhất nội bộ đồng thời tìm ra được những nhân tài giúp ích cho nước. Trí tuệ sáng suốt của ông còn được thể hiện qua lời phủ dụ quân lính. Lời phủ dụ đã khẳng định được chủ quyền của dân tộc ta, lên án phê phán những thế lực phản quốc đồng thời kêu gọi binh lính hãy một lòng một dạ chiến đấu bảo vệ đất nước. Chỉ ngắn gọn vậy thôi nhưng lại sâu sa đến lạ thường, đánh thức tinh thần yêu nước và ý chí quật khởi của cả dân tộc. Không chỉ vậy ông còn sáng suốt trong việc xét đoán bề tôi: đối với Ngô Thì Nhậm ông xem đó như một vị quân sư “túc trí đa mưu”, biết đoán người một cách đầy khách quan, khen chê đúng lúc đúng chỗ… Đặc biệt hình ảnh Quang Trung còn hiện lên thật đẹp với tài dùng binh khiển tướng như thần. Cuộc hành binh thần tốc của vua Quang Trung đã trở thành một chiến công lịch sử vô cùng vang dội và đầy tự hào của dân tộc: Ngày 25 tháng chạp xuất binh ở phú xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Rồi đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc hơn nữa ông còn hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù. Không chỉ là một vị tướng chỉ huy tài ba mà vua Quang Trung còn tự mình xông pha chiến trận để đánh giặc đầy oai phong lẫm liệt…

Nói tóm lại, hồi mười bốn của tác phẩm “Hoàng Lê Nhất thống chí” đã phác họa thật rõ bức chân dung vị anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung đầy oai phong với trí tuệ sáng suốt, với hành động quyết đoán, có tầm nhìn xa trông rộng và có tài điều binh khiển tướng như thần. Hình ảnh vua Quang Trung sẽ mãi là niềm tự hào đối với mỗi con người Việt Nam để rồi mỗi khi nhắc đến là ai cũng tỏ ra đầy sự kính phục và ngưỡng mộ vô cùng vì có một vị tướng tài ba như vậy.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 15

Quang Trung là vị vua áo vải vô cùng tài ba của dân tộc Việt Nam. Hình tượng ông đã được nhóm tác giả Ngô gia văn phái tái hiện rõ nét trong tác phẩm “Hoàng lê nhất thống chí”. Đầu tiên ta thấy ở ông là một người có những hành động vô cùng quyết đoán. Khi hay tin “quân Thanh đến Thăng Long và việc vua Lê thụ phong”, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã vô cùng tức giận, ông định sẽ “thân chinh cầm quân đi ngay” để dẹp tan lũ quân Thanh xâm lược. Khi được các tướng sĩ khuyên ngăn rằng phải lên ngôi vua “để yên kẻ phản trắc và giữa lấy lòng người”, ông cho là việc đúng đắn nên đã ngay lập tức “cho đắp đàn trên núi Bân, tế cáo trời đất” và lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung đồng thời dẫn binh ra Bắc tiến đánh quân Thanh. Thứ hai, Quang Trung là một vị hoàng đế sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng. Ngay khi biết tin quân Thanh vào Thăng Long, ông đã định đem quân tiêu diệt chúng ngay. Nhưng biết hành quân từ kinh thành Phú Xuân đến Thăng Long là cả một hành trình dài, vậy nên ông “đốc thúc” quân lính của mình đi ngay ngày 25 tháng Chạp. Sau đó, khi tới Nghệ An, ông lại tổ chức tuyển bình đồng thời “cưỡi voi” ra tận doanh để “yên ủi quân lính” mới và truyền lời phủ dụ của mình. Trong lời phủ dụ ấy, ông chỉ ra những tội ác của quân giặc phương Bắc để kích thích tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc của binh lính “Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không ai chịu nổi” và còn nêu ra những tấm gương anh dũng đã đứng lên đánh đuổi quân giặc “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ”. Khi hai tướng “Sở và Lân ra đón”, mang theo “gươm trên lưng để xin chịu tội” vì đã đánh mất Thăng Long, ông không trị tội mà chỉ nghiêm khắc chỉ ra những điểm mạnh điểm yếu của hai người tướng cũng như điểm yếu trở của Thăng Long. Đồng thời ông tiếp tục giao trách nhiệm khác cho hai người tướng đó. Đây là hành động thu phục lòng người, trọng người tài giỏi của vua Quang Trung. Những điều đó đã minh chứng cho một con người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén với thời cuộc. Khi tiến quân hỏa tốc ra Thăng Long, Quang Trung đã dự định cho mình những “phương lược tiến đánh”, thậm chí ông còn chuẩn bị sẵn kế sách ngoại giao sau khi quân Thanh thua cuộc “chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù […] đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao”. Điều này cho thấy Quang Trung là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng hơn người. Và hơn thế, ông còn là một người lãnh đạo có tài dụng binh, thao lược. Chỉ trong vòng 5 ngày ngắn ngủi, Quang Trung đã hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra tới Nghệ An. Vậy là chỉ trong vòng “mươi ngày”, ông đã chỉ huy quân lính mở những đợt tấn công lớn vào Hạ Hồi rồi vào thẳng Thăng Long, dẹp được hơn 25 vạn quân Thanh. Đánh cho chúng tan tác, phải “giày xéo lên nhau mà chết”, khiến cho thái thú Sầm Nghi Đống phải “tự thắt cổ chết” và vua tôi nhà Lê phải trốn chạy. Các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã dựng lại hình tượng vua Quang Trung bằng cảm hứng sử thi và niềm tự hào dân tộc. Vua Quang Trung là người anh hùng dân tộc, vị vua áo vải tài ba trong lịch sử Việt Nam.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 16

Hồi 14 “Hoàng Lê nhất thống chí” viết về vị vua áo vải Quang Trung với niềm tự hào và quan điểm lịch sử đúng đắn. Vua Quang Trung là một con người quyết đoán, mạnh mẽ, vừa hay tin “quân Thanh vào Thăng Long”, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã giận dữ “định thân chinh cầm quân đi ngay” để đánh tan lũ giặc xâm lược. Nghe lời khuyên ngăn của tướng sĩ, ông đã cho “đắp đàn trên núi Bân, tế cáo trời đất” rồi lên ngôi hoàng đế sau đó dẫn theo đại binh tiến ra Thăng Long tiêu diệt quân Thanh. Khi ra tới Nghệ An, ông cho chiêu thêm binh lính. Biết lòng quân chưa yên, ông tự mình “cưỡi voi ra doanh” mà “yên ủi quân lính” cũng như ra lời phủ dụ truyền cho họ tinh thần yêu nước và tinh thần căm thù giặc. Ông chỉ ra những tội ác mà dân phương Bắc đã gây nên cho nước ta mà còn kể tên những vị anh hùng của dân tộc đã dũng cảm đứng lên đánh đuổi quân phương Bắc xâm lược, giữ bình yên cho đất nước. Vua Quang Trung không trị tội “Sở và Lân” vì đánh mất Thăng Long mà chỉ ra cho họ những điểm mạnh yếu, giữ lại họ để tiếp tục nhiệm vụ khác. Hành động này đã thể hiện trí tuệ sáng suốt của vua Quang Trung trong việc dùng người và lãnh đạo đất nước. Ông cũng là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. Khi vừa mới tiến quân ra Bắc đánh giặc mà ngay trên đường đi, vua Quang trung đã có sẵn “phương lược tiến đánh”, thậm chí là chiến lược ngoại giao sau khi quân Thanh thua trận. Quang Trung còn là một vị vua có tài thao lược, dụng binh hơn người. Chỉ trong vòng năm ngày, ông đã cho hành quân thần tốc từ kinh thành Phú Xuân ra tới tận Nghệ An rồi hẹn tướng sĩ của mình mồng 7 sẽ “mở tiệc” trong Thăng Long. Và quả đúng như vậy, từ ngày 30 tháng Chạp đến ngày mồng 7 Tết, Quang Trung đã chỉ huy quân lính, tiến đánh, bao vây Hạ Hồi, tiến thẳng vào Thăng Long khiến cho “quân Thanh không chống nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, khiến cho Sầm Nghi Đống phải “tự thắt cổ chết” còn vua tôi Lê Chiêu Thống phải chạy trốn. Bằng cảm hứng sử thi và tinh thần tự hào dân tộc, các tác giả Ngô gia văn phái đã dựng lên bức chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ vô cùng chân thực và hào hùng.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 17

Hoàng Lê nhất thống chí là một trong những tác phẩm miêu tả chính xác, sống động nhất hình ảnh của vị vua áo vải Quang Trung. Trong tác phẩm, vua Quang Trung hiện lên là một con người hành động vô cùng quyết đoán và mạnh mẽ. Chỉ vừa nghe tin quân Thanh tràn vào Thăng Long, ông đã “định thân chinh cầm quân đi ngay”, thế nhưng để “yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, ông đã nghe theo lời khuyên can của tướng lĩnh mà “đắp đàn, tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế. Sau khi lên ngôi, Quang Trung dẫn đầu “đại binh” của mình tiến ra Bắc với mục tiêu đánh tan 25 vạn quân xâm lược nhà Thanh. Trên đường đi, ông tổ chức chiêu thêm binh, củng cố quân đội. Biết lòng quân mới còn chưa yên, ông đã “cưỡi voi” ra tận doanh lính mà “yên ủi” họ. Không chỉ vậy, vua Quang Trung còn có tài dùng người, trọng người tài. Khi hai tướng Sở và Lân làm thất thủ Thăng Long, đã “mang gươm trên lưng” xin chịu tội với vua Quang Trung nhưng ông không hề trừng phạt họ mà còn chỉ ra cho họ những điểm mạnh yếu và giao cho họ những nhiệm vụ khác. Trên đường tiến quân, vua Quang Trung đã dự liệu cho mình “phương lược tiến đánh” quân Thanh đồng thời cũng dự định cả kế sách ngoại giao sau khi quân Thanh thua trận để tránh cho con dân phải chịu nạn binh đao. Có thể thấy, ông là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng, lo lắng cho an nguy của dân chúng. Cuối cùng ở ông, ta thấy tài dụng binh, thao lược hơn người. Trong vòng năm ngày, ông đã tiến quân thần tốc từ Phú Xuân tới Nghệ An, rồi trong vòng 7 ngày ông đã tiến thẳng vào Thăng Long, đại phá 25 vạn quân Thanh xâm lược khiến chúng phải. Vua Quang Trung – vị vua áo vải là đại diện cho tinh thần, cho con người Việt Nam kiên trung, bất khuất, tài ba, dũng cảm vô cùng.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 18

Nguyễn Huệ, vị anh hùng áo vải giản dị của đất Tây Sơn, là nguồn tự hào của dân tộc Việt Nam. Với thiên tài quân sự của mình, ông đã đánh bại đội quân xâm lược 290.000 quân của nhà Thanh, khiến những kẻ cộng tác phản bội phải xấu hổ và thất sủng. Quyển thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí của họ Ngô đã khắc họa chính xác tính cách của Nguyễn Huệ. Càng đọc, chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng Tây Sơn này.

Chân dung Nguyễn Huệ chủ yếu được miêu tả gián tiếp qua lời kể của một cung nữ hầu hạ thái hậu. Dù vẫn coi Nguyễn Huệ là “kẻ thù” và gọi ông là “ông”, nhưng nàng cung nữ không giấu được sự khâm phục trước khả năng phi thường của ông. Theo lời bà: “Nguyễn Huệ là bậc anh hùng dũng mãnh, có tài cầm quân, Bắc Nam như ma, thần, không ai đoán được đường đi, bắt Hữu Chỉnh như con, giết Văn Nhậm như lợn…”. Dù được lựa chọn cẩn thận và phù hợp, nhưng rõ ràng cô cung nữ đã có phần nào kìm nén cảm xúc về Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, đối với một người coi ông như một “kẻ thù”, sự kính trọng sâu sắc của bà dành cho Nguyễn Huệ cho thấy tài năng vượt trội của ông.

Các thành viên trong nhóm Ngô gia văn phái, mặc dù thuộc “chính thống”, vẫn phải công nhận tài năng của Nguyễn Huệ một cách trung thực và khách quan. Qua việc miêu tả cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho thấy rõ sự xuất chúng của Nguyễn Huệ trong lĩnh vực quân sự. Khi Nguyễn Huệ được tin quân Thanh đã xâm lược Thăng Long, ông đã có ý định cầm quân đi ngay, nhưng sau khi lắng nghe ý kiến của mọi người, ông đã đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Quang Trung, trước khi ra lệnh xuất quân. Hành động này cho thấy sự tôn trọng ý kiến của người khác của Nguyễn Huệ, mặc dù ông có tài năng vượt trội.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải kính nể và học tập phẩm chất của Nguyễn Huệ. Việc ông tự mình dẫn đầu đại binh tiến vào Thăng Long vào dịp Tết Nguyên đán chứng tỏ sự tài năng của ông trong lĩnh vực quân sự. Ông cũng có tài hùng biện, khích lệ lòng yêu nước và căm thù giặc trong lời dụ của mình. Nguyễn Huệ đã thực sự hiểu sức mạnh tinh thần và đã khích lệ được tướng sĩ chống lại ngoại xâm bằng cách nhắc nhở về lịch sử xâm lược của quân Thanh và động viên nhân dân cùng đánh đuổi chúng đi.

Trong lịch sử quân sự Việt Nam, đã có những vị vua và tướng lĩnh xuất sắc, như Trưng Nữ Vương trong thời Hán, Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành trong thời Tống, Trần Hưng Đạo trong thời Nguyên, Lê Thái Tổ trong thời Minh. Những người này không chỉ là những vị tướng quân tài ba mà còn là những người tôn trọng và được yêu mến bởi nhân dân vì lòng nhân ái và tính trung thực của mình.

Nguyễn Huệ cũng là một trong những tướng lĩnh đáng kính trong lịch sử Việt Nam. Ông được tôn vinh là vua Quang Trung vì những chiến công lớn trong việc giành lại đất nước khỏi tay thù địch Thanh. Ông không chỉ có tài dùng người mà còn rất tự tin và có tầm nhìn xa trông rộng. Ông đã sử dụng một số chiến lược tốt để giúp quân đội đánh bại kẻ thù và đưa đất nước trở lại với hòa bình.

Một trong những điểm đáng khâm phục của Nguyễn Huệ là ông biết cách dùng những người có tài để giải quyết các vấn đề khác nhau. Ngô Thời Nhậm là một trong số những người được Nguyễn Huệ chọn để giúp ông dẹp việc binh đao. Ông luôn để phòng hậu hoạ và biết rằng việc binh đao có thể làm cho dân chịu thiệt thòi nên ông đã chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất bằng cách dùng các tấm ván và rơm để bảo vệ.

Với sự tự tin và tầm nhìn xa trông rộng của mình, Nguyễn Huệ đã giúp đất nước thoát khỏi sự chiếm đóng của Thanh và đưa đất nước trở lại với hòa bình. Ông đã để lại một di sản lớn về tài năng quân sự và tính nhân ái, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân Việt Nam.

Đoạn văn này tường minh lại cuộc đại thắng của Quang Trung trước quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái. Từ đó, độc giả có thể tưởng tượng được hình ảnh của người anh hùng Quang Trung – một nhà quân sự thiên tài với khả năng “xuất quỷ, nhập thần”, cùng với tư tưởng yêu nước, ý thức dân tộc rất sâu sắc. Ông là bức tranh đối nghịch với các vua bán nước và hèn nhát. Quang Trung luôn được người dân kính phục và yêu mến mãi mãi.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 19

Vua Quang Trung, hay còn gọi là Nguyễn Huệ, là một nhân vật kiệt xuất với tài năng quân sự đỉnh cao và tinh thần anh hùng vượt trội. Hình ảnh của ông biểu hiện tinh thần quật cường và bất khuất của dân tộc Việt Nam. Trong đời, Quang Trung đã dành 22 năm để đánh bại kẻ thù ở phía Nam và phía Bắc, tạo điều kiện cho quá trình thống nhất đất nước. Ông cũng đã đánh bại quân Thanh, bảo vệ sự độc lập của nước Việt. Mỗi thành công của Quang Trung là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử đầy hào hùng của dân tộc.

Khi nhắc đến vua Quang Trung, không thể không nhắc đến tính cách mạnh mẽ và quyết đoán của ông trong mỗi hành động. Khi biết rằng giặc Thanh đang tiến vào Thăng Long, ông đã tức giận và ngay lập tức họp tướng sĩ để lên kế hoạch tiến công. Trong vòng chưa đầy một tháng, ông đã thực hiện nhiều công việc lớn, từ việc tuyển mộ quân lính, đánh giặc cho đến lên ngôi hoàng đế. Quang Trung là một người hành động liên tục, không ngừng làm việc, quyết đoán và dứt khoát trong mọi quyết định, xứng đáng là một vị tướng tài ba của vạn quân.

Vua Quang Trung nổi tiếng thông minh sắc sảo, nhạy bén trong mọi tình huống. Ông có tầm nhìn xa và chiến lược, giúp ông hiểu rõ tình hình và thời thế. Ông lên ngôi với mục đích “duy trì hòa khí giữa những người bất đồng chính kiến ​​và thu phục lòng dân”. Do đó, ông cân nhắc cẩn thận mọi quyết định để đảm bảo sự ổn định và đạt được mục tiêu cuối cùng của mình. Ông đã phân tích tình hình địch và đánh giá thực lực của cả hai bên để đưa ra những quyết định sáng suốt trong từng bước đi. Trong bài phát biểu của mình, ông đã kể lại những hành động tàn ác của kẻ thù đã gây ra bao nhiêu thiệt hại cho nhân dân ta, phá hủy nhiều nhà cửa, qua đó đã khích lệ tinh thần binh lính của ông. Ông cũng nhắc đến nhiều nhân vật anh hùng đã bảo vệ đất nước của chúng ta, chẳng hạn như Hai Bà Trưng và Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng. Ông dùng lời lẽ nhẹ nhàng để thuyết phục những người yếu tim, dễ bị lay động, nhưng ông không bao giờ đánh mất uy quyền của mình. Quang Trung hiểu rõ ưu khuyết điểm của cấp dưới nên mắng mỏ để họ nhận khuyết điểm đồng thời tha thứ. Hành động của ông thật sáng suốt, thu phục được lòng người, khiến ai nấy đều khâm phục, kính phục.

Vua Quang Trung được biết đến là một nhân vật anh hùng với vẻ đẹp dũng mãnh và tài trí xuất chúng. Ông không chỉ có tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược mà còn rất quyết đoán trong tư tưởng quyết chiến, quyết thắng. Trên chiến trường, ông tổ chức các trận đánh linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân để giành chiến thắng. Ông cũng rất mềm mỏng khi sử dụng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trận Hà Hồi và trận Ngọc Hồi được coi là những trận đánh xuất sắc nhất của ông, với các kế binh hiểm hóc và tài dùng trận đánh khéo léo, giúp ông đánh bại đối thủ một cách dễ dàng.

Với tài trí và tài năng của mình, Quang Trung trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất và luôn đấu tranh cho tự do và độc lập của quê hương.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 20

Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh tan hơn 25 vạn giặc Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi nước ta. Hình ảnh của người anh hùng đất Tây Sơn đã được khắc hoạ hết sức đầy đủ và sống động trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.

Nguyễn Huệ là người anh hùng có xuất thân áo vải nhưng lại có tài năng kiệt xuất cùng trí dũng phi thường. Những tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” đã mượn lời người cung nhân trong phủ Trường Yên để nói về Quang Trung như sau: “Không biết rằng Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra bắc vào nam, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chính như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thằng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc, hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét”. Những lời giới thiệu của người cung nhân ấy tuy vẫn coi Nguyễn Huệ là “giặc” thế nhưng lại không giấu nổi sự cảm phục trước tài năng xuất chúng, hơn người của ông. Một người đứng ở phía đối lập lại có thể ca tụng ông đến thế thì cũng đủ biết Nguyễn Huệ là một con người tài năng tới mức nào. Qua đoạn trích hồi thứ mười bốn trong “Hoàng Lê nhất thống chí”, Ngô gia văn phái đã cho chúng ta thấy được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Huệ không chỉ ở hành động quyết đoán, mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén mà còn ở tầm nhìn xa trông rộng và tài thao lược, dụng quân hơn người.

Đầu tiên, khi đọc hồi thứ 14 của tác phẩm, ta có thể thấy được Nguyễn Huệ là một con người có những hành động hết sức quyết đoán và mạnh mẽ. Điều đó thể hiện khi Nguyễn Huệ nhận được tin quân Thanh đã vào tới thành Thăng Long và “vua Lê nhận thụ phong”. Một vùng đất đai rộng lớn, vùng kinh kỳ, chốn trọng yếu của đất nước bị chiếm đóng, vậy nhưng Nguyễn Huệ chẳng hề kinh sợ, nao núng, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Điều đó cho thấy sự quyết đoán mạnh mẽ vô cùng của vị anh hùng áo vải. Thế nhưng nghe lời khuyên can “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, ông đã quyết định lên ngôi hoàng đế. Chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao việc lớn từ “tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đổi niên hiệu” và “hạ lệnh xuất quân”, tuyển mộ binh lính, duyệt binh ở Nghệ An,…

Không chỉ vậy, ông còn là một người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén. Điều đó thể hiện khi ông phân tích tình hình ta và địch, về tương quan lực lượng cũng như chiến lược đánh giặc. Khi chiêu binh ở Nghệ An, biết lòng quân còn chưa vững, ông đã đưa ra lời phủ dụ, “cưỡi voi” ra tận “doanh” mà “yên ủi quân lính”. Lời phủ dụ của Nguyễn Huệ mang ý tứ phong phú, hùng hồn, mạnh mẽ như bài hịch năm nào của Trần Quốc Tuấn. Ông đã khẳng định chủ quyền dân tộc, vạch rõ âm mưu, tội ác của quân giặc nhằm khơi gợi lòng căm thù giặc sâu sắc ở quân lính. Đồng thời, ông nêu lên tấm gương những vị anh hùng chống giặc, bảo vệ độc lập dân tộc như “Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành”,… cùng với lịch sử chống quân xâm lược phương Bắc của dân tộc ta để khích lệ lòng tự tôn của các tướng sĩ. Nó đã tác động đến lòng quân, kích thích tinh thần yêu nước, tinh thần chính nghĩa và quật cường của dân tộc ta. Cuối bài phủ dụ, Quang Trung kêu gọi binh sĩ hãy đứng lên chống giặc cứu nước và nghiêm khắc nêu rõ kết cục của những kẻ phản trắc. Sự sáng suốt, nhạy bén của Quang Trung còn được thể hiện qua việc dùng người. Hai tướng sĩ của ông là Sở và Lân trấn thủ đất Thăng Long nhưng thất bại, “mang gươm trên lưng” đón ông để “xin chịu tội”. Với tội danh như thế, có thể đã bị xử tội chết, vậy nhưng vua Quang Trung lại hiểu rõ điểm yếu, điểm mạnh của tướng sĩ, khen chê đúng người, đúng việc rồi giao lại nhiệm vụ cho hai tướng sĩ của mình. Đó là cách thu phục lòng người vô cùng thông minh của người anh hùng Quang Trung.

Hơn thế, Quang Trung còn là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. Khi quân giặc mới chỉ tiến vào nước ta, còn chưa kịp động quân, chưa kịp giành lấy tấc đất nào của ta, thì vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột rằng: “lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh”. Ông cũng tính luôn được việc người phương Bắc khi thua trận sẽ “lấy thẹn mà lo mưu báo thù” nên cần có một phương sách ngoại giao đúng đắn để dân chúng được yên ổn, tránh chiến tranh, bạo loạn. Một vị vua mà chưa đánh đã có những kế hoạch cho sự phát triển lâu dài của đất nước, lo lắng, tạo phúc cho nhân dân thì quả là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. Và đúng như vậy, Quang Trung đã làm nên trang sử hào hùng của dân tộc ta mà khó ai có thể sánh ngang bằng.

Cuối cùng, thông qua hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”, ta có thể thấy được Quang Trung còn là một người có tài dụng binh như thần, vô cùng thao lược. Chẳng vậy mà hai trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút, Đống Đa – Ngọc Hồi đã trở thành những trận đánh vang danh trong lịch sử dân tộc Việt, khiến cho quân phương Bắc phải khiếp vía. Trước hết là cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung, từ 25 tháng Chạp ở Huế, chỉ năm ngày sau đã ra tới Tam Điệp, cách Huế 500km. Phải nói rằng chưa từng có một cuộc hành quân nào khiến chúng ta phải kinh ngạc đến thế, lại nói khi đó, việc hành quân chỉ dựa vào sức người, không có phương tiện hỗ trợ, vậy mà đến đêm 30 tháng Chạp, ông đã có mặt ở Bắc, sẵn sàng tiến công tiến đánh quân địch. Quang Trung vừa đánh giặc vừa hoạch định kế hoạch và hứa với quân sĩ của mình rằng: mùng 7 tháng giêng sẽ ăn tết trong kinh thành Thăng Long. Quang Trung luôn tự mình lên sách lược tấn công, tổ chức binh sĩ, tự thân thống lĩnh các mũi tiến công, cũng như cưỡi voi đi đốc thúc quân lính,… Nếu không phải là một vị vua thao lược, liệu Quang Trung có thể làm được những điều phi thường, đánh bại hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược hay không?

Phải nói rằng quân sĩ trong tay Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến nhất, họ chỉ mới vừa được chiêu mộ ở Nghệ An vậy mà đã liên tục lập nên những chiến tích. Dưới tài năng chỉ huy của Quang Trung đội quân ấy đã có được những chiến thắng áp đảo kẻ thù, như “bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên”, “vây kín” làng Hà Hồi, tiến vào kinh thành Thăng Long bất ngờ khiến quân Thanh phải “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, khiến cho Thái thú Sầm Nghi Đống phải “thắt cổ tự tử”, vua tôi Lê Chiêu Thống phải bỏ chạy,… Chỉ trong vòng “mươi ngày” như đã định, Quang Trung đã đại phá 25 vạn quân Thanh xâm lược, ghi danh trận đánh Ngọc Hồi vào những trận đánh hay nhất lịch sử Việt Nam. Qua đó, ta thấy rõ được tài thao lược, dụng binh như thần của vị anh hùng áo vải Quang Trung.

Qua đoạn trích trong hồi 14 của “Hoàng Lê nhất thống chí”, nhóm tác giả Ngô gia văn phái đã dựng lại cho chúng ta được thấy bức tranh về vị vua tài năng Quang Trung trong chiến công thần tốc đại phá quân Thanh. Với tài năng, phong thái của mình, vua Quang Trung đã ghi tên mình vào trang vàng lịch sử dân tộc, làm ngời sáng truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc ta, để đời sau còn mãi nhắc tên ông như một nhân tài kiệt xuất khó ai sánh bằng.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 21

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi về cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên)

Với hơn bốn năm lịch sử dựng nước và giữa nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu là những đau thương, mất mát trước vó ngựa xâm lăng của kẻ thù. Và truyền thống yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc cũng được tạo nên rồi liên tục được phát huy từ đó. Bên cạch các anh hùng dân tộc như Lí Thường Kiệt chống Tống, Hưng Đạo vương chống quân Nguyên Mông, Nguyễn Trãi chống giặc Minh thì chúng ta phải kể tới vua Quang Trung – Nguyễn Huệ trong cuộc chiến đấu chống lại hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược hung hãn, khét tiếng. Hình tượng nhân vật vua Quang Trung với bao nhiêu những phẩm chất tuyệt vời của một nhà quân sự lãnh đạo tài ba, văn võ song toàn đã đi vào “Hồi thứ 14” trong “Hoàng Lê nhất thống chí” thật cụ thể, thật sống động và chân thực, gây ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.

Dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ. Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta thờ kì đó. Nhận được tin báo Nguyễn Huệ giận lắm, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Chỉ trong vòng hơn một tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế, “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi”, rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc; ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt binh lớn, thu nạp được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó đưa ra lời phủ dụ, vạch rõ âm mưu và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đưa ra lời hiệu triệu kêu gọi các quân sĩ “đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn”. Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định kế hoạch hành quân “lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đánh đuổi được người Thanh” rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo”. Hôm đó là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân , hẹn đến ngày mồng bảy năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng…Qua đó, ta thấy vua Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên là một con người có hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ sáng suốt trong nhận định tình hình địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ tới quyết sách ngoại giao, kế hoạch hòa bình trong mười năm tới.

Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: “Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vảo mặt hắn. Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét”. Lời nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được thể hiện rất rõ, rất chân thực, cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua. Trong chiến trận, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn người. Nhà vua đích thân cầm quân, tự mình đốc suất việc quân, tổ chức chiến dịch với cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch sử. Ngày 25 tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân (Huế), một tuần sau đã đến Tam Điệp, đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường”, tiến ra Thăng Long. Tất cả đều là đi bộ. Từ Tam Điệp trở ra, vừa hành quân vừa đánh giặc, giữ bí mật, bất ngờ. Hành quân xa liên tục và gấp gáp nhưng đội quân của nhà vua vẫn chỉnh tề, đội quân đó không phải toàn là lính thiện chiến (có cả lính mới) nhưng dưới bàn tay chỉ huy của Quang Trung đã trở thành đội quân dũng mãnh, như “tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên” quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó. Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy bóng nhà vua đã “tan vỡ chạy trước”; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắc loa truyền gọi khiến quân Thanh “ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, đề phòng trước mũi súng của giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ “nhất” tiến thẳng vào đồn. Vì thế, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không ngờ bỗng trời trở gió nam ngược lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che, xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém. Kết quả, quân Thanh “thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa ngày mùng 5 tết Kỉ Dậu – trước kế hoạch hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Dô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân Tây Sơn ” lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”. Tôn Sĩ Nghị ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, sợ mất mật, nhằm hướng bắc mà chạy. Sầm Nghi Đống thì treo cổ tự vẫn; quan quân nhà Thanh lũ lượt, kinh hoàng bạt vía tan tác bỏ chạy, tranh nhau xô đẩy mà rơi xuống sông đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn…Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi chỉ huy các trận đánh, dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi bật và là linh hồn của chiến công vĩ đại của dân tộc. Đây là hình ảnh người anh hùng chiến trận đẹp vào bậc nhất trong văn học trung đại Việt Nam.

Tóm lại “Hoàng Lê nhất thống chí” và “Hồi thứ 14” không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị văn học độc đáo, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá hai mươi chín vạn quân Thanh. Đây chính là nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật – một trong các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (21 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (121 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button