Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 20 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá
Dàn ý Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá chi tiết
1. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá (20 mẫu)
- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận (những nét khái quát về cuộc đời, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,…)
- Giới thiệu khái quát về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)
- Giới thiệu vấn đề: phân tích khổ 2 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
2. Thân bài
– Hai câu thơ đầu:
- “Hát rằng”: gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu.
- Thủ pháp liệt kê: “cá bạc”, “cá thu” cùng biện pháp so sánh cá thu với “đoàn thoi” dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển cả.
– Câu thơ “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”:
- “Đêm ngày” đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục.
- Không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau “dệt” nên một tấm lưới với “muôn luồng sáng” giữa biển cả mênh mông.
- Gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng.
- Thể hiện được không khí lao động hăng say của người lao động
– Câu thơ kết thúc khổ thơ:
- Câu thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá.
- Ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài.
3. Kết bài
Khái quát những giá trị đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của khổ thơ và nêu cảm nhận của bản thân.
20 mẫu Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá hay nhất
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 1
Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, nhà thơ Huy Cận không chỉ dựng lên khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ mà còn ngợi ca vẻ đẹp, sự trù phú của biển cả. Điều này được thể hiện tập trung trong khổ 2 bài thơ:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Câu hát của người ngư dân cất lên giữa màn đêm đã gợi ra không khí lao động vui vẻ, hăng say. Trong những câu hát ấy, chúng ta thấy được sự giàu có và cả vẻ đẹp của biển cả. Từ những con cá bạc báo hiệu sự bình yên của biển cả đến những con cá thu bơi thành từng đoàn như đoàn thoi đã cho thấy sự trù phú của biển. Trong con mắt lãng mạn của nhà thơ, sự xuất hiện của cá bạc, cá thu cùng công việc thả lưới, đánh bắt của người ngư dân giống như đang “dệt biển”, mang đến những luồng sáng đẹp đẽ, huy hoàng cho biển cả. Những người ngư dân cất lên lời mời gọi đầy tha thiết “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”. Câu thơ thể hiện mong muốn về một chuyến đi đầy bội thu vừa thể hiện sự trân trọng, biết ơn đối nguồn hải sản phong phú và sự hào phóng của biển. Qua 4 câu thơ trên ta có thể thấy, những người ngư dân ra khơi không chỉ mang theo hi vọng, mong muốn về một chuyến đi bội thu mà còn mang theo sự tự hào, biết ơn trước giàu có, hào phóng của biển cả.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 2
Đoàn thuyền đánh cá là kết quả của chuyến đi thực tế dài ngày của nhà thơ Huy Cận tại vùng biển Quảng Ninh. Bài thơ đã tái hiện không khí lao động hăng say của người lao động vùng biển. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã mở ra khung cảnh ra khơi qua câu hát ngân vang ca ngợi sự giàu có của biển cả của những người ngư dân.
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Những câu hát ngân vang trên biển đã gợi ra không khí lao động hăng say, hứng khởi đồng thời xua đi cái tối tăm, lạnh lẽo của màn đêm. Những người ngư dân cất lên tiếng hát để bắt đầu một ngày lao động mới, đó là tiếng hát ca ngợi sự giàu có, hào phóng của biển cả. Thông qua nghệ thuật liệt kê: cá bạc, cá thu kết hợp với phép so sánh “như đoàn thoi” đã mở ra trước mắt người đọc một khung cảnh tráng lệ, huy hoàng: biển cả rộng lớn mang trong mình nguồn tôm cá dồi dào, phong phú. Công việc đánh bắt của những người ngư dân cũng được lãng mạn hóa “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”. Dưới con mắt lãng mạn của nhà thơ, công việc đánh bắt vất vả trở nên thật thi vị, nghệ thuật. “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”, câu thơ như lời mời gọi, cũng giống như một lời cầu bình an, may mắn của những người ngư dân. Họ mong muốn chuyến ra khơi thuận lợi, thu được những mẻ cá bội thu. Thông qua việc sử dụng những từ ngữ giàu hình ảnh kết hợp với biện pháp so sánh, liệt kê, nhân hóa, nhà thơ Huy Cận đã tái hiện được không khí lao động hứng khởi, hăng say của người ngư dân khi ra khơi.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 3
“Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận được viết sau cách mạng tháng Tám. Tác phẩm đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong quá trình lao động sản xuất. Đặc biệt, ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã cất vang lời hát ngợi ca sự giàu có của biển cả, đồng thời, thể hiện khí thế lao động hăng say của người ngư dân. Mở đầu khổ thơ thứ hai là âm thanh của những câu hát. Người dân chài đang ca vang lời hát ngợi ca sự giàu có của biển cả, mong chờ một mùa đánh bắt bội thu. Việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê “cá bạc, cá thu” kết hợp với phép so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” đã gợi lên cho ta hình ảnh những đoàn cá nối tiếp nhau dài như bất tận. Những loài cá vẫn “đêm ngày” bơi thành từng đoàn đông đúc tạo ra thứ ánh sáng hấp dẫn như mời gọi người ngư dân. Trước sự trù phú của biển cả, người lao động cất vang lời hát gọi cá vào. Họ chỉ mong chờ chuyến ra khơi thuận buồm xuôi gió và cá xếp đầy khoang. Câu thơ “Ta hát bài ca gọi cá vào” vang lên thật thiết tha và ân tình thể hiện niềm mong mỏi chân thành của những người lao động. Họ hi vọng một mùa cá bội thu để cuộc sống được thêm ấm no, hạnh phúc. Vậy bằng việc sử dụng những biện pháp tu từ kết hợp với những hình ảnh thơ đặc sắc, Huy Cận đã mở ra trước mắt người đọc sự giàu có của biển khơi và tinh thần hăng say lao động của người ngư dân trong công cuộc lao động sản xuất.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 4
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là lời ngợi ca cuộc sống lao động của những người ngư dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Qua đó nhà thơ Huy Cận còn thể hiện niềm tình yêu, niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Ta có thể thấy điều này thông qua lời ngợi ca biển cả trong khổ 2 bài thơ. Cụm từ “hát rằng” được đặt ở đầu câu đã gợi ra không khí vui tươi, hứng khởi của những người ngư dân. Trong tiếng hát ấy vừa thể hiện niềm tin, sự mong chờ vào một chuyến đi bội thu vừa là lời ngợi ca sự trù phú, giàu có của biển cả. Tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê và phép so sánh “như đoàn thoi” để chỉ ra sự giàu có, phong phú ấy. Cá bạc và cá thu đều là những loài cá có giá trị kinh tế cao. Những loài cá ấy “Đêm ngày dệt biển” tạo nên “muôn luồng sáng” .Từ “đêm ngày” đặt ở đầu câu đã thể hiện sự thường xuyên, liên tục. Cá bạc, cá thu và rất nhiều loài cá khác trên biển không chỉ làm nên sự giàu có mà còn “dệt” nên vẻ đẹp thi vị, lãng mạn cho biển cả mênh mông. Câu thơ cũng gợi ra sự hăng say, chăm chỉ của những người ngư dân vẫn ngày đêm lao động để xây dựng cuộc sống mới. Từ lời ngợi ca về sự trù phú của biển cả, khổ thơ kết thúc trong lời mời gọi trìu mến, tha thiết “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”. Lời mời gọi thiết tha ấy cũng chính là mong muốn, ước mơ của những người ngư dân về một buổi đánh bắt bội thu, đó cũng là khao khát chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của họ.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 5
Huy Cận là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu trước cách mạng tháng Tám năm 1945, những vần thơ của ông luôn mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế thì sau cách mạng tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với đề tài mang cảm hứng vũ trụ nhưng tràn đầy niềm vui. Và có thể nói, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, sáng tác năm 1958, là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ trong bài thơ gợi lên trong lòng người đọc những cảm nhận rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ 2 trong tác phẩm đã cất lên lời ca ngợi ca sự giàu có của biển cả và hình ảnh của những người dân nơi miền biển.
Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai của bài thơ tác giả viết:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Từ “hát rằng” mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê – kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao – “cá bạc”, “cá thu” cùng biện pháp so sánh cá thu với “đoàn thoi” dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển cả.
Thêm vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý nghĩa.
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Từ “đêm ngày” đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau “dệt” nên một tấm lưới với “muôn luồng sáng” giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. Và để rồi, từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”. Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của họ.
Tóm lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo cũng các biện pháp tu từ hấp dẫn đã cất lên lời ca, tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả. Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và niềm mong ước của những người lao động làng chài.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 6
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận mang đến hồn thơ một cái tôi ảo không bi ai – “dòng buồn chôn vùi đất này” (Hoài Thanh) thì sau cách mạng tháng Tám, Huy Cận lại hướng ngòi bút của mình vào nhân nghĩa của cái chết cá nhân – chung hài hòa, thể hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc sống mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã được khai phá và đang từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới trong không khí hân hoan, phấn khởi. .
Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển tươi đẹp, trù phú và thơ mộng, bài thơ còn khắc họa thành công hình ảnh người dân chài lao động. công việc. Tiểu phẩm này là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng hình ảnh bằng sự liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung của cả bài: cuồng nhiệt, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ.
Khổ thơ thứ hai là tiếng ca của những con người say mê lao động ngày đêm không mệt mỏi để làm giàu cho quê hương, đất nước:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Bằng công thức liệt kê hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người đọc thấy sự trù phú của biển Đông. Biển Đông nhiều cá chờ người đến khai thác. Con cá được nhà thơ so sánh “như quả cầu”. Phái đoàn rất tích cực và đông đảo trên bến cảng. Và cá ở Biển Đông cũng nhiều và bơi rất nhanh theo thời gian.
Những làn điệu quan họ thật tuyệt vời, đầy thiết tha, nồng nàn, phấn khởi bởi sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng cho người dân vạn chài. Vì vậy, ở hai câu thơ cuối, Huy Cận như người thợ mộc thể hiện ước vọng của ngư dân đánh bắt được nhiều tôm cá. Họ mong những đàn cá “ngày đêm ôm biển” này sẽ lọt vào “bàn tay lưới” của các thuyền. Vần “ơi” kết hợp với dấu chấm than ở câu thơ cuối tạo nên hình ảnh đàn cá hiện lên thật sinh động, thật gần gũi, thân thiết với con người.
Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu và phổ biến để xây dựng hình ảnh trong giai đoạn thơ này là so sánh và ẩn dụ, tượng trưng, ngoài ra khoa học đã đạt được hiệu quả đánh giá và tạo ấn tượng. đối tượng riêng cho sản phẩm này. Ngoài ra, các yếu tố như thể thơ, nhịp điệu, tiết tấu… tạo nên âm hưởng nhịp nhàng, tơi tả, réo rắt, bạo liệt góp phần tạo nên bức tranh lao động đẹp đẽ, sinh động. .
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 7
Huy Cận là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thơ ông luôn hứng vũ trụ và nỗi buồn nhân thế, thì sau Cách mạng Tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với chủ đề cảm hứng vũ trụ nhưng tràn ngập niềm vui. Và có thể nói bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” sáng tác năm 1958 là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều gợi lên trong lòng người đọc một cảm xúc rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ hai trong tác phẩm đã cất lên khúc ca tri ân về sự dịu dàng của biển và hình ảnh những con người nơi đó. vùng biển.
Hai dòng mở đầu khổ thơ thứ hai tác giả viết:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Từ “hát ấy” ở đầu khổ thơ gợi lên niềm vui, hạnh phúc của người dân làng chài và đó cũng là lời hứa hẹn về một chuyến ra khơi bội thu. Và rồi, trong lời ca chan chứa niềm vui ấy, với thủ pháp liệt kê – nhắc đến hai loài cá có giá trị kinh tế cao là “cá bạc”, “cá thu” và thủ pháp so sánh cá thu với “con thoi” như đã tác động hát bài ca về sự dịu dàng của biển cả.
Ngoài ra, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, qua đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý nghĩa.
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sang
Từ “ngày đêm” được đặt ở đầu câu thơ như khẳng định sự nối tiếp, không kể ngày đêm đàn cá vẫn “đan” vào nhau tạo thành tấm lưới giăng “muôn tia sáng” giữa biển khơi hoang vu. . Đồng thời, hình ảnh này cũng gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, hình ảnh này còn nói lên không khí làm việc hăng say, không kể ngày đêm của những người công nhân. Và rồi, từ cảm nhận, khách hát lên sự trù phú, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một khúc hát, một lời mời tha thiết, trìu mến đàn cá “Hãy đến mà giăng lưới ta ơi”. Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi tha thiết ấy là ước mơ, khát khao đánh bắt được nhiều hải sản của người dân làng chài, và những điều đó suy cho cùng chính là ước mơ, khát khao chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của họ.
Tóm lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo, biện pháp tu từ hấp dẫn đã nâng tầm lời ca, khúc hát da diết những cảm xúc về biển cả. . Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và khát khao của người lao động làng chài.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 8
Hai khổ thơ đầu nói đến cảnh đoàn tàu ra khơi đánh cá. Cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than khi “hòn lửa” từ từ lặn xuống đại dương. Cảm xúc và biển cả bao la như mái nhà khổng lồ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mù. Những con sóng, như những cái “then cài” của mái nhà khổng lồ ấy. Cảm hứng thiên nhiên, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (chấm lửa, cài then) đã tạo thành những bài thơ hay gây cho người đọc nhiều ấn tượng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”.
Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơi:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Không phải những con tàu lại đi biển mà là cả một “đoàn thuyền” mang một sức mạnh mới của cuộc sống thay đổi. Chữ “lại” trong ý thơ “lại ra khơi” là sự khẳng định nhịp điệu cuộc sống của làng chài đã ổn định và đi vào nề nếp trong tương lai. Khúc ca lên đường vang động. Gió biển thổi lên. Cánh buồm no gió “căng” lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật có tính biểu tượng thể hiện sự hồ hởi, hăng hái và khí thế vươn khơi của người dân vùng biển.
Bốn câu thơ cuối cùng nói thêm ý nghĩa câu hát đã làm nổi bật một nét tâm hồn của dân chài. Tiếng hát cầu đi biển được nhiều may mắn:
“Hát rằng cá bạc, biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi !”
Chuyện đánh cá cũng có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ mong biển lặng sóng yên để thấy luồng cá, khai thác được nhiều. Niềm mong ước ấy phản ánh tấm lòng đôn hậu của ngư dân trải qua bao nắng, mưa, giông bão trên biển. Giọng thơ ngọt ngào, ngân dài và vang cao: “Cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”, “dệt lưới” là những hình tượng so sánh ẩn dụ hết sức sáng tạo mang đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.
Bốn khổ thơ tiếp theo nói về cảnh đánh bắt một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ là một nét đẹp của biển trời sông nước trăng sao, trong đó con người hiện lên đầy vẻ lạc quan, tươi trẻ và yêu đời.
Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước việt nam. Hạ Long một đêm trăng mang nét đẹp thần tiên. Huy Cận, với ngòi bút lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long một đêm trăng bằng những hình ảnh đẹp.
Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng che buồm lướt như bay trên mặt nước. Đến ngư trường “dò bụng biển”, ngư dân hối hả bắt tay vào việc làm “giàn đan và lưới vây câu”. Cuộc lao động thật sự là một trận chiến. Mỗi thuỷ thủ là một “chiến sĩ”. Con thuyền, câu, lưới và ngư cụ khác đã trở thành tài sản của thiên nhiên. Chữ “lướt” đặc tả đoàn thuyền vươn xa với tốc độ chóng mặt; thiên nhiên cùng chung tay với con người trên con đường làm việc và khám phá. Nhịp thơ sôi động lôi cuốn:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Những câu thơ tả đàn cá là hay nhất. Biển quê ta giàu có với các loại cá quý, cá ngon nổi tiếng mà dân gian đã nói: “Chim, thu, bống, hến”. Vận dụng sáng tạo cách kể của tục ngữ, ở đoạn trên, nhà thơ đã viết: “Cá thu biển đông như đoàn thoi”, ở dưới tác giả mô tả: “Lươn, cá chim cùng nhau”. Con cá song là một nét vẽ hoàn hảo. Con cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước mênh mông với ánh trăng “vàng chóe”. Cái miệng cá quẫy được ví với ánh lửa rực đỏ. Nghệ thuật phối màu sắc khéo léo làm cho vần thơ giống như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên xinh đẹp:
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”.
Nhìn bầy cá bơi qua, nhà thơ nghe tiếng sóng vỗ rì rào, mắt hướng về biển. Câu thơ huyền ảo lung linh: “Đêm thở, sao thổi nước Hạ Long”, như đưa người xem bước vào cõi mơ. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới tạo ra được bài thơ đẹp như thế.
Cùng nhìn đàn cá “dệt lưới”, những người dân chài cất giọng ca dịu dàng. Lần thứ hai tiếng hò vang lên trên biển. Tiếng chèo thuyền đuổi cá hòa vào sóng biển. Vầng trăng soi xuống mặt nước, muôn ngàn ánh vàng: toả ra theo sóng, bám vào mạn thuyền. “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”. Biển hào phóng cho dân lắm cá tôm, muối và gạo. .. Biển “như lòng mẹ” đã nuôi lớn dân chài từ ngàn đời nay. So sánh biển với lòng mẹ đã nói lên lòng biết ơn của người dân chài về biển đảo. Giọng ca sâu lắng, giàu tình cảm:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Một đêm trôi qua trong không khí làm việc hứng khởi, say mê. Trên bầu trời sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được mô tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo lưới “xoăn tay”. “Kéo xoăn tay” là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới cực nhanh, khoẻ và chắc. Man nào là cá mắc vào lưới hay những chùm quả treo lủng lẳng. “Chùm cá nặng” là một hình ảnh ẩn dụ về mùa cá. Lòng thuyền đầy cá. Màu bạc của da cá và màu vàng của mắt cá “loé rạng đông”. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của thơ ca thật tài tình. Sắc cá dưới ánh trăng và màu cá dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹp:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”.
Khổ thơ cuối cùng nói về cảnh đoàn thuyền quay lại bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên con thuyền tiếp tục cất cao giọng hát – lời ca chiến thắng hân hoan. Con thuyền và mặt trời được nhân hoá. Thơ được cấu trúc song song với nhịp sống hối hả:
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới”.
Cảnh bình minh với hình ảnh “mặt trời đội biển. ..” vươn lên và tỏa sáng rực rỡ như một “màu mới” bao phủ biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bờ để chiếm lấy ánh sáng và giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật sắp đặt trong việc miêu tả “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” đã vẽ nên khung cảnh được mùa bội thu cùng đời sống sung túc no ấm của người dân địa phương. Với sức lao động và mồ hôi, họ đã viết lên khúc ca cuộc sống.
“Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn “vạn cổ sầu” vào tâm hồn và tình người thì các bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài “Đoàn thuyền đánh cá” có âm điệu nhẹ nhàng thể hiện niềm vui hăng say và phấn khởi của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc sống.
Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi dào hải sản.
Cảnh lao động trên biển được mô tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thực sự là niềm vui cuộc sống. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động và người đáng quý nhất là nhân dân lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là biểu tượng của sức sống mới. Họ cần cù, chăm chỉ và sáng tạo. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi và đánh bắt được tôm cá. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển đến mọi gia đình xa gần, bữa ăn trở nên đậm đà với con tôm con cá. Thật với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài lưới đã cho chúng ta bài học về sự chăm chỉ và lòng lạc quan trong lao động.
Thật thế, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay. Những nét vẽ về loài cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới và hát. .. cho thấy một hồn thơ đẹp.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 9
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then,đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Bốn câu thơ có bố cục chặt chẽ, cân đối trong một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh và hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối nghịch song lại hài hoà lấy cảnh làm nền để cho hình tượng con người nổi lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, tươi vui ngập tràn âm thanh và rực rỡ sắc màu. Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Phép nhân hoá so sánh “mặt trời xuống biển – ngọn đuốc”, mặt trời như một quả cầu lửa– đỏ rực, khổng lồ đâm vào đáy đại dương. Bức họa hoàng hôn mang một vẻ đẹp rực rỡ, lộng lẫy, và lãng mạn. Phép so sánh, ẩn dụ “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến người xem cảm thấy thiên nhiên, vũ trụ và biển cả đang bước vào trạng thái thanh bình, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ bây giờ như một ngôi nhà khổng lồ. Những gợn sóng nhỏ như cái then cài mỗi khi màn đêm đang buông xuống là cánh cửa mở. Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la rất gần gũi với con người và biển cả hay đó cũng chính là mái ấm thân thương của những ngư dân.
Thiên nhiên vũ trụ là nền để con người xuất hiện:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu thơ đã làm nổi bật khí thế lao động đầy hăng say, lạc quan của những con người lao động “Học làm chủ, tập làm người nông dân/Dám vươn mình chiếm lĩnh lại thiên nhiên!”. Hình ảnh ẩn dụ “đoàn thuyền đánh cá” được phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu hoạt động tự nhiên, hàng ngày, thường nhật, như một nếp sống bình dị của những con người ngư dân vùng biển. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi, hối hả, dồn dập theo các nhịp đập không hề mệt mỏi. Hình ảnh ẩn dụ “câu hát căng buồm” diễn tả tiếng trống hào hùng tiếp sức cho gió thổi căng cánh buồm, giúp con thuyền chạy vút ra khơi xa. Tiếng hát làm nổi bật khí thế hăng hái của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả.
Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
“ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”
Bằng cách liên tưởng thực tiễn kết hợp với phép so sánh “cá thu – đoàn thoi” khiến người đọc hình dung hình ảnh những con cá thu mình trong ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi đi trên khung cửa dệt vải. Trong sự liên tưởng của những người nông dân yêu biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển là cá dệt biển, cá vào lưới là cá dệt lưới hay “đến dệt lưới ta”. Từ “ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh trong toàn bộ bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ nhoi, cô đơn như ngày xưa nữa mà là chữ “ta” tập thể đầy sức mạnh.
Đoạn thơ là một bài ca đầy khí thế, tự hào. Bài ca ấy dành cho biển việt nam, cho những con người cần cù, sáng tạo và đang làm giàu cho tổ quốc. Những người lao động đã thực sự làm chủ cuộc sống của mình, làm chủ vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc. Đọc từng trang thơ, độc giả như. cùng chia sẻ niềm vui lớn với nhà thơ và với tất cả những người lao động mới đang hãnh diện ngẩng cao đầu trên con đường tìm đến tương lai tốt đẹp.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 10
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Biển cả trong tác phẩm “Tràng Giang” ta bắt gặp ở Huy Cận một nỗi sầu xuyên suốt năm tháng dài làm say đắm lòng người thì ta cũng thấy ở tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” một hình ảnh hoàn toàn khác, hình ảnh một cuộc sống mới. Thông qua việc mô tả cảnh đánh bắt ban đêm của một đàn thuyền trên biển tác giả đã ca ngợi không khí lao động mới khẩn thượng, vui tươi tràn đầy niềm lạc quan yêu đời của những người làm chủ cuộc sống, làm chủ biển cả mênh mông hùng vĩ.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi
Một ngày đã kết thúc, thiên nhiên đang quét dọn chuẩn bị nghỉ ngơi, nhịp độ thật khẩn trương. Ở chân trời phía Tây kia mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dưới đại dương, những con sóng lượn từng nét ngang mềm mại như cài then, bức màn ban đêm bị kéo sập thật nhanh gọn và dứt khoát. Đúng lúc con người và thiên nhiên nghỉ ngơi thì “đoàn tàu đánh cá cũng ra khơi” đầy hứng khởi. Giữa màn đêm bao la, mênh mông “câu hát căng buồm cùng gió khơi” vút lên, bừng sáng, rung lắc, rộn ràng, rạo rực, giống như hoà cùng gió biển trong câu ca thổi căng cánh buồm phi băng tiến về phía chân trời.
Giữa mây cao với biển rộng, giữa gió với trăng, giữa đại dương bao la cảnh lao động trên biển được miêu tả thật sanh đông và giàu chất thơ. Đó là những động từ mạnh “lái gió, buồm, giàn đan, quẫy, đẩy, giật khuỷu tay. .”, những sắc màu sặc sỡ mà vô cùng hài hoà “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng lung linh, ánh đuốc đen hồng, trắng đỏ, vẩy bạc, đuôi vàng, môi hồng”, hay hình ảnh thiên nhiên đầy lãng mạn mà gần gũi “mây cao biển bằng, đêm thở, sao thổi nước Hạ Long, dặm dài, sóng biển, trăng cao. ..” Vẻ đẹp của thiên nhiên hòa hợp với con người lao động tạo thành một bức tranh thật hùng vĩ tráng lệ mà không kém phần nên thơ đầy sức sống. Ta như thấy cả màn đêm huyền ảo khi nhìn ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh ánh trăng vàng, thấy những đợt sóng nối tiếp nhau vỗ vào mạn thuyền những bài hát du dương. Trên mặt biển bài ca gọi cá của người dân chài lại tiếp tục ngân nga, rộn ràng, tha thiết:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Thiên nhiên lúc này hòa cùng một nhịp đập với con người, trở thành người bạn thân thiết của con người, như người mẹ mà con người yêu thương từ bé. Vẻ đẹp của biển cả bao la hùng vĩ đã làm cho con người trở nên mạnh mẽ, giảm đi những khó khăn vất vả trong cuộc đời lao động, làm cho con người thêm lạc quan chinh phục thiên nhiên và làm chủ cuộc sống của mình.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Vậy là một đêm đã trôi qua, ngày đang tới gần, nhịp độ công việc lại thêm khẩn trương, những người dân chài vạm vỡ đang gấp rút hoàn thành công việc “Ta kéo trên tay chùm cá nặng”, người đọc ngỡ như thấy hình ảnh người dân chài trở lên mạnh mẽ với các cơ bắp cuồn cuộn say mê lao động để kéo được nhiều “chùm cá nặng”. Đây là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo về nét đẹp của người phụ nữ. Và một đêm dài lao động cần mẫn, miệt mài đã có kết quả là những khoang thuyền đầy ắp cá, vẩy bạc, đuôi vàng lung linh trong ánh hoàng hôn thật lộng lẫy.
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi
Khổ thơ cuối cùng tả đoàn tàu cá đang tiến về bến. Tiếng hát vút lên khi các thuyền vươn khơi đánh bắt, tiếng hát rộn rã suốt cuộc hành trình, tiếng hát của sự phấn khởi, của tình yêu quê hương, đất nước, của tình yêu con người, tiếng hát của niềm vui, tiếng hát mừng chiến thắng này được cất lên khoẻ khoắn, mãnh liệt cùng với nắng sớm, với gió biển đưa đoàn thuyền trở về. Đoàn thuyền lao vút trên biển như chạy đua với mặt trời, cùng gió. Và khi “mặt trời trên biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đánh cá cũng đã về tới nơi, “mắt cá rực rỡ muôn dặm khơi”. Giữa ánh rạng đông rực rỡ muôn triệu mắt cá cũng như những mặt trời nhỏ bé bừng sáng trên muôn dặm khơi. Đó là mặt trời của thành quả lao động chân chính của mỗi con người lao động sáng tạo không biết mệt mỏi. Bức tranh thơ sặc sỡ sắc màu, rộn ràng âm nhạc, tràn đầy sức sống của những con người lao động làm chủ công việc, làm chủ biển cả bao la, rộng lớn tuyệt đẹp để lại cho mỗi con người đã từng thưởng thức tác phẩm này một ấn tượng khó phai nhoà.
Với nhịp điệu mạnh mẽ, vui tươi và lạc quan cùng với sự tinh tế trong cách thể hiện hình ảnh qua tranh, tượng sinh động, hấp dẫn bài thơ quả là một “khúc tráng ca”. “Khúc tráng ca” ca ngợi không khí lao động mới, mạnh mẽ, kiên cường và tràn ngập niềm lạc quan còn “khúc tráng ca” ca ngợi những con người lao động mới, những con người làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống của chính mình, làm chủ cả biển cả bao la rộng lớn.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 11
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường ác liệt miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức làm việc không quản đêm ngày, mưa nắng. Với tinh thần ấy, nhiều nhà văn, nhà thơ đã đi sát với đời sống của những người công nhân để phản ánh và khen ngợi họ. Trong thơ, tác phẩm để lại rất nhiều cảm xúc nhất, có lẽ là “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi :
“ Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Bằng giọng thơ truyền cảm cùng với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu dưới đáy đại dương mà tác giả ví như “hòn lửa”. Với cách so sánh như vậy sẽ làm lộ ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ đến ngất ngây lòng người. Tuy nhiên không gian tráng lệ đó cũng chỉ diễn ra trong chốc lát và nhường chỗ cho màn đêm mờ ảo. Với nghệ thuật nhân hóa “sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao vũ trụ. Sau một ngày lao động mệt nhọc, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong điều kiện như vậy, con người phải bắt tay vào làm việc. Sự tương phản giữa thiên nhiên và con người kết hợp với những biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo ra một không gian lộng lẫy, khơi gợi biết bao xúc cảm nơi người xem. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” đã phản ánh rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được tiến hành một cách đều đặn và liên tục. Phải nói rằng, việc đánh bắt trên biển đã trở thành nề nếp, không phải của con thuyền mà còn của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với sự hồ hởi, phấn chấn, vui tươi và khí thế hừng hực trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện bằng giọng hát hào sảng, lời ca của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đưa con thuyền thẳng tiến ra biển.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài :
“ Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”
Câu ca của những người làm biển, nó không chỉ thể hiện được tinh thần phấn khởi và khí thế khẩn trương mà nói lên sự mơ ước của họ. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong lời hát ta đọc thấy niềm mơ ước của con người. Đó là mong ước ngày trời yên bể lặng, tìm ra luồng cá để bắt thật nhiều. Giọng điệu lời thơ được ngân lên nhẹ nhàng, ngân dài và xa nữa. Các hình ảnh của cá được liên tưởng và ẩn dụ là những nét sáng rất đặc biệt mang đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người việt nam trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Ngôn ngữ nói rằng, mỗi khổ đều là một bức tranh sơn rất đẹp. Tất cả các hình ảnh: mây, nước, đất, trời được tạo ra bởi ánh sáng lung linh, kỳ ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực cao lại mang nét đẹp lãng mạn.
“Lái gió” “buồm trăng” khi đọc thơ, ta có cảm giác thiên nhiên cũng tham gia vào việc đánh cá. Trăng sao càng soi rõ thêm khi ta tìm ra luồng cá. Giữa biển khơi bao la, trời và biển dường như hoà làm một. Hơn đối với ngư dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển đảo. Họ chủ động, sáng tạo trong công việc, tổ chức đánh bắt cá như một trận chiến. Với tinh thần làm việc hăng hái, lạc quan như vậy, thì chắc hiệu quả sẽ cao hơn nữa.
Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long
Khi cả bài thơ là một bức tranh đẹp về cuộc sống mưu sinh của những người làm biển, thì chi tiết về con cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được vận dụng hết sức sáng tạo, để người xem cảm nhận được cái giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao : “ cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi : “ Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những câu thơ hay đến như vậy.
Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hò căng buồm khi ra khơi thì ở đây chính là lời ca gọi cá. Tiếng ca được cất lên giữa những giờ lao động như xua bỏ bao mệt nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời ca như khích lệ, giúp cho kết quả lao động được cao hơn. Biển trong bài thơ đã được mô tả rất gần gũi và ấm áp “với con cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền đời mình với biển cả, vì vậy biển đối với họ cũng gần gũi và ấm áp biết bao nhiêu.
Sau một đêm làm việc vất vả căng thẳng, họ đã gặt hái được nhiều thành quả hết sức tốt đẹp:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Thời gian trôi qua, là một đêm dài miệt mài trong công việc, thế nhưng tình thần của những người làm biển dường như không hề suy giảm. Họ hăng hái được những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy? Hay sau một đêm vất vả, họ đã thu được thành quả lớn “ chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “ vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.
Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi : “ đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thỏa mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khỏe mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi xa. Nhưng mỗi lần đọc lại bài “đoàn thuyền đánh cá” ta đều thấy hiện ra trước mắt tinh thần làm việc hăng say của những người không có ngày nghỉ đã sản xuất ra được rất nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về phong cảnh thiên nhiên và đẹp về tinh thần làm việc. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 12
Nếu trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận mang một hồn thơ của cái tôi ảo não sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thanh) thì sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng – chung, biểu hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc đời mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác vào năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã được giải phóng và đang từng bước xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới trong không khí hào hứng, phấn khởi.
Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, trù phú, thơ mộng thì bài thơ còn khắc họa thành công hình ảnh người ngư dân lao động đánh bắt cá chứa chan sức sống, khỏe khoắn, tươi vui tràn đầy tinh thần hăng say trong công việc. Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng hình ảnh bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung của toàn bài: khỏe khoắn, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ.
KHổ thơ thứ 2 là tiếng hát của những con người hăng say, miệt mài lao động không quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Với hình thức liệt kê hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người đọc thấy sự giàu có của biển Đông. Biển Đông có rất nhiều cá và đang chờ mọi người tới khai thác. Cá được nhà thơ so sánh “như đoàn thoi”. Đoàn thoi hoạt động rất nhanh và nhiều trên bến phà. Và cá ở biển Đông cũng nhiều và bơi rất nhanh như thoi đưa vậy.
Câu thơ cất cao lên tiếng hát, tràn ngập niềm say mê, phấn khởi trước sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng cho người dân vùng chài. Vì thế, hai câu thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Họ hi vọng, những đàn cá “đêm ngày dệt biển” ấy sẽ vào “dệt lưới” của đoàn thuyền. Vần “ơi” kết hợp với dấu chấm cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động, thật gần gũi, thân thiết với con người.
Phương thức nghệ thuật chủ yếu và phổ biến để xây dựng hình ảnh trong đoạn thơ này là so sánh và ẩn dụ, tượng trưng, thêm vào đó là lối phóng đại, khoa trương đã đạt được hiệu quả thẩm mĩ và tạo được dấu ấn riêng cho thi phẩm. Bên cạnh đó thì các yếu tố như lời thơ, nhịp điệu, vần… cũng tạo nên âm hưởng giọng điệu khỏe khoắn, tơi vui, mạnh mẽ… góp phần làm nên một bức tranh lao động thật đẹp, thật sống động.
Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn bay bổng, nhà thơ đã phác họa thành công hình ảnh người lao động với niềm vui phấn khởi của họ trong cuộc sống mới. Bài thơ có thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động tuyệt vời, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm đầu lịch sử.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 13
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám ta bắt gặp một “nỗi sầu vạn cổ” trong “Tràng Giang” của hồn thơ Huy Cận thì sau Cách mạng tháng Tám hồn thơ ảo não, sầu muộn ấy đã đem đến một làn gió vui tươi, mới mẻ cho phong trào Thơ mới của Việt Nam qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ chính là “khúc tráng ca” hào hùng của ngư dân vùng biển trong cuộc chạy đua với thiên nhiên để sánh ngang tầm với vũ trụ.
Huy Cận (1919 – 2005) là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam góp phần đưa phong trào Thơ mới phát triển lên đến đỉnh cao. Ông có phong cách sáng tác độc đáo, đa màu sắc và có sự thay đổi rõ rệt ở những sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian Huy Cận có chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).
Đọc những dòng thơ đầu tiên, ta không khỏi bất ngờ bởi cảnh đoàn thuyền đánh cá tràn đầy khí thế ra khơi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên. “Lao động là vinh quang”, công việc đánh bắt cá không chỉ là để phục vụ cuộc sống mưu sinh của người dân vùng biển mà đây còn là niềm vui to lớn của họ khi được hưởng sự ưu ái của thiên nhiên. Họ lạc quan trước sự giàu có của biển cả khi chúng ban tặng cho con người rất nhiều loại khác nhau:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Muốn tìm được kho báu ẩn sâu trong lòng đất thì nhất định chúng ta phải có một niềm tin mãnh liệt vào chúng. Dù bóng tối trên biển cả bao la có bủa vây những ngư dân của chúng ta đi chăng nữa thì ở họ luôn có ánh sáng của niềm tin giúp họ tìm được nhiều cá hơn. Biển Đông dồi dào, giàu tài nguyên và sẵn sàng cho đi với vô vàn loài cá như “cá bạc”, “cá thu”.
Tác giả đã vẽ nên một bức tranh có sự đối lập giữa bóng tối của biển cả và ánh sáng của luồng cá để gợi sự trù phú của thiên nhiên và những mơ ước về mẻ lưới đầy của ngư dân. Biển cả rộng lớn còn con người thì bé nhỏ như được hòa chung vào cùng một dòng chảy để dệt thành những mẻ lưới đầy ắp cá. Họ tha thiết, mong chờ đàn cá đến “dệt lưới” với lời gợi mời vô cùng thân thiết “đoàn cá ơi!”.
Ở khổ thơ thứ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá, nhà thơ Huy Cận đã đem đến cho người đọc một bức tranh sống động bằng những hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo, giàu tính liên tưởng với âm hưởng khỏe khoắn, lạc quan. Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên tráng lệ có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên với con người. Qua đó, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một “khúc tráng ca” hào hùng đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ kết thúc trong niềm vui hân hoan của những người dân vùng biển khiến cho những âm thanh vui tươi ấy vẫn luôn còn đọng mãi trong tâm trí người đọc.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 14
Nhà thơ Huy Cận sinh năm 1919, trong một gia đình nông dân nghèo của tỉnh Hà Tĩnh. Ông từng tham gia hoạt động cách mạng trong nhiều năm và từng làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Huy Cận để lại cho văn học nước nhà khối lượng tác phẩm khá lớn và giá trị.
Nếu như trước năm 1945, ông thành công với tập thơ Lửa thiêng thì sau năm 1945, tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng của ông gây được tiếng vang lớn trong văn đàn. Đó là niềm tự hào không chỉ của riêng tác giả mà còn là niềm vui lớn của người đọc khi được thưởng thức những đứa con tinh thần đầy mới mẻ.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá trích trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng đã khắc họa những vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn và hình ảnh những người lao động đầy hứng khởi. Đặc biệt hơn cả là bức tranh ra đoàn thuyền đánh cá ngày ra khơi được thể hiện trong khổ thơ thứ 2. Bắt đầu ra khơi bằng câu hát ân tình, câu hát ru màn đêm, ru biển cả, câu hát làm cánh buồm thêm sức sống, thêm căng gió ra khơi. Người lao động cất cao lời hát, con thuyền bắt đầu lướt sóng ra khơi đầy mạnh mẽ, tráng lệ, cảnh và người thống nhất, hài hoà:
“ Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Trong chiến đấu, câu hát về ước vọng hòa bình vang lên, trong lao động câu hát về vụ mùa bội thu được cất lên thì trong đánh cá lại không thể thiếu những câu hát về tôm cá, về ước mong biển giàu cá tôm. Câu hát của người dân vùng chài mang theo cả lời mời gọi, mời gọi những đoàn cá đang rong ruổi giữa mênh mông nước kia đến dệt lưới, đến đan ánh sáng vào tấm lưới đang miệt mài trong từng luồng nước dưới kia. Người ngư dân mong rằng trời lặng, sóng êm, gặp luồng cá thoi, cá thu thật lớn để đánh bắt được nhiều.
” Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Lời thơ như tiếng hát ngọt ngào, ngân xa, lời thơ đầy ắp những ân tình của con người nơi biển cả, lời thơ đầy ắp cả những hy vọng, ước mong.
Chỉ với trọn vẹn 4 câu thơ đầu bài nhưng bằng cảm xúc chân thành, ngôn từ đã diết mà bình dị, giọng điệu khoẻ khoắn, tươi vui, tác giả đã khắc hoạ được cảnh dân chài ra khơi đầy hứng khởi, mang niềm vui và sự tin yêu dạt dào. Qua đoạn thơ, ta thấy được tâm hồn lạc quan, sự làm chủ của người lao động trong cuộc chinh phục thiên nhiên của mình. Dường như mọi người, ai ai cũng ra sức phấn đấu, ra sức lao động để dựng xây đời mới giàu đẹp hơn mỗi ngày.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 15
Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận,… được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương.
Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn-đêm trăng-và bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa.
Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực “hòn lửa” từ từ lăn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mù. Những con sóng, như những chiếc “then cài” của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượng:
Mở đầu tác phẩm, tiếng hát, gió khơi, buồm căng “là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. Khổ thơ thứ 2 nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa: “cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”, “dệt lưới” vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.
Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó.
Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.
Thật vậy, Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay. Nổi bật ở khổ thơ thứ 2 với những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát… cho thấy một hồn thơ đẹp của Huy Cận.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 16
Nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, Huy Cận đến với nền thơ với lời thơ thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình. Nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ “ảo não”, bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời.
Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ông tìm được nguồn sống từ cuộc sống mới của dân tộc và say mê sáng tạo. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm nổi bậc của ông trong giai đoạn này.
Đoàn thuyền đánh cá được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành. Đất nước đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ.
Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết. Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân, lên miền núi, đến với nhà máy, nông trường… Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Xuyên suốt bài thơ là bút pháp sáng tác lãng mạn, bay bổng, cảm xúc vũ trụ độc đáo tuôn trào. Thi phẩm đã để lại cho người đọc nhiều bất ngờ thú vị, những ấn tượng sâu sắc.
Nếu khổ thơ mở đầu bài thơ là khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá lúc hoàng hôn buông xuống. Thì ở khổ thơ thứ 2, trước khi vũ trụ đi vào lặng lẽ, đoàn thuyền đánh cá căng buồm ra khơi. Nhịp thơ vừa chùng xuống lập tức căng lên theo cách buồm ngược gió:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Từ “lại” cho ta thấy đây không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ra khơi mà đã rất nhiều lần và trở nên quen thuộc. Một tư thế chủ động mạnh mẽ, đầy tin tưởng trong bài ca lao động tươi vui. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp. Cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh lao động khỏe khoắn. Khung cảnh vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu, hứa hẹn một chuyến ra khơi thắng lợi.
Trong câu hát, đoàn thuyền vượt sóng ra khơi, băng mình trên biển cả tìm kiếm những luồng cá. Tiếng hát vang vọng trong đại dương, tràn đầy khí thế:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi”.
Biện pháp so sánh đầy hình ảnh kết hợp với lối chơi chữ độc đáo. “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” khiến cho câu thơ nhộn nhịp theo từng đoàn cá chạy. Phép nhân hóa: “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” lập tức phá tan vẻ đơn điệu của biển đêm. Huy Cận đã hết sức chú ý đến việc xây dựng hình ảnh đặc sắc cho đoạn thơ nhằm tạo nên sự hài hòa giữa con người và biển cả. Đại dương không còn đáng sợ nữa. Đại dương giờ đây chính là ngôi nhà vĩ đại, là nguồn sống của con người.
Lời ca tiếng hát là những ước mơ đẹp, ước mơ về một chuyến đi với những thành quả lao động cao, góp phần tích cực vào việc xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp. Hình ảnh của sự liên tưởng sáng tạo, giàu ý nghĩa; hình ảnh mang chất thơ, thi vị hóa công việc đánh bắt cá nặng nhọc. Câu hát yêu đời, thiết tha, trìu mến, ca ngợi sự giàu đẹp của biển Đông Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam.
Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương. Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng.
Huy Cận đã sử dụng bút pháp lãng mạn đầy chất thơ, ca ngợi và thể hiện tình yêu lao động, tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống mới. Thành công của khổ thơ thứ 2 nói riêng và cả bài thơ nói chung còn ở việc Huy Cận xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan của người lao động.
Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ Đoàn thuyền đánh các ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
“Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”
(Tố Hữu)
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 17
Đề tài “Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp.
Huy Cận mang một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và trở về vào lúc bình minh.
Ở khổ thơ mở đầu tác phẩm, với bút pháp khoa trương “Câu hát căng buồm” tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Ở khổ thơ thứ 2, câu hát ấy thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá: cá bạc, cá thu… Phép tu từ so sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc.
“Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động.
Khổ thứ 2 trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 18
Trước cách mạng tháng tám thơ Huy Cận khắc khoải một nỗi buồn da diết, đó là nỗi buồn rộng lớn, mênh mang, vô định, thế nhưng kể từ sau khi Cách mạng tháng tám thành công, có lẽ hồn thơ Huy Cận đã bắt được một niềm cảm hứng mới, ấy là công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang diễn ra hết sức sôi nổi.
Ông hăng hái viết những bài thơ về công cuộc lao động không ngừng nghỉ của nhân nhân ta, ca ngợi vẻ đẹp của người lao động, vẻ đẹp của quê hương đất nước. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho thơ ông thời kỳ này ấy là bài Đoàn thuyền đánh cá, trong đó vẻ đẹp của người dân làng chài được Huy Cận miêu tả với vẻ hăng say lao động và tràn đầy sức sống, tựa như một khúc tráng ca trong công cuộc lao động xây dựng đất nước thời kỳ đầu.
Huy Cận (1919-2005), quê ở Hà Tĩnh, một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm tập thơ Lửa thiêng. Nguồn cảm hứng chính của Huy Cận là thiên nhiên, vũ trụ và con người, trước cách mạng tháng tám thơ ông giàu chất triết lý và ngập tràn nỗi sầu nhân thế, sau cách mạng thơ ông có sự đổi dời về cảm hứng, ông thường viết về những bài ca lao động và thiên nhiên với giọng điệu vui tươi, hào hứng.
Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác năm 1958, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh, chứng kiến cảnh lao động của ngư dân tác giả đã viết nên bài thơ với một niềm hứng khởi. Bài thơ được trích trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Ngay từ trong khổ thơ đầu khúc hát lao động đã vang lên đầy náo nức, say mê và hăng hái đã được cất lên. Khung cảnh lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi có nhiều điểm khác biệt, không phải là bình minh tươi sáng, cũng không phải là một buổi trưa đầy nắng, mà lại bắt đầu khi hoàng hôn tắt nắng, vạn vật sắp nghỉ ngơi, thì những ngư dân lại dong buồm ra biển. Cảnh hoàng hôn trên biển không hề u ám, tối tăm mà lại mang một vẻ đẹp yên bình, dưới cái ráng chiều hồng nhạt.
Từ xa xa, trên mạn thuyền Huy Cận thấy mặt trời như một viên ngọc đỏ chói đang dần chìm xuống biển, “hòn lửa” mang một vẻ đẹp ấm áp, bừng sáng lên giữa biển khơi bao la, không hề gợi nên nỗi buồn cô tịch. Bên cạnh hình ảnh so sánh, Huy Cận còn sử dụng những hình ảnh nhân hóa đặc sắc “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”, tác giả xem cả vũ trụ tựa như một ngôi nhà mà màn đêm buông xuống chính là cánh cửa, những con sóng chính là cái then cài.
Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi, thì con người lại lao vào công cuộc lao động, “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, từ “lại” vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ. Con người lao động không mệt mỏi, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân.
Điều ấy được nhà thơ thể hiện rõ nhất qua câu thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, tiếng ca của con người hợp sức với ngọn gió biển khơi cùng nhau thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền về khơi xa. Những câu hát thể hiện niềm say mê phấn chấn, lạc quan của con người trong lao động, ngay từ trong những dòng thơ đầu Huy Cận đã tạo ra một không khí lao động hết sức sôi động, say mê, chan chứa niềm vui đó đúng là không khí của những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Những câu hát vui tươi cất lên, đã sưởi ấm cái màn đêm tăm tối, khơi gợi niềm phấn khởi trong con người, xua đi những khó khăn mệt mỏi, mang lại một không khí lao động vô cùng hào hùng và lãng mạn. Huy Cận liệt kê một loạt các loài cá như cá bạc, cá thu như “đoàn thoi”, phần nào thể hiện sự giàu có của biển cả, những đoàn cá ấy đêm ngày “dệt biển” vô cùng nhộn nhịp đông đúc. Thế nên mới có câu thơ thật hay:
“Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”, những ngư dân hát mới một tâm hồn ngập tràn niềm vui và sức sống, niềm trông đợi vào một mẻ lưới đầy, sao cho cá vào “dệt lưới”. Cách xưng hô thân thiết mời gọi ấy càng kéo gần khoảng cách giữa mẹ thiên nhiên và con người, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng giản dị, chất phác của người ngư dân trên biển cả, ngày ngày hăng say với công việc lao động.
Đoàn thuyền đánh cá là khúc tráng ca bất tận về công cuộc lao động và chinh phục thiên nhiên biển cả của con người, ở đó ta thấy được không khí sôi nổi, hào hứng và say mê của những con người lao động. Trong 2 khổ thơ mở đầu tác phẩm, với giọng thơ say mê, đầy phấn khởi, từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi Huy Cận đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp của người lao động và không khí của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng năm sau cách mạng tháng Tám ở miền Bắc nước ta.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 19
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám,thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Sau cách mạng, thơ ông tập trung ca ngợi thiên nhiên đất nước và niềm vui của con người trong cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận sau cách mạng. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng về thiên nhiên và con người lao động. Điều này được thể hiện sâu sắc, tinh tế ở 2 khổ đầu bài thơ.
Những hình ảnh thơ mở đầu đã làm nổi bật khí thế lao động đầy hăng hái, tươi vui của những con người lao động “Tập làm chủ, tập làm người xây dựng / Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”.
Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động quen thuộc, hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Hình ảnh ẩn dụ “câu hát căng buồm” diễn tả tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm, đẩy con thuyền lao nhanh ra khơi xa.
Tiếng hát làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả. Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”
Bằng những liên tưởng thực tế kết hợp với phép so sánh “cá thu – đoàn thoi” khiến người đọc hình dung hình ảnh những con cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửa dệt vải. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển là cá dệt biển, cá vào lưới là cá dệt lưới, “đến dệt lưới ta”. Từ ” ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như ngày xưa nữa mà là cái” ta” tập thể đầy sức mạnh.
Với việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng, âm hưởng hào hùng, lạc quan, cùng những phép so sánh, nhân hóa, hai khổ thơ đầu đã khắc họa cảnh biển đêm vô cùng lung linh và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm say sưa lạc quan tin tưởng của người dân chài, đó là niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống mới.
Đoạn thơ thứ 2 Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc, đang làm giàu cho đất nước. Những người lao động đã thật sự làm chủ cuộc sống của mình, làm chủ vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Đọc những dòng thơ, độc giả như. cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi đến tương lai tươi sáng.
Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 20
Ra đời vào năm 1958, là kết quả chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ của Huy Cận sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, giàu có mà qua đó còn khắc họa thành công hình ảnh những người lao động mới – những con người dân chài lưới với vẻ tinh thần lao động hào hứng, luôn chan chứa sức sống và tinh thần khỏe khoắn.
Hình ảnh những con người lao động mới trong bài thơ được khắc họa trên nền thiên nhiên rộng lớn, bao la và trước hết, họ là những người có tâm hồn phóng khoáng, yêu lao động và luôn có niềm hi vọng, ước mong đánh bắt được nhiều hải sản.
Hai câu thơ mở đầu bài thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên miền biển lúc hoàng hôn tuyệt đẹp với việc sử dụng những hình ảnh so sánh độc đáo “mặt trời xuống biển như hòn lửa” cùng biện pháp nhân hóa – “sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Và để rồi, trên cái nền thiên nhiên thơ mộng, gần gũi, thân thương ấy, hình ảnh con người dần hiện ra:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Phụ từ “lại” đã giúp nhấn mạnh ngữ điệu của câu thơ, đồng thời, qua đó gợi lên thế chủ động của con người trước thiên nhiên và hơn thế, nó cho chúng ta thấy rằng công việc ra khơi của những con người nơi đây vẫn lặp đi lặp lại hằng ngày, nó trở thành một công việc quen thuộc đối với những con người nơi đây.
Đặc biệt, hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi” là một sáng tạo độc đáo, qua đó đã cụ thể hóa niềm vui sướng cùng sự hào hứng của người lao động. Thêm vào đó, với việc sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” đã gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của người lao động gửi vào trong những lời ca ấy. Trong tâm trạng hứng khởi khi ra khơi, những người dân chài đã cất lên tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển ca và gửi gắm niềm ước mong của mình.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi.
Với thủ pháp liệt kê cùng biện pháp so sánh, tác giả đã ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển ca. Nhưng hơn hết, qua hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” như đã gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh những người lao động đang làm việc, lao động hăng say không kể ngày đêm giữa biển cả.
Đồng thời, câu hát “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” không chỉ như một lời mời gọi những loài cá mà hơn thế nữa, nó còn cho thấy ước muốn đánh bắt được thật nhiều những loài hải sản và những điều đó xét đến cùng là khao khát, là hi vọng được khám phá, chinh phục tự nhiên của những người lao động nơi đây.
Tóm lại, với ngòi bút tài hoa, bay bổng cùng cảm hứng về vũ trụ, 2 khổ thơ đầu trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã xây dựng thành công hình tượng người lao động mới với những vẻ đẹp đáng trân quý, với tầm vóc lớn lao trên cái nền thiên nhiên bao la, rộng lớn.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá (20 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Cảm nhận khổ 3, 4 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (4 mẫu)
- Cảm nhận của em về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá (7 mẫu)
- Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
- Phân tích 3 khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (14 mẫu)
- Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá (16 mẫu)
- Phân tích khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (11 mẫu)
- Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (22 mẫu)
- Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)