Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 16 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá
Dàn ý Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá chi tiết
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá (16 mẫu)
Giới thiệu về khổ 3 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
2. Thân bài:
- Khí thế của những người đánh cá giữa biển đêm
- Sự kiêu hùng và đẹp mắt của những đoàn thuyền đánh cá giữa biển đêm.
- Trí tưởng tượng của tác giả đã bao trùm lên những đoàn thuyền đánh cá bằng những hình ảnh đẹp và cảm xúc.
- Con thuyền lái gió đi giữa biển trời, cánh buồm làm bạn với gió trăng.
- Tầm quan trọng của người đánh cá đối với thiên nhiên
- Người lao động ra đi với quyết tâm chinh phục thiên nhiên và tô đắp cho thiên nhiên ngày càng tươi đẹp.
- Người trên thuyền luôn tìm kiếm tài nguyên của biển phục vụ cho đời sống.
- Kỹ thuật đánh cá của những người đánh cá
- Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá có kỹ thuật đan như một thế trận, để thu bắt những gì biển đã hào phóng trao tặng cho ta.
- Mô tả không gian và thời gian mở đầu của một cuộc đánh cá đã tạo nên cho cả bài thơ một cái nền vừa đẹp, vừa hùng vĩ, vừa nên thơ.
- Bút pháp liên tưởng lãng mạn nhưng giàu chất thơ và cảm xúc.
3. Kết bài:
Đoạn văn trên là một đoạn thơ miêu tả về cuộc đánh cá của người dân trên đoàn thuyền, tuy nhiên nó còn chứa đựng nhiều ý nghĩa và thông điệp về sự kiên trì, sự nỗ lực và tình yêu với thiên nhiên.
16 mẫu Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá hay nhất
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 1
Đó là một khung cảnh đánh cá giữa biển đêm và được khắc họa bằng nhiều vẻ đẹp. Đó là vẻ đẹp của con người được miêu tả ở nhiều góc độ: khỏe khoắn, đầy hứng khởi được thể hiện qua không khí lao động – hoạt động đánh bắt cá – khẩn trương sôi nổi:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Một tư thế, tầm vóc lớn lao, thậm chí sánh ngang cùng vũ trụ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Không chỉ vậy đó còn là vẻ đẹp của thiên nhiên. Một không gian bao la, rộng mở, vừa kỳ vĩ vừa nên thơ với biển, trăng, sao, mây, gió. Việc ra khơi qua ngòi bút miêu tả của nhà thơ trở nên đầy khí thế, đoàn thuyền hùng dũng như một đoàn quân ra trận. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng say sưa, bay bổng, với các thủ pháp khoa trương, phóng đại về hình ảnh con người, vũ trụ… đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của đoạn thơ cũng như bài thơ này.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 2
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Khí thế của những người đánh cá giữa biển đêm mới thật kiêu hùng: Thuyền ta lái gió với buồm trăng. Trí tưởng tượng của tác giả thật đẹp, sự liên tưởng bay bổng đã bao trùm lên những đoàn thuyền đánh cá bằng những hình ảnh đẹp, đầy cảm xúc. Con thuyền lái gió đi giữa biển trời, cánh buồm làm bạn với gió trăng. Những hình ảnh liên tưởng hùng vĩ mà nên thơ. Con người ở giữa thiên nhiên, làm bạn với thiên nhiên.
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Người lao động ra đi với quyết tâm chinh phục thiên nhiên và tô đắp cho thiên nhiên ngày càng tươi đẹp. Câu thơ với biện pháp nhân hóa đã biến con thuyền biết “đậu” “dò” biển cả. Bởi người trên thuyền luôn tìm kiếm tài nguyên của biển phục vụ cho đời sống.
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá có kỹ thuật đan như một thế trận, để thu bắt những gì biển đã hào phóng trao tặng cho ta. Đoạn thơ miêu tả không gian và thời gian mở đầu của một cuộc đánh cá đã tạo nên cho cả bài thơ một cái nền vừa đẹp, vừa hùng vĩ, vừa nên thơ. Đoạn thơ bao trùm bởi bút pháp liên tưởng lãng mạn nhưng giàu chất thơ và cảm xúc. Đọc thơ ta có tâm trạng hào hứng của con người ra khơi, tâm trạng xúc động và tự hào trước thiên nhiên mà ta cố tâm chinh phục với mục đích làm giàu thêm cho quê hương đất nước.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 3
Với bút pháp lãng mạn khoa trương hình ảnh con người lớn lao kì vĩ hiện lên trong cảnh đánh bắt cá trên biển.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Sau khi giới thiệu đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh tráng lệ, kì vĩ, nhà thơ đã đặc tả cảnh đánh cá ngoài khơi. Khổ thơ là một nét vẽ tài hoa về biển trời, sông nước, một khung cảnh biển đêm đẹp sống động, khoáng đạt, rực rỡ sắc màu. Trong đó, con người hiện lên trong tư thế chủ động dạt dào niềm tin, niềm lạc quan yêu đời. Đến khổ thơ này, bút pháp lãng mạn của Huy Cận đã phát huy hết sinh lực để vẽ lên một khung cảnh kì vĩ, phóng khoáng mà con người là tâm điểm của bức tranh ấy.
Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Hai tiếng “thuyền ta” vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Xa rồi những ngày áp bức, bóc lột làm thân nô lệ, làm kiếp ngựa trâu, bị coi như thứ tài sản, bị bóc lột đến kiệt quệ sức.
Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển thu hẹp lại để con người “ra đậu dặm xa”, “dàn đan thế trận” và “dò bụng biển” để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 4
Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, tác giả Huy Cận viết:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Khổ thơ đã thể hiện được hình ảnh của đoàn thuyền khi ra khơi đánh cá. Cách viết “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” đã gợi cho em sự phiêu du, lãng mạn, tinh thần lao động, lạc quan, hòa mình với thiên nhiên của những ngư dân. Ở họ, em thấy được tinh thần lạc quan tuyệt đối, lãng mạn phiêu du, có vầng trăng và gió biển bầu bạn trên hành trình đánh cá của mình. Tất cả như tạo nên một hành trình hòa mình với thiên nhiên của những ngư dân.
Hình ảnh thơ “Lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy khí thế sục sôi, hào hứng của những ngư dân đánh cá, đồng thời em cũng thấy được hình ảnh con thuyền lướt phăng phăng trên đại dương rộng lớn để đem về những mẻ cá nặng trĩu tay của những ngư dân. Hai câu thơ cuối:
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Đó là những câu thơ sử dụng bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa. Chiếc thuyền của những ngư dân phải đi rất xa để dò những vùng biển nhiều cá. Chao ôi, họ còn như những chiến binh dàn đan thế trận để tung lưới bắt cá! Từ đó, em cảm tưởng đây không phải là một cuộc đánh cá đơn thuần mà nó là một trận chiến thực sự hào hứng và tràn ngập hứng khởi của những ngư dân. Tóm lại, nhà thơ đã diễn tả được sự hào hứng và hình ảnh ra khơi lãng mạn, tràn đầy hứng khởi của những ngư dân.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 5
Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá khổ thơ thứ ba là để lại ấn tượng sâu sắc nhất với người đọc:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Những ngư dân được miêu tả như những chiến binh, tràn đầy nhiệt huyết, quyết tâm đi đến những vùng biển xa xôi để dò bụng biển và tung lưới bắt cá. Sự hào hứng, đam mê trong công việc được phác họa rõ nét trong từng nét vẽ của bút pháp lãng mạn của nhà thơ. Với mỗi cú đánh lưới, mỗi mẻ cá đem về, những ngư dân lại càng thêm tự hào, cảm thấy mình là những người có ích cho xã hội.
Hình ảnh con thuyền lướt trên đại dương rộng lớn, đánh bắt những mẻ cá nặng trĩu tay của những ngư dân, được miêu tả đầy sắc nét và sống động. Cảnh đêm trên biển với mặt trăng soi rọi, gió nhẹ thổi qua và làn nước biển chuyển động mềm mại, tạo nên một không gian rộng lớn, thơ mộng và lãng mạn.
Tuy nhiên, đằng sau những khung cảnh tuyệt đẹp ấy, đó là sự đau khổ, vất vả, hy sinh của những ngư dân khi phải đánh bắt cá trên biển. Họ phải đối mặt với những rủi ro không lường trước, với thời tiết thất thường, với những cơn sóng lớn, gió to, với nguy cơ mất mạng. Nhưng đó chính là lẽ sống của những ngư dân, những người luôn vượt qua khó khăn để kiếm sống cho gia đình và đất nước.
Tóm lại, bút pháp lãng mạn của Huy Cận đã mang đến cho người đọc một bức tranh về sự đẹp và kì vĩ của biển cả và con người trên đó. Những hình ảnh và từng câu thơ trong bài thơ “Lướt giữa mây cao với biển bằng” đã diễn tả rõ nét sự hào hứng, sức sống, tình yêu đời của những ngư dân trong công việc đánh bắt cá trên biển, đồng thời cũng gợi lên sự đau khổ, hy sinh của họ.
Những tiếng “thuyền ta” vang lên tự hào, kiêu hãnh của những người trên thuyền đã mang đến cho họ niềm tin, hy vọng mới. Đã xa rồi những ngày khốn khó, áp bức, khi con người bị bóc lột, coi như thứ tài sản, bị đối xử như nô lệ. Những ngày ấy, cuộc sống của họ là cuộc sống kiếp ngựa trâu, phải làm việc vất vả để sống qua ngày. Nhưng bây giờ, họ đang lái thuyền trên biển rộng, tự do và tự hào về bản thân mình.
Nhà thơ Huy Cận đã mô tả một cảnh tượng trên thuyền đánh cá đầy tuyệt vời, một cảnh tượng mà con người được thể hiện với tư thế chủ động, sức mạnh đầy tự tin. Con thuyền nhỏ bé đã trở nên kỳ vĩ và khổng lồ, không kém gì tầm vóc của vũ trụ bao la. Những người đánh cá đã tạo ra sức mạnh từ những yếu tố tự nhiên như gió, trăng và sức hút của biển. Họ đang lướt đi trên biển đêm, như bay lên trên một tinh thể sáng, tràn đầy hy vọng và niềm tin.
Hình ảnh con người trên thuyền được miêu tả rất đẹp, họ hiện lên trong tư thế làm chủ, đầy tự tin và quyết tâm. Không chỉ là những người đánh cá đơn thuần, mà họ đã trở thành những chiến binh, những người lính của biển. Từ đó, chúng ta có thể thấy được sức mạnh và tinh thần kiên cường của những người sống trong môi trường khắc nghiệt nhưng vẫn sống sót và phát triển.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 6
Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận, ông đã tuyệt vời tái hiện hình ảnh của đoàn thuyền khi ra khơi đánh cá, đặc biệt ấn tượng với đọc giả là qua khổ thơ thứ ba của bài thơ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Từ cách viết “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”, đến hình ảnh “Lướt giữa mây cao với biển bằng”, cảm nhận của người đọc được đưa vào một cuộc phiêu lưu hùng tráng và lãng mạn trong khi đối đầu với những thử thách của biển cả.
Từ những cơn gió thổi mạnh và những đợt sóng lớn, đoàn thuyền vẫn bất khuất ra khơi, dành cho mình một cuộc phiêu lưu đầy thử thách và cảm xúc. Những ngư dân không chỉ phải đối mặt với sự khắc nghiệt của thời tiết mà còn phải vượt qua các khó khăn để đánh bắt cá. Họ phải đi xa đến những vùng biển khác nhau để tìm kiếm những con cá lớn và giá trị.
Cảm giác tuyệt vời khi cuối cùng đoàn thuyền cũng đỗ bến, đầy ắp những tài sản của biển cả. Sự vất vả của ngư dân đã được đền đáp bằng những thành công đáng kinh ngạc và đó cũng là lúc mọi người nhận ra tinh thần lao động, sự kiên trì và lạc quan của những người đàn ông trên đó.
Cuộc sống của ngư dân vốn dĩ khắc nghiệt và thử thách, nhưng họ luôn tỏ ra mạnh mẽ và kiên cường trong công việc của mình. Mỗi lần ra khơi bắt cá đều là một cuộc hành trình hòa mình với thiên nhiên và tạo ra một tình yêu lớn đối với biển cả.
Câu thơ “Lướt giữa mây cao với biển bằng” vô cùng sâu sắc và tượng trưng cho sự táo bạo, khí thế sục sôi của những ngư dân khi đưa thuyền ra khơi. Điều này càng được thể hiện rõ qua hình ảnh con thuyền lướt phăng phăng trên đại dương rộng lớn để đem về những mẻ cá nặng trĩu tay của những ngư dân.
Những câu thơ cuối “Ra đậu dặm xa dò bụng biển/Dàn đan thế trận lưới vây giăng” còn tạo ra hình ảnh những ngư dân như những chiến binh đang dàn đan thế trận, hùng hồn tung lưới bắt cá. Đó không phải chỉ là một cuộc đánh cá đơn thuần, mà nó là một trận chiến thực sự hào hứng và tràn ngập hứng khởi của những ngư dân.
Những hình ảnh này khiến cho độc giả có thể cảm nhận được sự quyết tâm và lòng đam mê của những ngư dân, đồng thời cũng thấy được sự khó khăn, gian khổ của công việc đánh cá trên biển. Tóm lại, nhà thơ đã diễn tả được sự hào hứng và hình ảnh ra khơi lãng mạn, tràn đầy hứng khởi của những ngư dân.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 7
Nhiều góc độ của vẻ đẹp con người được miêu tả trong khung cảnh đánh cá giữa biển đêm, với sự khắc họa tuyệt vời trong khổ thơ thứ 3 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Sức mạnh và lòng nhiệt huyết của con người được thể hiện qua không khí lao động của hoạt động đánh bắt cá, với sự khẩn trương và nhiệt tình:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Vẻ đẹp của con người cũng được miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau, với tư thế rộng lớn, tầm vóc cao lớn, thậm chí còn sánh ngang với vũ trụ.
Khí thế của những người đánh cá giữa biển đêm thật tuyệt vời: thuyền lái gió với buồm trăng. Tác giả đã mô tả một cách tuyệt vời, với sự tưởng tượng phong phú, đầy cảm xúc, bao phủ lên các thuyền đánh cá với những hình ảnh đẹp đến ngỡ ngàng. Trên con thuyền, với cánh buồm đón gió trăng, những liên tưởng hùng vĩ mà nên thơ đã được tạo ra. Đó là con người sống trong sự hoà hợp với thiên nhiên, được tô đẹp cho thiên nhiên càng trở nên rực rỡ hơn. Câu thơ dùng nhân hóa đã biến con thuyền trở thành một người, đến nỗi nó có thể đậu và dò biển. Vì người đánh cá trên con thuyền luôn tìm kiếm tài nguyên của biển để phục vụ cho cuộc sống của họ.
Những người lái đò đánh cá quyết tâm chinh phục thiên nhiên và tận dụng tài nguyên biển để tô điểm cho vẻ đẹp của nó. Trong đó, hình ảnh của đoàn thuyền đánh cá được miêu tả như một thế trận kỹ thuật đan để thu hoạch những gì mà biển rộng lớn đã cho ta. Cảnh đánh cá trong bài thơ tạo nên một nền tảng đẹp, hùng vĩ và nên thơ, bao trùm bởi bút pháp liên tưởng lãng mạn và giàu cảm xúc. Đọc đoạn thơ, ta được truyền cảm hứng của những người lao động ra khơi, cảm giác xúc động và tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên mà chúng ta cố gắng chinh phục để làm giàu cho đất nước.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 8
Nếu trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận mang một hồn thơ của cái tôi ảo não sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thanh) thì sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng – chung, biểu hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc đời mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác vào năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã được giải phóng và đang từng bước xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới trong không khí hào hứng, phấn khởi.
Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, trù phú, thơ mộng thì bài thơ còn khắc họa thành công hình ảnh người ngư dân lao động đánh bắt cá chứa chan sức sống, khỏe khoắn, tươi vui tràn đầy tinh thần hăng say trong công việc. Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng hình ảnh bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung của toàn bài: khỏe khoắn, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ.
Trong khổ thơ thứ 3, với tài năng quan sát miêu tả tinh tế, hòa cùng với cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt, Huy Cận đã phóng bút tái hiện vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phấn khởi của con người lao động thật hào hùng, mạnh mẽ và đầy chất thơ, chất họa:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Dưới sự hình dung và tưởng tượng bay bổng, hình ảnh con thuyền đánh cá hiện lên thật đẹp, thật độc đáo, mang tầm vóc vũ trụ: người lái thì là gió trời; cánh buồm thì là vầng trăng và con thuyền đang bay giữa không trung (lướt giữa mây cao), như có thể chạm vào mây trời. Nó khác hẳn với con thuyền cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không cùng trời đất mênh mang trong bài thơ “Tràng Giang” trước cách mạng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Còn ở đây, con thuyền không hề nhỏ bé, đơn độc mà lại rất lớn lao, như vươn tới sao trời trước biển rộng bao la. Bức tranh không gian của biển cả được mở rộng ra ba chiều: chiều cao của mây, chiều sâu của bụng biển và chiều rộng của biển khơi có tác dụng tôn thêm tầm vóc lớn lao của con thuyền và con người lao động.
Các động từ được sử dụng dày đặc: “lái – lướt – đậu – dò – dàn đan – vây giăng” có tác dụng diễn tả hành động đánh cá rất nhanh, rất khẩn trương của những đoàn thuyền đánh cá trên biển. Hình ảnh: “dàn đan thế trận” là một hình ảnh ẩn dụ cho hành động đánh cá của ngư dân. Đánh cá nhưng cũng cần phải bày binh bố trận, có chiến thuật, chiến lược thì mới có thể bắt được nhiều tôm cá.
Chính vì thế, họ đã đưa con thuyền tiến ra tận khơi xa, dò bụng biển để tìm được nguồn cá lớn. Và nhưng con thuyền hiện lên như là những con tuấn mã, băng băng lướt qua sóng đèo, chinh phục tự nhiên. Và ngư dân thì làm việc với tinh thần dũng cảm, hăng say và trí tuệ nghề nghiệp với một tâm hồn phơi phới của người làm chủ thiên nhiên, vũ trụ.
Nét nghệ thuật đặc sắc và nổi bật của “Đoàn thuyền đánh cá” là hình ảnh thơ. Cả bài thơ được dệt bằng nhiều hình ảnh đẹp, đa dạng, rộng lớn và tinh tế với nhiều màu sắc. Khổ thơ thứ 3 có những hình ảnh đặc sắc, mới mẻ. Nhà thơ đã sáng tạo hình ảnh từ sự quan sát, cảm nhận chính xác về sự vật kết hợp với sự liên tưởng và trí tưởng tượng mạnh bạo cùng với cảm hứng lãng mạn bay bổng.
Phương thức nghệ thuật chủ yếu và phổ biến để xây dựng hình ảnh trong khổ thơ này là so sánh và ẩn dụ, tượng trưng, thêm vào đó là lối phóng đại, khoa trương đã đạt được hiệu quả thẩm mĩ và tạo được dấu ấn riêng cho thi phẩm. Bên cạnh đó thì các yếu tố như lời thơ, nhịp điệu, vần… cũng tạo nên âm hưởng giọng điệu khỏe khoắn, tơi vui, mạnh mẽ… góp phần làm nên một bức tranh lao động thật đẹp, thật sống động.
Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn bay bổng, nhà thơ đã phác họa thành công hình ảnh người lao động với niềm vui phấn khởi của họ trong cuộc sống mới. Bài thơ có thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động tuyệt vời, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm đầu lịch sử.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 9
Huy Cận là một trong những tên tuổi nổi tiếng của phong trào Thơ Mới, trước cách mạng ông được mệnh danh là nhà thơ của vạn lý sầu. Sau cách mạng, với sự giác ngộ lý tưởng của Đảng, Huy Cận đã tìm thấy ánh sáng cho mình, bởi vậy, những vần thơ thời kì sau tràn ngập niềm tin vào con người mới, cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ tài hoa, cho những biến chuyển sau cách mạng của ông.
Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng biển Quảng Ninh. Tác phẩm được in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng. Bài thơ vẽ lên không khí lao động nhộn nhịp khẩn trương của những ngư dân. Nổi bật trong tác phẩm là khổ thơ thứ 3 với bút pháp lãng mạn khoa trương hình ảnh con người lớn lao kì vĩ hiện lên trong cảnh đánh bắt cá trên biển:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Sau khi giới thiệu đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh tráng lệ, kì vĩ, nhà thơ đã đặc tả cảnh đánh cá ngoài khơi. Khổ thơ là một nét vẽ tài hoa về biển trời, sông nước, một khung cảnh biển đêm đẹp sống động, khoáng đạt, rực rỡ sắc màu. Trong đó, con người hiện lên trong tư thế chủ động dạt dào niềm tin, niềm lạc quan yêu đời. Đến khổ thơ này, bút pháp lãng mạn của Huy Cận đã phát huy hết sinh lực để vẽ lên một khung cảnh kì vĩ, phóng khoáng mà con người là tâm điểm của bức tranh ấy.
Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Hai tiếng “thuyền ta” vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển thu hẹp lại để con người “ra đậu dặm xa”, “dàn đan thế trận” và “dò bụng biển” để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.
Như vậy, bằng ngòi bút đầy tài hoa của mình, trong khổ thơ thứ 3 của “Đoàn thuyền đánh cá” tác giả đã phác họa cho chúng ta một chuyến ra khơi đầy thắng lợi với những hình ảnh thật sinh động và đẹp đẽ. Đồng thời qua đây cũng thế hiện niềm tin của nhà thơ vào một tương lai tươi sáng của đất nước trong thời kì dựng xây xã hội chủ nghĩa.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 10
Năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cận trong một dịp đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh đã sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Với âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi phới bay bổng, bài thơ đã ca ngợi sự giàu đẹp của vùng biển quê hương và tinh thần lao động hăng say, phấn khởi của người lao động được giải phóng hăng hái làm việc cho đất nước.
Mở đầu khổ thứ ba là hình ảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trời cao biển rộng có cái lân lân, sảng khoái lạ thường:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Lời thơ vẽ ra một bức tranh lông lộng trời mây, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi một sức tưởng tượng kỳ lạ, giàu chất lãng mạn: thuyền lái gió, trăng là cánh buồm. Cách nói như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời, biển, gió, trăng.
Từ “lướt” đặc tất cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Tư thế ra khơi nhẹ nhàng, thoải mái, đầy khí thế đó chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ, được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời, sông biển của mình. Nhưng lao động không phải là một cuộc du ngoạn. Hai câu thơ tiếp khắc họa hình ảnh một trận đánh, một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng tất cả trí tuệ và năng lực nghề nghiệp. Nhịp thơ càng hối hả lôi cuốn.
Bên cạnh cái ung dung, sảng khoái của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được nỗi vất vả của người lao động. Họ phải vượt bao dặm biển trong trời đêm, rồi phải “dò bụng biển”, tìm ra bãi cả, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Lúc này, mỗi thủy thủ là một chiến sĩ, một chiến sĩ trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ khí của họ. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề chài lưới này và lòng thông cảm với người lao động mới vẽ được bức tranh vừa hiện thực, sinh động mà lãng mạn ấy.
Đoàn thuyền đánh cá thể hiện nguồn cảm hứng lãng mạn ngợi ca biển cả lớn lao, giàu đẹp, ngợi ca nhiệt tình lao động vì đất nước giàu đẹp của những người lao động mới. Khổ thơ thứ 3 đã khắc hoạ thành công hình ảnh đẹp đẽ, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và người lao động, đồng thời bộc lộ niềm tự hào của tác giả trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống con người.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 11
Năm 1958, sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Huy Cận đã có một chuyến đi thực tế tại Hòn Gai. Trong chuyến đi ấy, ông đã được chứng kiến tinh thần lao động, sự hăng say và niềm vui phấn khởi con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là niềm cảm hứng để ông viết lên tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận được kết hợp bởi hai nguồn cảm hứng là cảm hứng lãng mạn và cảm hứng vũ trụ. Bởi bài thơ được viết khi miền Bắc bước vào thời kì xây dựng mới với niềm vui, niềm hào hứng của những người lao động được làm chủ cuộc đời của mình. Và tại biển Hòn Gai, những người ngư dân ở đây đã hòa mình trong niềm vui ấy, hăng say ra khơi. Đó là lý do người ta gọi Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca của người lao động trên biển.
Ở khổ thơ thứ 3, nhà thơ đã khắc hoạ khung cảnh mà đoàn thuyền bắt đầu công việc đánh cá của mình. Giữa một không gian bao la của biển, trời, trăng, sao, vốn con thuyền hiện lên sẽ thật nhỏ bé nhưng ở đây, nó lại được thổi bùng thành một con thuyền to lớn mà hoà nhập với thiên nhiên, vũ trụ:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã vẻ lên một hình ảnh đẹp kỳ vĩ. Con thuyền của người ngư dân giờ đây được gió cầm lái, ánh trăng trở thành cánh buồm, con thuyền như được bay cao, chạm tới tận trời cao, vũ trụ thênh thang. Và những người ngư dân, họ là những người anh hùng của biển cả. Giữa biển cả to lớn ấy, họ trở thành chủ nhân, “ra” tận “dặm xa” để thăm dò luồng cá rồi “dàn đan thế trận” mà đánh bắt cho đầy khoang.
Nhịp thơ bảy chữ với tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập giọng điệu sôi nổi, say mê đã khiến bài thơ như một khúc ca vang vọng trong lòng mỗi chúng ta. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ 3 Huy Cận còn dùng nhiều hình ảnh liên tưởng phong phú để thể hiện niềm vui tươi, yêu đời, lạc quan đồng thời thể tình yêu cuộc sống và niềm vui được làm chủ cuộc đời mình.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn ngân mãi trong lòng chúng ta. Bởi trong đó chứa đựng chiến tích của những người ngư dân biển, của những con người dám đối mặt với thiên nhiên để tạo nên những kỳ tích tuyệt vời. Có thể khẳng định rằng Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca của người lao động trên biển.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 12
Huy Cận là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước Cánh mạng tháng Tám, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của con người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng lớn. Nhưng kể từ sau Cánh mạng tháng Tám, đất nước hồi sinh, hồn thơ Huy Cận như sống lại và có nhiều chuyển biến. Thơ ông không còn ưu sầu, ảo não nữa mà chan chứa niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc sống, vào những con người mới.
Năm 1958, sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và chứng kiến không khí lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi của nhân dân ta trong những ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhờ thơ vui cùng mừng vui, xúc động. Từ đó ông sáng tác nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản hùng ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên đất nước con người bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp.
Khổ thơ thứ 3 đã khắc hoạ cảnh đoàn thuyền đánh bắt cá trong đêm bằng những nét vẽ hùng tráng mang tầm vóc vũ trụ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
“Lái gió”, “buồm trăng” là những cách nói vô cùng sáng tạo, mới lạ độc đáo đem đến cho câu thơ những hình ảnh vừa lãng mạn, bay bổng vừa nên thơ, kì vĩ, tráng lệ. Đọc câu thơ người ta cảm nhận người, thuyền, thiên nhiên như hoà hợp làm một. Con thuyền ra khơi, lướt đi giữa lớp mây cao, biển bằng thật hùng dũng hiên ngang nó ra khơi không phải chỉ với khí thế hăm hở do người cầm lái mà còn được thiên nhiên nâng đỡ chở che.
Ở đây gió trở thành bánh lái của con thuyền. Chính con thuyền có thể lái cả gió điều khiển nó theo ý muốn của mình. Cánh buồm tuy nhỏ bẻ nhưng có thể mang theo cả vầng trăng trên cao trong suốt cả một hành trình dài. Ánh trăng lung linh bang bạc chiếu sáng cả không gian làm cho cảnh vật trở nên nên thơ, huyền ảo.
Ở đây ta nhận ra con thuyền tuy ra khơi giữa không gian biển cả bao la rộng lớn mà không hề nhỏ bé. Nó “lướt” đi vun vút như một con tuấn mã băng băng tiến về phía trước mà không hề sợ hãi. Xung quanh nó là gió trăng làm bầu bạn. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng dũng biết bao.
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn. “Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm”. Nhưng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá màu sắc buồn bã bi quan đó không còn mà thay vào đó là một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, tràn đầy niềm tin tưởng vào tương lai sức mạnh của con người, quê hương đất nước đang trên đà thay da đổi thịt, tất cả đều toát lên một cái gì đó tràn đầy sức sống, mạnh mẽ hiên ngang, con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình.
Trong khổ thơ thứ 3, người đọc ấn tượng với những hình ảnh thơ sang tạo, độc đáo mới lạ, câu thơ giàu chất tạo hình, khơi gợi nhiều cảm xúc rụng động thẩm mĩ nơi người đọc. Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới.
Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động trong đôi mắt tràn ngập niềm hứng khởi của người thi sĩ Huy Cận.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 13
Nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, Huy Cận đến với nền thơ với lời thơ thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình. Nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ “ảo não”, bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời.
Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ông tìm được nguồn sống từ cuộc sống mới của dân tộc và say mê sáng tạo. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm nổi bậc của ông trong giai đoạn này.
Đoàn thuyền đánh cá được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành. Đất nước đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ.
Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết. Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân, lên miền núi, đến với nhà máy, nông trường… Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Xuyên suốt bài thơ là bút pháp sáng tác lãng mạn, bay bổng, cảm xúc vũ trụ độc đáo tuôn trào. Thi phẩm đã để lại cho người đọc nhiều bất ngờ thú vị, những ấn tượng sâu sắc. Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương. Khổ thơ thứ ba là cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Con thuyền lướt trên mặt biển chừng như không phải bằng sức người. Gió đã lái con thuyền đi. Gió là thủy thủ hỗ trợ cho thuyền. Còn có cả ánh trăng trên trời cao căng trên cánh buồm. Nếu nhìn từ xa, con thuyền như đang bay trong một bầu không vĩ đại với gió, với trăng chẳng khác nào con thuyền trong huyền thoại. Con thuyền mạnh mẽ cứ thế lao đi như không hề có một trở ngại nào.
Huy Cận đã thi vị con thuyền đánh cá, nâng con thuyền lên một tầm vóc lớn lao, vĩ đại, sánh ngang vũ trụ. Cảm xúc vũ trụ đã nâng cao hồn thơ Huy Cận, khiến câu thơ cất cánh. Tầm vóc người lao động cũng được nâng lên tột bậc trong tư thế chủ động. Họ sẵn sàng làm chủ thiên nhiên, làm chủ công việc, làm chủ sự sống. Họ hiên ngang “dò bụng biển”; họ nhanh chóng “dàn đan thế trận” đưa luồng cá vào vòng vây khép kín.
Ý thơ đã nâng tâm hồn chúng ta với niềm cảm xúc lâng lâng sảng khoái. Hình ảnh thơ tạo nên sự liên tưởng đọc đáo. Đoàn thuyền đánh cá là gạch nối để liên kết giữa trời và biển, cùng hòa chung giai điệu lao động của con người. Lãng mạn nhưng không xa rời thực tế. Câu thơ miêu tả rất chân thực hoạt động đánh bắt cá của ngư dân vừa điêu luyện vừa hết sức tài tình. Cách miêu tả của Huy Cận như tập trung vào công việc lao động đánh bắt cá vì nhiều vất vả, nhọc nhằn.
Đồng thời, Huy Cận cũng đã ví những ngư dân hôm nay như những người chiến sĩ, những nhà thám hiểm đại dương vĩ đại. Họ đang chiến đấu cùng biển cả, khám phá và chinh phục thiên nhiên dữ dội. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.
Thành công của bài thơ là ở việc Huy Cận xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan của người lao động. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
“Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”
(Tố Hữu)
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 14
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.
Trong khổ thơ thứ 3, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả một cách sinh đồng đầy ấn tượng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Toàn bộ khổ thơ giống như một bức tranh lộng lẫy. Các hình ảnh: gió, trăng, mây vẽ nên bức tranh ấy bằng một thứ ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng như đóng góp một phần vào công cuộc lao động của người ngư dân. Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn – tầm vóc vũ trụ.
Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” – mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.
Với ngòi bút tràn đầy cảm hứng vũ trụ, vận dụng những hình ảnh thơ phong phú. Giọng điệu vui vẻ, hào sảng thể hiện niềm vui, niềm hăng say lao động. Sử dụng linh hoạt biện pháp so sánh, nhân hóa, liệt kê,… khiến cho bức tranh biển khơi trở nên giàu có và đẹp đẽ hơn bao giờ hết.
Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc khổ thơ thứ 3 của tác phẩm, chúng ta có thể cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. Bài thơ đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới. Qua đó tác giả khẳng định sự hồi sinh của thiên nhiên, đất nước và con người sau chiến tranh, họ đứng lên xây dựng cuộc sống mới, ấm no, hạnh phúc.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 15
Ra đời vào năm 1958, là kết quả chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ của Huy Cận sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, giàu có mà qua đó còn khắc họa thành công hình ảnh những người lao động mới – những con người dân chài lưới với vẻ tinh thần lao động hào hứng, luôn chan chứa sức sống và tinh thần khỏe khoắn.
Hình ảnh những con người lao động mới trong bài thơ được khắc họa trên nền thiên nhiên rộng lớn, bao la và trước hết, họ là những người có tâm hồn phóng khoáng, yêu lao động và luôn có niềm hi vọng, ước mong đánh bắt được nhiều hải sản. Khổ thơ 2 và 3 để lại ấn tượng với người đọc bởi khung cảnh đoàn thuyền ra khơi được khắc hoạ sinh động.
Trong tâm trạng hứng khởi khi ra khơi, những người dân chài đã cất lên tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển ca và gửi gắm niềm ước mong của mình.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi.
Với thủ pháp liệt kê cùng biện pháp so sánh, tác giả đã ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển ca. Nhưng hơn hết, qua hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” như đã gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh những người lao động đang làm việc, lao động hăng say không kể ngày đêm giữa biển cả.
Đồng thời, câu hát “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” không chỉ như một lời mời gọi những loài cá mà hơn thế nữa, nó còn cho thấy ước muốn đánh bắt được thật nhiều những loài hải sản và những điều đó xét đến cùng là khao khát, là hi vọng được khám phá, chinh phục tự nhiên của những người lao động nơi đây.
Thêm vào đó, hình ảnh con người lao động mới còn hiện lên là những người với niềm vui sướng phơi phới, sự hăng hái, làm chủ thiên nhiên, quê hương, đất nước.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Trên cái nền thiên nhiên bao la, rộng lớn, chiều cao của gió của trăng, chiều rộng cả mặt biển và chiều sâu của lòng biển hình ảnh đoàn thuyền đánh cá dần hiện lên. Với lối nói khoa trương, phóng đại, những hình ảnh “lái gió với buồm căng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi nên hình ảnh con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập vào thiên nhiên bao la, rộng lớn của biển cả, của vũ trụ.
Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt các động từ “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn” cho thấy đoàn thuyền đang làm chủ biển trời, làm chủ thiên nhiên. Như vậy, khổ thơ với việc sử dụng những hình ảnh kì vĩ, lớn lao đã cây dựng thành công hình ảnh của đoàn thuyền, của những con người nơi đây đang làm chủ thiên nhiên, vũ trụ bao la, rộng lớn.
Đồng thời, những người lao động trong bài thơ còn là những con người với lòng biết ơn sâu sắc trước những ân tình của thiên nhiên, của quê hương và là những con người lớn lao, phi thường. Sự trù phú, giàu có của biển cả được tác giả tái hiện thông qua việc liệt kê, miêu tả những loài cá vừa ngon vừa quý hiếm của biển cả.
Tóm lại, với ngòi bút tài hoa, bay bổng cùng cảm hứng về vũ trụ, khổ thơ thứ 2 và 3 bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã xây dựng thành công hình tượng người lao động mới với những vẻ đẹp đáng trân quý, với tầm vóc lớn lao trên cái nền thiên nhiên bao la, rộng lớn.
Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 16
Đó là một khung cảnh đánh cá giữa biển đêm và được khắc họa bằng nhiều vẻ đẹp. Đó là vẻ đẹp của con người được miêu tả ở nhiều góc độ: khỏe khoắn, đầy hứng khởi được thể hiện qua không khí lao động – hoạt động đánh bắt cá – khẩn trương sôi nổi:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Một tư thế, tầm vóc lớn lao, thậm chí sánh ngang cùng vũ trụ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Không chỉ vậy đó còn là vẻ đẹp của thiên nhiên. Một không gian bao la, rộng mở, vừa kỳ vĩ vừa nên thơ với biển, trăng, sao, mây, gió. Việc ra khơi qua ngòi bút miêu tả của nhà thơ trở nên đầy khí thế, đoàn thuyền hùng dũng như một đoàn quân ra trận. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng say sưa, bay bổng, với các thủ pháp khoa trương, phóng đại về hình ảnh con người, vũ trụ… đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của đoạn thơ cũng như bài thơ này.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá (16 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Cảm nhận khổ 3, 4 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (4 mẫu)
- Cảm nhận của em về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá (7 mẫu)
- Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
- Phân tích 3 khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (14 mẫu)
- Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá (20 mẫu)
- Phân tích khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (11 mẫu)
- Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (22 mẫu)
- Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)