Học TậpLớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (20 mẫu)

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 20 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Mục lục

Dàn ý Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết

I. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (20 mẫu)

  • Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
  • Nêu vấn đề cần cảm nhận tâm trạng: tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích

II. Thân bài

1. Cảm nhận tâm trạng nhân vật Thúy Kiều

– Tâm trạng Kiều trong 6 câu thơ đầu

  • Hoàn cảnh Thúy Kiều: bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, trơ trọi giữa không gian vắng lặng, hoang vu, lạnh lẽo (khóa xuân, xa gần, cồn nọ, dặm kia…)
  • Thời gian tuần hoàn, khép kín sớm khuya vây hãm lấy con người

– Hình ảnh Kiều đơn độc, trơ trọi giữa nơi mênh mông non nước, không một người bầu bạn

Cát vàng, bụi hồng vừa là cảnh thật, vừa là cảnh ước lệ gợi sự mênh mông choáng ngợp của không gian, tâm trạng cô đơn, bẽ bàng của Kiều

– Tâm trạng nhớ thương người yêu và gia đình (8 câu thơ tiếp)

  • Kiều nhớ Kim Trọng – mối tình đầu trong đêm trăng thề nguyền, giờ phải chia xa, li biệt
  • Trình tự nỗi nhớ có vẻ như không hợp lý nhưng thực chất rất hợp lý, Kiều đã bán mình cứu cha mẹ và em nhưng không thể đền đáp mối chân tình của Kim vì vậy nàng khôn nguôi day dứt
  • Kiều nhớ lại đêm trăng thề nguyền rồi lại tự xót xa vì “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Tấm son ấy là tấm lòng Kiều son sắc đã bị hoen ố, vùi dập khiến nàng đau đớn tới tâm can

– Nỗi nhớ cha mẹ: thương cha mẹ già yếu không ai chăm sóc ( dẫn điển tích “ sân Lai, gốc tử, quạt nồng ấp lạnh)

– Nỗi nhớ của Kiều thể hiện nhân cách đáng trọng của nàng, Hoàn cảnh của nàng thật đau đớn. Nàng quên đi nỗi khổ của mình để thương nhớ, lo lắng cho người thân. Nàng là người chung thủy, hiếu thảo, có tấm lòng đáng trọng

2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu thơ cuối

  • Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là hình ảnh rất đắt thể hiện tâm trạng Kiều, hình ảnh đó giống như cuộc đời Kiều lênh đênh, lận đận giữa dòng đời không biết ngày đoàn tụ cùng gia đình
  • Những cánh hoa lụi tàn trôi trên mặt nước cũng giống thân phận hoa tàn của nàng khi vô định, ba chìm bảy nổi, số mệnh đầy bạc bẽo của nàng
  • Màu nội cỏ rầu rầu gợi lên cho Kiều nỗi chán nản, vô vọng, bế tắc vì cuộc sống xung quanh
  • Nỗi buồn dồn dập tăng lên và đỉnh điểm là nàng tưởng tượng sóng gió cuộc đời đang mỗi lúc một dâng để nhấn chìm nàng
  • Điệp từ “buồn trông” kết hợp với những hình ảnh phía sau diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, cộng với các từ láy tượng hình, tượng thanh tạo nhịp điệu dồn dập tăng lên của sự vô vọng trong tâm trạng Kiều
  • Bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa kết hợp với nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật thông qua ngôn ngữ độc thoại, phép kết hợp với câu hỏi tu từ

III. Kết bài

  • Với bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc, đoạn trích thể hiện thành công tâm trạng của Thúy Kiều trong cô đơn, buồn tủi, bế tắc nhưng tấm lòng nhân hậu thương nhớ về người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của Kiều vẫn ngời sáng
  • Đoạn trích thể hiện tài năng miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc và cảm hứng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ.

20 bài mẫu Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 1

Có thể nói, điều khiến chúng ta nhớ đến các nhân vật văn học là những nét phác thảo về ngoại hình những thứ giúp chúng ta hiểu về các nhân vật lại là diễn biến tâm lí, tâm trạng của họ. “Truyện Kiều” luôn hấp dẫn bạn đọc suốt hơn hai thế kỉ đến nay không chỉ bởi nội dung tác phẩm đặc sắc mà còn bởi nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nguyễn Du. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện ngòi bút miêu tả tâm trạng Thúy Kiều của tác giả một cách rất tài tình.

Lầu Ngưng Bích là nơi Tú Bà giam lỏng Thúy Kiều để tạo cơ hội thực hiện một âm mưu khác sau khi nàng có ý định tự tử. Một mình giữa không gian bao la, rộng lớn như vậy, Thúy Kiều cảm thấy cô đơn, buồn tủi:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”.

Kiều rơi vào hoàn cảnh đáng thương đến mức tội nghiệp. “Khóa xuân” là khóa kín tuổi thanh xuân của người phụ nữ. Cuộc đời con người đẹp nhất là quãng thời gian tuổi trẻ vậy mà tuổi trẻ của Kiều lại phải trải qua biết bao biến cố trong quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc. Phải chịu sự giam lỏng của Tú Bà ở lầu Ngưng Bích cũng đồng nghĩa với việc nàng không được sống cuộc sống tự do như bao người con gái khác. Lầu Ngưng Bích như nhà tù khóa kín sự tự do của một con người vô tội là Thúy Kiều. Từ đó ta thấy được cảnh ngộ bất hạnh và xót thương cho số phận của một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Đối mặt với không gian rợn ngợp, nàng thấu hiểu nỗi cô đơn hơn ai hết. Nàng chỉ có “tấm trăng gần” bầu bạn. Cả bốn bề nam – bắc – đông – tây đều bát ngát, xa xăm. Càng hướng tầm nhìn của mình ra xa nàng lại càng cảm thấy vô vọng bởi nơi đây không có chút dấu vết của cuộc sống con người. Thúy Kiều bị cô lập hoàn toàn, xung quanh nàng là những khoảng không gian xa xăm, trống vắng: “non xa”, “tấm trăng gần”, “cát vàng cồn nọ”, “bụi hồng dặm kia”. Kiếm tìm một bóng dáng con người để sẻ chia tâm sự là điều vô cùng khó khăn.

Thực tại đau khổ khiến nàng cảm thấy không còn hi vọng vào tương lai:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.

“Bẽ bàng” là tính từ diễn tả cảm giác hổ thẹn, buồn tủi. Thúy Kiều buồn tủi, xấu hổ vì mắc lừa Mã Giám Sinh để hắn bán vào lầu xanh và nàng hổ thẹn vì bản thân không còn sự trong trắng, không còn xứng đáng với mối duyên tình của chàng Kim Trọng. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” diễn tả sự lặp lại tuần hoàn của thời gian. Một mình ở lầu Ngưng Bích, sáng sớm Kiều làm bạn với mây, tối đến nàng làm bạn với ngọn đèn để vơi đi nỗi cô đơn. Tâm trạng lẻ loi, buồn tủi ấy đã khiến tâm trạng nàng chia thành hai nửa: “nửa tình” – “nửa cảnh”. Cảnh vật hoang vắng càng tô thêm nỗi buồn cho bức tranh tâm trạng của nhân vật. Nguyễn Du thật tinh tế khi nhận ra:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Nỗi cô đơn, trống vắng ngày càng lên tới đỉnh điểm được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm khi Thúy Kiều nhớ về cha mẹ và người yêu:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.

Kiều nhớ về mối tình đầu bằng nỗi xót xa dâng trào. Chén rượu uống cùng Kim Trọng và lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” cùng chàng vẫn còn khắc ghi trong tâm trí và trái tim nàng. Đã đính ước, thề nguyền bên nhau trăm năm vậy mà giờ đây Kiều đang lưu lạc ở một phương trời xa còn Kim Trọng thì chưa biết hoàn cảnh Kiều gặp phải do chàng về quê chịu tang chú. Nàng mường tượng ra cảnh người yêu đang trò chuyện, mong nhớ về mình. Nhớ về Kim Trọng bao nhiêu thì nàng lại hổ thẹn bấy nhiêu. Thúy Kiều thủy chung một lòng với chàng Kim, “tấm son” ấy vẫn mãi nguyên vẹn dù có phải trải qua bao chông gai, trắc trở. Nhưng nàng cũng đau đớn và tự dằn vặt chính mình khi nhận ra “tấm son” mình dành cho Kim Trọng đã bị mất đi sự trinh bạch:

“Tiếc thay một đoá trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương”.

Tấm lòng thủy chung sắt son bị hoen ố như vậy biết đến khi nào nào mới gột rửa sạch? Nỗi đau của nàng liệu rằng chàng Kim có thấu hiểu được?

Là một người con hiếu thảo, Thúy Kiều không thể không nhớ về cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Nàng xót xa khi cha mẹ ngày ngày mong ngóng tin tức của con gái và nàng cũng xót xa cho cảnh ngộ của chính mình. Nàng lo lắng khi cha mẹ về già không có người bên cạnh chăm sóc, phụng dưỡng. Người con hiếu thảo với cha mẹ là người con quạt mát cho cha mẹ khi mùa hè nóng bức và vào chăn nằm trước cho ấm để cha mẹ nằm đỡ bị lạnh khi mùa đông đến. Kiều là chị cả trong gia đình nhưng hiện tại đang bơ vơ bên trời góc bể, không biết khi nào mới có thể trở về đoàn tụ cùng cha mẹ và các em. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” đã diễn tả được sự xa cách về thời gian và không gian địa lí giữa Thúy Kiều và cha mẹ. Đó là một khoảng cách xa xôi, cách trở. Nàng tự vấn rằng không biết khi nào mình mới có thể chăm sóc tuổi già cho đấng sinh thành để làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Nàng đang độc thoại với chính bản thân mình bằng một tâm trạng day dứt, đau đớn. Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí nhân vật một cách rất rõ nét khiến người đọc, người nghe có thể dễ dàng thấu hiểu và đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều.

Bút pháp tả cảnh ngụ tình được tác giả sử dụng một cách triệt để ở tám dòng thơ cuối của đoạn trích không chỉ nhằm tái hiện lại khung cảnh lầu Ngưng Bích mà còn giúp bạn đọc đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại ở đầu bốn cặp lục bát cùng các câu hỏi tu từ đã khiến bạn đọc hình dung được đôi mắt u buồn của Thúy Kiều đang hướng về xa xăm với những nỗi lòng chất chứa không biết giãi bày cùng ai. Nỗi buồn chồng chất nỗi buồn tạo thành một khúc ca vang vọng trong lòng bạn đọc. “Chiều hôm” là khoảng thời gian gợi nỗi buồn, nỗi buồn ấy càng dâng lên đến đỉnh điểm khi Thúy Kiều trông ra cửa bể – một không gian rộng lớn. Phía xa xa ngoài biển khơi thấp thoáng cánh buồm nhỏ, cánh hoa nổi trôi vô định giữa dòng nước không biết đâu là bến bờ khiến nàng liên tưởng đến số phận của mình. Cuộc đời của nàng cũng nổi trôi bất định và chịu sự vùi dập như cánh hoa mỏng manh kia. Dòng nước cuộn xoáy và vũ trụ bao la đối lập với cánh hoa mỏng manh là ẩn dụ cho sự nhỏ bé của Thúy Kiều trước không gian rợn ngợp của lầu Ngưng Bích và trước những dập vùi của số phận. Nàng “trông nội cỏ” nhưng nội cỏ cũng chỉ có một màu héo úa, tàn tạ. “Rầu rầu” không chỉ riêng màu sắc của ngọn cỏ mà còn là tâm trạng của con người. Đó là nỗi buồn thảm, bất lực trước thực tại của Thúy Kiều. Màu “xanh xanh” của “chân mây mặt đất” ở đây không phải màu của sự sống, hi vọng mà nó là màu của sự vô vọng, chán chường. m thanh của tiếng gió, tiếng sóng khiến Kiều sợ hãi trước những biến cố sẽ xảy đến với cuộc đời mình. Sóng vỗ “ầm ầm” đến mức dữ dội ngoài biển khơi cũng giống như tiếng sóng vỗ trong lòng Kiều. Nàng không khỏi lo lắng cho những tai ương đang chuẩn bị ập xuống đôi vai bé nhỏ, yếu ớt của mình. Các từ láy “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” đã góp phần làm nổi bật tâm trạng Thúy Kiều khi đối diện với không gian rộng lớn và nghĩ về thân phận của mình. Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ rất tinh tế kết hợp với các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ nhằm khám phá nội tâm nhân vật Thúy Kiều một cách chi tiết. Bốn bức tranh về cảnh vật là sự tăng tiến trong tâm trạng của Thúy Kiều từ cô đơn, buồn thảm đến tâm trạng sợ hãi, lo lắng. Nguyễn Du quả là người có “con mắt nhìn xuyên sáu cõi” (Mộng Liên Đường chủ nhân) khi miêu tả tâm trạng nhân vật Thúy Kiều một cách điêu luyện đến như vậy.

Có thể nói “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn trích thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lí, tâm trạng nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du. Qua đó, đoạn trích cũng khơi gợi được sự đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều từ các thế hệ bạn đọc. Đó cũng là lí do mà “Truyện Kiều” được dịch sang nhiều thứ tiếng và vẫn vẹn nguyên giá trị đến ngày nay.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 2

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích Truyện Kiều) thể hiện rõ nét tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của thiên tài Nguyễn Du. Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích được nhà thơ lột tả từng lớp, từng lớp, cho người đọc một cái nhìn chi tiết về nỗi đớn đau, dằn vặt của Thúy Kiều trước ngưỡng cửa cuộc đời.

Đoạn trích thuộc phần đầu tác phẩm. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.

Thứ tự miêu tả đi từ hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều đến thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ và kết thúc trong nỗi hoang mang, hãi hùng của tâm trạng. Sự chuyển tiếp tâm trạng của Thúy Kiều khi ở làu Ngưng Bích có thể là quá nhanh nhưng hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nàng, một người con hiếu thảo, sống có trách nhiệm, một thiếu nữ với trái tim rạo rực, đắm say, thủy chung son sắt trong tình yêu.

Lầu Ngưng Bích ở chênh vênh trên một sườn núi. Nơi ấy cảnh quan hùng vĩ, thơ mộng, là địa điểm lí tưởng để tao nhân mặc khách du sơn thưởng ngoạn cảnh đẹp. Đất trời quyến luyến khói sương, non cao vọng về biển cả, thiên nhiên vũ trụ hòa hợp nhất thể khiến cho lòng người được an nhiên, tĩnh lặng. Đáng tiếc thay, ngay lúc này, Thúy Kiều không cần đến điều đó. Nàng đang ở trong nghịch cảnh đầy mâu thuẫn và lo toan, dù cảnh đẹp đến mấy cũng không thể khiến nàng khuây khỏa, nguôi ngoai được. Thế nên, Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích thấm đẫm một nỗi buồn ly tan.

Ngưng Bích nghĩa nơi ngưng đọng lại ánh trời xanh. Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa không được ra khỏi phòng ở). Nguyễn Du sử dụng từ khóa xuân với ngụ ý mỉa mai, nói lên cảnh ngộ trớ trêu của Kiều như tù nhân bị giam lỏng. Nàng trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”:

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Cảnh “non xa”, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người. Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.

Nơi lầu cao, đẹp mà vô tình, Thúy Kiều ngày đêm đối diện với hoàn cảnh của chính mình, chẳng lúc nào nàng thôi nghĩ ngợi:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng”.

Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nguyễn Du đã đi vào chỗ vi diệu. Cảnh làm nền cho tình, tả cảnh để tả tình. Cảnh đẹp và tình cũng rất đẹp. Hai yếu tố vừa song song lại vừa hòa cuộn vào nhau khiến cho bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích rối bời, tê tái.

Tám câu thơ tiếp theo diễn tả tâm trạng thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đó là nỗi nhớ chủ đạo và thường trực nhất trong tâm trí Thúy Kiều lúc này:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”

Mối tình Kim – Kiều là nghìn năm có một. Người quốc sắc, kẻ thiên tài lưu luyến nhau thuở ấy đã trở thành kinh điển, mẫu mực cho tình yêu lứa đôi. Kiều “tưởng” như thấy lại kỉ niệm thiêng liêng đêm thề nguyền đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Cái đêm ấy hình như vừa mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi.

Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thủy chung, không nguôi thương nhớ Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.

Có thể thấy, mối tình Kim – Kiều không gặp phải sự ngăn trở của gia đình. Tuy không lên tiếng ủng hộ nhưng gia đình không gây những trở lực có thẻ khiến cho hai kẻ yêu nhau phải bận tâm. Thế nên, sau nỗi nhớ Kim trọng, Thúy kiều nhớ về cha mẹ và bổn phận làm con của mình:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nàng xót xa khi tưởng tượng cha mẹ khi sáng, lúc chiều tựa cửa mong ngóng tin con. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “Quạt nồng ấp lạnh” phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng còn tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu.

Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa nói lên sức mạnh tàn phá của tự nhiên đối với cảnh vật, con người. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Kiều đã quên mất cảnh ngộ của bản thân, chỉ một lòng nghĩ và hướng về Kim Trọng, về cha mẹ. Tấm lòng ấy khẳng định Kiều là người tình chung thủy, người con hiếu thảo, người luôn nghĩ và sống cho người khác, người có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.

Theo sự miêu tả, Kiều nhớ Kim Trọng trước, sau đó mới nhớ đến song thân. Nhiều hủ nho cho rằng như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, đi ngược lại lễ giáo, thuần phong mĩ tục. Thế nhưng, nhìn kỹ, thật ra lại là rất hợp lí. Kiều đã bán mình cứu cha và em, nghĩa là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên nàng đỡ bứt rứt. Còn với Kim Trọng, vì chữ hiếu mà nàng đã bội bạc lời thề kết tóc se duyên, trăm năm đầu bạc với chàng. Kiều thấy mình như một kẻ phụ tình, phụ tấm lòng người yêu, nên nàng cắn rứt khôn nguôi. Đây là một nét bút đặc sắc, hết sức độc đáo của Nguyễn Du, phù hợp với quy luật và chiều sâu tâm lý con người.

Nhớ đến người rồi nàng lại nghĩ về mình. Phận nàng nhỏ bé, còn không gian thì rộng lớn quá, mênh mông quá. Cảnh vật ở lầu ngưng Bích tuyệt đẹp nhưng dưới cái nhìn của tâm trạng đau thương, buồn nhớ của người thiếu nữ, nó đã trở nên hoang vắng, tiêu điều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng con người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lí do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn ấy mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt.

Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc họa qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông nóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ hút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp từ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.

Mở ra nỗi buồn là cảnh biển mênh mang. Chiều hôm buông xuống. thời gian gợi nghĩ đến sự trở về đoàn tụ. Có cánh buồm xa xa, tín vật của sự gắn kết nhưng sao xa quá là xa:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.

Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh trên mặt biển khi mà những con thuyền khác đều đã cập bến, biết bao giờ mới tìm được bến bờ neo đậu; cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.

Đến bức tranh thứ 2, tầm nhìn tuy có gần lại hơn nhưng vẫn còn rộng quá:

“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Từ “Buồn trông” tiếp tục gợi âm điệu buồn mênh mang, nỗi buồn nhân lên khi nàng nhìn thấy cánh hoa trôi lênh đênh vô định. Từ “trôi” chỉ sự vận động nhưng ở thế bị động, những cánh hoa trôi mặc sóng nước vùi dập như số phận Kiều cũng thế. Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa khi Kiều càng buồn hơn bởi như nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước. Cánh hoa mỏng manh, vô định gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.

Không thể tìm thấy nơi để tâm hồn nương trú, nàng thoái tầm nhìn về với cảnh vườn mong tìm chút ấm áp. Thế nhưng, càng ngóng tìm càng thấy chơi vơi:

“Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.

Nội cỏ “rầu rầu”, “xanh xanh”, hai sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Có còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ. Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều. Kiều tuyệt vọng, mất phương hướng hoàn toàn. Đây vừa là tâm trạng vừa là cảnh ngộ đáng thương của Thúy Kiều

Cuối cùng, ngoại cảnh không còn niềm tin nào nữa, nàng trở về với chính mình trong nỗi hoang mang cùng cực:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rút gào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lần, thanh y hai lượt”.

Đoạn thơ đã khắc họa thành công tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Có thể xem đây là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc họa tâm trạng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có “ma đưa lối, quỷ đem đường”, đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” như chứa đầy lệ. Lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi. buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ mẹ cha, lo sợ cho thân phận, số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 3

Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, đoạn nói về tâm trạng của Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
……….
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cành nhưng thực sự là tả tình.

Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy. Vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lí, thật đúng với tâm trạng Thuý Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nồi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quá thật, trong suốt phần đầu của “Truyện Kiều”, chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kĩ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con. Một người chị, phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”, Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ. Kiều đã gặp ngay một trận “ tam bành” của con mụ bán thịt người ác độc. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn.

Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước khách của mụ Tú), bốn bề là mênh mông vắng lặng. Cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui nàng nghĩ về thân phận của mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía. Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bồi tha thiết mà nay thì vĩnh viễn cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày một già yếu mà không có nàng để hôm sớm đỡ đần chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông, giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn còn từ cảnh một dội vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ lòng buồn. Với hai tiếng’ “buồn trông”. Nguyễn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc quá vậy!

Kiều trông gì?

Đây là bức tranh thứ nhất:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Trông về “cửa bể” mà lại là “cửa bể chiều hôm”. Lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn để lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một mặt bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài một trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tối. Thế mà trên cái nền trống vắng lại nổi lên hình ảnh “thuyền ai”. “Thuyền ai” tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không phải cảnh đoàn thuyền đông đúc tấp nập từ biển trở về để gợi lên một điều vui vẻ. Con thuyền gần như mất hút cuối chân trời, vì Kiều chỉ nhìn thấy cánh buồm của nó, mà cánh buồm thì lại cũng chỉ ‘’thấp thoáng”. “Thấp thoáng”, hai âm “th” gợi một cảm giác kịp lại. Với hai âm “ấp” và “oáng” một âm tấc, một âm vang – diễn tả hình ảnh cánh buồm mờ mờ tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ hồ, như ảo ảnh ở cuối biển xa xa. “Thuyền ai …” thuyền ai đó, thuyền ai thế nhỉ? Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông vào cảnh ấy, sao có thể không thấm thía nỗi buồn hơn.

Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây:

“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mới từ lòng suối chảy trôi khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuồn xoáy, sôi trào, xô dập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao sa xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: hoa trôi man mác … Giá nhà thơ viết ”tan tác” thì cũng đành đi một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi, những cánh hoa mỏng manh kia! Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa qua đẩy lại, rồi lại trôi đi, lặng lẽ, buồn bã, để đến một nơi nào không làm sao có thể biết được. Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy. có khác chi cuộc đời Kiều! Chính Kiều cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suối êm đềm và vừa mới sa xuống giữa ngọn xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đóa hoa đang man mác trôi đi. Đơn độc và mỏng manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe doạ chưa thế nào hình dung ra hết.

Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi, hãy đưa mắt trông đi nơi khác.

“Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”

Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không nhà để phá vỡ bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ có cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì tươi tốt gì đâu! Từ “dầu dầu” không chỉ gợi lên ý buồn bã, mà còn hình dung thấy những ngọn cỏ lưa thưa ủ ê như đang dần héo hắt đi, đang mất sức sống. Đây không phải là đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi hội thanh minh:

“Cỏ non xanh rợn chân trời… ”

Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh, thế mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài ra vô tận, tiếp cả với nền trời, thành một màu duy nhất: “xanh xanh”. Nêu Nguyễn Du viết:

“Chân mây mặt đất một màu xanh tươi”

Thì hẳn nàng Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng xanh xanh thì chưa hẳn là xanh, chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, làm gợi lên một niềm ngao ngán. Và có lẽ cái màu “xanh xanh” ấy là cái màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau.

Thế là Thuý Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng. May ra có chút đổi thay chăng?

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Hóa ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cành trên buồn đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chi là những bước chuẩn bị cho cảnh buồn cuối cùng này. Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xóa một màu. Sóng vỗ “ầm ầm” chứ không phải “ầm” như những ngày ít gió; sóng gào thét cuồng nộ, dập vào bờ, xô dập nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bốn bể. Kiều dường như mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đau chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bốn bên nàng là sóng vỗ. Mấy từ ”ầm ầm tiếng sóng” nghe đã dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.

Nếu trong ba bức tranh trên, giữa người và ngoại cảnh còn là hai đối tượng phân biệt, đâu là chủ, đâu là khách, thì đến bức tranh này, con người đã nhập vào ngoại cảnh; ngoại cảnh trùm phủ lấy con người, nỗi buồn thực đã đi đến mức cùng tột của cao trào. Lúc này, con người sẵn sàng tan đi cùng với ngoại cảnh, sẵn sàng làm bất cứ việc liều lĩnh nào để hoặc thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm ấy, hoặc có thể chết đi cũng không cần. Chính tâm trạng này đã dọn đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, liều lĩnh theo y rồi bị lừa gạt.

Bốn bức tranh của Nguyễn Du thật ra thì không lạ lùng. Nhưng thật là lạ lùng cách của Nguyễn Du diễn tả những bức tranh ấy trong sự hòa hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều. Bởi Nguyễn Du rất tinh tế khi nhìn cảnh, rất sâu sắc về tình người, nhưng còn bởi điều này nữa: Nguyễn Du rất tài tình trong ngôn ngữ.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 4

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong thơ ca trung đại Việt Nam khá đặc sắc.Trong đó, đại thi hào Nguyễn Du là bậc thầy về miêu tả tâm lý nhân vật qua những bức tranh phong cảnh nhiều cảm xúc. Tác phẩm “Truyện Kiều”, một truyện thơ Nôm bất hủ của ông có nhiều đoạn thơ hay, đặc biệt là đoạn được coi là bức tứ bình bắt đầu bằng hai từ “buồn trông”, miêu tả tâm trạng Kiều ở Lầu Ngưng Bích:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Kiều vốn là một cô gái xinh đẹp, tài hoa và rất đỗi lương thiện.Sinh ra trong một gia đình trung lưu trong xã hội phong kiến, Kiều sống trong mái ấm gia đình cùng cha mẹ và hai em, được yêu thương và hạnh phúc trong nề nếp gia phong tốt đẹp.Thế rồi xã hội thối nát, với thế lực đồng tiền tàn nhẫn đã làm cho mái ấm gia đình ấy tan nát chỉ qua lời vu khống của “thằng bán tơ”.Kiều vì hiếu thảo, bán mình chuộc cha mà bị lừa dối, rơi vào lầu xanh của Tú Bà. Sau đó nàng bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích, một nơi hoang vắng, đáng sợ. Tâm trạng chua xót của Kiều trong những ngày tháng đơn độc ở đây đã được Nguyễn Du khắc họa qua một ngòi bút vô cùng sâu sắc và cảm động.

Mở đầu của bức tranh tứ bình, tác giả vẽ lên cảnh vật:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Đó là một bức tranh mênh mông của cảnh biển khơi “cửa bể” trong khoảng thời gian “chiều hôm” dễ gợi cho lòng người con gái xa quê hương xứ sở nhiều nỗi buồn thương. Giữa khung cảnh trời nước ấy là một con thuyền đang đi về đâu phía cuối chân trời. Nếu xét về ngòi bút tả cảnh thì đây quả thật là một bức tranh đẹp bằng ngôn từ, với tất cả sự khoáng đạt của thiên nhiên với mặt biển tuôn trào sóng vỗ. Nhưng đằng sau đó, ta như nhìn thấy nàng Kiều đang dõi mắt nhìn theo cánh buồm thấp thoáng xa dần. Buồm trôi về đâu, phải chăng đi về phía quê hương xa xăm, hãy cho nàng nhắn nhủ vài lời thương nhớ, bởi “xót người tựa cửa hôm mai…”.Và như vậy, con thuyền phía xa cửa bể đã chứa nặng mối tình quê của Kiều. Câu thơ lục bát đậm đà chất Việt qua những từ ngữ bình dị như “cửa bể”, “thấp thoáng” mà bỗng nhiên khiến người đọc liên tưởng tới cái xúc cảm Đường thi trong câu cuối bài thơ “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ: “Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình”. Lúc viết bài thơ “Tuyệt cú”, Đỗ Phủ đang lưu lạc tha hương với nỗi nhớ quê hương canh cánh trong lòng, và ông cũng đành gửi nỗi niềm đó theo bóng con thuyền rồi sẽ rời bến.

Nếu như cái nhìn đầu tiên của Kiều là hướng ra xa khơi, với nỗi nhớ quê dâng trào như ngọn sóng, gửi trọn tình theo cánh buồm thấp thoáng xa dần, thì đến bức tranh thứ hai, Nguyễn Du để nhân vật ngắm nhìn phong cảnh ở tầm gần hơn:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu

Cái nhìn buồn của Kiều đã phát hiện ra một vài cánh hoa dập dềnh trôi trên ngọn sóng. Cảnh buồn thấm đẫm tâm trạng con người. Với câu hỏi tu từ “biết là về đâu?”, ta cảm nhận được một nỗi đau thân phận của người hồng nhan. Từ lâu, trong văn chương cổ, những cánh hoa trôi đã trở thành hình ảnh ước lệ tượng trưng cho thân phận người con gái có số phận lênh đênh, lạc loài, đáng thương. Như vậy bức tranh ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, càng khiến cho nhân vật trữ tình thêm chua xót cho mình.

Rồi phóng tầm mắt về phía khác, không còn là mặt biển, nàng Kiều nhìn thấy hình ảnh:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Câu thơ lục bát trầm buồn, với cách sử dụng từ láy tinh tế “rầu rầu” và “xanh xanh” vừa tả được cảnh mà vừa thể hiện được lòng người. Sắc thái “rầu rầu” của cỏ gợi lên sự úa héo, không sức sống, trái hẳn với màu “cỏ non xanh tận chân trời” mà Kiều từng được ngắm trong tiết thanh minh, thuở đời nàng còn yên ấm. Đó cũng là biểu tượng cho số phận của nàng. Nội cỏ hôm nay ở phía trước lầu Ngưng Bích là một màu xanh xanh mù mịt, không có phương hướng, không có một con đường để có chốn mà đi.Đó chính là tâm trạng bẽ bàng đau xót của Kiều, khi nghĩ về số kiếp hồng nhan của mình, hẳn là nỗi đoạn trường còn đợi ở nơi nào phía trước. Từng khía cạnh lo âu, sợ hãi cứ thế được nhà thơ thể hiện trên từng câu chữ, khiến cho người đọc thêm xót xa thương cảm cho Kiều.

Bức tranh thứ tư không được Nguyễn Du miêu tả nhiều bằng màu sắc và hình ảnh, mà nhà thơ đặc tả cảnh vật bằng âm thanh đe dọa của sóng gió:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Những nét êm đềm, thi vị của cửa bể chiều hôm, ngọn nước- đóa hoa hay nội cỏ đã thay bằng sắc thái khác của cảnh vật. Đó là ngọn gió ở đâu kéo đến, cuốn dữ dội trên mặt duềnh. Có lẽ buổi chiều tà buông xuống, khiến cho sóng gió mạnh mẽ hơn, phong cảnh trở nên u ám, và lầu Ngưng Bích chơ vơ giữa khung cảnh đó càng khiến cho người con gái cô độc trở nên lo âu sợ hãi nhiều hơn. Từ láy “ầm ầm” gợi tả những âm thanh hung dữ của sóng gió, không còn ở đâu xa, mà ngay ở quanh ghế ngồi của nàng Kiều. Phải chăng đó không phải chỉ là sóng gió thiên nhiên, mà còn là linh cảm của Kiều về sóng gió cuộc đời đang bủa vây quanh nàng đầy đe dọa.

Bức tranh tứ bình cảnh vật thực ra là bức tranh tứ bình về tâm trạng, đã thể hiện rất rõ tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến bậc thầy trong miêu tả những khía cạnh tâm lý nhân vật. Từng từ ngữ, hình ảnh vừa rất cổ điển, mang tính ước lệ, mà vừa rất thật trong biểu lộ mạch cảm xúc thơ.Điệp từ “Buồn trông” đứng đầu mỗi câu lục bát tạo nên nhịp điệu vừa buồn bã, vừa ngày một dồn dập trong nhịp sóng. Và cũng từ “buồn trông” đó đã giúp người đọc nhìn rõ bức tranh trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn u sầu, âu lo của Kiều, người con gái đáng thương.

Có thể nói, không phải ngẫu nhiên mà “Truyện Kiều” được coi là một tuyệt tác của nền văn học dân tộc, và cũng không phải tự nhiên mà đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã làm lay động trái tim người đọc nhiều thế hệ. Ở đây, chúng ta cảm nhận được ngòi bút thấm thía tình yêu thương con người của đại thi hào Nguyễn Du, và càng thấy xót thương cho nàng Kiều, đóa hoa sen nhiều hương sắc bị chà đạp trong bùn lầy của xã hội phong kiến thối nát. Những nỗi đau xót của nàng Kiều sẽ mãi là tiếng nói tố cáo xã hội đó, và thôi thúc chúng ta thêm trân trọng giá trị cuộc sống bình yên, hạnh phúc ngày hôm nay.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 5

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một kiệt tác tiêu biểu và nổi bật. Giá trị vững bền của tác phẩm được tạo nên không chỉ ở mặt nội dung cốt truyện hấp dẫn mà còn thể hiện qua những bút pháp nghệ thuật đặc sắc và nổi bật là nghệ thuật miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những trích đoạn thể hiện rõ biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, chúng ta có thể thấy được tâm trạng buồn tủi, nỗi nhớ thương cùng dự cảm của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bơ vơ, lạc lõng tại lầu Ngưng Bích.

Trong sáu câu thơ đầu tiên, tâm trạng của Thúy Kiều được làm nổi bật với sự chán ngán, bơ vơ, lạc lõng và buồn tủi qua khung cảnh lầu Ngưng Bích. Đó là không gian chơi vơi giữa trời nước, núi non: “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” và Kiều chỉ nhìn thấy được “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” với những “cồn cát vàng”như đang chuyển động lượn sóng và bụi hồng vướng trải trên hàng dặm xa xăm. Tất cả đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên được phóng chiếu ở cả chiều cao và chiều rộng, gợi ra sự mênh mang, hoang vắng và đầy rợn ngợp nhưng lại bị bó gọn trong khoảng thời gian “mây sớm, đèn khuya” tuần hoàn, khép kín; làm nổi bật hơn nữa tâm trạng “bẽ bàng” của nhân vật trữ tình khi bị giam lỏng trong vòng luẩn quẩn đầy tù túng. Khung cảnh đó như chia cắt và xoáy sâu hơn nữa vào bi kịch của Thúy Kiều: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” và khơi gợi nỗi nhớ về những ngày đã qua.

Ngòi bút tinh tế của tác giả Nguyễn Du tiếp tục lách sâu vào dòng tâm trạng của nhân vật khi miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều. Trước hết, nàng nhớ về hình bóng chàng Kim và đêm thề nguyền nguyện ước giữa hai người:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Tình yêu đối với chàng Kim trở thành nỗi day dứt mạnh mẽ nhất trong tâm trạng của Thúy Kiều, bởi “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, và nàng đã chọn cách đoạn tình để làm trọn đạo hiếu. Sau đó nàng nhớ về cha mẹ mình:

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”

Là một người con có hiếu, dù đã bán mình chuộc cha nhưng trong lòng Kiều vẫn trĩu nặng nỗi nhớ thương về cha mẹ. Tác giả đã sử dụng điển cố điển tích- một biện pháp nghệ thuật điển hình trong thi pháp của nền văn học trung đại để nói lên tấm lòng hiếu thảo của nàng Kiều. Nhưng điểm đặc sắc là tác giả đã đặt nỗi nhớ của chàng Kim lên trước nỗi nhớ về cha mẹ, thể hiện rõ nét sự tinh tế trong việc miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Bởi lẽ với cha mẹ, nàng đã bán mình, hi sinh bản thân; còn đối với chàng Kim, nàng vẫn còn mang nợ một lời thề cùng một tình yêu son sắt thủy chung và nàng tự cho mình là người phụ bạc.

Sau khi nhớ về quá khứ, về tình yêu, về gia đình thì tâm trạng của nàng Kiều chìm trong nỗi buồn đau, cô đơn và lo sợ về thực tại và tương lai. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã được tác giả vận dụng một cách điêu luyện để miêu tả những con sóng trong tâm lí nhân vật:

“Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Đây là tám câu thơ hay nhất trong trích đoạn này khi miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Cảm xúc sầu buồn đã được miêu tả thông qua bức tranh thiên nhiên từ xa đến gần với gam màu ảm đạm trong không gian u tối, và mỗi cặp câu bắt đầu bằng cụm từ “Buồn trông” lại mang những ý nghĩa ẩn dụ vô cùng ý nghĩa. Trước hết, tác giả đã khắc họa nỗi buồn tha hương cũng như khao khát đoàn tụ qua hình ảnh cửa bể- con thuyền. Hơn ai hết, nàng hiểu rõ rằng chút hi vọng nhỏ nhoi thoát khỏi sự giam cầm vẫn là vô vọng. Bởi vậy nàng đã buồn cho số phận trôi dạt mong manh đầy bi kịch của mình thông qua hình ảnh “hoa trôi man mác”. Câu thơ kết thúc bằng từ nghi vấn “biết là về đâu” đã tạo nên một câu hỏi tu từ gợi nên sự mơ hồ, hoài nghi về hiện tại và tương lai. Dự cảm đó tiếp tục được lặp lại và nhấn mạnh hơn nữa trong hai câu thơ cuối cùng:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Âm thanh của tiếng sóng đã được tác giả nhấn mạnh thông qua việc sử dụng từ láy tượng thanh “ầm ầm” kết hợp với biện pháp đảo ngữ, gợi tả thành công sự dữ dội như đang gào thét nơi biển xa. Trước không gian rộng lớn ầm ầm sóng vỗ, Thúy Kiều đã có những dự cảm và nỗi lo sợ đầy bất an về những bất trắc đang ập đến và vùi dập cuộc đời. Như vậy, với tám câu thơ được kiến tạo theo câu trúc lặp lại của cụm từ “Buồn trông”, tác giả Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn, vừa vắng vẻ vừa dữ dội để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc của nỗi buồn trong tâm trạng của Thúy Kiều.

Thông qua diễn biến dòng tâm lí của nhân vật Thúy Kiều, chúng ta càng hiểu rõ hơn nữa về cuộc đời của Thúy Kiều – “tấm gương oan khổ” thể hiện rõ số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh và trải qua vô vàn bi kịch về gia đình, về tình duyên, về nhân phẩm. Đồng thời, thấy được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật thông qua bút pháp “tả cảnh ngụ tình” và sử dụng những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 6

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du – một tác phẩm có giá trị văn hóa lớn và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đoạn trích là tiêu biểu và thể hiện đầy đủ nhất cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài năng của Nguyễn Du. Nổi bật trong đoạn trích là tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích.

Mở đầu tác giả đã vẽ ra khung cảnh không gian và thời gian tại lầu Ngưng Bích, không gian rộng lớn, tĩnh mịch làm nổi bật lên tâm trạng cô đơn và cảnh ngộ bi kịch của Kiều:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân…
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

“Khóa xuân” chính là tình cảnh bị giam hãm, cầm tù của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, cảnh ngộ của Kiều đầy bi kịch. Các từ ngữ miêu tả: “vẻ non xa”, “bốn bề bát ngát”, “cát vàng cồn nọ”,… gợi không gian mênh mông rợn ngợp, bày tỏ tâm trạng lạc lõng, bơ vơ của Kiều trước đất trời rộng lớn. Bức tranh có màu sắc, đường nét nhưng lại vắng bóng con người, sự sống, càng tăng thêm vẻ trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo. Từ chính hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức về cảnh ngộ đầy bi kịch của mình:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích thông qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích“Bẽ bàng” chính là tâm trạng hoang mang đến tột độ và chua xót khôn cùng của Kiều với số phận. “Mây sớm đèn khuya” là vòng tuần hoàn khép kín của không gian và thời gian, chính như nỗi đau không có điểm dừng của nàng Kiều. Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ của Kiều về người yêu, cha mẹ, trước hết là nàng nhớ về Kim Trọng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng…
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Đây là một nỗi nhớ kín đáo mà Kiều dành cho Kim Trọng, nàng cảm thấy tiếc nuối và xấu hổ khi đã không giữ được lời thề trăm năm. Sau nỗi nhớ về Kim Trọng, nàng nhớ về gia đình:

“Xót người tựa cửa hôm mai…
Sân lai gốc tử đã vừa người ôm”

Nghĩ về cha mẹ, Kiều không ngừng xót xa thương cảm, nàng đã không thể làm tròn chữ hiếu, không thể bên cạnh phụng dưỡng cho cha mẹ. Nàng nhớ người yêu trước, nhớ cha mẹ sau cũng là điều dễ đồng cảm, bởi nàng đã phá lời thề với Kim Trọng, phụ tấm lòng của chàng nên cảm thấy rất có lỗi. Còn với cha mẹ, nàng đã kịp báo hiếu phần nào, hơn nữa còn có em trai và Thúy Vân chăm lo. Đặc biệt trong tám câu thơ cuối bài, tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều được diễn tả theo nhiều cung bậc khác nhau:

“Buồn trông ngọn nước mới sa…
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Bốn cặp câu thơ lục bát với điệp từ “buồn trông” ở mỗi cặp câu vừa làm hiện lên bức tranh cảnh vật lại tô đậm tâm trạng của nàng Kiều. Nỗi buồn đau, xót xa ngày càng tha thiết, nàng hoang mang trước những dự cảm chẳng lành về một cuộc đời đầy rẫy những sóng gió, đau khổ.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh đầy tâm trạng, tâm trạng của nàng Kiều được đại thi hào Nguyễn Du diễn tả thật sinh động và chân thực. Qua tâm trạng đó, người đọc cảm nhận được cảnh ngộ đầy bi kịch, số phận bèo bọt của Thúy Kiều nói riêng và người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 7

Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương Việt Nam. Đại thi hào Nguyễn Du đã vận dụng tài năng của mình, sử dụng nhiều hình tượng nghệ thuật độc đáo để khiến cho những lời thơ trở nên vừa bình dị, gần gũi, vừa trang trọng. Thế nhưng, nổi bật nhất phải kể đến bút pháp miêu tả nội tâm, tâm lí nhân vật cực kì đặc sắc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả đã khắc họa rõ nét tâm trạng cô đơn, chán chường của Thúy Kiều.

Trước hết, ở sáu câu thơ đầu, ta thấy được nỗi cô đơn, bất hạnh, tội nghiệp của Kiều:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Câu thơ đầu tiên đã cho ta biết được hoàn cảnh của Kiều. Dù Tú Bà đã dùng những lời nói ngon ngọt dỗ dành nhưng Thúy Kiều vẫn không chịu tiếp khách. Vậy nên bà ta đành giam lỏng nàng trong lầu Ngưng Bích, đợi nàng khuất phục. Mỗi ngày, nàng đều đứng trên lầu cao ngắm nhìn cảnh vật xung quanh có “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Đây đều là cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong thực tế nhưng cũng là cảnh ước lệ cho không gian mênh mông, vô định trước mắt nhân vật. Nghệ thuật đối, đảo ngữ được sử dụng khiến cho ta cảm thấy sự vật đều cách nhau rất xa, thể hiện sự bao la, vắng vẻ. Thúy Kiều thật đáng thương khi phải chịu đựng nỗi cô đơn trong khung cảnh rộng lớn cùng thời gian tuần hoàn khép kín “mây sớm, đèn khuya”. Cảm tưởng như nàng sẽ phải chôn vùi tuổi xuân ở nơi này mãi mãi. Thế nên nàng càng chán nản, buồn tủi hơn giữa ngày dài tháng rộng, cảnh vật xa cách không có ai bầu bạn.

Vì thế, nàng đành dùng cách nhớ về những người thân yêu để nguôi ngoai phần nào nỗi cô đơn. Thế nhưng, càng nhớ lại càng đau đớn, xót xa hơn:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Chân trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”

Đầu tiên, nàng nghĩ về chàng Kim. Thúy Kiều nhớ lại đêm thề nguyền cùng nâng chén hẹn ước giữa hai người. Thế nhưng giờ đây mộng tàn tình tan. Nàng đã ở một chân trời khác còn Kim Trọng có lẽ vẫn đang không ngừng mong ngóng tin tức của nàng. Chàng Kim đâu biết, thế giới của Kiều giờ đây đã nhuốm màu u tối. Nàng đã bị vấy bẩn bởi chốn lầu xanh, không thể giữ sự thủy chung son sắt nữa. “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” là một câu hỏi không có lời đáp, cũng là lời than thở, bộc bạch thể hiện nỗi đau, sự tủi nhục của Thúy Kiều. Dù có làm cách nào, đôi uyên ương cũng không thể quay lại như khi xưa được nữa.

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”

Tiếp theo, Kiều nhớ đến cha mẹ ở nhà vẫn tựa cửa ngóng tin bình an của con gái. Tuy đã tự bán mình để có tiền chuộc cha và em thoát khỏi chốn lao tù, thế nhưng nàng vẫn day dứt vì không thể ở bên chăm sóc cha mẹ. Ở đoạn thơ này, Nguyễn Du đã sử dụng các điển tích, điển cố, thành ngữ như “quạt nồng ấp lạnh”, “Sân Lai”, “Gốc tử” để thể hiện nỗi lòng hiếu thảo của Thúy Kiều. Nàng lo lắng khi mình rời xa, sẽ không ai quạt cho cha mẹ ngủ khi trời vào hè nóng nực, không ai ấp chăn ấm cho cha mẹ nằm lúc trời trở gió đông. Thời gian trôi dần qua, cha mẹ ngày một già yếu, không biết cha mẹ có ai đó ở bên bầu bạn hay không.

Qua dòng hồi tưởng, người đọc đã thấy được hình ảnh của một nàng Kiều chung thủy, hiếu thảo. Dù đã không còn ở bên những người thân yêu nhưng chữ hiếu, chữ tình chưa vẹn toàn vẫn khiến nàng day dứt khôn nguôi. Từ đó, Kiều phóng tầm mắt ra ngắm nhìn cảnh vật xung quanh lầu Ngưng Bích. Thế nhưng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nỗi buồn của nàng đã thấm lên cả cảnh vật xung quanh:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Trong tám câu thơ cuối này, bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. Chỉ bằng điệp ngữ “buồn trông” ở đầu câu kết hợp với những từ láy miêu tả khung cảnh, ông đã cho ta thấy tâm trạng của nàng Kiều. Ở cặp câu lục bát thứ nhất, ta thấy cảnh cửa biển, con thuyền buổi chiều hoàng hôn gợi nỗi nhớ nhà da diết trong không gian mênh mông. Cặp lục bát thứ hai có hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” chính là số phận lênh đênh, vô định, không thấy bến đỗ của Kiều. Cặp lục bát thứ ba thể hiện nỗi cô đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều khi khắp nơi chỉ có một màu xanh tẻ nhạt, ảm đạm. Và cuối cùng là dự cảm không lành về tương lai đầy bão tố sắp xảy đến. Khi nhìn ra ngoài mặt duềnh, Thúy Kiều mới chỉ thấy nó nổi lên mà trong tâm trí nàng đã nghe thấy âm thanh “ầm ầm” của thiên nhiên. Đây là cảm giác bất lực khi biết trước những bão tố sắp đến nhưng không thể làm gì được, chỉ có thể bị động ngồi chờ điều đó đến.

Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ như: đảo ngữ, đối, điệp từ, từ láy,… để miêu tả khung cảnh thiên nhiên nhưng thực tế là đang bày tỏ nỗi lòng của nhân vật trữ tình. Qua đó, người đọc nhận ra sự cô đơn, chán chường, tuyệt vọng của một giai nhân đang để tuổi xuân qua đi một cách vô ích nơi lầu son gác tía.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 8

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học. Có thể ví tác phẩm như một trái bom nổ giữa làng văn và có thể làm vinh dự cho bất cứ một nền văn học nào có nó. Bởi truyện đã đạt tới trình độ mẫu mực về mặt nội dung và nghệ thuật độc đáo. Một trong các nghệ thuật làm nên sức hấp dẫn và thành công của “Truyện Kiều” đó là nghệ thuật khắc họa hình tượng và diễn biến tâm trạng nhân vật. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn trích hay, là minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật này. Qua đoạn trích chúng ta thấy được tâm trạng phức hợp trong lòng Kiều khi một mình phải bơ vơ nơi đất khách quê người, không biết bấu víu và nương tựa vào đâu.

Trích đoạn nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh để có tiền chuộc cha và em, Kiều đã “thất thân” với hắn “đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”, Kiều uất ức, rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ hãi “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma”, nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế. Nhưng thực chất, Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích và mụ ta đang đợi cơ hội thực hiện âm mưu mới, ép nàng phải ra làm việc đó. Vì thế “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt cuộc đời của Kiều trong mười lăm năm lưu lạc. Đoạn trích dựng lên tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung son sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của Thúy Kiều khi đang phải một mình bơ vơ, lạc lõng nơi xứ lạ người xa. Đồng thời qua đoạn trích, người đọc thấy được bút pháp “tả cảnh ngụ tình” độc đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.

Trước hết là sáu câu thơ đầu là tâm trạng cô đơn, bất hạnh, đáng thương và tội nghiệp của Kiều trước thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích. Ngay câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. “Khóa xuân” tức khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam lỏng, khóa kín trong cấm cung và không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng. Những câu thơ tiếp theo, tái hiện quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng kiểu:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn về bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi giữa một không gian rộng lớn, mênh mông “bốn bề bát ngát”. Đứng trên lầu mà ngước mắt lên trời cao, Kiều chỉ thấy “non xa” và “tấm trăng gần”. Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy khoảng không trống vắng, xa xa là những con sóng lượng, những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như trở lên lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng, lãng mạn nhưng đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, tĩnh lại, không có chút động nhỏ bé nào đó xunh quanh mình.

Tính từ “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy xấu hổ vì bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu xanh, còn nàng cảm thấy tủi thẹn là vì cảm thấy không còn xứng đáng với tình cảm mà Kim Trọng mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi nên vòng tuần hoàn thời gian khép kín và ẩn sau đó là sự cô đơn, đơn điệu, nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có một thân một mình đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới chia đôi thành hai ngả: “nửa tình – nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.

Trong nỗi cô đơn cố hữu đang bủa vây quanh mình, khi một mình Kiều phải bơ vơ dưới góc bể chân trời ở lầu Ngưng Bích thì nỗi nhớ gia đình, nỗi nhớ người yêu đến như một lẽ tất yếu, rất phù hợp với quy luật tâm lí của con người xa quê. Tám câu thơ tiếp là nỗi niềm thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đến đây, chúng ta thấy được cách dùng từ rất đắc địa, khéo léo của nhà thơ. Để diễn tả nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim, tác giả đã dùng động từ “tưởng”. Tưởng là nhớ tới mức hình dung ra Kim Trọng đang ở trước mắt trò chuyện với Kiều.Kiều nhớ đến đêm chăng thề nguyện, hai người cùng uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ bên nhau trọn đời. Nhưng bây giờ anfng đang phải lạc lõng nơi đất khách, nên nàng tưởng Kim Trọng đang đợi tin tức của mình, còn mình thì bặt vô âm tín:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Rồi nàng băn khoăn tự hỏi
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Tình yêu đối với chàng Kim trở thành nỗi day dứt mạnh mẽ nhất trong tâm trạng của Thúy Kiều, bởi “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, và nàng đã chọn cách đoạn tình để làm trọn đạo hiếu. Sau đó nàng nhớ về cha mẹ mình:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Là một người con có hiếu, dù đã bán mình chuộc cha nhưng trong lòng Kiều vẫn trĩu nặng nỗi nhớ thương về cha mẹ. Tác giả đã sử dụng điển cố điển tích – một biện pháp nghệ thuật điển hình trong thi pháp của nền văn học trung đại để nói lên tấm lòng hiếu thảo của nàng Kiều. Nhưng điểm đặc sắc là tác giả đã đặt nỗi nhớ của chàng Kim lên trước nỗi nhớ về cha mẹ, thể hiện rõ nét sự tinh tế trong việc miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Bởi lẽ với cha mẹ, nàng đã bán mình, hi sinh bản thân; còn đối với chàng Kim, nàng vẫn còn mang nợ một lời thể cùng một tình yêu son sắt thyur chung và nàng tự cho mình là người phụ bạc.

Sau khi nhớ về quá khứ, về tình yêu, về gia đình thì tâm trạng của nàng Kiều chìm trong nỗi buồn đau, cô đơn và lo sợ về thực tại và tương lai. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã được tác giả vận dụng một cách điêu luyện để miêu tả những con sóng trong tâm lí nhân vật:

Buồn trong cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông ngọ cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Đây là tám câu thơ hay nhất trong đoạn trích này khi miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Cảm xúc sầu buồn đã được miêu tả thông qua bức tranh thiên nhiên từ xa đến gần với gam màu ảm đảm trong không gian u tối, và mỗi cặp câu bắt đầu bằng cụm từ “buồn trông” lại mang những ý nghĩa ẩn dụ vô cùng ý nghĩa. Trước hết, tác giả đã khắc họa nỗi buồn tha hương cũng như khao khát đoàn tụ qua hình ảnh cửa bể – con thuyền. Hơn ai hết, nàng hiểu rõ rằng chút hi vọng nhỏ nhoi thoát khỏi sự giam cầm vẫn là vô vọng. Bởi vậy nàng đã buồn cho số phận trôi dạt mong manh đầy bi kịch của mình thông qua hình ảnh “hoa trôi man mác”. Câu thơ kết thúc bằng từ nghi vấn “biết là về đâu” đã tạo nên một câu hỏi tu từ gợi nên sự mơ hồ, hoài nghị về hiện tại và tương lai. Dự cảm đó tiếp tục được lặp lại và nhấn mạnh hơn nữa trong hai câu thơ cuối cùng:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Âm thanh của tiếng sóng đã được tác giả nhấn mạnh thông qua việc sử dụng từ láy tượng thanh “ầm ầm” kết hợp với biện pháp đảo ngữ, gợi tả thành công sự dữ dội như đang gào thét nơi biển xa. Trước không gian rộng lớn ầm ầm sóng vỗ, Thúy Kiều đã có những dự cảm và nỗi lo sợ đầy bất an về những bất trắc đang ập đến và vùi dập cuộc đời. Như vật, với tám câu thơ được kiến tạo theo cấu trúc lặp lại của cụm từ “Buồn trông”, tác giả Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn, vừa vắng vẻ vừa dữ dội để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc của nỗi buồn trong tâm trạng của Thúy Kiều.

Thông qua diễn biến dòng tâm lí của nhân vật Thúy Kiều, chúng ta càng hiểu rõ hơn nữa về cuộc đời của Thúy Kiều – “tấm gương oan khổ” thể hiện rõ số phận bi kịchcủa người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh và trải qua vô vàn bi kịch về gia đình, tình duyên và nhân phẩm. Đồng thời, thấy được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật thông qua bút pháp “tả cảnh ngụ tình” và sử dụng những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 9

Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du. Ông đã đóng góp cho nền thi ca Việt Nam cổ đại một tác phẩm tuyệt vời có sức sáng tạo, vang xa tới nhiều thế hệ. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay, nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa Kim Trọng mối tình đầu thơ mộng, tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến và bản thân nàng từ một chỗ tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc.

Trong đoạn trích, tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau.

Sau khi gia đình lâm biến và bị Mã Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình rồi bị bán vào thanh lâu, Thúy Kiều đã định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của nàng không thành công. Tú Bà thấy Thúy Kiều cương quyết sợ nàng tự tử lần nữa chết thật thì bà ta mất tiền oan, nên ra sức lấy lòng Thúy Kiều, ngọt nhạt để Thúy Kiều nghe lời mình mà chấp nhận tiếp khách.

Đây là tâm trạng của Kiều những ngày đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mấy lòng tin ở con người

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bể bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

“Khóa xuân” hai từ này đã gợi lên trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc chua chát. Nó thể hiện sự giam cầm, mất tự do cả về thân thể lẫn tâm hồn của một người con gái đang xuân, đang ở cái tuổi đẹp nhất của đời người đầy mơ mộng, đầy ước mơ mà giờ đây bị nhốt đời mình ở chốn nhơ nhuốc này.

Không gian càng mênh mông, tăm tối, mịt mù càng làm cho tâm trạng Kiều trở nên thê lương bi đát hơn bao giờ hết. Một cuộc sống bị giam cầm tù đày cả về tâm hỗn lẫn thể xác

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai từ “bẽ bàng” đã lột tả được mọi sự ê chề, đau đớn của Thúy Kiều, khi cô bị Mã Giám Sinh lừa tình, rồi lại còn bị bán vào lầu xanh. Vừa thất tiết vừa tủi nhục , vừa oán hận, vừa thê thương. Tâm trạng tủi hổ vì sự ngu dốt, mê muội tin nhầm người của nàng đã được hai từ “bẽ bàng” nói hộ

“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” con người và cảnh vật đã thật sự hòa nhập vào làm một. Cảnh vật cũng như người đều mang cảnh u sầu, trống trải, cô đơn khắc khoải…Tất cả khiến cho bức tranh thiên nhiên và con người trở nên xám xịt, mịt mù…

Trong những câu thơ tiếp theo tác giả đưa nhịp bài thơ trở nên nhanh hơn, chuyển hướng tâm trạng của Thúy Kiều hồi tưởng lại những ngày xưa bình yên hạnh phúc

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Trong sự ê chề, bẽ bàng, tủi nhục này người nàng nhớ về đầu tiên chính là chàng Kim Trọng, nhớ người đã thề hẹn ước nguyện với nàng. Nhưng nay lời thề hẹn không thể nào giữ được nữa, nên nàng nhớ về Kim cũng là điều dễ hiểu. Nhưng càng nhớ về Kim Trọng thì tâm trạng nàng lại càng đau đớn khi nghĩ tới hiện tại của mình. Có lẽ việc quay lại như xưa là điều không thể nào còn thực hiện được.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Nàng nghĩ về những người sinh thành ra mình, cảm thấy xót xa khi nghĩ tới việc từ nay sẽ không được phụng dưỡng, hiếu kính với cha mẹ, không được sống trong sự che chở cưu mang của những người thân thương ruột thịt nhất đời nàng. Nàng lo lắng, xót xa nhưng rồi lại tự suy nghĩ rằng sẽ có Thúy Vân và em trai nàng chăm sóc cho hai đấng sinh thành nên tạm thời nguôi ngoai nỗi lòng.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son cuả Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 10

Trong Truyện Kiều, có nhiều đoạn thơ hay miêu tả nỗi cô đơn nhớ nhà của Kiều. Nhưng không đoạn nào thể hiện được trạng thái bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Trước hết, Nguyễn Du miêu tả tình cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích bằng cách vẽ ra khung cảnh xinh quanh theo con mắt của Kiều

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân….
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai chữ khóa xuân nói lên thực chất Kiều bị giam lỏng. Câu vẻ non xa tấm trăng gần cực tả cảnh cô đơn của Kiều. Lầu Ngưng Bích cao, trơ trọi quá, Kiều như chỉ còn ở chung làm bạn với non xa, trăng gần. Một cảm giác trơ trọi rợn ngợp, lơ lửng tràn ngập câu thơ. Nhìn ra xung quanh chỉ thấy một không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia, không một bóng cây, bóng nhà, bóng người. Về thời gian, sáng làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức ngủ một mình thui thủi, triền miên, thật là bẽ bàng – ngao ngán và vô vọng. Nhưng nàng buồn về cảnh một phần, một phần khác buồn hơn vì tình. Đó là hai nỗi buồn chia xé tâm hồn nàng.

Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ đã cực tả nỗi nhớ chung, thương xót đối với người thân. Người đầu tiên được nhớ tới trong những giờ phút cô quạnh ấy là Kim Trọng, người mà đã nặng lòng thề hẹn:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người cùng uống rượu thề nguyền dưới trăng “đinh ninh hai miệng một lời song song”. Kiều thương nhất là việc Kim Trọng vẫn chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn đang ngày đêm trông chờ nàng một cách uổng công. Hết thương Kim Trọng, Kiều lại thương mình:

Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Tấm son là tấm lòng thủy chung, son sắt của Thúy Kiều với Kim Trọng. Nói bao giờ quên được mối tình, có nghĩa là chẳng bao giờ quên được. Tiếp đến Kiều nhớ thương cha mẹ già:

Xót người tựa cửa hôm mai…
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Tựa cửa là hình ảnh của ngóng trông. Nàng tưởng tượng cha mẹ đang tựa cửa ngóng trông nàng về. Và giờ đây ai là người quạt nồng ấp lạnh cho cha mẹ, nàng cảm thấy thời gian xa nhà đã rất lâu: cách mấy nắng mưa, và tưởng tượng thấy cha mẹ đã già.

Cuối cùng, Kiều nhìn đến cảnh trống trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận. Đây là những câu thơ réo rắt bậc nhất về nỗi buồn lưu lạc, bơ vơ. Mỗi câu thơ như gợi lên một nỗi buồn thảm hãi hùng lắng sâu trong vô thức:

Buồn trông cửa biển chiều hôm…
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm. Nhìn thấy cánh buồm thấp thoáng xa xa, gợi cho nàng nỗi buồn nhớ quê hương tha thiết. Nhìn thấy cánh hoa trôi man mác, gợi cho nàng nỗi buồn thân phận không biết sẽ đi đâu về đâu. Ngắm nhìn nội cỏ một màu xanh xanh gợi cho nàng nỗi buồn chán về cuộc sống tẻ nhạt vô vị ở lầu Ngưng Bích nhưng không biết bao giờ mới kết thúc. Và cuối cùng là nỗi lo lắng sợ hãi trước những tai ương sắp ập xuống khi nàng thấy xung quanh mình là tiếng sóng ầm ầm. Với điệp ngữ buồn trông, nỗi buồn của Kiều như tầng tầng lớp lớp, không bao giờ dứt, càng ngày càng xoáy sâu thêm.

Đọc đoạn thơ, chúng ta không chỉ hiểu được tâm trạng Kiều mà còn thấy ở Kiều những phẩm chất tốt đẹp, Đó là một con người đầy lòng vị tha. Đồng thời chúng ta cũng thấy được sự đồng cảm của nhà thơ đối với nhân vật. Và nhất là thấy được nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 11

Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ Nguyễn Du. Ông đã góp vào văn học Việt Nam và thế giới một thi phẩm bất hủ. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình của ông. Qua những dòng thơ, người đọc cảm thấu được sâu sắc nỗi cô đơn, khắc khoải, tuyệt vọng của Thúy Kiều

Thúy Kiều sau khi bán mình chuộc cha, bị Mã Giám Sinh hạ nhục rồi bán vào lầu xanh. Kiều định tự kết liễu đời mình nhưng không thành công. Tú Bà giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích và hứa sau khi nàng khỏi bệnh sẽ gả nàng vào một gia đình tốt. Kiều ở lầu Ngưng Bích sống trong nỗi cô đơn, buồn bã, nhớ thương quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai chính mình. Bức tranh tâm trạng nàng được miêu tả vô cùng rõ nét.

Trước hết, ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều mang trong mình nỗi cô đơn, chán nản, đau xót cho số phận mình:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻn non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Hai chữ “Khóa xuân” nghe sao chua xót, tàn nhẫn. Nàng- một người con gái đang ở độ tuổi đẹp nhất, lại bị giam hãm, cầm tù, cảnh ngộ của nàng thật cô đơn tội nghiệp. Sự cô đơn đó còn được tuyệt đối hóa qua các hình ảnh chỉ không gian, thời gian, các sự vật tồn tại xung quanh: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” “bát ngát” “non xa” “trăng gần” “mây sớm đèn khuya”. Hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ chỉ không gian cô quạnh đã một lần nữa tô đậm, làm nổi bật sự cô đơn tuyệt đối của Thúy Kiều. Không chỉ vậy, cụm từ “mây sớm đèn khuya” còn gợi nên thời gian tuần hoàn, khép kín giam hãm cuộc đời nàng, đẩy Kiều vào nỗi cô đơn, tuyệt vọng, không có lối ra.

Tâm trạng ngổn nang “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, Kiều nhớ về Kim Trọng – người nàng yêu thương, nhưng lại phải phụ bạc, nhớ về song thân ở nhà mong ngóng tin con. Nguyễn Du đã thật tinh tế khi để nàng nhớ về Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Trật tự nỗi nhớ vừa thể hiện đúng quy luật tâm lí, vừa hợp tình vừa hợp lý. Kiều nhớ về đêm thề nguyền với Kim Trọng

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Câu thơ vang lên như tiếng lòng thổn thức, như tiếng khóc nấc lên theo nhịp của Thúy Kiều khi mường tượng lại những kỉ niệm đẹp đẽ. Nhớ về người thương, nàng lại càng đau đớn, xót xa hơn khi nghĩ đến cảnh Kim Trọng ngày ngày mong tin trong vô vộng, giờ đây mỗi người đôi ngả, biết ngày nào mới có thể gặp lại. Nhưng đau xót nhất có lẽ là hai câu thơ sau

Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Nói lên thân phận, hoàn cảnh bơ vơ, trơ trội nơi đất khách quê người. Hình ảnh ẩn dụ “tấm son” cho thấy tấm lòng thủy chung son sắt, tình yêu sâu đậm Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.

Về phía cha mẹ, nỗi nhớ của nàng với song thân cho thấy nàng là một người con hết sức hiếu thảo, luôn yêu thương và nghĩ về cha mẹ. Nàng thương cha mẹ đã lớn tuổi lại không có ai ở bên chăm sóc, nàng day dứt trong những ngày hè nóng bức, ngày đông giá lạnh ai sẽ là người lo lắng cho cha mẹ. Nguyễn Du đã sử dụng linh hoạt thành ngữ và điển cố để nói về tấm lòng hiếu thảo của nàng.

Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Trong hoàn cảnh phải bán mình chuộc cha, lại bị lừa gạt, Kiều là người đáng thương nhất, nhưng nàng đã vượt lên những đau thương của mình nhớ về cha mẹ, người yêu. Điều đó cho thấy nàng là một người thủy chung, sống có tình nghĩa, mang trong mình tấm lòng vị tha, nhân hậu, bao dung.

Tám câu thơ cuối cùng không chỉ cho thấy tâm trạng cô đơn, buồn rầu của Thúy Kiều mà còn cho thấy những dự cảm về tương lai đầy tai ương, sóng gió, câu thơ bật lên nỗi kinh hoàng, lo sợ. Kiều nhớ về cha mẹ, gia đình, quê hương nên àng thấm thía sâu sắc tình cảm cô đơn, trống vắng của mình.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Cánh buồm thấp thoáng trong không gian chiều ảm đạm thể hiện khao khát được đoàn tụ, được trở về với gia đình của nàng. Không gian dịch chuyển gần hơn về phía nàng, hình ảnh những cánh hoa trôi man mác, vô định khiến Kiều nghĩ về số phận chìm nổi, mỏng manh của chính mình. Bản thân Kiều từ lúc bị bán đi, đã là bắt đầu những chuỗi ngày nổi vô định, tương lai mù mịt đang đổ ập xuống trước mắt Kiều. Câu hỏi tu từ như một lời tự hỏi về tương lai mù mịt của chính bản thân mình. Cặp lục bát tiếp theo, không gian được mở rộng

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Sắc xanh trong câu thơ này không còn là màu cỏ non xanh như trong cảnh ngày xuân maf là sắc xanh tàn tạ, héo húa, lụi tàn. Câu thơ cuối cùng là âu lo, dự cảm về những tai ương, nguy hiểm đang đón đợi nàng, cảnh hiện ra vô cùng hãi hùng.

Ngọn gió cuốn mặt duềnh với tiếng sóng ầm ầm hung dữ như báo trước, chỉ ngày sau đây thôi, bao nhiêu giông bão trong cuộc đời sẽ nổi lên xô đẩy, vùi dập đời nàng

Với bút pháp tả cảnh ngụ tình tài ba, cảnh trong tác phẩm của Nguyễn Du vừa thể hiện ngoại cảnh vừa thể hiện tình cảm. Đoạn trích đã khắc họa thành công bức tranh tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đó còn thể hiện sự cảm thương của Nguyễn Du cho số phận, cho cuộc đời đầy bất hạnh của nàng.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 12

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm để lại nhiều tiếng vang trong nền thi ca Việt Nam. Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là giai đoạn sau khi Thúy Kiều bán mình chuộc cha và em trai, nàng bị Mã Giám Sinh và Tú Bà kết hợp với nhau để đầy nàng vào lầu xanh.

Thúy Kiều tùm cách tự tử nhưng được Tú Bà cứu sống sợ nàng chết thì bà ta lỗ vốn nên bà ta buông lời dụ dỗ Kiều tiếp khách. Nàng bị khóa giam lỏng ở lầu Ngưng Bích ngày ngày có người mang cơm cho ăn nhưng khó lòng mà trốn thoát khỏi nơi đây. Tâm trạng Thúy Kiều khi sống ở lầu Ngưng Bích là một tâm trạng ê chề, chán chường, muốn chết mà không cho chết, muốn sống mà sống không yên. Nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu, gia phụ khiến nàng càng thêm chua xót, tủi hổ cho thân phận mình

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bể bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Hài từ “Khóa xuân” thể hiện sự giam cầm tâm hồn và thể xác của Thúy Kiều tại nơi này. Nàng đang trong thời kỳ xuân sắc, có vẻ đẹp tuyệt trần tài năng vẹn toàn đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc, êm ấm bên người thân hoặc bên người đàn ông tốt yêu nàng thật lòng. Nhưng Thúy Kiều phải sống ở một nơi nhơ nhuốc, trở thành kẻ mua vui cho người khác.

Thông qua những từ ngữ miêu tả của tác giả Nguyễn Du ta thấy thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích vô cùng mênh mông rộng lớn. Chính sự bao la, bát ngát đó càng làm cho Thúy Kiều cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn lẻ loi giữa mênh mông trời biển. Xung quanh chỗ nàng ở có những bụi hồng gai, những cồn cát nhỏ bụi tung mịt mờ trắng xóa, thể hiện cho sự mờ mịt của đời nàng khi nhìn về tương lai. Thúy Kiều cảm thấy tâm trạng càng ngày càng buồn chán, u ám hơn khi nhìn cảnh vật nơi đây

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai từ bẽ bàng thể hiện sự tủi thân, ê chề của Thúy Kiều nàng cảm thấy tấm thân mình giờ này nhơ nhuốc, nhục nhã ê chề, không còn xứng đáng được hưởng hạnh phúc nữa. Trong cảnh trời đất mênh mông, bao la cỏ cây cát bụi xa mờ này làm cho Thúy Kiều trào dâng tình cảm, nhớ tới những người thân thương, người yêu thề non hẹn biển của mình đó là Kim Trọng

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Trong những câu thơ này Thúy Kiều nhớ lại những lời thề non hẹn biển của nàng với Kim Trọng. Nhớ lại giây phút bên nhau rồi nàng lại lo lắng khi tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng đang đim tìm mình khắp nơi. Nhưng tìm làm gì khi thân nàng giờ này đã nhuốm hồng trần, dơ bẩn không còn trong trắng nữa. Tấm thân này gột rửa bao giờ cho phai, bao giờ mới có thể trở về là một người con gái trinh nguyên, thanh khiết, có lẽ là không thể nào được nữa.

Trong những câu thơ thể hiện sự đau xót, bẽ bàng, cô đơn của Thúy Kiều. Thông qua câu thơ cho chúng ta thấy Thúy Kiều là người chung thủy, son sắc, trong hoàn cảnh bi ai nhưng nàng vẫn luôn lo lắng cho người yêu và người thân của mình

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

người thứ hai Thúy Kiều nhớ tới đó chính là cha mẹ nàng, nàng lo lắng cho phụ mẫu không có ai chăm sóc sớm khuya. Điều này thể hiện Thúy Kiều là người con vô cùng hiếu thảo luôn nghĩ tới cha mẹ già yếu. Luôn muốn được ở gần phụng dưỡng chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già, đó là tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng của một người con dành cho đấng sinh thành của mình

Trong đoạn trích này tác giả Nguyễn Du đã vô cùng thành công với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mượn cảnh vật xung quanh để nói lên tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Nỗi cô đơn tuyệt vọng của nàng đã được đẩy lên cao độ trông không gian im lặng, bát ngát mệnh mông, không hề có sự xuất hiện của con người ngoài Thúy Kiều càng làm cho nàng cảm thấy mình lẻ loi, cô độc.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 13

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Phổ quát câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ chuyên về tả cảnh mà còn nhiều năm kinh nghiệm về tả tình cảm, tả tâm cảnh. Trong quan điểm của ông, 2 nguyên tố tình và cảnh không tách rời nhau mà đi liền nhau, bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là 1 bức tranh tâm tư đầy xúc động. Bằng văn pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã diễn tả tâm cảnh nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đấy là nỗi đơn chiếc, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và bác mẹ.

Kết cấu của đoạn trích kiều ở lầu Ngưng Bích rất có lí. Phần đầu tác giả nhái giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phân thứ ba: tâm trạng đau buồn của kiều và những dự cảm về các bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Khi không trong sáu câu thơ đầu được biểu đạt hoang vắng, mênh mông đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng trùng, ngửng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, thưa thớt như bụi trần nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, trơ thổ địa của nàng khi này

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bể bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ 1 không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian đấy khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

1 chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều khi bấy giờ: vừa chán chường, buồn tủi cho thân phận mình, vừa hổ hang, sượng sùng trước đám mây, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng san sẻ, đồng cảm có nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh bỗng dưng không khsch quan, mà sở hữu hồn, đấy chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều các ngày đơn chiếc ở lầu Ngưng Bích.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai

Lời thơ như đựng đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật thiết tha, mãnh liệt! Kiều mường tượng ra cảnh chàng Kim đang đêm ngày mong chờ tin mình một cách thức đau khổ và vô vọng. Mới ngày nào nàng cùng chàng Kim nặng lời ước hứa trăm năm mà bỗng dưng, nay trở nên kẻ phụ bạc, thất hứa với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, thế mà hiện tại mỗi người một ngả. Rồi tự nhiên Kiều liên tưởng đến thân phận: bên trời góc bể trơ khấc của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nhớ tiếc mối ngọn nguồn trong trắng của mình, nàng nhằm nhè tình cảnh cô đơn của mình và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ với thể tẩy rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình có chàng Kim.

Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa xiêu dạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh vô tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh sở hữu trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn ấy bỗng dội lên thành 1 nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh quéo ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, vừa cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa.

Tám câu thơ tuyệt tác với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình hài hòa mang nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ biểu tượng cũng với việc dùng phổ biến từ láy tượng hình, tượng thanh đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nài, bế tắc về thân phận của Kiều lúc ở lầu Ngưng Bích

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là 1 bức tranh tự nhiên đồng thời cũng là 1 bức tranh tâm tâm cảnh mang bố cục chặt chẽ và khéo léo. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực tụ hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca tụng tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của các người đàn bà tài sắc mà bạc phận.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 14

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

(Nguyễn Du – Truyện Kiều)

Nguyễn Du đã nói lên mối quan hệ gắn bó, hoà nhập, đồng điệu giữa thiên nhiên và con người. Điều này được thể hiện rõ nét trong kiệt tác bất hủ Truyện Kiều. Ở đó, thiên nhiên và con người luôn hiện hữu trong sự đối sánh, giao hoà tuyệt đối, giữa cái vô tri và cái tâm thức, để hiện lên những bức tranh cảnh – tình đặc sắc nhất của văn học Việt Nam. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ nhất bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của thi hào Nguyễn Du.

Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều trong những bước gian truân đầu tiên của kiếp đời lung lạc. Những vần thơ mênh mang cứ day dứt, ám ảnh khôn nguôi, gieo vào lòng ta niềm xót xa về kiếp “hồng nhan bạc phận”. Trong đoạn thơ mở đầu, tác giả không đi ngay vào việc miêu tả tâm trạng Thuý Kiều mà gợi ra khung cảnh thiên nhiên:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Bốn câu thơ đầu hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người mà chỉ thuần tuý thiên nhiên hay chính xác hơn là thiên nhiên hiện ra dưới mắt con người và con người ẩn mình sau dòng chữ, để cho thiên nhiên tự bộc lộ tiếng nói riêng của nó. Nhân vật trữ tình ấy chính là Thuý Kiều – người đang bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích. Chỉ có tâm hồn nàng được tự do, thoả sức hướng ra thiên nhiên như tìm một nơi chốn neo đậu, để xoa dịu đi nỗi đau đớn nhức nhối trong lòng, để tìm cảm giác giải thoát cho tâm linh tù túng, bế tắc. Trong tâm trạng, tâm thế ấy, Thuý Kiểu hướng tầm mắt về thiên nhiên và sững sờ khi bắt gặp một bức tranh đẹp mê hồn :

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Khung cảnh như thực mà như mơ. Mơ là bởi “vẻ non xa” kia như một miền xa thẳm mịt mờ sương khói. Thực là bởi “tấm trăng gần”, như có thể đưa tay ra là với được. Vầng trăng ấy đã thân thuộc biết bao với Kiều. Cách đó không lâu người đã đến với trăng như tìm một chứng nhân cho tình yêu vĩnh cửu:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Giờ đây, ở cái nơi “Chân trời góc bể bơ vơ” thật bất ngờ, trăng đã tự tìm đến với người lẻ loi làm bầu bạn. Vầng trăng vô tri mà rất đỗi thuỷ chung ! Trong cảnh ngộ Kiều bị dồn vào thế chân tường, trăng đã đến bên nàng. Sự xuất hiện của trăng tựa như một chỗ dựa tâm linh nâng đỡ Kiều. Từ điểm tựa ấy, Thuý. Kiều hướng tầm mắt ra thiên nhiên, để cảm nhận rõ hơn thân phận, tình cảnh lẻ loi của mình:

Bốn bề bút ngát xa trông,

Cát vùng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Nhịp thơ đều đều, trầm bổng mà không hề đơn điệu, tạo cảm giác da diết, buồn thương. Nỗi niềm ấy chất chứa trong trái tim Kiều, được Nguyễn Du gói gọn trong từ “bẽ bàng”: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. “Bẽ bàng” là tâm trạng của con người cảm thấy hổ thẹn vì lâm vào cảnh éo le. Cảnh ngộ của Kiểu chính là đang trong những cung bậc cảm xúc ấy. Hổ thẹn vì phụ lời thề ước với chàng Kim, vì đang ở chốn lầu xanh nhớp nhơ, vì số phận ngang trái trớ trêu,… Trong tình cảnh ấy, thiên nhiên như cũng thấu nỗi niềm của thân phận lỡ làng, nhẹ nhàng đến bên nàng như một điểm tựa tinh thần, hoà cùng khúc nhạc sầu thương: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tình và cảnh tưởng chừng như tách biệt trong hai vế của câu thơ bởi từ “chia” nhưng thực ra là sự đồng điệu, thấu nhập tuyệt đối : cảnh chứa tình và tình phổ buồn vào cảnh. Vì thế mà nhìn cảnh, bao cung bậc sầu thương của Kiều mới được bộc lộ:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Tại sao tâm trí Kiều lại hướng về Kim Trọng đầu tiên mà không phải là cha mẹ ? Nếu có ai vì điều này mà trách Kiều là bất hiếu thì thật là chưa hiểu nàng. Kiều hướng đến chàng Kim trước nhất vì vầng trăng trực diện đang gợi lòng người nhớ về cảnh cũ của đêm thề nguyền. Chính cảnh ấy đã gợi lòng người thiếu nữ nhớ về tình yêu. Hơn nữa, Kiều đã bán mình chuộc cha nên đối với song thân, cảm giác tội lỗi đã vơi đi ít nhiều. Còn đối với Kim Trọng, Kiều là người bội ước, là kẻ phá vỡ lời thề sắt son hôm nào. Điều đó khiến trái tim thiếu nữ lần đầu sống trong tình yêu luôn khắc khoải hình bóng tình nhân: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nỗi niềm nhớ thương da diết hoà cùng bức tranh cảnh càng khiến cho lòng người đau đớn khôn khuây. Càng đau vì nhớ người, vì sự khắc khoải ngóng trông của người yêu, Kiều càng cảm thương cho thân phận “bẽ bàng” của mình:

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Có sự đối lập về ý giữa “Tim sương luống những rày trông mai chờ” và “Bên trời góc bể bơ vớ” – sự ngóng trông trong mòn mỏi, vô vọng một người nơi xa xăm, mịt mù vô định. Kiểu tự ý thức được cảnh ngộ của mình, nên nỗi đau càng như xé gan ruột. Nhưng chính trong niềm đau ấy, ta nhận ra ở người con gái bé nhỏ mà kiên trinh ấy những phẩm chất cao quý :

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Một câu hỏi đồng thời cũng là lời khẳng định đinh ninh về tấm lòng sắt son đối với người yêu của Kiều. Ta còn nhận ra trong lời tự thán ấy dư vị chua xót – sự chua xót của bi kịch khi phải sống trong kiếp bơ vơ, nơi “bên trời góc bể’’ mà nỗi lòng nhớ nhung cứ vẫn vít khôn khuây. Nỗi đau nối tiếp nỗi đau. Nhớ về Kim Trọng trong sự xót xa, bẽ bàng, Kiều hướng tới cha mẹ trong nỗi nhớ, niềm thương:

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Bán mình chuộc cha, lâm vào tình cảnh “bẽ bàng”, Kiều vẫn một lòng lo cho song thân. Nỗi lo song hành với cảm giác xót xa của một người con hiếu thảo không thể chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Cảm thương và trân trọng biết bao trước một nàng Kiều với những tình cảm cao đẹp. Trong cảnh ngộ như vậy, đáng ra Kiều phải lo cho bản thân mình trước, xót xa cho số kiếp mình đầu tiên, nhưng nàng lại hướng tới người yêu và cha mẹ trong sự khắc khoải, day dứt. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của người con gái “sắc tài” ấy.

Sau nỗi nhớ là niềm đau, nỗi buồn tê tái khi chợt thức nhận vể hoàn cảnh hiện tại của mình. Những tháng ngày bão tố, sóng gió vừa qua, chặng đường phía trước mịt mờ, đầy chông gai ! Bao bất hạnh, bao xót xa bủa vây, xiết chặt hồn Kiều:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyên ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là vê đâu ?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ chất chứa nỗi buồn đau tê tái, sự hoang mang lo sợ. Điệp từ “buồn trông” lặp lại bốn lần ở những câu thơ lục vừa diễn tả trọn vẹn tâm thế của Kiều trong tình cảnh ấy vừa góp phần tạo nên âm hưởng, nhịp điệu da diết cho toàn đoạn thơ. Trong cảnh ngộ đơn độc, bơ vơ nơi chân trời, góc bể, Thuý Kiều đã tìm đến với thiên nhiên như một người bạn tri âm, một điểm tựa tinh thần. Thiên nhiên đến với nàng để sẻ chia, để sát cánh. Vì vậy mà dưới con mắt của Kiểu, mỗi hình ảnh thiên nhiên lại gợi ra biết bao chua xót về thân phận bơ vơ, về số kiếp bất hạnh:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyên ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Cánh buồm thấp thoáng, như thực như ảo giữa “cửa bể chiều hôm’” gợi ra hành trình lưu lạc, nổi chìm của Kiều. Khung cảnh chiều hôm gợi nhớ, gợi sầu cho kẻ li hương. Cánh buồm “thấp thoáng” vô định cộng hưởng kì lạ với tâm trạng của nàng trước lầu Ngưng Bích. Thân phận nàng giờ đây đâu khác gì cánh hoa, lắt lay trước sóng gió cuộc đời:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Câu hỏi này cũng là lời tự vấn, tự thương cho thân phận mình của Kiều. Giữa đời nước vô định, cánh hoa mong manh biết bao trước sóng dập gió vùi, như thân phận người con gái chuẩn bị bước vào cuộc hành trình đằng đẵng của số kiếp đoạn trường, oan khổ lưu li. Người con gái “Sắc dành đòi một tài đành hoạ hai” ấy phải chịu kiếp “cỏ nội hoa hèn” bạc bẽo, sầu đau:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Nội cỏ mang tâm trạng “rầu rầu“, héo úa, cô đơn, lạc lõng giữa “chân mây“, “mặt đất” hay là thân phận của Kiều giữa mênh mông cuộc đời:

Buồn trông gió cuốn mặt gềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Cả thiên nhiên vắng lặng hoà theo tâm hồn lạnh lẽo, cô đơn, hoang mang lo sợ của Kiều. Thanh âm duy nhất vang vọng lại là tiếng sóng “ầm ầm”, như nói lên nỗi lo âu, khiếp sợ của Kiều. Tám dòng thơ chất chứa tâm trạng. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du đã đạt đến độ tuyệt bút. Mỗi hình ảnh, mỗi yếu tố ngoại cảnh đều như một ẩn dụ cho tâm trạng khổ đau và cảnh ngộ ngang trái của Kiều. Nàng đang ngập chìm trong bể khổ trầm luân. Hệ thống từ láy được tác giả sử dụng đắc địa đã tạo nên cho đoạn thơ âm hưởng hắt hiu, trầm buồn, diễn tả tinh tế tâm trạng của Kiều.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất của Truyện Kiều. Từ bức tranh cảnh, Nguyễn Du đã thổi hồn vào đó, xây dựng nên chân dung tâm hồn của Kiều trong cơn bĩ cực, từ đó mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, xúc động trước một cô Kiều tài hoa mà bạc phận có tâm hồn cao quý. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng xúc động thốt lên:

Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc

Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.

(Chế Lan Viên – Đọc “Kiều ”)

Tinh cảm của nhà thơ cũng là tiếng lòng chung của triệu triệu trái tim những người đã, đang và sẽ thổn thức cùng Kiều.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 15

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm để lại nhiều tiếng vang trong nền thi ca Việt NamTrích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là giai đoạn sau khi Thúy Kiều bán mình chuộc cha và em trai, Nàng bị Mã Giám Sinh và Tú Bà kết hợp với nhau đẩy nàng vào lầu xanh.

Thúy Kiều tìm cách tự tử nhưng được Tú Bà cứu sống sợ nàng chết thì bà ta lỗ vốn nên bà ta buông lời dụ dỗ Kiều tiếp khách. Nàng bị khóa giam lỏng ở lầu Ngưng Bích ngày ngày có người mang cơm cho ăn nhưng khó lòng mà trốn thoát khỏi nơi đây. Tâm trạng Thúy Kiều khi sống ở lầu Ngưng Bích là một tâm trạng ê chề, chán chường, muốn chết mà không cho chết, muốn sống mà sống không yên. Nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu, gia phụ khiến nàng càng thêm chua xót, tủi hổ cho thân phận mình.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Hai từ “khóa xuân” thể hiện sự giam cầm tâm hồn và thể xác của Thúy Kiều tại nơi này. Nàng đang trong thời kỳ xuân sắc, có vẻ đẹp tuyệt trần tài năng vẹn toàn đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc, êm ấm bên người thân hoặc bên người đàn ông tốt yêu nàng thật lòng. Nhưng Thúy Kiều phải sống ở một nơi nhơ nhuốc, trở thành kẻ mua vui cho người khác.

Kiều ở lầu ngưng bíchThông qua những từ ngữ miêu tả của tác giả Nguyễn Du ta thấy thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích vô cùng mênh mông rộng lớn. Chính sự bao la, bát ngát đó càng làm cho Thúy Kiều cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn lẻ loi giữa mênh mông trời biển. Xung quanh chỗ nàng ở có những bụi hồng gai, những cồn cát nhỏ bụi tung mịt mờ trắng xóa, thể hiện cho sự mờ mịt của đời nàng khi nhìn về tương lai. Thúy Kiều cảm thấy tâm trạng càng ngày càng buồn chán, u ám hơn khi nhìn cảnh vật nơi đây.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai từ bẽ bàng thể hiện sự tủi thân, ê chề của Thúy Kiều nàng cảm thấy tấm thân mình giờ này nhơ nhuốc, nhục nhã ê chề, không còn xứng đáng được hưởng hạnh phúc nữa. Trong cảnh trời đất mênh mang, bao la cỏ cây cát bụi xa mờ này làm cho Thúy Kiều trào dâng tình cảm nhớ tới những người thân thương nhớ người yêu thề non hẹn biển của mình đó là Kim Trọng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Trong những câu thơ này Thúy Kiều nhớ lại những lời thề non hẹn biển của nàng với Kim Trọng. Nhớ lại giây phút bên nhau rồi nàng lại lo lắng khi tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng đang đi tìm mình ở khắp nơi. Nhưng tìm làm gì khi thân nàng giờ này đã nhuốm hồng trần, nhơ bẩn không còn trắng trong nữa. Tấm thân này gột rửa bao giờ cho phai, bao giờ mới có thể trở về là một người con gái trinh nguyên, thanh khiết, có lẽ là không thể nào được nữa.

Trong những câu thơ thể hiện sự đau xót, bẽ bàng, cô đơn của Thúy Kiều. Thông qua câu thơ cho chúng ta thấy Thúy Kiều là người chung thủy, sắc son, trong hoàn cảnh bi ai nhưng nàng vẫn luôn lo lắng cho người yêu và người thân của mình.

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Người thứ hai Thúy Kiều nhớ tới đó chính là cha mẹ nàng, nàng lo lắng cho phụ mẫu không có ai chăm sóc sớm khuya. Điều này thể hiện Thúy Kiều là người con vô cùng hiếu thảo luôn nghĩ tới cha mẹ già yếu. Luôn muốn được ở gần phụng dưỡng chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già, đó là tấm lòng đáng quý đáng trân trọng của một người con dành cho đấng sinh thành của mình.

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa….

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Điệp từ “buồn trông” thể hiện tâm trạng , chán chường, của Thúy Kiều. Nàng buồn nên nhìn cảnh vật xung quanh cũng thê lương, u ám, héo hắt như nàng vậy.

Trong trích đoạn này tác giả Nguyễn Du đã vô cùng thành công với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn cảnh vật xung quanh để nói lên tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Nỗi cô đơn tuyệt vọng của nàng đã được đẩy lên cao độ trong không gian im lặng, bát ngát mênh mông, không hề có sự xuất hiện của con người ngoài Thúy Kiều càng làm cho nàng cảm thấy mình lẻ loi, cô độc.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 16

Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Du cũng là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc. Tác phẩm có giá trị lớn về mặt nội dung cũng như nghệ thuật.

Đoạn trích nằm ồ phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau khi biết mình bị lừa vào chôn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa chờ Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới tàn bạo hơn, đê tiện hơn. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều. Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều (6 câu đầu) Khung cảnh chung ở lầu Ngưng Bích: không gian, thời gian mênh mông, hoang vắng:

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Chỉ với mười bốn chữ mà chữ nào cũng gợi lên thời gian, không gian mênh mông, hoang vắng. Cảnh non xa, trăng gần gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích chơ vơ, cao ngất nghễu giữa mênh mang sông nước. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt.

Kiều sống cô đơn, tội nghiệp: Kiều sông một mình giữa cái lầu trơ trọi, giữa thời gian, không gian mênh mông hoang vắng. Cái lầu trơ trọi đã giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người. Cụm từ mây sớm đèn khuya gợi thời gian tuần hoàn khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Ở đó, sớm, Thuý Kiều làm bạn với mây trời, đêm, nàng làm bạn với ngọn đèn. Dù sớm hay đêm nàng vẫn chỉ thui thủi một mình. Thật thương cho nàng Kiều. Mới hôm nào Kiều cùng hai em đi du xuân trong tiết Thanh minh mà bây giờ nàng phải sông cô đơn, buồn tủi ở lầu Ngưng Bích.

Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lô-gíc tâm trạng. Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục và đang bị ép tiếp khách làng chơi nên Kiều nhớ tới Kim Trọng với một nỗi nhớ thương day dứt:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhớ Kim Trọng là nhớ đến tình yêu nôn bao giờ Kiều cũng nhớ lời thề đôi lứa. Nàng đã cùng Kim Trọng thề nguyền dưới ánh trăng. Giờ đây nàng tưởng tượng, ở nơi xa Kim Trọng cũng đang hướng về mình, đang chờ mong tin tức của mình. Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa. Bởi vì, tình yêu son sắt, trắng trong mà nàng thề trao tặng, gắn bó trọn đời với chàng đã bị lũ buôn bán người dập vùi hoen ố. Nàng đã hứa hẹn nhưng rồi vì hoàn cảnh gia đình nàng đã bán mình chuộc cha, cứu em.

Nàng đau đớn còn bởi lẽ vết nhơ bẩn bọn buôn người gây ra làm sao có thể gột rửa cho sạch mà mong xứng đáng với chàng. Kiều không chỉ đau đớn mà còn day dứt, tự hồ’ thẹn vì đã phụ tình yêu, niềm tin, lòng mong mỏi, sự gửi gắm của Kim Trọng. Những chi tiết miêu tả nỗi dày vò, đau đớn đến xót xa của Kiều đã giúp ta hiểu được tấm lòng nàng. Một số từ ngữ tưởng, trông, chờ, bơ vơ, gột rửa, phai,… đã liên kết thành một hộ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình trong sáng, sâu nặng lời thề mà bị tan vỡ.

Nghĩ đến cha mẹ, Kiều thương và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà không được chăm nom. Nàng còn lo lắng không biết bây giờ ai đang chăm sóc cho song thân:

Xót người tựa cử hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố sân Lai, gốc tử đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà đổi thay lớn nhất là gốc tử đã vừa người ôm, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Cụm từ cách mấy nắng mưa vừa nói được thời gian cách xa bao mùa mưa nắng, vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa dối với cảnh vật và con người. Nhớ về cha mẹ, Kiều luôn ân hận vì nàng cho rằng, mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dưỡng của cha mẹ.

Chỉ bằng tám câu thơ mà Nguyễn Du đã miêu tả thật trọn vẹn nỗi nhớ của Thuý Kiều về Kim Trọng, về cha mẹ, người đã sinh thành và nuôi dưỡng mình khôn lớn. Nỗi nhớ thật sâu lắng và da diết.

Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh được quan sát từ xa đến gần. về màu sắc thì được miêu tả từ màu nhạt đến đậm. về âm thanh, tác giả lại miêu tả từ tĩnh đến động. Nỗi buồn thì tác giả miêu tả từ nỗi buồn man mác dần tăng lên nỗi lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và Ảm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của sô phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều. Và quả thực, ngay sau lúc này, Kiều đã bị Sở Khanh lừa và dấn thân vào kiếp sống long đong lận đận của 15 năm lưu lạc.

Bằng hai câu hỏi tu từ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xá’?, Iloa trôi man mác biết là về đâu?, tác giả đã làm nổi bật lên tâm trạng của Thuý Kiều. Đó là tâm trạng cô đơn lẻ loi, là tâm trạng lo sợ hãi hùng. Kiều nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình

Như vậy, cũng là tả cảnh nhưng bức tranh cảnh vật ở đây được quan sát qua tâm trạng của nàng Kiều. Chỉ trong tám câu thơ nhưng điệp ngữ buồn trông xuất hiện tới bôn lần. Càng buồn thì càng trông. Càng trông lại càng buồn vì ở lầu Ngưng Bích Kiều sông cô độc, lẻ loi. Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn càng làm tăng nỗi buồn đau của kiếp người lưu lạc. Cảnh cửa bể chiều hôm với cánh buồm thấp thoáng xa xa càng làm cho Kiều suy nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi đất khách quê người.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ hay nhất trong truyện Kiều. Bởi vì, qua đoạn trích, người đọc cảm nhận được tâm trạng cô đơn, buồn tủi, tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều. Đồng thời, qua đoạn trích, người đọc thấy rõ nghệ thuật khắc hoạ nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Học đoạn trích, ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ Nguyễn Du. Nhà thơ đã xót thương cho một người con gái tài hoa mà bạc mệnh như nàng Kiều. Đó cũng chính là sự cảm thông sâu sắc của tác giả dành cho những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 17

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du được coi là một kiệt tác tiêu biểu và nổi bật. Giá trị bền vững của tác phẩm được tạo ra không nên chỉ ở mặt nội dung câu chuyện hấp dẫn mà còn cốt yếu có thể hiện qua những bút pháp nghệ thuật đặc sắc và nổi bật là nghệ thuật miêu tả tâm lý, nhân vật nội tâm. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích thể hiện rõ tài liệu miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, ta có thể thấy được tâm trạng buồn bã, nỗi nhớ thương cùng dự cảm của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bơ vơ, lạc lõng ở lầu Ngưng Bích.

Trong sáu câu thơ đầu tiên, tâm trạng của Thúy Kiều được làm nổi bật lên với sự chán chường, bơ vơ, lạc lõng và buồn tủi qua khung cảnh lầu Ngưng Bích. Đó là không gian chơi bốc hỏa giữa trời nước, núi non: “Vẻ non xa, tấm gương gần ở chung” và Kiều chỉ nhìn đã thấy được “Cát vàng cồn cào bụi hồng bay kia” với những “cồn cát vàng” như đang chuyển động động sóng và bụi hồng lông trải trên hàng dặm xa Khăn. Tất cả đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên được phóng chiếu ở cả chiều cao và chiều rộng, gợi ra sự mênh mang, hoang vắng và lấp lánh nhưng lại bị bó gọn trong khoảng thời gian “mây sớm, đèn trễ” hàng tuần hoàn, khép kín; làm nổi bật hơn nữa tâm trạng “bẽ bàng” của nhân vật lưu trữ tình trạng bị giam lỏng trong vòng luẩn quẩn đùa giỡn đầy rẫy. Khung cảnh đó như cắt xén và xoáy sâu hơn nữa vào bi kịch của Thúy Kiều:

Ngòi bút tình tế của tác giả Nguyễn Du tiếp tục len lỏi sâu giả vào dòng tâm trạng của nhân vật khi miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều. Trước hết, nàng nhớ về hình bóng chàng Kim và đêm thề nguyền ước nguyện giữa hai người:

“Tưởng người dưới trăng chén đồng
Tín sương luống những rày trông mai chờ”

Tình yêu đối với chàng Kim trở thành nỗi ám ảnh mạnh mẽ nhất trong tâm trạng của Thúy Kiều, bởi “Hiếu tình không lẽ hai bề ngoài”, và nàng đã chọn cách đoạn tình để làm trọn đạo hiếu. Sau đó các nàng nhớ về cha mẹ mình:

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Mưa nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã ôm người.”

Là người con có hiếu, dù đã bán mình thay lông cha nhưng trong lòng Kiều vẫn trĩu nặng nỗi nhớ thương về cha. Tác giả đã sử dụng điển tích- một biện pháp nghệ thuật điển hình trong thi pháp của nền văn học trung đại để nói lên tấm lòng hiếu thảo của nàng Kiều. Nhưng điểm đặc sắc là tác phẩm đã đặt nỗi nhớ của chàng giả Kim lên trước nỗi nhớ về cha mẹ, thể hiện rõ nét nét tinh tế trong tác phẩm miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. By may with cha mẹ, nàng đã bán mình, hi sinh bản thân; còn đối với chàng Kim, nàng vẫn còn mang nặng nợ một lời thề cùng một mối tình son sắt thủy chung và nàng tự cho mình là người phụ bạc.

Sau khi nhớ về quá khứ, về tình yêu, về gia đình thì tâm trạng của nàng Kiều chìm trong nỗi buồn đau, cô đơn và lo sợ về thực tại và tương lai. Bút pháp mô tả cảnh trường đã được tác giả vận dụng một cách điêu luyện để miêu tả những con sóng trong tâm lí nhân vật:

“Buồn nhìn cửa chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn nhìn ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn nhìn ngọn cỏ rào,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn face duềnh
Ầm ầm tiếng kêu quanh ghế ngồi”

Đây là tám câu thơ hay nhất trong đoạn trích này khi miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Cảm xúc buồn buồn đã được miêu tả thông qua bức tranh thiên nhiên từ xa đến gần với gam màu ảm đảm trong không gian u tối, và mỗi cặp câu bắt đầu bằng cụm từ “Buồn trông” lại mang những nghĩa ẩn dụ vô. cùng nghĩa. Trước hết, tác giả đã khắc họa nỗi buồn tha hương cũng như khao khát đoàn tụ qua hình ảnh cửa tròn-con thuyền. Hơn ai hết, nàng hiểu ra rằng hơi hi vọng nhỏ nhoi thoát khỏi sự giam cầm vẫn là vô vọng. By vậy nàng đã buồn cho số phận trôi dạt mong manh đầy bi kịch của mình thông qua hình ảnh “hoa trôi man mác”. Câu thơ kết thúc bằng từ nghi vấn “biết là về đâu” đã tạo nên câu hỏi tu từ gợi nên sự mơ hồ, hoài nghi về hiện tại và tương lai. Dự đoán rằng continue được lặp lại và nhấn mạnh hơn nữa trong hai câu thơ cuối cùng:

“Buồn nhìn gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng kêu quanh ghế ngồi”

Âm thanh của tiếng sóng đã được tác động nhấn mạnh thông qua việc sử dụng từ láy tượng thanh “ầm ầm” kết hợp với biện pháp đảo ngữ, gợi tả thành công sự kiện bùng nổ như đang gào thét nơi biển xa. Trước không gian rộng mênh mông sóng vỗ, Thúy Kiều đã có những dự cảm và nỗi lo sợ đầy bất an về những bất trắc đang ập đến và dồn dập cuộc đời. Như vậy, với tám câu thơ được kiến ​​tạo theo câu cấu trúc lặp lại của cụm từ “Buồn trông”, tác giả Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mông lung, rộng lớn, vừa vắng vẻ vừa dữ dội để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc của nỗi buồn trong tâm trạng của Thúy Kiều.

Thông qua diễn biến biến dòng tâm sự của nhân vật Thúy Kiều, chúng ta càng hiểu rõ hơn nữa về cuộc đời của Thúy Kiều- “tấm gương oan khổ” thể hiện một số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh và trải qua vô và bi kịch về gia đình, về tình duyên, về nhân phẩm. Đồng thời, thấy được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm miêu tả nội tâm nhân vật thông qua bút pháp “tả cảnh giới” và sử dụng những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 18

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất Truyện Kiều, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã bị hắn lừa bán vào lầu xanh của Tú Bà, do kiên quyết không chấp nhận cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh, Tú Bà đã quyết định cho Thúy Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Thông qua câu thơ đầu tiên, ta có thể xác định được vị trí và điểm nhìn của nàng Kiều, đó chính là trước lầu Ngưng Bích, đứng trông ra núi non hùng vĩ, không gian mở đầy rộng lớn, mênh mông trái ngược hoàn toàn với lầu Ngưng Bích. “Khóa xuân” ở đây ta có thể hiểu đó là một không gian khép kín, nơi có thể buộc chặt tự do, khóa chặt tuổi xuân của nàng Kiều. Mở ra trước tầm mắt của Kiều là vẻ non xa tấm của ánh trăng gần ở chung. Cảnh vật như ẩn như hiện, như xa mà như gần, không gian rộng lớn, hùng vĩ nhưng lại hoang vắng, tịch mịch đến rợn người “Bốn bề bát ngát xa trông”.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Từ khi sống ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều luôn tự suy ngẫm, dằn vặt về bản thân cũng như đau khổ trước những biến cố đã xảy ra với bản thân mình, thường trực trong nàng là tâm trạng xấu hổ buồn tủi trước sự ô nhục mà bản thân đã trải qua, cùng với đó là nỗi nhớ nhung da diết với chàng Kim. Thúy Kiều nhớ về lời thề nguyền dưới ánh trăng năm nào. Khi quyết định phá vỡ lời thề, Thúy Kiều vẫn chưa có cơ hội gặp lại chàng Kim để nói lời từ biệt, do vậy mà nàng luôn đau đáu trong lòng sự day dứt, đau khổ khi nghĩ về chàng Kim vẫn không hề hay biết mà chờ đợi nàng trong vô vọng.

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy năng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Cùng với nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ hướng về cha mẹ. Thúy Kiều đau xót khi nghĩ về cha mẹ đã lớn tuổi nhưng ngày ngày vẫn tựa cửa đợi con “Xót người tựa cửa hôm mai”. Nàng đau khổ khi không thể ở bên chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi về già, không thể thực hiện bổn phận, trách nhiệm của một người con, quạt cho cha mẹ khi trời nóng, hay sưởi ấm chăn cho cha mẹ khi trời trở lạnh. Hình ảnh Sân Lai là một điển tích trong văn học cổ Trung Quốc, nói về người con có hiểu là Lai Tử người nước Sở thời xuân thu, tuy đã già những vẫn còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ vui lòng. Mượn hình ảnh Lai Từ vừa thể hiện được sự day dứt của Thúy Kiều vừa thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ.

“Buồn trông ngọn nước mới xa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Dù trong hoàn cảnh đau khổ nhất, Thúy Kiều cũng nghĩ về người khác trước khi nghĩ về bản thân mình. Đau khổ với những nỗi nhớ để khi quay về với thực tại thì nàng lại xót xa nhận ra sự bẽ bàng, đau khổ của bản thân. Như Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, như đồng cảm với tâm trạng của nàng Kiều, cảnh vật cũng thấm đượm sự u buồn, không những thế nó còn dự báo về tương lai đầy bão tố của nàng trước mắt. Đó là hình ảnh ngọn nước mới xa, hình ảnh cánh hoa nổi trôi, là ngọn cỏ rầu rầu, là màu xanh của chân mây nhưng lại không gợi ra được sự sống.

Như vậy, qua đoạn trích Kiều ở lầu NGưng Bích ta có thể thấy được tài năng hơn người của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm nhân vật cùng với đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của ông.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 19

Truyện Kiều là kiệt tác văn học bất hủ của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Thiên tài Nguyễn Du viết Truyện Kiều và khoảng thời gian sau khi đi xứ Trung Quốc trở về. Sau khi ra đời, tác phẩm nhanh chóng được nhân dân say mê đón nhận. truyện Kiều trở thành một phần tinh thần, ăn sâu vào trong đời sống văn hóa của dân tộc.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích tái hiện chân thực bức tranh tâm trang của Thúy Kiều khi bị “giam lỏng” ở lầu Ngưng Bích. Đặc biệt ở 8 câu thơ cuối, tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng được đẩy lên đến cực đỉnh, thể hiện tài năng khắc họa tâm lí con người của thiên tài Nguyễn Du.

Sau khi biết mình bị Mã Giám Sinh lừa bán vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức rút dao toan tự vẫn. May thay, Tú Bà kịp thời can ngăn. Sợ mất đi vốn liếng, Tú Bà bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ hết mực. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả cho người tử tế; rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.

Vừa mới bước vào đời đã vấp phải thói đời giả trá, lừa lọc khiến nàng vô cùng đau đớn. Vừa tủi thân mình lại vừa giận số kiếp bạc bẽo. Ở lầu Ngưng Bích cô vắng, quạnh hiu nàng không nguôi nhớ nhung da diết. Mở đầu là bức tranh đặc tả tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích qua cảnh vật đìu hiu, hoang vắng đến thê lương.

“Buồn trông cửa bề chiềm hôm
Thuyền ai thấp thoánh cánh buồm xa xa!”.

Không gian nghệ thuật được miêu tả dưới con mắt nhìn của Thúy Kiều. Tại lầu Ngưng Bích cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo. Không một biện pháp tu từ, mà gói trọn cả một tâm trạng thầm buồn “buồn trông”, một không gian buồn “cửa bể”, một thời gian đượm buồn chiều hôm của một người đang lẻ loi, ngóng đợi.

Ngay bây giờ đây, hơn lúc nào hết, nàng cần có người bạn tâm giao để giải bày tâm sự nhưng tất cả chỉ là vô vọng. “Thuyền ai thấp thoáng”, giống như một niềm tin an ủi đối với Kiều trong lúc cô đơn. Dù sao nàng vẫn còn trông thấy những hoạt động sống. Nơi biển khơi xa “thuyền ai” thấp thoáng tưởng như để hỏi nhưng không phải. Đó là tiếng kêu đau thương, là sự với tìm trong vô vọng. Nàng cố tìm một điểm tựa để nương náu tinh thần cho bớt chơi vơi. Thế nhưng càng tìm kiếm càng thấy xa vắng hơn.

Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Trước mắt nàng đó là hình ảnh một “cánh buồm” nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi giữa mênh mông trời nước, bơ vơ trên mặt biển lúc “chiều hôm” vừa ập xuống… Nàng ngước nhìn xa xa phía chân trời góc bể, không thấy gì hơn ngoài cánh buồm thấp thoáng nơi khơi xa.

Từ “xa xa” gợi lên khoảng cách xa đến vô vọng. Cánh buồm là hình ảnh của con người, là nơi nương tựa tinh thần thế nhưng nó ở xa quá. Có mà như không có. Cánh buồm còn là biểu tượng của kẻ đến người đi, mang theo tin tức, đồng cảm, sẻ chia cùng con người. Tưởng như nó sẽ làm cho không gian bớt rộng, trở nên gần gũi và ấm áp hơn. Nhưng ngược lại, cánh buồm ấy chỉ thấp thoáng càng làm cho mặt biển mênh mông trở nên rộng đến vô cùng.

“Cánh buồm xa xa” lúc ẩn, lúc hiện, nhạt nhòa mờ ảo dần, vuột khỏi tầm mắt của Kiều. Con thuyền kia đang lệnh đênh trên mặt biển bay chính là hình ảnh Kiều bơ vơ, lạc lõng nơi đất khách quê người. Phải chăng thân phận nàng Kiều rồi đây cũng trôi nổi, không bến bờ neo đậu. Cảnh tượng ấy đã khơi gợi nỗi buồn trống vắng trong tâm hồn Kiều khi nghĩ đến cố hương và bóng dáng những người mến thương, yêu dấu. Không biết đến bao giờ mới trở về sum họp. Câu hỏi ấy cứ xoắn chặt lấy tâm trí nàng…

Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt. Cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh trên mặt biển khi mà những con thuyền khác đều đã cập bến, biết bao giờ mới tìm được bến bờ neo đậu. Cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.

Câu thơ mang dáng dấp một câu hỏi như xoáy mãi vào tâm can người đọc bao thế hệ, để lại trong ta những nỗi niềm day dứt, trăn trở. Nàng Kiều hỏi rồi lại tự mình càng đau đớn, càng xót xa hơn. Những từ tượng hình “thấp thoáng”, “xa xa” gợi lên hình ảnh mơ hồ của con thuyền hay chính là nỗi nhớ mong vô vọng. Âm điệu thơ rã rời, trầm lắng hẳn…

Trong tầm nhìn gần hơn, có biết bao hình ảnh thiên nhiên chợt ùa vào trong mắt Kiều. Trên dòng nước uốn quanh, bông hoa lững lờ trôi, bất giác nàng nghĩ đến phận mình:

“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Đọc câu thơ ta hình dung một “ngọn nước” đổ mạnh, cuốn theo nó là cánh hoa bé nhỏ trôi về phương trời vô định. Cánh hoa bọt bèo kia hay chính là thân phận nàng Kiều chìm nổi, lênh đênh giữa dòng đời mênh mang. Cánh hoa ấy đang bị vùi dập như cuộc đời “bạc mệnh” của Thúy Kiều. Hình ảnh “hoa trôi”, “về đâu” gợi cảm ấy khiến cho Kiều “man mác” buồn khi chạnh nghĩ đến thân phận bèo mây nổi trôi theo dòng đời chấp chới.

Trước mắt, Kiều vẫn chưa biết mình sẽ đi đâu về đâu giữa biển đời rộng lớn này. Số phận nàng dường như một ẩn số với bao điều tăm tối. Còn gì đau đớn, xót xa hơn khi con người ta đã bị mất quyền làm người, tồn tại mà như bị phủ nhận, bị lãng quên. Nỗi đau trong lòng nàng Kiều nghe sao tê tái, thê lương.

Nỗi lòng ấy, tâm sự ấy không chỉ dừng lại ở đó mà tiếp tục lan ra, bao trùm cảnh vật:

“Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.

Nội cỏ “dầu dầu”, chân mây, mặt đất “xanh xanh” tuy đầy màu sắc mà ảm đạm vô cùng. Sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Cảnh vật úa tàn hay chính cuộc đời, tâm hồn nàng Kiều đang một ngày tàn tạ, héo úa. “Màu xanh xanh” ấy gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ. Nàng dường như mất cả nhận thức về thế giới thực tại, tâm trạng rơi vào trạng thái bấn loạn, hoang mang tột độ. Cái “màu xanh xanh” ấy không còn là màu của cỏ cây mà đó là màu của tâm trạng – một tâm trang hoảng hốt và sợ hãi. Có còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm:

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cạnh lệ trắng điểm một vài bông hoa”.

Cái màu “xanh xanh” héo hắt, ủ dột, cạn kiệt sức sống như ngọn cỏ vàng trên nấm mộ hoang lạnh của người kỹ nữ Đạm Tiên ngày nào mà nàng đã bắt gặp trong lễ hội Thanh minh năm ấy:

“Sè sè nắm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.

Hình ảnh cánh đồng cỏ “xanh xanh” già cỗi, héo úa trải dài “chân mây mặt đất” mờ mịt, xa xâm quá, phải chăng tương lai phía trước của Thúy Kiều cũng rất mịt mờ cùng quẫn, bế tắc, không lối thoát hay đó cũng chính là nỗi buồn vô tận cho cuộc sống tẻ nhạt, vô vị mà nàng đang phải cắn răng chịu đựng.

Đến hai câu thơ cuối, Kiều như đã rơi vào hoang tưởng, bế tắc tột cùng:

“Buồn trông gió cuốn mặt dềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”…

Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy hay chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Thiên nhiên thật là dữ dội, tiếng sóng biển “ầm ầm” quanh bốn phía hòa với những cơn “gió cuốn” gào thét nổi lên khiến cho Kiều vừa buồn, vừa lo sợ hãi hùng khi nàng mường tượng đến chặng đường đầy bão tố đang sấp ập lên cuộc đời mình. Tiếng sóng biển – hay cũng chính là tiếng lòng sóng lòng, tiếng sóng cuộc đời vang lên tiếng gõ cửa của định mệnh, muốn hất tung người con gái đơn côi yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đờ nhỏ bé, chông chênh.

Thực ra, xung quanh nàng nào đâu có gió, có sóng. Gió cuốn mặt dềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là do ảo giác mà ra. Nõi sợ hãi, đau đớn, tuyệt vọng đã hoàn toàn chiếm lĩnh lấy tâm hồn và toàn bộ lí trí của nàng. Giờ đây tất cả đều vô hình, chỉ có nỗi đau hiện hình, xoắn lấy và hành hạ người con gái nhỏ bé đã bất lực trước cuộc đời nghiệt ngã.

Những thành công nghệ thuật của Nguyễn Du trong đoạn trích:

Nguyễn Du đã rất thành công khi khắc họa đậm nét tâm lí nhân vật. Ông đã để cho Kiều nhìn cảnh vật bằng chính tâm trạng của mình nên mỗi cảnh vật đều gợi lên những bất hạnh khổ đau của cuộc đời nàng. Vương trong con mắt người con gái bán mình đang “buồn trông”, mọi hình ảnh vừa chìm, trôi dạt, vừa có cái gì như mờ mịt, nhạt nhòa. Đấy là những hình ảnh thật hay hình ảnh tưởng tượng, huyễn hoặc trong tâm trạng cô thiếu nữa đáng thương.

Cách sắp xếp trình tự miêu tả ở đây khiến ta cảm thấy được nỗi buồn như đang dồn đuổi nàng… Mỗi cảnh vật đều khơi gợi cho nàng buồn với những cung bậc khác nhau: nỗi buồn vì nhớ mong chờ đợi, nỗi sầu khổ băn khoăn day dứt cho số phận, sự chán ngán thất vọng cho hiện tại và bàng hoàng ghê sợ kinh hoàng khi dự cảm đến tương lai…

Điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông” giống như một điệp khúc trong khúc ca sầu thảm, tạo cho ta cảm giác nỗi buồn ấy cứ trở đi, trở lại khôn nguôi, dai dẳng, triền miên, đang ngày một thấm sâu vào tâm hồn Thúy Kiều, nhuộm lên cảnh sắc thiên nhiên, nỗi buồn mênh mang trời đất, thấm đẫm cả không gian, thời gian.

Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lần, thanh y hai lượt”.

Âm điệu trầm lắng của đoạn thơ cùng với cách lựa hình ảnh, sắc màu, âm thanh, đường nét của tác giả trong đoạn thơ này thật dụng công. Tất cả đều phù hợp với tâm trạng của nhân vật. Đọc đoạn trích, ta thấy hình ảnh con người cứ mờ dần đi, chỉ còn lại tâm trạng nổi bật lên trên khung cảnh thiên nhiên. Từng lời thơ giống như tiếng lòng nàng Kiều đang thổn thức, tái tê.

Toàn bộ đoạn trích kết hợp lại thành một bức tranh mà trong đó tâm cảnh hòa lẫn với ngoại cảnh. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình thật tài hoa, đặc sắc biết bao. Nghệ thuật ấy đã trở nên quen thuộc trong văn chương kim cổ, góp phần vào sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều”. Không chỉ “tả cảnh ngụ tình”, đoạn trích còn dự báo cả tương lai, số phận của nhân vật. Đúng như Kiều âu lo, sau chặng đường “bình yên trước cơn bão tố”, nàng đã rơi vào bẫy của Sở Khanh và Tú Bà để tiếp tục trở lại lầu xanh ô nhục.

Qua việc vận dụng ngòi bút miêu tả tinh tế, điêu luyện, chọn lọc hình ảnh tiêu biểu kết hợp với một giai điệu trầm buồn và bằng cả bức tranh thiên nhiên trữ tình tuyệt tác, đoạn thơ đã diễn tả tinh tế, chân thật tâm trạng “ngổn ngang trăm mối” của nàng Kiều trong một “chặng đường yên tĩnh trước cơn bão tố”… Nguyễn Du thực sự là một bậc thầy trong việc sử dụng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” và nhiêu bút pháp nghệ thuật đặc sắc khác.

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích- Mẫu 20

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm lớn và xuất sắc nhất của Nguyễn Du. Để viết nên tuyệt tác này, ông đã sử dụng rất thành công các phép tu từ, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có lẽ là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm, qua đó đã diễn tả sinh động tâm trạng Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, để lại ấn tượng không thể nào quên cho người đọc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Khung cảnh thiên nhiên của cửa biển trước lầu Ngưng Bích như hiện lên trước mắt ta: một nỗi buồn chiều hoàng hôn đẹp nhưng buồn và quạnh hiu. Đó là những con thuyền với những cánh buồm trắng nhấp nhô, con sóng bạc dập dềnh cuốn trôi từng cánh hoa, lác đác rơi trong ánh nắng cuối chiều, cỏ xanh ươm nối liền đường chân trời xanh vô tận. Cùng với âm thanh dữ dội của biển khơi như một nét chấm phá cho cảnh vật, bức tranh thiên nhiên chứa đựng trong nó biết bao nỗi niềm chất chứa của con người…

Qua những ngôn từ và hình ảnh miêu tả cảnh vật, bằng cách sử dụng khéo léo và tinh tế bút pháp tả cành ngụ tình, Nguyễn Du đã cho ta hiểu và cảm thương với tâm trạng nàng Kiều.

Điệp ngữ buồn trông được sử dụng xuyên suốt đoạn trích tạo thành điệp khúc cho đoạn thơ và cũng tạo nên điệp khúc tâm trạng Thuý Kiều. Nỗi buồn trong Kiều như trào dâng như lớp sóng ồ ạt dồn về phía đại dương mênh mông. Nỗi niềm đó cứ triền miên, cứ dai dẳng, đeo bám, tạo thành cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, con người ta có muốn vùng thoát ra mà cũng không thể nào được. Mỗi cảnh vật như đều nói lên nỗi niềm tâm sự ấy.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thóang cánh buồm xa xa?

Con thuyền không bến đậu, không nơi chốn quay về gợi nhớ nỗi nhớ, nỗi cô đơn của người đi xa, muốn trở về bên gia đình êm ấm, bên bạn bè thân thương, điều này vó cùng phù hợp với cảnh ngộ của Kiều.

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cuộc đời Kiều bây giờ như cánh hoa mỏng manh trước sóng to gió lớn, chỉ biết mặc cho bão bùng, mưa giông vùi dập. Câu thơ bộc lộ nỗi lo lắng, xót xa, buồn tủi về cảnh ngộ lênh đênh chìm nổi trước sóng gió cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Thảm cỏ, biển cả với màu xanh vô vọng thật buồn và ảm đạm. Liệu có phải cánh cửa tương lai đang khép lại trước mắt Kiều, hố đen tuyệt vọng cua số phận như lấp hết cả ước mơ và khát khao.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Ngoài kia, biển xanh đang cuộn sóng. Những âm thanh gợi sự việc kinh khủng, hãi hùng, như dự báo tai biến, nguy nan như chực đổ xuống thân phận bé nhỏ của Kiều.

Lần lượt từng câu hỏi tu từ vang lên như muốn xoáy sâu vào tâm can người đọc. Ta như hiểu, cảm thông, thương xót cho những lo lắng rối bời cùng nỗi hoảng sợ tuyệt vọng của Kiều trước tương lai vô định.

Có thể nói, đây là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất xuyên suốt tác phẩm. Qua bức tranh thiên nhiên, ta xót xa, thương cảm cho số phận người con gái tài hoa bạc mệnh, qua đó cũng bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất (20 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (19 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button