Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy bao gồm hướng dẫn viết cùng 10 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 9 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.
Đề bài: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Hướng dẫn Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy
A. Mở bài:
Bạn đang xem: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy lớp 9 (10 Mẫu)
- Dẫn dắt vào đề tài ánh trăng.
- Giới thiệu phong cách thơ của Nguyễn Duy và bài thơ ” Ánh trăng”.
- Khổ thơ cuối mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.
B. Thân bài: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài thơ.
1. Hình ảnh Trăng cứ tròn vành vạnh:
- Thể hiện một quá khứ đẹp đẽ của ánh trăng
- Ánh trăng quá khứ trọn vẹn, chung thủy và không phai màu
- Ánh sáng và trăng vẫn như xưa, không thay đổi
2. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc”:
- Dù trăng rất đẹp, rất chung tình.
- Nhưng dù đẹp hay lung linh đến đâu thì cũng nghiêm khắc.
- Sự hờn trách của ánh trăng đối với con người.
3. Hình ảnh “ta giật mình”:
- Nhớ lại quá khứ đẹp đẽ
- Tác giả tự vấn lương tâm mình
- Ân hận và xót xa bản thân mình
- Nhắc nhở tự hoàn thiện bản thân hơn
4. Hình ảnh qua khổ thơ cuối.
- Tác giả trân trọng và muốn giữ gìn những giá trị truyền thống đẹp đẽ
- Lãng quên quá khứ và sống cho riêng mình quên đi người bạn chân thành.
- Nhắc nhở chính mình phải sống ân nghĩa, chung tình.
C. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ của em về khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng.
- Liên hệ từ ánh trăng đến bản thân con người.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 1
Trăng là một đề tài không còn xa lạ trong thơ ca. Trong các tác phẩm văn học, vầng trăng luôn xuất hiện như một người bạn tâm tình gắn bó với thi sĩ. Đặc biệt trong những năm tháng kháng chiến, vầng trăng như người đồng đội cùng kề vai sát cánh chiến đấu như nhà thơ Chính Hữu đã xây dựng hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Thế nhưng khi chiến tranh qua đi, khi con người dần quen với ánh điện sáng trưng thì lại quên đi vầng trăng, quên đi quá khứ nghĩa tình. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã khắc họa thành công điều đó đặc biệt là khổ thơ cuối gây cho ta nhiều điều đáng suy ngẫm:
Trăng cứ im phăng phắc
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Nguyễn Duy đã mở ra một câu chuyện trước mắt người đọc. Những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ gắn liền với hình ảnh ánh trăng. Trăng khi ấy là bạn, luôn cùng ta tạo nên những kỉ niệm êm đềm. Đến khi đất nước gặp chiến tranh, khi ta cầm súng bảo vệ quê hương, trăng như người đồng chí cùng kề vai sát cánh chiến đấu, soi tỏ những đêm tối âm u. Thế nhưng khi đất nước được hòa bình, trở về với thành phố nhộn nhịp, với ánh sáng rực rỡ của đèn điện, ta lại dần quên đi ánh sáng dịu dàng của vầng trăng, coi trăng như người dưng qua đường. Và rồi một tình huống đột ngột xảy ra cả tòa nhà mất điện. Khi ấy mở tung cửa sổ, thấy vầng trăng sáng vẫn lặng lẽ ở đó, ta mới thấy ngỡ ngàng.
Không hề trách móc sự quên lãng của người lính, vầng trăng vẫn tròn vành vạnh, tỏa sáng dịu hiền. Thế nhưng sự im lặng không tiếng động ấy càng làm cho ta cảm thấy sự bạc bão của mình trong năm tháng qua. “tròn vành vạnh” đâu phải chỉ là vẻ đẹp vầng trăng thiên nhiên trong sáng viên mãn, đó còn làbiểu tượng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa đã từng có trong những hồi ức vẫn không hề có chút đổi thay, không bao giờ phai nhạt. Thế nhưng càng miêu tả vầng trăng tình nghĩa, nhà thơ giống như đang tự trách mình lỡ vô tình quên đi những hồi ức tốt đẹp ấy, trách mình quên đi người bạn không bao giờ rời bỏ mình. Sự tự trách đo đã khẳng định một tâm hồn đẹp, một vẻ đẹp của nhân cách nhà thơ.
“Ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh tuyệt đối lặng yên, không mảy may lay động. Sự tình nghĩa của ánh trăng sẽ mãi không đổi thay, luôn thủy chung cho dù cuộc sống có biến động như thế nào. Qua ánh trăng ta thấy những kỉ niệm của quá khứ sẽ luôn sống cùng với thời gian năm tháng cho dù con người có thể đổi thay, quên lãng nó để rồi đến một lúc nào đó nó sẽ gợi nhắc con người nhớ lại. Thành công lớn nhất của Nguyễn Duy trong khổ thơ này đó là đã sử dụng rất tinh tế từ “ giật mình”. Đó là một phản xạ tâm lí của nhân vật trữ tình khi nhận ra được sự vô tình bạc bẽo trong cách sống của mình trước sự uy nghi, tĩnh lặng của vầng trăng. Đó là cái “giật mình” thức tỉnh để nhân vật trữ tình tự nhắc mình phải luôn nhớ tới quá khứ nghĩa tình đã qua. Trong cuộc sống nhộn nhịp, xô bồ, cần lắm những cái giật mình như vậy. Nó sẽ hướng con người về những cái tốt đẹp, níu giữ con người trước cám dỗ cuộc đời, không bị chìm nghỉm trong cái lo toan bộn bề của cuộc sống. Câu thơ cuối chính là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt, một bài học triết lý đáng suy ngẫm.
Khổ thơ cuối cùng bài thơ “Ánh trăng” đã đem đến những triết lí nhân sinh sâu sắc. Nó như một lời cảnh tỉnh chúng ta trên từng chặng đường đời để mỗi người biết sống sâu sắc, nhân văn và ý nghĩa hơn.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 2
Nguyễn Duy là nhà thơ nổi tiếng trong nền thơ ca Việt Nam sau năm 1975. Bài thơ “Ánh trăng” là tác phẩm khá thành công của ông. Trong bài thơ, em ấn tượng nhất là khổ thơ cuối, noa đã thể hiện rất tròn quan niệm, tư tưởng của tác giả và cho người đọc nhiều dư vang.
Bài thơ ra đời năm 1978, sau ngày dân tộc ta hoàn toàn giành độc lập ba năm. Thế mà con người ta đã thay đổi nhiều đến bất ngờ, không còn là người nghĩa tình, thủy chung nữa. Họ đã bị cuốn vào vòng xoay của cuộc sống sang trọng, hiện đại nơi kinh kì tấp nập, bị cuốn vào cuộc sống hào nhoáng mà quên đi quá khứ đẹp đẽ. Các khổ thơ trên đã tập trung khắc họa những thay đổi của người lính năm nào và sự thủy chung một mực của vầng trăng. Đến đây, tác giả đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa, tư tưởng của mình:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Đối diện với vầng trăng năm nào, với quá khứ nghĩa tình cùng đồng đội, nhân dân, người lính ấy nhận ra rằng “trăng cứ tròn vành vạnh”. Cái tròn kia phải chăng còn là cái tròn trịa, viên mãn của quá khứ, của tình yêu thương mà nhân dân dành cho nhân vật trữ tình. Và rồi anh quay lại chất vấn chính mình. Trong khi quá khứ tươi đẹp và mọi người vẫn một lòng vẫn vẹn nguyên chung thủy thì anh đã thay đổi, cho tất cả ngủ quên trong miền sâu thẳm. Từ “cứ” diễn tả một cái gì kiên trinh, tận tâm không bao giờ thay đổi. Nó như là một dấu son khẳng định, tô đậm thêm vào sự tròn đầy vĩnh cửu của tình yêu thương. Tác giả đã làm một phép đối ẩn trong các con chữ ngắn ngủi ấy, đó là sự đối lập giữa cái tròn trịa của vầng trăng với sự khuyết thiếu trong tâm hồn của người lính. Lấy cái tròn, sáng đầy đặn của vầng trăng nghĩa tình để làm nổi bật cái khuyết trong tâm hồn của nhân vật sau ba năm trở về cuộc sống hiện đại phồn hoa. Ta nhận thấy rõ được sự thức tỉnh phần nào trong tâm hồn nhân vật. Anh đã dần thấy được sai lầm của bản thân. Đặc biệt là câu thơ :”Kể chi người vô tình”. Đâu chỉ đơn giản là diễn tả một thứ cảm xúc rất nông, quấy loãng mà là một cảm xúc, tâm trạng thổn thức, dằn vặt thống thiết. Anh lính đến lúc này hoàn toàn nhận ra mình đã sai, đã vô tâm đến mức nào. Đi theo anh trong mọi nẻo đường, mọi gian khổ, nguy hiểm trong tuổi trẻ tham gia kháng chiến là trăng, theo anh trên mọi nẻo đường, mọi khoảnh khắc trong cuộc sống mới an nhàn, hạnh phúc cũng là trăng, nhắc nhở anh về lỗi lầm của mình mà không một lời trách móc cũng chỉ có vầng trăng ấy. Vậy mà giờ đây anh lại lỡ lòng lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi người bạn tri âm tri kỷ của mình.
Đối diện với anh giờ đây là sự im lặng phăng phắc của vầng trăng ngày nào. Nó vẫn tròn đầy, vẫn vẹn nguyên nhưng không phải là bao dung hoàn toàn nữa. Trong cái lặng im kia như còn một thái độ nghiêm khắc, nhắc nhở người lính. Cuộc đối mặt đàm tâm đến đây mới thật sự sâu sắc. Hai gương mặt, mặt trăng và mặt người, hay chính là hai mặt trong lòng mỗi con người: thủy chung, nhận nghĩa và vô ơn, bội bạc. Người lính gặp lại vầng trăng hay là gặp lại chính mình của ba năm trước để thấy được mình đã sai ra sao. Và cái giật mình của người lính trong câu thơ cuối như là sự thức tỉnh hoàn toàn, triệt để của nhân vật. Anh đã thoát ra khỏi cơn mê và bên anh lúc này vẫn là vầng trăng muôn thuở. Cái giật mình ấy còn cho người lính một cơ hội sửa sai, quay về với lẽ sống nghĩa tình, thủy chung. Ta rất hay bắt gặp những cái giật mình trong thơ Nguyễn Duy. Trong đó điển hình là giật mình trong bài “Tiếng tắc kè” của ông. Với Nguyễn Duy, cái giật mình ở đây là cần thiết là đáng trân trọng. Nó dù con muộn màng nhưng ít nhất vẫn có thể là liều thuốc cứu lại nhân phẩm đang dần mất đi trong con người.
Với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu xa về lẽ sống. Đó là phải biết trân trọng những gì đẹp đẽ của quá khứ, trân trọng tình nghĩa dù có đi đâu, làm gì. Nhìn sâu hơn, nó là quan niệm nhân sinh về cách sống để giữ cho tâm hồn mình trong sáng, đẹp đẽ trong bất kì hoàn cảnh nào. Tư tưởng ấy đã vượt qua tầm thời đại, đến với bạn đọc nhiều thời, mang ý nghĩa muôn thuở. Từ đó đọng lại trong lòng người đọc là những ám gợi sâu xa, những dư ba chưa nói hết. Khổ thơ đã làm sáng bừng lên vẻ đẹp của toàn bài và của tâm, tầm một nhà thơ lớn.
Khổ thơ cuối của “Ánh trăng” là một trong những khổ thơ mà em tâm đắc nhất. Tư tưởng, ý nghĩa ma tác giả mang đến sẽ mãi đi theo bạn đọc và làm nên sức sống trường tồn cho tác phẩm.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 3
Với một giọng thơ đầy tươi trẻ, giọng thơ đầy suy ngẫm mang hương vị ca dao đằm thắm, mượt mà, Nguyễn Du trở thành gương mặt tiêu biểu và quen thuộc của phong trào thơ chống Mĩ. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng như “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Đò lèn”… “Ánh trăng” cũng là thi phẩm được nhiều người nhắc đến. Ra đời năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bài thơ ghi lại chân thực một thoáng giật mình của thi sĩ trước vẻ đẹp vầng trăng ân tình. Trong cuộc sống mới, sinh hoạt mới, con người bị cuốn vào guồng quay của công việc, của cuộc sống mà vô tình quên đi những ân tình, những kỉ niệm của quá khứ. Nhưng vầng trăng vẫn vậy, tình nghĩa, thủy chung một lòng, không có chút thay đổi. Ý vị xót xa của bài thơ được thể hiện rất rõ trong toàn bài thơ, đặc biệt là trong khổ thơ cuối của bài.
Trong bài thơ “Ánh trăng”, hình ảnh vầng trăng đã trở thành hình ảnh biểu tượng cho những kí ức, biểu tượng cho quá khứ và vẻ đẹp đời sống bình dị, vĩnh hằng. Nhắc đến trăng là Nguyễn Duy muốn nhắc đến lối sống ân tình thủy chung. Nếu ở những khổ thơ trước đó, Nguyễn Duy đã gợi mở ra khoảnh khắc khu phố mất điện, để rồi giật mình nhìn thấy vầng trăng, bao nhiêu kỉ niệm, hình ảnh quá khứ gắn bó với trăng cũng như dòng thác lũ ào ào mà đổ về. Hình ảnh quá khứ càng tươi đẹp bao nhiêu, càng gắn bó bao nhiêu thì nhà thơ càng tự trách mình bấy nhiêu, trách mình sao nỡ vô tình mà quên đi, để bây giờ nhớ lại thì trong lòng lại dâng đầy tư vị của niềm xót xa. Nói về sự thủy chung của ánh trăng, cũng là lời nhắc nhở, kiểm điểm chính mình, khổ thơ cuối chứa những triết lí ý nghĩa khiến cho độc giả phải suy ngẫm:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Trăng, một nhân chứng cho những kỉ niệm, những hồi ức khi xưa. Trăng gắn liền với cả một thời tuổi trẻ, cùng nhà thơ lớn lên, khi trưởng thành thì vầng trăng theo sát từng chặng hành quân, chiến đấu gian khổ. Có thể nói, với Nguyễn Du, vầng trăng không chỉ là một hiện tượng của tự nhiên, vũ trụ, không phải là một vật vô tri vô giác mà là một người bạn, một người tri kỉ, là “vầng trăng tình nghĩa” của nhà thơ. Ở đây, vầng trăng đã trở thành biểu tượng của quá khứ, biểu tượng của một thời gian khó nhưng không bao giờ có thể lãng quên, là những phần kí ức sẽ luôn đi theo nhà thơ đến suốt cuộc đời.
“Trăng cứ tròn vành vạnh”
“Tròn vành vạnh” tả vẻ đẹp vầng trăng thiên nhiên trong sáng, viên mãn. Về cái nhìn thị giác, tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, là cái đẹp không bao giờ gây nhàm chán, thất vọng với con người. Ngoài nghĩa tả thực, hình ảnh vầng trăng tròn, lặng lẽ còn biểu tượng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa đã từng có trong những hồi ức. Những hồi ức ấy vẫn mãi “sáng”, vẫn mãi tròn trịa, viên mãn như vậy, không hề có chút đổi thay, dù thời gian có trôi qua đi nữa, thì tình nghĩa của quá khứ vẫn còn đó, không hề phai nhạt. Nhưng, sự cảm thán về vầng trăng chỉ là cách gợi mở để nhà thơ tự trách mình, trách mình lỡ vô tình, quên đi những hồi ức tốt đẹp ấy:
“kể chi người vô tình”
“Người vô tình” ở đây ta có thể hiểu là sự trách móc mà nhà thơ dành cho chính bản thân mình. Trách mình sao có thể quên đi những tháng ngày của quá khứ, quên đi những kỉ niệm của tuổi trẻ. Để bây giờ nhận ra bỗng cảm thấy xót xa, thấy mình sao thật vô tình. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho độc giả cảm nhận một tâm hồn thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nhân cách. Nhà thơ vốn là người trọng tình nghĩa, song vì nhịp sống mới quá hối hả xô bồ mà nhà văn vô tình quên đi. Nhưng đó chỉ là sự lãng quên trong khoảnh khắc, bởi những kỉ niệm đẹp vẫn nằm trong sâu thẳm trái tim của nhà thơ, vì vậy khi được ánh trăng soi chiếu, nhà thơ mới xúc động, mới dạt dào tình cảm đến vậy.
“ánh trăng im phăng phắc”
Trăng là biểu tượng của thiên nhiên thanh lành, tươi mát, biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của tình nghĩa thủy chung, trọn vẹn không đòi hỏi sự đáp đền. Đó chính là phẩm chất cao cả của ánh trăng mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ khác đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc: “Ánh trăng im phăng phắc” là tuyệt đối lặng yên, không mảy may lay động. Sự tình nghĩa của ánh trăng mãi thủy chung, dù cho cuộc sống có bao biến động, bao đổi thay thì vầng trăng vẫn thế, không hề có sự đổi thay. Kí ức, những kỉ niệm không hề vô tri, vô giác, nó như một sinh thể có linh hồn, có sự sống. Mà ở đây nhà thơ Nguyễn Duy đã kí thác qua hình ảnh ánh trăng. Con người có thể đổi thay, có thể quên lãng nhưng những kí ức thì vẫn còn đó, nó sống cùng thời gian, năm tháng. Để đến một lúc nào đó, nó sẽ gợi nhắc con người bằng những gì thân thương, gần gũi nhất. Con người chỉ chấn động khi chợt nhận ra, nghe lời nhắc nhủ, răn dạy trong sự uy nghi, tĩnh lặng của vầng trăng:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Bao dung mà nghiêm khắc, nghiêm khắc nhưng không lạnh lùng, người bạn tình nghĩa vầng trăng, ánh trăng khiến con người giật mình và thức tỉnh. “Giật mình” là cảm giác, là phản xạ tâm lí của người biết suy nghĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của chính mình. “Giật mình” vì ăn năn, tự vấn; “Giật mình” vì lãng quên năm tháng xưa, bạn bè gian khổ, đói nghèo mà ân tình, ân nghĩa. Trong dòng thác vận động của cuộc sống, những cái “giật mình” như vậy mới đáng quý làm sao. Nó hướng con người đến những giá trị cao đẹp; bảo vệ con người trước những cám dỗ; níu giữ con người khỏi bị trôi trượt trong lo toan bộn bề của cuộc sống. Câu thơ cuối cất lên như một lời tự thú, một lời tự trách, một lời tự nhắc của nhà thơ.
Nhà thơ tự trách mình đã quá vô tình, vô tình vì quên lãng, vô tình vì đã có những phút quên đi những ngày tháng, những kỉ niệm, những kí ức ấy. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho người đọc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Trong cuộc sống con người rất dễ bị cuốn vào nhịp sống hối hả, tấp nập của cuộc sống mà vô tình quên đi những thứ bình dị nhưng đã đi sâu vào trong tiềm thức, đã xây kết thành những kỉ niệm vững chắc mà ta không bao giờ quên. Sự lãng quên ấy không đáng trách nhưng quay lưng lại với kí ức, với những kỉ niệm thì đó là những hành động thật đáng trách, thật đáng lên án.
Tóm lại, “ánh trăng” là bài thơ hay với thể năm chữ được vận dụng sáng tạo, giọng điệu tâm tình tự nhiên. Từ một câu chuyện riêng, được kể theo trình tự thời gian, phản ánh rất sinh động quy luật tâm lí của con người, lời thơ là lời nhắc nhở thấm thía: Không nên vô tình, vị kỉ, phải thủy chung cùng bạn bè, nhân dân, đồng chí. Thái độ, tình cảm với quá khứ chưa xa nhiều hi sinh, mất mát, với những người đã ngã xuống hôm qua khiến “ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn, gợi lên đạo lí tình nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 4
Tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng – vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng biển bạc. Vầng trăng ấy đã theo tác giả từ thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ bền chặt, với bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên:
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Nhưng cuộc đời không phải là sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua chúng ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở nên thừa thãi vô nghĩa bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn cũng là quá khứ, vần có thể bị che khuất bởi những lo toan dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây tác giả kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay đã bị trở thành “người dưng qua đường”. Cái ngỡ thân quen xưa nay trở thành âm thầm xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ tạo nên bước ngoặt của tác phẩm khi để tình huống bất ngờ “đèn tắt” xảy ra. Lúc đó con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ chợt họ nhận ra được vẻ đẹp và giá trị đích thực của ngày xưa ẩn sau sự dịu dàng và bao dung của ánh trăng.
Trên cơ sở đó, tác giả viết khổ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc của toàn bài thơ.
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn cao thượng đến lạ lùng mặc cho con người có thờ ơ lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ thiếu thốn mà nghĩa tình, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương che chở đùm bọc cách mạng:
Trăng cứ tròn vành vạnh. Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân nghĩa thuỷ chung của một thời oanh liệt – dù đã lùi xa mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước toà án lương tâm. Quả thật chẳng có toà án nào xét sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri sâu thẳm mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm đối với quá khứ. Sự cao thượng vị tha của vầng trăng – bất chấp vô tình xa lạ – buộc con người phải suy nghĩ lại chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ có ba năm với cuộc sống thị thành, với bộn bề lo toan thường nhật có thể làm cho người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn thiếu thốn và sự ấm áp tình đồng đội, vòng tay che chở của nhân dân? vẫn biết không có gì là mãi mãi trước sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng điều đang xảy ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại.
Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng nặng lòng toả sáng đêm đêm:
Ánh trăng im phăng phắc
Cho ta thấy được sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó lặng im trước sự bội bạc của con người, cái lặng im dịu dàng tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ chính sự im lặng ấy có sức mạnh khiến cho con người phải giật mình nghĩ lại. Họ nhận ra giá trị những điều mình đã bỏ quên — quá khứ của chính mình một thời hào hùng oanh liệt của dân tộc: Đủ cho ta giật mình Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa của toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều mà nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng trong vòng xoáy lo toan và mưu tính.
Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai. Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là nối tiếp những điều cha ông chúng ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ?
Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ cuối bài thơ là sự “giật mình” của con người, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 5
Nghệ thuật chân chính phải có sứ mệnh như một thiên thần hộ mệnh giúp nâng đỡ con người, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể nói bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng có sức mạnh như thế. Bài thơ như một câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn mà giàu ý nghĩa. Đặc biệt là khổ cuối của bài đã gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng, suy ngẫm, đưa ta tới những chiều sâu của suy tưởng, triết lí:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.”
Vầng trăng chính là hình tượng theo ta xuyên suốt cả bài. Ở những khổ trước, nhà thơ đã mở ra hoàn cảnh khu phố mất điện để cho con người đối diện trực tiếp với vầng trăng, để những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ như lớp lớp sóng mạnh mẽ ùa về. Kết thúc bài thơ, hình ảnh ấy hiện về càng tươi đẹp, càng gắn bó bao nhiêu thì nhân vật trữ tình lại càng trăn trở, càng tự trách mình bấy nhiêu. Vầng trăng tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, cũng là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung. Trăng vẫn sáng, vẫn đẹp, quá khứ vẫn vẹn nguyên tình yêu thương dù cho con người có vô tâm, hờ hững, lãng quên đi vầng trăng, lãng quên đi quá khứ tươi đẹp. Nhưng đằng sau sự vô tình ấy, ta nhận ra một tâm hồn thật đẹp. Nhân vật trữ tình không hẳn là người vô tâm, chỉ là đôi khi đã bị cuộc sống bộn bề, nỗi lo cơm áo gạo tiền cuốn theo vòng xoáy của nó. Sự lãng quên chỉ là trong khoảnh khắc, để rồi khi được vầng trăng soi chiếu, nó lại sống dậy mạnh mẽ như xưa. Vầng trăng tươi đẹp chỉ là sự gợi mở để nhà thơ tự vấn chính mình:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
“Im phăng phắc” là sự lặng yên tuyệt đối, không mảy may lay động. Bằng biện pháp nhân hóa, trăng trở thành một người bạn gần gũi, gắn bó. Trăng chẳng hề lên tiếng trách cứ con người một lời. Sự im lặng vì thế càng trở nên đáng sợ. Trăng bao dung, độ lượng nhưng vẫn không kém phần nghiêm khắc. Trăng đã trở thành tòa án lương tâm, trở thành tấm gương phản chiếu để từ đó con người nhận ra những giá trị bị quên lãng, nhận ra phần vô tâm, hờ hững trong chính mình. Cái giật mình ở đây thật đáng quý, cái giật mình của một con người biết suy nghĩ, có nhân cách. Giật mình vì ân hận, xót xa. Giật mình vì quên đi bao tình cảm ân nghĩa, tốt đẹp khi xưa. Cái giật mình đã giúp nhân vật trữ tính đứng vững trước những cám dỗ trong cuộc sống. Cái giật mình ấy rất cần có trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi chúng ta mải theo đuổi những giá trị vật chất, tiền tài danh vọng mà hờ hững, vô tâm với những giá trị bình dị nhưng vĩnh hằng, sâu sắc. Cả bài thơ là vô nhân xưng, nhưng đến đây là nhà thơ xưng là “ta”. Ta là nhà thơ, ta cũng có thể là tất cả mọi người. Năm xưa, trong cảnh đất nước có chiến tranh, người lính gắn bó với bè bạn thân yêu, sống trong vòng tay yêu thương che chở của nhân dân lao động thì nay, khi đất nước đã hòa bình, nhà thơ lên tiếng nhắc nhở, gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ của ông không được phép lãng quên quá khứ và những tình cảm cao đẹp khi xưa. Không có quá khứ sẽ không có chúng ta ngày hôm nay. Vì thế, mỗi người hãy biết trân trọng quá khứ, lấy quá khứ là điểm tựa, là sức mạnh để vươn tới cuộc sống tốt đẹp trong tương lai.
Với thể thơ năm chữ, những chữ đầu dòng không viết hoa từ chữ đầu tiên ở mỗi khổ, Nguyễn Duy đã rất thành công khi mượn hình tượng ánh trăng để nói lên bài học nhân sinh sâu sắc: mỗi chúng ta hãy có những giây phút lắng lòng để nhìn lại quá khứ, đừng bao giờ quên đi quá khứ để rồi phải ân hận, xót xa.
Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, để lại những vang âm còn mãi trong lòng người đọc. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi là lời nhắc nhở theo chúng ta trên từng chặng đường đời, để mỗi người biết sống sâu sắc, nhân văn và ý nghĩa hơn.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 6
Với giọng thơ mượt mà, trẻ trung mà mang đậm tính triết lí sâu sắc, nhà thơ Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Chúng ta đã từng biết đến một “Tre Việt Nam” với lối viết giản dị mà thấm đẫm cảm giác tự hào, đã từng biết đến “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” với bao tình cảm gửi đến người mẹ, và giờ đây là “Ánh trăng”.
Bài thơ “Ánh trăng” ghi lại một thoáng giật mình của thi sĩ trước vẻ đẹp ân tình của vầng trăng. Trước cuộc sống bận rộn, con người đã quên đi những kỉ niệm của quá khứ. Thế nhưng vầng trăng vẫn vẹn nguyên, thuỷ chung ân tình mà sâu sắc.Bài thơ đã để lại cho người đọc biết bao bài học thấm thía và sâu sắc, đặc biệt, khổ thơ cuối đã mang lại nhiều dư vị và cảm xúc khó quên.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.“
Bài thơ được viết năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh – nơi mà những người lính từ chiến trường trở về sống giữa thành phố xa hoa mà hiện đại, bỏ lại sau lưng quá khứ hào hùng. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh ánh trăng – hình ảnh tượng trưng cho quá khứ và vẻ đẹp vĩnh hằng, trường tồn mãi mãi. Hình ảnh của quá khứ càng tươi đẹp thì nhà thơ tự trách mình, cảm thấy có lỗi. Những khổ thơ trước là hình ảnh khu phố mất điện và đột nhiên đèn điện vụt tắt. Trong phút giây đó, nhà thơ mới nhận ra mình đã lãng quên đi quá khứ. Với giọng điệu nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu lắng câu thơ đầu đã mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm:
“Trăng cứ tròn vành vạnh”
Trăng là một trong những biểu tượng thanh bình tượng trưng cho hồi ức kỉ niệm xưa. Trăng đã cùng người chiến sĩ trải qua biết bao gian truân, khó nhọc, từ hồi nhỏ cho đến khi đã trở thành một chiến sĩ bảo vệ độc lập của dân tộc. Nếu như với Hồ Chí Minh, trăng như người bạn tâm tình với nhà thơ:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Nhưng giờ đây trăng là biểu tượng của quá khứ nhưng không bao giờ lãng quên. Cụm từ “tròn vành vạnh” đã mang đến một sắc thái vẹn nguyên và luôn ghi nhớ mãi không quên. Vẻ đẹp đó tưởng chừng như vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, cái đẹp luôn làm lòng người mê đắm. Vầng trăng là hiện thân của những hồi ức và chắc chắn những hồi ức đó luôn không thay đổi. Những dòng suy nghĩ của nhà thơ là cách gợi dẫn để nhà thơ tự trách mình:
“Kể chi người vô tình”
“Người vô tình” – cụm từ như một lời trách móc đối với chính nhà thơ. Trách khi bản thân mình đã quên đi những hồi ức, những kỉ niệm của tuổi trẻ sao lại quá vô tình, sao lại bị cuộc sống hiện đại nơi phố thị làm lãng quên đi quá khứ. Sự tự trách đó thể hiện vẻ đẹp của nhân cách. Vốn là người luôn biết tôn trọng và nhớ về quá khứ nhưng rồi lãng quên, chỉ khi được ánh trăng thức tình, nhà thơ mới dâng trào cảm xúc:
“Ánh trăng im phăng phắc”
Nếu như khổ thơ trước là “trăng” thì đến khổ thơ này xuất hiện “ánh trăng”. Là biểu tượng của thiên nhiên, của hoà bình, ngoài ra trăng còn cho thấy sự bao dung của tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là phẩm chất cao quý mà chính tác giả muốn xây dựng. Sự im lặng của ánh trăng, chẳng phải là sự bất lực hay buông xuôi mà đó là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đối với những con người lỡ quên đi quá khứ – một phần của cuộc đời. Kỉ niệm, kí ức – những điều tưởng chừng vô tri, vô giác nhưng lại có linh hồn và sức sống riêng. Con người có thể thay đổi nhưng những kí ức sẽ luôn trường tồn với thời gian, và rồi một thoáng bất chợt trong cuộc sống, ánh trăng lại thức tình người:
“Đủ cho ta giật mình”
Cái giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình của chính mình. Giật mình vì hối hận, vì quên đi những tháng ngày gian khổ đói nghèo mà ân tình ân nghĩa. Chính sự thức tỉnh ấy đã làm cho tác giả phải nhìn nhận lại chính bản thân mình và những người xung quanh. Câu kết của khổ thơ cũng như toàn bài là một bài học nhận thức sâu sắc. Phải chăng, mỗi người trong chúng ta khi đọc đến câu thơ này đều đặt cho chính bản thân mình một câu hỏi? Đó chính là vẻ đẹp của nhân cách trong mỗi chúng ta.
Bằng thể thơ năm chữ được vận dụng linh hoạt sáng tạo cùng giọng điệu tâm tình mà nhẹ nhàng, sâu lắng, bài thơ “Ánh trăng” đã mang đến cho độc giả những phút giây sống chậm lại suy nghĩ về những gì mình đã và đang làm. Và khổ thơ cuối chính là khổ thơ mạng lại dấu ấn đậm nét trong chúng ta. Tình cảm và thái độ ghi nhớ công ơn của những người đã đi trước chính là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta. Và chính chúng ta cần giữ gìn và phát huy chúng.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 7
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy – bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Vầng trăng thật sự như một tấm gương soi để người ta thấy được những gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.
Đặc biệt là khổ thơ cuối mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lý:
“ Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng- hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thuỷ chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối.
Chỉ với một “vầng trăng” – “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được những điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm. Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái “giật mình” của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lấy quá khứ để soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mỗi con người.Đó là tiếng lòng của một người cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm của nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức ám ảnh thật lớn đối với người đọc.
Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 8
Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong những bài thơ vô cùng ấn tượng. Nội dung bài thơ nói về hình ảnh ánh trăng và tình nghĩ của con người. Con người vốn quen thuộc với ánh trăng, coi ánh trăng là bạn, là người tri kỉ và ngỡ rằng sẽ không thể nào quên được. Nhưng rồi cuộc sống thay đổi, người ta cũng thay đổi theo và rồi ánh trăng trong phút chốc đã đi vào quên lãng. Ánh điện, cửa nhà sáng choang khiến người ta không còn cần tới ánh sáng của ánh trăng nữa. Khổ thơ cuối của bài thơ chứa đựng một triết lí sâu xa, nó khiến cho người đọc nhớ về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Hình ảnh ánh trăng tròn đã là một hình ảnh đẹp. Vậy mà tác giả còn kết hợp tình từ tròn với từ láy vành vạnh khiến cho vẻ đẹp ấy được tuyệt đối hóa. Đó là hình ảnh trăng trong sáng, tròn đầy, ổn định, viên mãn. Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh thơ mang một ý nghĩa khái quát: sự tròn đầy, bất diệt của vầng trăng biểu tượng cho quá khứ vẹn nguyên, nghĩa tình, thủy chung, nhân hậu ngày nào. Từ cứ khiến cho âm điệu câu thơ vừa tha thiết, vừa vút cao. Nó giúp khẳng định cho lòng thủy chung của vầng trăng. Kết cấu của hai câu thơ đầu có sự đối lập trong lời thơ, ý thơ khiến cho ý thơ trở nên nổi bật hơn. Cho dù con người có hờ hững, vô tình nhưng vầng trăng vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung.
Ở hai câu thơ cuối cùng hình ảnh vầng trăng đã chuyển thành ánh trăng. Đúng là chỉ có ánh trăng, thứ ánh sáng huyền ảo đó mới có sức mạnh làm thức tỉnh tâm hồn con người sau bao nhiêu ngày tháng vô cảm. Ánh trăng đã soi rọi vào quá khứ, vào những ngày tháng mà con người vẫn còn gắn bó với trăng để từ đó đánh thức lương tâm con người. Trăng không trách mắng bằng những lời nói mà trăng chỉ im lặng, một cái im lặng đáng sợ hơn cả lời nói. Đó trước hết là một hình ảnh thực bởi chúng ta biết rằng trăng không thể nào nói chuyện. Cái sự im lặng ấy biểu thị cho sự nghiêm khắc của quá khứ. Nhưng nó khiến cho con người giật mình bởi trăng vẫn vị tha và bao dung con người khi mà trăng vẫn luôn soi sáng dù con người không cần.
Hai chữ giật mình trong khổ thơ như thể hiện một sự ăn năn, sám hối của tác giả. Đó là một cái giật mình đầy tính nhân văn. Cái kết cấu đối lập ở hai câu thơ cuối mang một ý nghĩa nhắc nhở nghiêm khắc rằng đừng quên quá khứ mà hãy sống thủy chung với quá khứ. Thông qua hình ảnh ánh trăng, nhà thơ Nguyễn Duy đã làm một cuộc tư vấn tâm hồn để nhắc nhở con người về lẽ sống nghĩa tình, thủy chung. Nội dung bài thơ là những trải nghiệm cá nhân của chính tác giả nhưng nó gần gũi với đời thường vậy nên nó có sức ngấm rất sâu trong lòng người đọc.
Bài thơ tuy ngắn gọn, đơn giản nhưng lại mang một triết lý sâu sắc. Khổ thơ cuối bài cùng với những khổ thơ khác trong bài thơ đã xây dựng thành công hình ảnh quen thuộc mang ý nghĩa biểu tượng: ánh trăng. Hình ảnh ấy gợi nhắc con người về lẽ sống thủy chung, nhắc con người ghi nhớ quá khứ, gắn bó với quá khứ. Có như vậy thì tương lai mới trở nên tươi đẹp.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 9
Thời gian luôn là một cái gì đó vô hình…Nó làm mờ dần những đau khổ trong mỗi con người, đồng thời cũng xóa đi bao ký ức đẹp, ân nghĩa thủy chung trong lòng ai đó. Một trong số ấy có nhà thơ Nguyễn Duy, qua bài thơ Ánh trăng, ta tiếp nhận được một bài học sâu sắc: Bài học về cách sống ân tình, ân nghĩa, thủy chung.
Ngày nay hoàn cảnh sống có nhiều sự thay đổi, con người cũng dần quên đi quá khứ. Người và vầng trăng trở nên xa lạ, lạc lõng, nhạt nhẽo trong nghĩa tình (dù Trăng vẫn luôn tràn đầy tình nghĩa). Cuộc sống hiện tại với vật chất, tiện nghi đầy đủ khiến con người dễ quên đi quá khứ, quên đi những ân tình thấm đẫm đã từng gắn bó một thời.
Để rồi một ngày chợt nhận ra vầng trăng ngày xưa vẫn còn kia, tròn trĩnh, đong đầy…Nỗi ân hận của tác giả chợt trào dâng…chẳng phải tấm lòng của vầng trăng chính là tấm lòng của những con người trước kia đã cưu mang, che chở, chăm sóc ta hay sao?…Họ chẳng phải chính là nhân dân ta, đồng bào ta, đồng chí, đồng đội của ta hay sao? Chính họ cũng đã là người sẵn sàng hi sinh cho ta đó sao?…Nay ta lại trở nên vô tình đến vậy…
Niềm tâm sự sâu kín của nhà thơ chính là điều ông muốn nói trong những giờ phút này, khi những lời ấy chợt trở thành thơ…thì có lẽ ông đã sửa lại lỗi lầm. Đó là sự ân hận, sự sám hối của con người ta nhận ra sự bạc bẽo vô tình của chính mình:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Ấy thế nhưng, trăng vẫn đâu hề trách ta, cái nhìn dịu hiền, lành lặn không chút sứt mẻ khiến ta cảm thấy được xoa dịu nhưng cũng làm cho ta thấy được cái sự bạc bẽo của mình trong thời gian ấy…quá khứ nghĩa tình mà ta dần nhớ lại! Vầng trăng ở đây không chỉ là quá khứ vẹn nguyên mà còn là vẻ đẹp tự nhiên vĩnh hằng. Ánh trăng yên lặng không nói gì…chỉ để tự ta suy nghĩ, tự đánh giá bản thân con người ta, rồi ta sẽ thấy được trong cái im lặng đó chỉ là cả một khoảng bao la rộng lượng.
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp quá khứ vẫn tỏa sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan tòa lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ lặng im thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài u tối.
Trăng ở đây đâu chỉ là trăng mà chính là biểu tượng cho những con người giản dị trong sáng, nghĩa tình. Tấm lòng của vầng trăng chính là tấm lòng của nhân dân, của đồng bào của đồng đội, người lính là vô cùng rộng lớn. Luôn luôn bao dung và tha thứ nên ánh trăng của Nguyễn Duy là một tác phẩm mang tính chất triết lí thầm kín. Đó là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – Mẫu 10
Trăng một trong những đề tài quen thuộc thường thấy trong thơ ca. Nếu như nhà thơ Chính Hữu đã tạo nên một hình tượng trăng thật đẹp “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí, thì đến “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến một ý nghĩa triết lí thầm kín. Khổ cuối bài thơ gợi cho người đọc rất nhiều những suy ngẫm. Ánh trăng như hồi chuông thức tỉnh tâm trí con người về quá khứ.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Những khổ thơ đầu nhà thơ diễn tả về những năm tháng gắn bó mật thiết với ánh trăng. Trăng là trời là bể, là đồng là ruộng. Những năm tháng dài đằng đẵng đó đủ để vun đắp nên một tình bạn đẹp khắc sâu vào tâm trí của mỗi người. Thế nhưng sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhà thơ trở về với cuộc sống thành thị ồn ào. Quen với những thứ ánh điện, cửa gương nên dần đã trở nên “xa lạ” với người tri kỉ của mình. Cụm từ “người dưng” khiến cho người đọc không khỏi xót xa. Thế rồi đến khi ánh đèn điện vụt tắt bắt gặp sự hiện diện bất ngờ của vầng trăng người lính như giật mình sống lại với một phần kí ức của mình. Ánh trăng thình lình xuất hiện khiến người lính trở nên rưng rưng. Những vần thơ cuối càng khiến người đọc như lắng lại trong suy ngẫm:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Ánh trăng đại diện cho quá khứ, cho những năm tháng chiến đấu đầy cam go, tuổi thơ đầy thiếu thốn của tác giả. Nay bắt gặp ánh trăng sau bao ngày xa cách trăng vẫn tròn vành vạnh vẫn nguyên vẹn ban sơ như thuở nào. Đó cũng là đại diện cho quá khứ vẫn trọn vẹn tình nghĩa, vẫn viên mãn thủy chung một lòng. Ánh trăng dù cho ngàn năm nữa thì vẫn không bao giờ thay đổi, mặc cho con người có thể vô tình với nó.
Đối diện với ánh trăng đủ đầy viên mãn như thế người thi nhân bỗng trở nên hổ thẹn không thôi. Ông tự nhận mình là một kẻ vô tình. Một kẻ vô tình với quá khứ với người bạn tri kỉ của mình. Vô tình ở đây không phải là cố tình quên đi những kỉ niệm thời cơ hàn, quên đi quá khứ mà có thể nó là do những sức ép, những xô bồ của cuộc đời khiến con người “vô tình” quên đi quá khứ.
Không hề có trách móc hay dỗi hờn ánh trăng im phăng phắc một sự lặng lẽ đáng sợ. Thế nhưng chính sự im lặng đó đã đẩy tâm trạng con người vào sự bộn bề trăm mối. Ánh trăng lúc này không phải đơn cử là một hiện tượng thiên nhiên nữa mà nó chính là tòa án lương tâm của mỗi người. Sự giật mình của người lính chính là một sự thức tỉnh của lương tri đột ngột. Vầng trăng tuy chỉ yên lặng thôi nhưng sức mạnh của nó đủ khiến lay động một con người sau một cơn mê dài.
Chỉ bằng một ánh trăng nhưng nhà thơ Nguyễn Duy đã làm nên cả một điều mà tưởng chừng như không thể. Đó là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt một bài học triết lí đầy suy ngẫm. Ánh trăng vừa là người bạn, vừa là tòa án lương tâm lại vừa là cội nguồn của mọi sự bao dung nhân từ nhất. Chỉ cần con người còn có suy nghĩ còn biết nhận ra sai lầm thì không bao giờ là muộn cả.
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ Ánh trăng được coi như một trong những điểm cộng cho tác phẩm. Nó mang con người đến những triết lí nhân sinh đầy sâu sắc. Trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc bạn lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi những thứ đã gắn bó với mình từ hàn vi. Thế nhưng chỉ cần con người còn có lương tâm thì không cái gì là muộn màng cả. Quá khứ- hiện tại hay tương lai chính là một sợi dây xuyên suốt trong tâm hồn của mỗi con người.
*****
Trên đây là 10 bài mẫu Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy lớp 9 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.
Đăng bởi: THCS Bình Chánh
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)