Tổng hợp

Phan Đình Giót là ai? Tiểu sử anh Hùng Phan Đình Giót

Mời bạn đọc cùng tìm hiểu Phan Đình Giót là ai? trong bài viết dưới đây để có câu trả lời nhé.

Phan Đình Giót là ai?

Phan Đình Giót (1922-1954) là một trong 16 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân được tuyên dương vì thành tích trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Chức vụ cuối của ông là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Phan Đình Giót là ai?
Phan Đình Giót là ai?

Phan Đình Giót quê ở đâu?

Phan Đình Giót sinh năm 1922, tại làng Vĩnh Yên (nay là thôn 8), xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình rất nghèo. Bố ông bị chết vì đói. Ông phải sống cuộc đời đi ở, làm thuê từ năm 13 tuổi. Cách mạng tháng Tám thành công, Phan Đình Giót tham gia tự vệ chiến đấu. Đến năm 1950, Phan Đình Giót xung phong đi bộ đội chủ lực. Sống trong quân ngũ, Phan Đình Giót luôn luôn tự giác, gương mẫu về mọi mặt, hết lòng yêu thương giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên anh luôn được đồng đội mến phục, tin yêu.

Bạn đang xem: Phan Đình Giót là ai? Tiểu sử anh Hùng Phan Đình Giót

Thân thế và sự nghiệp của Phan Đình Giót

Anh hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (truy phong; 31/3/1955), Khi hy sinh anh là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Huân chương Quân công hạng Nhì. Phan Đình Giót sinh nǎm 1922 ở làng Tam Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình rất nghèo. Bố bị chết đói. Anh phải đi ở từ năm 13 tuổi cực nhọc, vất vả. Cách mạng tháng Tám thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950, anh xung phong đi bộ đội chủ lực.

Trong cuộc sống tập thể quân đội, Phan Đình Giót luôn tự giác gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên được đồng đội mến phục. Phan Đình Giót tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.

Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến thắng Điện Biên Phủ

Kháng chiến chống Pháp nổ ra, Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân đã xin tham gia đội tự vệ chiến đấu. Đến năm 1950, chàng trai ấy cũng đã xung phong đi bộ đội chủ lực. Anh Phan Đình Giót tham gia rất nhiều chiến dịch lớn của đất nước, cụ thể như: Trung Du; Hòa Bình; Tây Bắc và chiến dịch cuối cùng đó chính là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phan Đình giót là một người chí khí, một anh bộ đội dũng cảm. Trong những tháng năm tham gia chiến đấu, cũng đã có lần anh Phan Đình Giót chích máu viết quyết tâm thư gửi lên đại đoàn. Bức tâm thư của anh Phan Đình Giót đã thể hiện được chí khí hiên ngang của một người con đã giác ngộ và đi theo cách mạng.

Vào mùa đông năm 1953, đơn vị anh Phan Đình Giót đã nhận lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Anh Phan Đình Giót cùng với những người đồng chí, đồng đội của mình đã bền bỉ và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ xẻ núi, mở đường để nhằm mục đích có thể kéo pháo lên đèo xuống dốc. Các anh cũng đã chuẩn bị sẵn sàng cho những trận chiến gay go trước mắt.

Vào chiều 13/3/1954, quân ta đã nổ súng tiêu diệt cứ điểm đồi Him Lam. Nhiều loạt pháo xảy ra liên tục đã làm cả trận địa rung chuyển mù mịt. Các chiến sĩ đại đội 58 đã anh dũng lao lên mở đường và cũng đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ 8. Anh Phan Đình Giót cũng chính là người đánh quả thứ 9 sau đó thì anh đã bị thương ở đùi. Nhưng anh Phan Đình Giót vẫn xung phong là người được đánh quả tiếp theo. Lúc này quân Pháp cũng đã tập trung hỏa lực đạn trút như mưa, xối xả vào quân của ta. Vì thế mà các chiến sĩ của ta bị thương rất nhiều.

Trước tình cảnh đó với lòng căm thù giặc sục sôi thì anh Phan Đình Giót lao lên đánh liên tiếp hai quả bộc phá giúp phá toang hàng rào cuối cùng, việc này cũng đã mở thông đường giúp đồng đội lên đánh tan lô cốt đầu cầu. Lúc này, anh Phan Đình Giót cũng đã tiếp tục lao lên bám chắc tại lô cốt số 2. Tiến hành thực hiện ném thủ pháo, bắn kiềm chế giúp cho đơn vị có thể tiến lên. Đến giai đoạn này thì anh Phan Đình Giót đã bị thương nặng ở vai và đùi, máu chảy nhiều.

Bất ngờ từ hỏa lực từ lô cốt số 3 của quân địch bắn mạnh vào các chiến sĩ của ta. Lực lượng xung kích của ta vào lúc này bị ùn lại. Ý nghĩ duy nhất của anh Phan Đình Giót lúc này đó chính là dập tắt lô cốt này, cố gắng nhích mình lại gần lại lô cốt số 3, dùng hết phần sức lực còn lại nâng lên tiểu liên và thực hiện bắn mạnh vào lỗ châu mai. Anh Phan Đình Giót hét to: “Quyết hy sinh vì Đảng, vì dân”, rồi rướn cả người lao cả thân mình để có thể bịt kín lỗ châu mai địch. Lô cốt lợi hại nhất của quân Pháp cũng chính bởi vì vậy mà bị dập tắt. Quân ta cũng nhờ thế mà ào ạt xông lên, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành về thắng lợi to lớn trong trận mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến thắng Điện Biên Phủ
Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến thắng Điện Biên Phủ

Người Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân Phan Đình Giót đã hy sinh vào lúc 22h30p ngày 13/3/1954 khi tuổi đời mới vừa 34. Ngày 31/3/1955, Phan Đình Giót đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Khi hy sinh, anh Phan Đình Giót hiện đang là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58 thuộc Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312. Anh Phan Đình Giót cũng là một người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, được trao tặng Huân chương Quân công hạng nhì.

Khen thưởng & Đường phố mang tên Phan Đình Giót

Ngày 31 tháng 3 năm 1955, Phan Đình Giót được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Sau được truy tặng thêm Huân chương Quân công hạng Nhì. Chiếc bi đông và khẩu súng kỷ vật của ông được gìn giữ tại Bảo tàng Quân đoàn 1.

Hiện nay tại các tỉnh thành đều có các đường phố mang tên ông như

  • Tại Thành phố Pleiku (nối Nguyễn Tất Thành với Lê Lợi)
  • Tại Thành Phố Kon Tum (Phường Trường Trinh & Duy Tân)…
  • Tại Quận Hoàng Mai, Hà Nội

Những tấm gương anh hùng khác trong chiến thắng Điện Biên Phủ

Anh hùng Tô Vĩnh Diện

Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Anh sinh ra trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ, suốt 12 năm đi ở đợ anh luôn phải chịu bao cảnh áp bức, bất công. Năm 1946 anh tham gia dân quân ở địa phương, đến năm 1949 anh xung phong đi bộ đội.

Tháng 5/1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1.000km tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn nhận những nhiệm vụ khó khăn, nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo đến nơi an toàn.

Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường nguy hiểm, cũng như nghỉ dọc đường, anh luôn nhắc nhở đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng con dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những bất ngờ xảy ra.

Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp cong và rất nguy hiểm, anh cùng đồng chí pháo thủ Lê Văn Chi xung phong lái pháo. Đến nửa chừng, dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí Chi bị hất văng ra. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em “Thà hy sinh quyết bảo vệ pháo”, và anh buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó các anh em đồng đội kịp ghìm giữ pháo lại. Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của anh đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Khi hy sinh anh là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly, thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367.

Anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 7/5/1955, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhì và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Những tấm gương anh hùng khác trong chiến thắng Điện Biên Phủ
Những tấm gương anh hùng khác trong chiến thắng Điện Biên Phủ

Anh hùng Bế Văn Đàn

Bế Văn Đàn sinh năm 1931, ở xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Anh sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm, tham gia hoạt động du kích từ ngày còn nhỏ tuổi. Năm 1948 anh xung phong vào bộ đội giữa lúc cuộc chiến tranh Đông Dương đang diễn ra quyết liệt.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân ta lúc bấy giờ đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng cộng sản Đông Dương quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953 – 1954, đơn vị hành quân đi chiến dịch, anh được phân công làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ Pháp ở Mường Pồn. Lúc đó khi thấy lực lượng của Việt Minh ít, quân Pháp tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân Việt Minh đánh bại. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt, quân Pháp liều chết xông lên, quân Việt Minh kiên quyết ngăn chặn chốt giữ.

Nhận lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, tạo điều kiện các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù Bế Văn Đàn vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo, anh đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Anh vượt qua lưới đạn dày đặc của Pháp, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trận đấu càng ngày càng diễn ra ác liệt hơn, anh được lệnh ở lại đại đội chiến đấu cùng đồng đội.

Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội Việt Minh bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng không bắn được vì không có chỗ đặt súng. Trong tình thế hết sức khẩn trương, anh không ngần ngại chạy lại cầm hai chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn nói: “Kẻ thù trước mắt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi”. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, anh bị thêm hai vết thương nữa và hy sinh, hai tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình. Sự hy sinh của Bế Văn Đàn đã trở thành tấm gương tiểu biểu trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Khi hy sinh, anh là tiểu đội phó, Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Trong đại hội mừng công của đơn vị Bế Văn Đàn được truy tặng danh hiệu Huân chương Chiến công hạng Nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Ngày 31/8/1955, Bế Văn Đàn được Quốc hội nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng Nhì.

Anh hùng Trần Can

Trần Can sinh năm 1931 ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ngay từ khi còn nhỏ Can đã rất thích vào bộ đội để được cầm súng giết giặc cứu nước. Khi lớn lên anh đã ba lần viết đơn xin tình nguyện đi bộ đội, nhưng vì sức khỏe yếu nên đến lần thứ tư, năm 1951, mới được chấp thuận.

Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết sức linh hoạt. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn ác liệt, anh đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đã hai lần anh bị thương nhưng vấn tiếp tục chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm gương Trần Can đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công sôi nổi trong toàn đơn vị.

Trong trận đánh đồi Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của Hồ Chủ Tịch giao cho quân đội, lên đồn Pháp. Khi nổ súng mặc cho hỏa lực quân Pháp bắn ra dữ dội, anh dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, chọc thẳng vào sở chỉ huy như một mũi dao nhọn cắm vào giữa tim gan địch, rồi nhảy lên lô cốt cắm lá cờ. Sau đó anh chỉ huy tiểu đội diệt lính Pháp còn lại trong hầm ngầm, bắt sống 25 tên và tịch thu nhiều vũ khí.

Trong trận đánh điểm cao 507, anh dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp đảo quân Pháp, chiếm mỏm cột cờ. Lính Pháp bắn đạn dữ dội và cho quân địch chiếm lại. Ta với Pháp giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Anh cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại 4 đợt phản kích của địch, chúng xông lên trong đợt công kích thứ năm, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi xung phong. Trần Can nhặt lựu đạn ném lại và chỉ huy đơn vị nhảy lên bờ hào đánh ráp lá cà. Cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân Trần Can cũng bị thương nhưng anh vẫn quyết tâm thay thế cán bộ đại độ chỉ huy bộ đội chiến đấu suốt đêm.

Sáng hôm sau anh tập trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội, chấn chỉnh tổ chức, củng cố trận địa. Quân Pháp lại phản kích dữ dội, mong đánh bại quân ta, giành cửa ngõ tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt pháo kích của chúng, kiên quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị tiến vào Mường Thanh. Anh đã hy sinh anh dũng sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, ngày kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Khi hy sinh Trần Can là Đại đội phó bộ binh thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Liệt sĩ Trần Can được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì.

Trên đây là nội dung bài viết giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về Phan Đình Giót là ai? Mọi thông tin trong bài viết Phan Đình Giót là ai? Tiểu sử anh Hùng Phan Đình Giót đều được xác thực rõ ràng trước khi đăng tải. Tuy nhiên đôi lúc vẫn không tránh khỏi những sai xót đáng tiếc. Hãy để lại bình luận xuống phía dưới bài viết để đội ngũ biên tập được nắm bắt ý kiến từ bạn đọc.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Tổng hợp

5/5 - (10 bình chọn)

Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button