Học TậpLớp 9

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình chọn lọc hay nhất (13 bài mẫu)

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình ngắn gọn, hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 13 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình
Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình

Mục lục

Dàn ý chi tiết Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình

a. Mở bài

Bạn đang xem: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình chọn lọc hay nhất (13 bài mẫu)

Giới thiệu tình huống kể chuyện: Sống thiếu vắng tình yêu và sự chăm sóc của mẹ.
Nhiều lần hỏi cha, cha hứa lúc khôn lớn cha sẽ kể.

b. Thân bài

Kể về cuộc đời của mẹ:

  • Kể về mẹ những ngày đầu về làm vợ cha: Nết na, thùy mị, không để thất hòa với cha.
  • Kể về những ngày cha đi lính, một mình mẹ vừa sinh và nuôi Đản, chăm sóc bà nội ốm và lo ma chay chu đáo cho bà.
  • Những ngày cha mới trở về, cha buồn vì bà mất, Đản lại vô tình nói chuyện cái bóng làm cha hiểu lầm mẹ. Thanh minh không được mẹ đi nhảy xuống sông tự vẫn.
  • Sau cũng vì vô tình, Đản lại chỉ cái bóng trên vách, giải được nỗi oan cho mẹ nhưng mẹ lại không còn.
  • Cha đau khổ, ân hận, lập đàn giải oan cho mẹ. Mẹ trở về trong chốc lát rồi quay lại chốn thủy cung cùng Linh Phi. Cha không đi bước nữa mà ở vậy nuôi Đản trong nỗi day dứt khôn nguôi.
  • Những cảm xúc và suy nghĩ của Đản (có thể đan xen trong khi kể): Bây giờ thương mẹ, ân hận vì vô tình đẩy mẹ đến cái chết.

c. Kết bài

  • Khẳng định tình yêu thương và kính trọng với mẹ.
  • Bày tỏ mong muốn không ai phải chịu nỗi đau như gia đình Đản.

13 bài mẫu Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình hay nhất

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 1

Tôi là Trương Đản, cha tôi là Trương Sinh, mẹ là Vũ Thị Thiết, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình ở Nam Xương, mẹ tôi mất từ khi tôi còn rất nhỏ, giờ tôi không thể nhớ ra khuôn mặt của mẹ mình, chỉ còn đâu đó cảm giác về đôi vòng tay ấm áp cùng tiếng ru lúc ngủ mà thôi.

Tôi lớn lên trong sự thiếu vắng tình yêu và chăm sóc của mẹ, nhiều lần tôi gặng hỏi cha về cái chết của mẹ nhưng nhiều lần cha tôi nói khi nào lớn cha sẽ kể. Sau này khi được nghe kể lại mọi chuyện thì tôi vô cùng ngỡ ngàng, tôi nhớ mẹ, càng ân hận vì ngày ấy mình chỉ vì một lời nói ngây ngô để rồi bi kịch xảy ra, để giờ đây gia đình chẳng còn trọn vẹn.

Nghe cha tôi trầm ngâm kể lại, mẹ tôi là người phụ nữ thùy mị nết na, hết mực khuôn phép, không để gia đình thất hòa. Cha cũng vì mến mẹ tôi tư dung tốt đẹp nên xin cưới về làm vợ. Hai người chung sống với nhau rất hòa thuận nhưng chưa được bao lâu, triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm, cha tôi vì không có học nên phải đầu quân. Gia đình phải chia xa đương lúc mẹ tôi đang mang thai tôi. Cha đi chẳng mấy ngày thì mẹ sinh ra tôi, mẹ một thân một mình nuôi nấng, dạy bảo, lo mọi việc trong nhà chu toàn. Nhưng tiếc thay, bà tôi vì nhớ cha mà sinh bệnh mất sớm dù mẹ tôi hết lòng chăm sóc.

Sau khi đánh giặc Chiêm thắng lợi cha tôi trở về. Biết tin bà mất, cha tôi buồn rất nhiều, cha đã đưa tôi ra thăm mộ bà. Nhưng tôi có đâu ngờ rằng mình lại có thể nói ra những lời như vậy. Lúc đó thấy cha rất xa lạ nên tôi rất sợ, vừa khóc vừa hỏi: “Ông cũng là cha tôi ư?”. Sau đó cha gạn hỏi thì tôi trả lời: “Cha Đản đêm nào cũng đến, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.” Lời nói ngây ngô ấy của tôi đã khiến cha tôi nghi oan mẹ tôi. Cha chửi bới đuổi mẹ ra khỏi nhà, mẹ vì uất ức nên đã gieo mình xuống sông tự tử.

Không thấy mẹ, tôi khóc đến thất thanh, đòi mẹ mãi mà cha cũng chẳng nói gì. Đêm đến, nhìn thấy bóng cha trên tường tôi hô to: “Cha Đản lại đến kia kìa”. Lúc đó cha mới biết mình đã trách oan mẹ rồi.

Cha đau khổ, ân hận lắm. Sau này khi gặp được chú Phan Lang – người cùng làng đến truyền lại lời của mẹ, cha liền lập đàn giải oan bên sông. Mẹ xuất hiện trên chiếc kiệu hoa lung linh, nổi bật ở giữa sông, lung linh và mở ảo, nhưng mẹ chỉ nói dăm ba câu rồi biến mất, quay lại chốn thủy cung. Từ đó, cha tôi không đi bước nữa mà ở vậy nuôi tôi trong nỗi day dứt khôn nguôi.

Mẹ ra đi, tôi vô cùng ân hận và dằn vặt chẳng có thứ gì có thể khiến tôi giải quyết khúc mắc của tôi. Chỉ vì một lời nói khờ dại tôi đã khiến mẹ tôi rời xa tôi mãi mãi. Con thật có lỗi với mẹ. Xin mẹ tha thứ cho con, mong rằng ở một nơi xa mẹ sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tôi tin rằng mẹ vẫn sẽ mãi dõi theo tôi.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 2

“Cha ơi, mẹ con đâu?”. Câu hỏi của đứa con thơ dại lại vang lên, và một lần nữa làm con tim tôi đau nhói. “Mẹ đang cùng bà nội sống ở một nơi thật xa, con ạ!” … “Thế sao mẹ Đản không về nhà chơi với Đản?” … “Mẹ còn phải chăm sóc bà mà con. Mẹ Đản về chơi với Đản thì ai sẽ trông nom bà, đúng không nào?”. Đứa bé suy nghĩ một lúc rồi “dạ” một tiếng rõ to và trở lại nô đùa cùng chúng bạn sau khi được tôi giải đáp. Còn tôi lại đứng lặng người, chỉ mong con tha lỗi, vì tôi chỉ có thể trả lời bé như vậy. Nó còn quá nhỏ, quá bé bỏng để có thể hiểu mọi việc. Tôi đã quyết định đến một ngày nào đó, khi bé đã khôn lớn, tôi sẽ kể cho nó nghe tất cả những gì mà nó đang thắc mắc – câu chuyện về người mẹ thùy mị, nết na. Nghĩ đến đây, khóe mắt tôi đã ngấn lệ, và bao nhiêu kí ức lại ùa về…

Một buổi sáng trong lành, từng chú chim nhảy nhót trên cành và líu lo cất tiếng ca, từng cây lá khẽ đung đưa theo lời ru của chị Gió, mọi vật xung quanh đều tươi tắn, vui mừng như gửi ngàn lời chúc phúc cho cuộc hôn nhân của tôi – Trương Sinh – và nàng – Vũ Nương. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc và vui sướng biết bao khi lấy được nàng làm vợ. Nàng tên thật là Vũ Thị Thiết, cùng sống ở huyện Nam Xương quê tôi. Từ lâu, tôi đã mến mộ tư dung tốt đẹp của nàng. Vẻ đẹp của cả tâm hồn và vóc dáng ấy đã khiến không biết bao nhiêu chàng trai mơ ước, và trong đó có tôi. Tôi quyết định bàn việc với bố mẹ và mang trăm lạng vàng đến hỏi cưới nàng. Cha mẹ hai bên đều ưng thuận, tôi quyết mang đến cho nàng một cuộc sống êm ấm. Thế nhưng, có lẽ nàng đã không nhận được những gì mà nàng tưởng tượng và xứng đáng được nhận, bởi tôi là một kẻ vô học, bất tài vô dụng, và theo như tôi tự nhận thấy thì tôi rất hay ghen. Biết vậy nên cô vợ khôn khéo của tôi luôn luôn giữ gìn đúng khuôn phép, làm tôi cũng rất yên lòng. Thế mà ông trời lại không cho chúng tôi được hạnh phúc. Thành thân với nàng không bao lâu thì tôi lại nhận lệnh phải đi lính, giúp triều đình chống giặc. Tôi không nỡ nào bỏ lại mẹ già ốm yếu và người vợ mà tôi hết mực yêu thương. Nhưng số trời nào có thể tránh, tôi đành ngậm ngùi tòng quân giúp nước trong nỗi buồn chia li vô hạn, bởi tôi biết mình chẳng học hành gì nên không có cách chối từ.

Ba năm dài dằng dặc ấy rồi cũng trôi qua, tôi được trở về nhà sau khi giặc giã đã dẹp yên. Ba năm qua, tôi luôn sống trong nỗi nhớ thương và lo lắng về mẹ và vợ. Tôi quyết nghe theo lời dặn của hai người, không ham danh lợi để quay trở về được bình an. Không còn lâu nữa, tôi sẽ được gặp đứa con trai đầu lòng, được gặp lại mẹ và vợ – những người tôi hằng thương nhớ. Thế nhưng, niềm vui sum họp vừa được nhen nhóm thì tôi đã phải nhận một tin dữ: mẹ tôi đã mất! Ông trời ơi, sao ông lại bất công thế này? Tôi chưa từng làm điều gì xấu, sao ông cứ phải gieo rắc cho tôi những nỗi đắng cay và đau đớn đến vậy? Được nhìn lại khuôn mặt thân yêu của vợ và hình ảnh đứa con bé bỏng, thế nhưng sao lòng tôi không thể nào vui lên được, cứ nặng trĩu một nỗi buồn mất mát. Tôi dắt bé Đản – con trai tôi – cùng đi thăm mộ người mẹ hiền mà tôi hết mực tôn kính. Đứng trước ngôi mộ của mẹ, tôi không kìm nổi nước mắt, cũng bởi tôi quá nhu nhược và chưa làm được gì để báo hiếu cho mẹ. Sao mẹ lại ra đi trong khi con chưa thể đền đáp ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của mẹ? Tôi hối hận và thấy mình sao quá hờ hững lúc trước, không chăm chỉ học tập, nuôi mộng đỗ đạt, trả hiếu cho cha mẹ, để rồi giờ đây tất cả đã quá muộn màng. Tôi ôm lấy bé Đản và cất tiếng bày tỏ nỗi đau của mình cho con nghe. Thế nhưng, than ôi, tất cả như được sắp đặt để đánh ngã bản thân tôi, con tôi hỏi tôi cũng là cha của nó ư? Chẳng lẽ người vợ hiền của tôi đã không chung thủy? Không thể thế được, tình yêu thương mà tôi dành cho nàng là rất chân thật, và nàng cũng hiểu được điều đó cơ mà! Tôi gặng hỏi thêm thì bé Đản kể rằng đêm nào cũng có một người đến bên mẹ nó. Đã vậy, mẹ nó còn bảo đó chính là cha của Đản. Quá nóng vội và để nỗi ghen tuông điều khiển mọi tâm trí lẫn hành động, tôi đùng đùng trở về nhà, không nói không rằng, mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Giờ đây, khi đã hiểu rõ nguồn cơn và nghĩ lại, tôi thấy mình hồ đồ quá! Lúc đó tôi đã bỏ ngoài tai mọi lời phân trần, giải thích của nàng và kể cả những lời khuyên ngăn của bà con làng xóm. Chỉ vì một lời nói ngây dại của con và bản tính bồng bột của tôi mà nàng đã phải chịu nỗi oan nhục kêu trời không thấu. Nàng đã phải tự trầm mình xuống sông Hoàng Giang để bảo vệ cho tiết hạnh của mình. Tôi chỉ cảm thấy một chút tiếc thương, và vẫn cho rằng mình đúng. Cho đến một đêm, tôi cùng bé Đản – lúc này đã ba tuổi rưỡi – ngồi trong căn phòng trống. Dưới ánh đèn dầu mập mờ, bỗng nhiên bé Đản chỉ tay vào bóng của tôi trên 1 vách và reo lên: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Không thể nào, cha của nó lại chỉ là một cái bóng vô tri vô giác thôi ư? Vậy là tôi đã trách nhầm Vũ Nương? Trời ơi, đến giờ tôi mới rõ được nỗi oan của vợ mình. Hằng đêm, nàng đã mượn bóng mình trên vách để giải đáp cho con về cha nó – cũng như tôi đang dối nó bây giờ. Tôi quyết định đi hỏi cặn kẽ từng người thân, hàng xóm và cuối cùng lại phải ân hận đến tận xương tủy khi biết thêm nhiều điều về nàng trong thời gian tôi đi lính… Vợ tôi ngày ngày chờ mong tôi quay về trong nỗi buồn tủi mà khó ai thấu hiểu được. Nàng luôn giữ lòng chung thủy, một mình nuôi dạy con, chăm sóc mẹ tôi và lo toan mọi việc trong gia đình… Nhưng giờ đây, dù tôi có biết chuyện và hối hận thì nàng cũng không thể quay trở về được nữa rồi!

Một hôm, trong lúc tôi đang dạy con học bài thì bỗng có một người đàn ông đến nhà và xin gặp. Anh ta tên là Phan Lang, người cùng làng với tôi. Theo lời anh ấy kể, anh được Linh Phi – vợ vua Nam Hải – cứu giúp khi bị rơi xuống sông Hoàng Giang. Anh ta gặp vợ tôi ở đây và nhận gửi lời nhắn của nàng cho tôi. Lúc đầu, tôi cũng không tin Phan Lang, bởi ở đời làm gì có chuyện lạ kì đến vậy. Nhưng sau khi anh đưa tôi xem một chiếc hoa vàng lấp lánh, tôi nhận ra ngay đây là kỉ vật mà tôi đã mua tặng cho nàng trước khi tôi tòng quân đánh giặc. Tôi nghe theo lời anh, lập đàn giải oan cho vợ bên sông Hoàng Giang, cúng tế ba ngày ba đêm. Quả thật, đến ngày thứ ba thì Vũ Nương đã trở về. Nàng ẩn hiện giữa dòng sông, cờ hoa võng lọng rực rỡ. Nàng trao gửi tấm lòng mình cho tôi và dặn tôi sống tốt. Vì phải chịu ơn Đức Linh Phi nên nàng không thể về được nữa. Tôi ngậm ngùi nhận lời nàng. Nàng mỉm cười với tôi và biến mất, để lại tôi bao nỗi tiếc thương và day dứt. Có lẽ tôi sẽ không thể nào tha thứ cho lỗi lầm mà mình đã gây ra!!!

Giờ đây, khi nhớ lại những kí ức nghiệt ngã ấy, tôi lại càng vững chắc quyết tâm sống tốt hơn, nuôi dạy bé Đản nên người. Con ơi, hãy thay cha thực hiện một ước mong cháy bỏng – cải đổi xã hội phong kiến lạc hậu này, giúp cho đất nước và cuộc sống tốt đẹp hơn, con nhé!

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 3

Đã bao năm trôi qua, nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những việc làm mà mình gây ra khiến vợ tôi – Vũ Nương chọn con đường bức tử. Một nỗi ân hận ghê gớm vò xé nỗi lòng. Tôi sẽ kể cho các bạn cùng nghe câu chuyện ấy.

Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương, thuộc tỉnh Hà Nam. Lúc bấy giờ, trong cùng làng có một người con gái đẹp người đẹp nét, con nhà nghèo khó, tên là Vũ Thị Thiết, mọi người xung quanh thường gọi là Vũ Nương. Mến vì dung hạnh đoan trang, nên tôi đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Tuy là con nhà giàu nhưng lại kém học học hành nên tôi phải đi lính ở danh sách đầu tiên.Không còn cách nào khác, tôi đành phải chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
Vào ngày tòng quân, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:

– Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:

– Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An , nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.

Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trường thì Vũ Nương đến kì đã sinh được một bé trai. Cháu được đặt tên là Đản. Nhưng mẹ tôi, vì quá nhớ thương tôi mà ốm đau mòn mỏi. Vũ Nương đã thay tôi hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Hàng xóm kể lại, Vũ Nương rất mực thương xót, lo ma chay chu tất như cha mẹ đẻ. Nàng là một người trọn tình, vẹn nghĩa, trọn đạo hiếu khiến tôi càng yêu thương, nể phục.

Cuối cùng, tôi cũng được bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy. Mấy năm xa cách nhớ thương, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá. Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ: “Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi cứ nghĩ Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Mối nghi ngờ trong tôi mỗi lúc càng được thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh: “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp…”.

Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương Vũ Nương cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nhưng tôi không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm xúc, ý nghĩ của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng:

– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Rồi nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn.

Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: “Cha Đản lại đến kia kìa!”, rồi chỉ tay vào bóng tối in trên vách: “Đây này!”. Tôi ngỡ ngàng và hiểu ra tất cả. Thì ra, ngày thường lúc tôi vắng nhà, Vũ Nương hay trỏ bóng mình trên tường đùa con và báo đó là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan động trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi, không làm sao thay đổi được nữa…

Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 4

Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ.

Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.

Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:

– Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.

Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:

– Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.

Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng:

– Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ.

Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.

Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con:

– Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!

Bất chợt, con tôi bi bô nói:

– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả.

Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng:

– Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!

Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc:

– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?

Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: – Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tối in trên vách: – Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi!

Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông.

Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng: – Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại.

Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi.

Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông.

Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi.

Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào:

– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa!

Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học: Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 5

Chỉ vì một câu nói ngây ngô của trẻ thơ, mà tôi đã làm mất mẹ, làm gia đình mỗi người một phương. Vậy là đã 10 năm kể từ khi mẹ tôi đi mất, giờ tôi đã đủ lớn để hiểu những gì đã xảy ra với gia đình tôi, tại sao tôi lại không có mẹ ở bên cạnh nữa.

Tôi còn thường nghe mọi người kể lại, mẹ tôi là một người phụ nữ đẹp, hiền lành, tư dung tốt đẹp, cha tôi cũng vì mến dung hạnh mà cưới mẹ. Nhưng chẳng bao lâu sau triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm, cha tôi dẫu trong con nhà dòng, nhưng vì không có học nên phải lên đường sung binh đợt đầu. Bấy giờ mẹ tôi đương thì mang thai tôi, được mười ngày thì tôi ra đời. Ngày qua tháng lại, thoắt cái nửa năm, vì tuổi già cùng chẳng thể chịu được cảnh đợi chờ con, bà tôi đã qua đời dù mẹ đã hết sức thuốc thang chăm sóc. Trước khi mất bà có dặn dò, khuyên nhủ mẹ tôi, và nói rằng người sống phúc đức ắt được giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn.

Qua một năm sau, cha tôi trở về, vừa lúc tôi mới bi bô học nói. Cha dẫn tôi đi hỏi mộ bà, nhưng lúc ấy vì chưa nhận biết được cha mình nên tôi cứ khóc nằng nặc không theo, cha gạn hỏi tôi mới vô tình nói nàng: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông cũng biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ biết nín thin thít.” Cha tôi sinh nghi đành gạn hỏi tôi, với cái ngây ngô của một đứa trẻ chưa đến 2 tuổi, tôi đã nói rằng đêm nào cha cũng đến chơi với tôi và mẹ làm gì cha cũng làm theo. Tôi chẳng ngờ được rằng, chính câu nói đấy đã khiến cha tôi sinh lòng ghen tức. Vốn tính đa nghi, cha tin lời tôi, về nhà mắng chửi mẹ thậm tệ mặc mẹ có gạn hỏi ai nói, cố gắng giải thích như thế nào đi chăng nữa. Họ hàng làm xóm khi đó cũng hết lời bênh vực và biện bạch nhưng cha cũng chẳng tin. Bất đắc dĩ, mẹ tôi tắm rửa chay sạch, ra bến Hoàng Giang gieo mình. Một đêm phòng không vắng vẻ, khi chỉ còn cha con tôi, thấy bóng cha trên vách tôi ngỡ là cha mình đến, cất tiếng gọi, lúc nào cha mới nhận ra nỗi oan khuất của mẹ, nhưng liệu còn có thể làm gì nữa khi người đi thì cũng đã đi rồi, người ở lại thì phải tiếp tục cuộc sống của mình. Mãi sau này tôi mới biết, mẹ tôi được Linh Phi cứu, đưa xuống làm cung nữ dưới thuỷ cung. Gặp lại Phan Lang- một người cùng làng, nhờ trao kỉ vật và nói hộ nỗi lòng cho cha tôi, sau đó thì cha đã lập đàn giải oan ở bến sông, nhưng mẹ tôi cũng chỉ hiện lên mờ mờ ảo ảo nói lời từ biệt, rồi biến mất.

Mẹ cứ vậy mà xa rời cuộc sống của hai cha con tôi. Tôi tin rằng ở dưới thủy cung, mẹ vẫn dõi theo cuộc sống của chúng tôi. Tôi rất hối hận vì nếu ngày ấy tôi đã hiểu chuyển, chẳng nói ra lời ngây ngô đó thì sẽ không có sự tình này. Và tôi cũng mong rằng, sẽ không có gia đình nào gặp phải tình cảnh như gia đình của chúng tôi nữa. Gia đình chỉ hạnh phúc nhất khi nó đủ trọn vẹn.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 6

Cũng đã hơn chục năm ngày giỗ của mẹ, tôi nhớ mẹ, tôi thấy ân hận vì ngày ấy mình đã trót dại khờ để rồi xảy ra bi kịch, để rồi cũng tại cái ngây ngô thơ trẻ mà tôi đã làm mất mẹ, làm gia đình mỗi người một phương.

Ngày ấy nghe mọi người kể lại, mẹ tôi là một người phụ nữ đẹp, hiền lành, tư dung tốt đẹp, cha tôi cũng vì mến dung hạnh mà cưới mẹ. Nhưng chẳng bao lâu sau nhà nước có việc đi đánh chiếm Chiêm Thành, cha tôi dẫu trong con nhà dòng, nhưng vì không có học nên phải lên đường sung binh đợt đầu. Bấy giờ mẹ tôi đương thì mang tôi, được mười ngày thì tôi ra đời.

Ngày qua ngày, mới đó cái nửa năm, vì không chịu được cảnh đợi chờ con, bà tôi đã qua đời dù mẹ đã hết sức thuốc thang chăm sóc. Trước khi mất ba có dặn dò, khuyên nhủ mẹ tôi, và nói rằng người sống phúc đức ắt được dòng giống tươi tốt, con cháu đầy đàn.

Năm sau cha tôi về, vừa lúc tôi mới bi bô tập nói. Cha dần tôi đi hỏi mộ ba, nhưng lúc ấy vì không quen hơi nên tôi cứ khóc nằng nặc không theo, cha gạn hỏi tôi mới vô tình nói nàng : “ Ông cũng là cha tôi ư? Ông cũng biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ biết nín thin thít.” Cha tôi sinh nghi đành gạn hỏi tôi, với cái ngây ngô của một đứa trẻ mới bi bô tập nói rằng đêm nào cha cũng đến chơi với tôi và mẹ làm gì cha cũng làm theo.

Sinh lòng ghen tức, cha tôi tin lời tôi, về nhà mắng chửi mẹ thậm tệ mặc mẹ có gạn hỏi ai nói, có cố giải thích như thế nào đi chăng nữa. Bất đắc dĩ, mẹ tôi tắm rửa trai sạch, ra bến Hoàng Giang gieo mình.

Đến tối khi chỉ còn cha con tôi ở nhà, thấy bóng cha trên vách tôi lại ngỡ là cha mình, cất tiếng gọi, lúc nào cha mới nhận ra nỗi oan khuất, bi kịch của mẹ, nhưng liệu còn có thể làm gì nữa khi người đi thì cũng đã đi rồi, người ở lại thì phải tiếp tục cuộc sống của mình.

Sau này tôi được biết, mẹ tôi được Linh Phi cứu, đưa xuống làm cung nữ dưới thuỷ cung. Gặp lại Phan Lang- một người cùng làng, nhờ trao kỉ vật cho cha tôi, sau khi cha tôi nhận ra lỗi lầm, lập đàn giải oan, mẹ cũng chỉ hiện lên mờ mờ ảo ảo, ròi biến mất.

Mong rằng ở một nơi xa mẹ vẫn có thể nhìn thấy tôi sống như nào và dõi theo tôi. Con xin lỗi vì nếu ngày ấy con không dại khờ, nếu ngày ấy con trưởng thành hơn thì bây giờ chúng ta đã có một cuộc sống ấm no hạnh phúc rồi..

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 7

Ân hận vì một câu nói ngây thơ của trẻ con, cha tôi đã làm cho mẹ và cả gia đình mỗi người một phương. Vậy là đã 10 năm kể từ ngày mẹ tôi biến mất, giờ tôi đã đủ trưởng thành để thấu hiểu điều gì đã xảy đến với gia đình mình và sao tôi lại không có mẹ ở bên cạnh nữa.

Tôi vẫn hay nghe nhiều người nói đùa rằng mẹ mình là một người phụ nữ đẹp, hiền hậu và tư dung tuyệt vời, cha tôi cũng vì mến hạnh mà lấy mẹ. Mất chẳng bao lâu sau triều đình bắt quân đi đánh giặc Chiêm, cha tôi xuất thân trong con nhà nòi, nhưng do không có bằng cấp mà phải lên đường sung binh lần đầu tiên. Bấy giờ mẹ tôi đương thì mang thai tôi chưa đầy mười ngày thì tôi chào đời.

Bà tôi vì nhớ thương con mà mất đi, trước khi qua đời bà có dặn dò, động viên mẹ tôi, và cho rằng người sống phúc đức sẽ được hạnh phúc. Qua một năm sau thì cha lại quay về cũng là lúc tôi mới bắt đầu tập nói. Cha dẫn tôi đi hỏi mộ bà, ngay lúc đó do chưa thể nhận diện được cha mình mà tôi cứ khóc mãi không theo, cha gạn hỏi tôi mới chịu nói rằng:

“Ông cũng là cha tôi à? Ông cũng biết nói, nhưng không giống cha trước kia là biết khóc. “Cha tôi sinh nghi đành gạn hỏi lại, với sự ngây thơ của một đứa trẻ chưa đến 2 tuổi, tôi đã nói rằng đêm nào cha cũng đến ngủ với tôi và mẹ làm gì cha cũng làm theo.

Tôi chẳng thể ngờ được rằng, chỉ câu nói đó đã khiến cha mình nảy sinh lòng ghen tuông. Với bản tính đa nghi nên cha tin lời vợ rồi về nhà chửi mắng mẹ thậm tệ mặc kệ mẹ có gạn hỏi ai nói hay cố thanh minh thế nào đi chăng nữa. Họ hàng làm xóm khi ấy cũng ra sức bênh vực và can ngăn nhưng cha cũng không nghe.

Bất đắc dĩ, mẹ đành tắm rửa chay sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang gieo mình. Một đêm phòng không vắng vẻ, khi chỉ còn cha con tôi, nhìn bóng cha trên vách tôi tưởng là cha mình đến và cất tiếng kêu từ bao giờ cha mới hiểu được sự đau khổ của mẹ, nhưng biết còn có thể làm gì hơn khi người đi thì cũng đã đi xa, người ở lại vẫn đang tiếp tục cuộc sống của mình.

Nhưng sau này tôi mới biết, mẹ đã được Linh Phi bắt và thả đi làm cung nữ dưới thuỷ cung. Gặp lại Phan Lang – một người cùng làng, nhờ giao kỷ vật và nói thay nỗi lòng cho cha tôi, lúc ấy thì cha đã lập đàn giải oan ở bến sông, còn mẹ tôi cũng chỉ hiện lên mờ ảo để nói lời vĩnh biệt, rồi đi mất. Mẹ cứ thế xa rời cuộc sống của hai cha con tôi.

Tôi tin rằng ở dưới đại dương này mẹ luôn dõi theo cuộc sống của chúng tôi. Tôi vô cùng hối hận vì nếu ngày ấy tôi đã hiểu lầm và chỉ thốt những câu ngây thơ như vậy thì sẽ không có chuyện hôm nay. Và tôi cũng mong rằng, sẽ không có gia đình nào gặp phải hoàn cảnh giống gia đình của chúng tôi nữa. Gia đình sẽ hạnh phúc nhất khi nó được toàn vẹn.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 8

Tôi là Đản, một đứa trẻ đang thiếu thốn tình cảm của mẹ, chỉ vì một câu nói ngây ngô của trẻ thơ, mà tôi đã làm mất mẹ, làm gia đình mỗi người một phương. Vậy là đã 10 năm kể từ khi mẹ tôi mất, giờ tôi đã đủ lớn để hiểu những gì đã xảy ra với gia đình tôi, và tại sao tôi lại không có mẹ ở bên cạnh nữa.

Tôi còn thường nghe hàng xóm và cha mình kể lại, mẹ tôi là một người phụ nữ xinh đẹp, hiền lành, tư dung tốt, cha tôi cũng vì mến dung hạnh mà cưới mẹ về làm vợ. Nhưng chẳng bao lâu sau khi họ cưới nhau, triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm, cha tôi dẫu trong con nhà dòng, nhưng vì không có học nên phải lên đường sung binh đợt đầu.

Bấy giờ mẹ tôi đương thì mang thai tôi, khi cha đi được tầm mười ngày thì tôi ra đời. Bà tôi mất vì nhớ thương con cho dù mẹ tôi có cố gắng chạy chữa thuốc thang thế nào. Bà tôi trước khi mất còn dặn dò mẹ tôi nhiều điều.

Qua một năm sau, khi cha tôi trở về, vừa lúc tôi mới bi bô học nói. Cha dẫn tôi đi thăm mộ bà, nhưng lúc ấy vì chưa nhận biết được cha mình nên tôi cứ khóc ing ỏi, nằng nặc không theo cha. Nhiều lần cha gặm, hỏi tôi mới vô tình nói rằng: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông cũng biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ biết nín thin thít.”

Câu hỏi ngây thơ của một đứa trẻ đang bi bô tập nói, khiến cha tôi nghi ngờ mẹ, bởi vốn vĩ, mẹ là người phụ nữ xinh đẹp, lại nết na hiền lành, nên lúc trước có rất nhiều người theo đuổi. Cha tôi sinh nghi đành gạn hỏi tôi, tôi đã nói rằng đêm nào cũng có người đàn ông đến, mẹ bảo là cha để dỗ dành tôi không khóc.

Tôi chẳng ngờ được rằng, chính câu nói ấy đã khiến cha sinh lòng ghen tuông, lại vốn tính đa nghi, cha về nhà mắng chửi mẹ thậm tệ mặc mẹ có gạn hỏi ai nói, cố gắng giải thích như thế nào đi chăng nữa. Họ hàng làng xóm xung quanh khi đó cũng hết lời bênh vực và biện bạch nhưng chẳng thể thay đổi được sự nghi ngờ và nóng giận của cha.

Cha vẫn một mực đuổi mẹ đi. Bất đắc dĩ, mẹ tôi tắm rửa chay sạch, ra bến Hoàng Giang gieo mình, như một lòng muốn dòng sông rửa nỗi hàm oan cho bà.

Nhiều đêm không có mẹ, tôi khóc đòi, khiến cha phải dỗ dành. Một đêm phòng không vắng vẻ, khi cha đang ru tôi ngủ, tôi thấy bóng cha trên vách tường rất giống với hình ảnh người cha mà mẹ vẫn chỉ, nên ngỡ là cha mình đến, cất tiếng gọi, lúc nào cha mới nhận ra nỗi oan khuất của mẹ, nhưng chẳng có thể làm gì nữa khi mẹ đã đi xa rồi.

Mãi sau này tôi được cha kể lại, mẹ tôi được Linh Phi cứu, đưa xuống làm cung nữ dưới thuỷ cung. Mẹ tôi gặp lại Phan Lang – một người cùng làng, và nhờ ông trao lại kỉ vật và nói hộ nỗi lòng với, và mong muốn cha lập đàn cầu oan cho mình. Sau đó, cha nghe lời Phan Lang, lập đàn giải oan ở bến sông cho mẹ, mẹ tôi đã trở về, nhưng chỉ hiện lên mờ mờ ảo ảo nói lời từ biệt, rồi biến mất.

Mặc dù mẹ đã mãi đi xa, nhưng tôi tin rằng ở dưới thủy cung, mẹ vẫn dõi theo cuộc sống của chúng tôi. Tôi rất hối hận cũng rất thương xót cho mẹ, vì nếu ngày ấy tôi đã hiểu chuyển, chẳng nói ra lời ngây ngô của trẻ nhỏ đó thì sẽ không có sự tình này. Và cũng mong rằng, sẽ không có gia đình nào gặp phải tình cảnh tương tự như gia đình của chúng tôi nữa.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 9

Tôi là Trương Đản, con trai của Trương Sinh và Vũ Thị Thiết, sinh ra và lớn lên tại Nam Xương. Khi tôi còn rất nhỏ, mẹ của tôi đã qua đời và giờ đây tôi chỉ còn nhớ về cảm giác vòng tay ấm áp và tiếng ru lúc ngủ của mẹ mình.

Sự thiếu vắng tình yêu và chăm sóc của mẹ đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôi. Nhiều lần tôi hỏi cha về cái chết của mẹ nhưng không được giải đáp. Sau này, khi nghe cha tôi kể lại, tôi mới biết mẹ của tôi là người phụ nữ thùy mị nết na, hết mực khuôn phép, không để gia đình thất hòa.

Cha tôi đã xin cưới mẹ của tôi vì mến cô ta, và hai người sống rất hòa thuận. Tuy nhiên, khi cha tôi phải đầu quân đi đánh giặc Chiêm, gia đình chúng tôi bị chia xa. Mẹ của tôi sinh ra tôi một mình và tự mình nuôi nấng, dạy bảo, lo mọi việc trong nhà chu toàn. Nhưng tiếc thay, bà tôi đã qua đời sớm do bệnh tật và uất ức vì nhớ cha.

Cha tôi đã trở về sau khi đánh giặc Chiêm thắng lợi, nhưng tin mẹ mất đã khiến cha rất buồn. Khi đưa tôi ra thăm mộ bà, tôi đã nói ra những lời ngây ngô khiến cha tưởng mẹ tôi đã bỏ rơi gia đình chúng tôi. Cha tôi đã chửi bới và đuổi mẹ tôi ra khỏi nhà, khiến mẹ tôi uất ức đến mức tự tử. Tôi đã khóc nấc và đòi mẹ mãi nhưng cha tôi chẳng nói gì.

Sau này, khi gặp chú Phan Lang, người cùng làng đến truyền lại lời của mẹ tôi, cha tôi mới biết mình đã trách oan mẹ của tôi. Ông đã lập đàn giải oan bên sông và mẹ tôi xuất hiện trên chiếc kiệu hoa lung linh, nổi bật giữa sông. Tôi vẫn nhớ cảnh tượng đó như in đậm trong ký ức của mình. Cha tôi ôm lấy tôi, cùng nghe chú Phan Lang kể lại những chuyện mẹ tôi đã làm cho đến khi mất đi. Cha tôi cảm thấy rất xúc động và ân hận vì đã trách oan mẹ của tôi.

Từ đó, cha tôi thường xuyên đưa tôi ra đó ngắm cảnh, nghe chú Phan Lang kể lại những chuyện về mẹ. Tôi cũng dần hiểu ra rằng, tình yêu và sự quan tâm của mẹ vẫn luôn hiện diện bên cạnh tôi, dù cho mẹ đã ra đi từ rất lâu.

Khi tôi trưởng thành, cha tôi đã kể lại câu chuyện này cho tôi nhiều lần, như một lời nhắc nhở về tình mẫu tử và sự quan tâm đến những người thân yêu. Tôi luôn tự nhủ rằng, sẽ không bao giờ để lại hối tiếc cho những lời nói ngô nghê của mình như cha tôi đã từng trải qua.

Tôi hiểu rằng, mẹ tôi đã trải qua những thời khắc khó khăn để nuôi dưỡng và chăm sóc tôi, dù cho cô ấy đã không còn ở bên tôi. Và tình yêu và sự quan tâm của mẹ vẫn còn đọng lại trong trái tim tôi, và sẽ mãi mãi không bao giờ phai mờ.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 10

Tôi là một đứa bé mất mẹ từ sớm, tôi không còn nhớ rõ khi đó lên ba lên bốn gì đó.Tôi chỉ được cha nói về miếu Vũ Nương – đó là nơi mẹ ở. Tôi vẫn thường hay đến miếu thăm mẹ, lần này tôi đi vào buổi chiều tối, đến nơi thì mưa to quá tôi không thể nào về được nên liền ngủ lại đó. Trong đêm đó, tôi mơ được nói chuyện với mẹ.

Một buổi sáng trong lành, từng chú chim nhảy nhót trên cành và líu lo cất tiếng ca, từng cây lá khẽ đung đưa theo lời ru của chị Gió, mọi vật xung quanh đều tươi tắn, vui mừng như gửi ngàn lời chúc phúc cho cuộc hôn nhân của cha tôi – Trương Sinh – và mẹ – Vũ Nương.

Từ lâu, cha đã mến mộ tư dung tốt đẹp của mẹ. Vẻ đẹp của cả tâm hồn và vóc dáng ấy đã khiến không biết bao nhiêu chàng trai mơ ước, và trong đó có cha tôi. Thế nhưng, có lẽ mẹ đã không nhận được những gì mà mẹ tưởng tượng và xứng đáng được nhận, bởi cha tôi là một kẻ không học hành gì, bất tài vô dụng, và theo như cha tự nhận thấy thì cha rất hay ghen. Thế mà ông trời lại không cho cha mẹ tôi được hạnh phúc. Cha tôi phải đi đánh trận.

Ba năm dài dằng dặc ấy rồi cũng trôi qua, cha được trở về nhà sau khi giặc giã đã dẹp yên. Ba năm qua, cha luôn sống trong nỗi nhớ thương và lo lắng về mẹ và vợ. Không còn lâu nữa, cha được gặp đứa con trai đầu lòng, được gặp lại mẹ và bà – những người mà ông ấy hằng thương nhớ. Cha dắt bé Đản – là tôi – cùng đi thăm mộ người mẹ hiền hết mực tôn kính.

Đứng trước ngôi mộ của bà, cha không kìm nổi nước mắt, cũng bởi cha quá nhu nhược và chưa làm được gì để báo hiếu cho bà. Cha ôm lấy tôi và cất tiếng bày tỏ nỗi đau của mình cho con nghe. Sau khi tôi lỡ lời nói với cha về cái bóng. Quá nóng vội và để nỗi ghen tuông điều khiển mọi tâm trí lẫn hành động, cha đùng đùng trở về nhà, không nói không rằng, mắng nhiếc mẹ và đánh đuổi mẹ đi.

Lúc đó cha đã bỏ ngoài tai mọi lời phân trần, giải thích của mẹ và kể cả những lời khuyên ngăn của bà con làng xóm. Chỉ vì một lời nói ngây dại của tôi và bản tính bồng bột của cha mà mẹ đã phải chịu nỗi oan nhục kêu trời không thấu. Mẹ đã phải tự trầm mình xuống sông Hoàng Giang để bảo vệ cho tiết hạnh của mình.

Giờ đây, khi nhớ lại những kí ức nghiệt ngã ấy, tôi lại càng vững chắc quyết tâm sống tốt hơn. Tôi muốn thực hiện một ước mong cháy bỏng – cải đổi xã hội phong kiến lạc hậu này, giúp cho đất nước và cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 11

Tôi là Trương Đản, cha tôi là Trương Sinh, mẹ là Vũ Thị Thiết, tôi sinh ra lớn lên trong ở Nam Xương. Khi tôi chỉ mới hơn một tuổi, mẹ tôi đã mất, giờ tôi chẳng thể nhớ ra bộ mặt của mẹ mình, chỉ còn đâu đấy cảm giác về đôi vòng tay ấm áp cùng tiếng ru khi ngủ nhưng mà thôi. Tôi lớn lên trong sự thiếu vắng tình yêu và của mẹ, nhiều lần tôi gặng hỏi cha về cái chết của mẹ nhưng cha hứa khi nào lớn mới kể cho tôi nghe về mẹ mình. Sau này lúc được nghe kể lại mọi chuyện thì tôi hết sức ngỡ ngàng, tôi càng hối hận vì ngày đấy chỉ vì một lời nói ngô nghê đã dẫn đến thảm kịch xảy ra, để giờ đây gia đình chẳng còn toàn vẹn.

Nghe cha tôi kể rằng, mẹ tôi là người phụ nữ thùy mị nết na, rất ngôn hạnh và hiếu thảo. Cha cũng vì mến tư dung tốt đẹp của bà đã xin cưới mẹ về làm vợ. Hai người chung sống với nhau rất hòa thuận nhưng mà chưa được bao lâu, thời thế xảy ra chiến loạn, triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm, cha tôi vì thế phải đầu quân. Hai người chia tay khi mẹ tôi đang mang thai tôi, và chỉ hơn mười ngày sau đó, tôi chào đời. Trong suốt thời gian cha đi vắng, mẹ phải tần tảo sớm hôm, một thân một mình mình cưu mang, bảo ban, lo mọi việc trong nhà và cả người bà của tôi. Nhưng mà tiếc thay, bà tôi vì nhớ thương cha mà sinh bệnh mất sớm dù mẹ tôi hết dạ chạy chữa chăm bề.

Sau lúc triều đình dẹp loạn giặc, cha tôi trở về. Hay tin mẹ mất, cha tôi buồn nhớ thương, đau buồn rất nhiều, cha đã đưa tôi ra thăm mộ bà. Nhưng khi ấy, tôi nằng nặc không nghe, không theo và gọi cha. Khi đấy thấy cha rất lạ lẫm nên tôi rất sợ, vừa khóc vừa hỏi: “Ông cũng là cha tôi ư?”. Sau đấy, cha nghi ngờ cha gạn hỏi thì tôi giải đáp: “Cha Đản đêm nào cũng tới, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng mà chẳng bao giờ bế Đản cả.” Lời nói ngô nghê đã đấy lên sự nghi ngờ, ghen tuông của cha với mẹ. Cha trở về nhà, chửi bới, mắng nhiếc mẹ thậm tệ, mẹ vì uất ức nên đã gieo mình xuống sông tự vẫn.

Sau này, mỗi đêm không thấy mẹ, tôi khóc tới thất thanh, đòi mẹ mãi nhưng mà cha cũng chẳng nói gì. Một đêm nọ, trông thấy bóng cha trên tường tôi hô lớn: “Cha Đản lại tới kia kìa”. Khi đấy, cha tôi mới giật mình mà nhận ra mình đã trách oan mẹ rồi. Cha tôi đau buồn, hối hận lắm. Sau này, cha được chú Phan Lang – người cùng làng tới truyền lại lời của mẹ, và nói về tâm tư của mẹ. Ông liền lập đàn tẩy oan bên sông, khi ấy, mẹ hiện về trên chiếc kiệu hoa lung linh, nổi trội ở giữa sông, lung linh và mở ảo, nhưng mà mẹ chỉ nói năm ba câu rồi mất tích, quay lại chốn thủy cung.

Mặc dù, tôi không phải người trực tiếp đẩy mẹ đến bước đườn hàm oan và phải tự vẫn, nhưng sự ra đi của mẹ khiến tôi hết sức hối hận và dằn vặt chẳng có thứ gì có thể khiến tôi khắc phục uẩn khúc của tôi. Tôi hận mình, chỉ vì một lời nói dại dột tôi đã khiến mẹ tôi rời xa tôi mãi mãi.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 12

Tôi là Trương Đản, cha tên là Trương Sinh, mẹ là Vũ Thị Thiết, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình ở Nam Xương, mẹ đã qua đời từ khi tôi còn quá bé, giờ tôi không nhớ được gương mặt của mẹ nữa, chỉ còn lại cảm nhận về đôi vòng tay ấm áp cùng lời hát ru lúc giấc ngủ mà thôi. Tôi lớn lên trong sự thiếu thốn tình cảm và quan tâm của mẹ, nhiều lần tôi gặng hỏi cha về cái chết của mẹ nhưng nhiều lần cha chỉ trả lời khi nào lớn cha sẽ kể. Sau này khi được cha kể lại mọi việc thì tôi vô cùng ngỡ ngàng, tôi nhớ mẹ và càng hối hận vì ngày đó mình chỉ vì một lời nói ngây ngô mà khiến bi kịch xảy đến, để giờ đây gia đình không còn trọn vẹn.

Nghe cha tôi chậm rãi kể lại, mẹ vốn là người phụ nữ đoan trang dịu dàng, rất mực hiếu thảo nên không muốn gia đình thất hoà. Cha cũng vì thấy mẹ có tư dung tốt nên xin cưới tôi làm vợ. Hai người chung sống với nhau khá hạnh phúc nhưng chẳng được bao lâu thì triều đình cho quân đi đánh giặc Chiêm, cha tôi dù không có bằng cấp cũng phải nhập ngũ. Gia đình phải chia tay trong lúc mẹ tôi đang mang thai tôi. Cha đi không mấy ngày thì mẹ sinh thêm tôi, mẹ một mình chăm sóc, dạy dỗ và lo toan các việc trong nhà chu toàn. Nhưng tiếc thay, bà tôi vì nhớ cha mà cũng qua đời sớm khi mẹ chưa hết lòng yêu thương.

Sau khi đánh đuổi giặc Chiêm thành công cha mới trở về. Biết tin bà qua đời, cha tôi khóc rất nhiều, cha đã dẫn tôi ra viếng mộ bà. Nhưng tôi có đâu ngờ rằng mình lại có thể nói ra những điều như thế. Lúc đầu thấy cha rất lạ làm tôi rất sợ hãi nên vừa khóc vừa nói: “Ông cũng là cha đản à?”. Lúc sau cha gạn hỏi thì tôi đáp: “Cha Đản đêm nào cũng đến, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi chứ không ai ôm Đản bao giờ.” Lời nói ngây thơ ấy của tôi đã khiến cha tôi nghi ngờ oan mẹ tôi. Cha chửi bới đuổi mẹ ra khỏi nhà khiến mẹ tôi tức giận nên đã gieo mình xuống sông tự vẫn. Không thấy mẹ đâu tôi la đến khóc và hỏi mẹ hoài mà cha cũng chẳng nói chi. Đêm đến, mơ thấy bóng cha trên cao tôi hô to: “Cha Đản đã đến kia kìa”. Lúc ấy cha mới biết mình đã gọi nhầm mẹ rồi. Cha đau khổ và ân hận nhiều.

Sau này khi nghe được chú Phan Lang – người cùng làng đến truyền đạt lại câu chuyện của mẹ, cha đã lập đàn giải oan trên sông. Mẹ xuất hiện trên chiếc kiệu hoa lộng lẫy và rực rỡ ở giữa sông, hào quang được mở ra, song mẹ chỉ nói vài lời rồi đi khuất, trở về chốn trần gian. Nơi đó, cha cũng không đi bước nữa mà ở vậy nuôi con trong sự ân hận khôn nguôi. Mẹ ra đi, tôi vô cùng hối hận và day dứt không có điều gì có thể khiến tôi giải tỏa khúc mắc của mình. Nhưng chỉ một lời nói khờ dại tôi đã khiến mẹ phải lìa xa mình vĩnh viễn. Con thật sự có lỗi với mẹ. Xin mẹ tha thứ cho con, hy vọng rằng ở một nơi xa mẹ sẽ có một cuộc sống tốt hơn và tôi biết rằng mẹ cũng sẽ luôn dõi theo mình.

Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình- Mẫu 13

Cũng đã hơn chục năm ngày giỗ của mẹ, tôi nhớ mẹ, tôi cảm thấy ân hận vì ngày bé mình đã dại khờ để rồi gây nên tội ác, để rồi cũng từ cái tuổi thơ trẻ đó tôi đã làm mất mẹ, làm gia đình mỗi người một phương. Ngày ấy nghe nhiều người kể rằng, mẹ tôi là một người phụ nữ đẹp, hiền và tư dung tốt, cha tôi cũng vì mến hạnh mà lấy mẹ. Cũng chẳng bao lâu sau nhà nước có lệnh đi đánh dẹp Chiêm Thành, cha tôi dù trong con nhà dòng danh giá nhưng do không có bằng cấp mà phải ra sung binh lần đầu tiên. như mẹ đã đương thì với bà chỉ được mười ngày sau tôi chào đời.

Ngày qua tháng lại, thoắt cái nửa năm sau do không chịu đựng được cảnh chờ đợi con, bà tôi đã qua đời mặc dù mẹ đã hết lòng thuốc thang chăm bẵm. Trước khi mất bà có căn dặn, khuyên bảo mẹ tôi, và nói rằng người ăn ở phúc đức ắt được quả báo tốt, con cái đầy đàn. Năm sau cha lại về cũng là lúc tôi mới bắt đầu học nói. Cha đưa tôi đi hỏi mộ ba, nhưng lúc đó do không biết mùi nên tôi cứ khóc khăng khăng không theo, cha gạn hỏi tôi mới chịu nói rằng: “Ông cũng là cha mình ư? Ông cũng biết nói, nhưng không giống cha trước kia là biết khóc. “Cha tôi sinh nghi đành gạn hỏi tôi, với sự ngây thơ của một đứa trẻ mới chập chững biết nói rằng đêm nào cha cũng sang ngủ với tôi còn mẹ làm gì cha cũng làm theo.

Sinh lòng ghen tuông, cha không nghe lời tôi, về nhà chửi mắng mẹ thậm tệ mặc mẹ có gạn hỏi ai nói, có cố gắng thanh minh thế nào đi chăng nữa. Bất đắc dĩ, mẹ mới tắm rửa trai sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang thả tôi. Đến tối khi chỉ còn cha con tôi ở nhà, thấy bóng cha trên vách tôi vẫn tưởng là cha mình nên cất tiếng gọi, dần dần cha mới hiểu được sự đau khổ và bất hạnh của mẹ, nhưng liệu còn có thể làm gì hơn khi người đi rồi cũng đã đi xa, người ở lại thì phải tiếp tục cuộc đời của mình. Mãi sau này tôi mới biết rằng mẹ đã được Linh Phi cứu giúp và cho đi làm cung nữ dưới thuỷ cung.

Gặp lại Phan Lang – một người cùng làng, nhờ đưa quan tài giúp cha mình, sau khi cha tôi nhận thấy sai lầm, mở đàn thanh minh thì mẹ cũng chỉ hiện lên trong thế giới mạng rồi dần dần biến mất. Mong rằng ở một nơi xa mẹ vẫn có thể nhìn thấy tôi sống như nào và dõi theo tôi. Con xin lỗi vì nếu ngày ấy con không dại khờ, nếu ngày ấy con trưởng thành hơn thì bây giờ chúng ta đã có một cuộc sống ấm no hạnh phúc rồi.

Trên đây là nội dung bài học Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ mình chọn lọc hay nhất (13 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (75 bình chọn)



Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button