Học TậpLớp 12

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế ngắn gọn, hay nhất (13 Mẫu)

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 13 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế.
Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế.

Mục lục

Dàn ý Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế lớp 12

Dàn ý Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Số 1

1. Mở bài

Bạn đang xem: Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế ngắn gọn, hay nhất (13 Mẫu)

– Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: là nhà văn của xứ Huế, ông có sức liên tưởng tưởng tượng dồi dào, lối hành văn mê đắm, ông chuyên viết về bút kí.

– Tác phẩm là tùy bút tiêu biểu cho phong cách văn chương của tác giả: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.

– Hình tượng sông Hương trong lòng thành phố Huế

2. Thân bài

– Trong lòng Huế

  • Tác giả so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới, sông Hương chỉ thuộc về một thành phố duy nhất, giống như người con gái chung thủy.
  • Sông Hương mang đến cho Huế một vẻ đẹp cổ xưa dân dã: “ánh lửa thuyền chài … xưa cũ”, trôi đi chậm như một mặt hồ.
  • Người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.

– Từ biệt Huế ra biển:

+ Như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.

=> Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.

3. Kết bài

– Nêu cảm nhận về hình tượng dòng sông Hương ở trong lòng thành phố Huế

– Đánh giá nghệ thuật nổi bật: liên tưởng độc đáo, sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.

– Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế cũng như đất nước.

Dàn ý Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Số 2

I. Mở bài:

– Giới thiệu về đề tài sông Hương

– Giới thiệu Hoàng Phủ Ngọc Tường và bái bút kí

– Giới thiệu vẻ đẹp của sông Hương khi chảy vào thành phố

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung tác phẩm

– Tác phẩm được sáng tác tại Huế năm 1981

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” rút ra từ tập bút kí cùng tên, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường, lấy cảm hứng từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế để từ đó nhà văn bày tỏ tình yêu đất nước con người.

– Đánh giá nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • Có thể nhắc đến sông Xen, dòng sông đẹp nhất của thủ đô Pa ri để dẫn tới lời nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở câu mở đầu đoạn trích: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước….một thành phố duy nhất”
  • Đánh giá: Nhận xét mang đậm tính chủ quan của nhà văn. Thể hiện nét độc đáo sông Hương, uyên bác, tự hào.

2. Vẻ đẹp của  Sông Hương khi chảy vào lòng thành phố.

– Đánh giá đoạn văn, như câu chuyển ý: Đoạn văn như được cảm nhận dưới con mắt nghệ thuật của nhà văn, hội họa và âm nhạc. Sông Hương được ví như người tình của xứ Huế.
Sông Hương trong cảm nhận hội họa

  • “Sông Hương vui tươi hẳn lên…đông bắc” –> nhà văn cảm nhận sông Hương như một thực thể sống động, có niềm tin, tâm trạng khi tìm lại được chính mình
  • “Chiếc cầu trắng… lời của tình yêu”. –> vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và cầu Tràng Tiền được miêu tả qua nghệ thuật so sánh tài hoa.
  • “Không giống như sông Xen…yêu quý của mình” –> niềm tự hào của tác giả khi so sánh sông Hương với các con sông nổi tiếng trên thế giới.

– Sông Hương trong cảm nhận âm nhạc

  • Sông Hương – “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, sông Hương chảy chậm, điệu chạy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình. –> chất âm nhạc thể hiện ở nhịp điệu êm đềm của bài bút kí bởi những câu văn dài nối tiếp nhau.
  • Nhà văn liên tưởng đến dòng sông Nê va cảu Lê-nin-grat…

3. Kết bài

– Nêu cảm nhận về hình tượng dòng sông Hương ở trong lòng thành phố Huế

– Đánh giá nghệ thuật nổi bật

Dàn ý Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Số 3

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Giới thiệu đoạn trích

2. Thân bài

– Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế: Sông Hương được ví như người tình của xứ Huế. Sông Hương trong cảm nhận hội họa

+ “Sông Hương vui tươi hẳn lên…đông bắc” –> nhà văn cảm nhận sông Hương như một thực thể sống động, có niềm tin, tâm trạng khi tìm lại được chính mình

+ “Chiếc cầu trắng… lời của tình yêu”. –> vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và cầu Tràng Tiền được miêu tả qua nghệ thuật so sánh tài hoa.

+ “Không giống như sông Xen…yêu quý của mình” –> niềm tự hào của tác giả khi so sánh sông Hương với các con sông nổi tiếng trên thế giới.
Sông Hương trong cảm nhận âm nhạc

+ Sông Hương – “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, sông Hương chảy chậm, điệu chạy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình. –> chất âm nhạc thể hiện ở nhịp điệu êm đềm của bài bút kí bởi những câu văn dài nối tiếp nhau.

Nhà văn liên tưởng đến dòng sông Nê va cảu Lê-nin-grat…

3. Kết bài

– Khái quát lại vấn đề

13 Bài mẫu Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 1

Nếu như sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân nổi bật với vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ thì sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc lại mang một vẻ đẹp trữ tình, dịu dàng. Trước khi vào với thành phố Huế, sông Hương đã phải trải qua một hành trình đầy gian truân và thử thách trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả. Khi đến với thành phố Huế, sông Hương thực sự đã được là chính mình và để lại nhiều dấu ấn riêng biệt cho cố đô.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hóa xứ Huế trong việc khảo cứu các đối tượng để phục vụ các lĩnh vực văn học, văn hóa. Ông là nhà văn chiến sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo và là người có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một trong tám bài kí xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường và được xuất bản lần đầu năm 1986.

Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, nó vui hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hương Tây Nam – Đông Bắc”, tự “uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang đến Cồn Hến khiến dòng sông mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, nó là niềm tự hào của xứ Huế và của con người Huế bởi nó đem một nét đặc trưng riêng mà không dòng sông nào có được. Sông Hương đánh thức được linh hồn dân tộc, nó khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh lập “lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Sông Hương thật yên bình là bởi ở đó còn có hình ảnh của những con người mưu sinh. Sông Hương trôi đi “chậm, thực chậm” như không muốn rời khỏi thành phố yêu quý để lại một mặt hồ yên tĩnh. Khi chảy trong lòng thành phố Huế, nó còn đem đến “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, nó “ngập ngừng như muốn đi muốn ở”.

Không chỉ nhẹ nhàng như một điệu “slow” tình cảm, sông Hương còn được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của nhà văn. Sông Hương và những chi lưu của nó đã tạo nên những nét cổ kính của cố đô bởi những nhánh sông đào mang nước của sông Hương “tỏa đi khắp phố thị với những cây đa, cây cửa”. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, khiến cho nhà thơ có những liên tưởng đến với cảnh được ngồi trên thuyền lênh đênh, nghe ca Huế trên dòng sông lấp lánh ánh trăng bởi nhà văn đã nhiều lần thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày. Sông Hương chảy vào thành phố bỗng làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và kín đáo bởi sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử và nó gắn liền với vẻ đẹp của con người xứ Huế.

Sông Hương về với Huế như người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được tình nhân đích thực của mình cho nên nó có chút e thẹn và kín đáo của người con gái đang yêu. Dưới ngòi bút điêu luyện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được nhìn nhận ở nhiều phương diện khác nhau và mang vẻ đẹp của toàn thành phố rất đỗi thơ mộng, trữ tình.

Qua những cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường ta có thể thấy sông Hương đã được tiếp cận và miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau khi chảy vào trong thành phố Huế. Có thể thấy, sông Hương chính là đối tượng để tác giả bộc lộ tâm tình với con người xứ Huế. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu thiên nhiên và con người nơi đây lắm thì mới có được những cảm nhận vô cùng tinh tế và sâu sắc như vậy.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 2

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả sáng tác có nhiều thành công ở nhiều thể loại. Tuy nhiên, thành công chủ yếu của ông là ở thể kí. Nguyễn Tuân – một bậc thầy về thể kí đã cho rằng kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của ông viết tại Huế năm 1981 là một trong những tác phẩm đặc sắc vừa thể hiện những nét đẹp độc đáo của sông Hương vừa thể hiện nét tài hoa, uyên bác của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường nhạy cảm, tinh tế, nhất mực say mê cái đẹp của quê hương, đất nước.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bài bút kí viết hết sức tự do và phóng khoáng. Xét đến cùng, sức hấp dẫn của tác phẩm này chính là cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường- một cái tôi tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, ông đã đem đến cho người đọc được chiêm ngưỡng một thực thể thẩm mĩ tuyệt vời của tạo hóa ban tặng – đó là dòng sông Hương của xứ Huế với một vẻ đẹp phong phú, lung linh, huyền ảo, nhất là đoạn chảy về đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế.

Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế đã bộc lộ nét tài hoa, lịch lãm trong lối viết của tác giả. Người đọc khó có thể cưỡng lại sức hấp dẫn toát ra từ thủ pháp nhân hóa, từ cách dùng hàng loạt các động từ diễn tả cái dòng chảy thật sống động qua các địa danh khác nhau của xứ Huế.

Dễ nhận thấy sông Hương từ chân núi Kim Phụng liên tục chuyển dòng: có lúc là hướng Nam Bắc, có lúc lại là hướng Tây Bắc,… nhưng những khúc quanh, sự chuyển dòng đột ngột của dòng sông đã được tác giả thể hiện qua những cảm nhận rất độc đáo, qua một cái nhìn thật tình tứ khi Hoàng Phủ Ngọc Tường tưởng như đó là những đường cong thật mềm của người con gái. Nói cách khác, thủy trình của Hương Giang không thẳng tắp, không đơn điệu. Ta không quên tác giả luôn ví sông Hương với hình ảnh của người thiếu nữ, một thiếu nữ đang đến với xứ Huế, đến nơi hẹn gặp thành phố tương lai. Như thế, những đoạn gấp khúc uốn quanh không chỉ cho ta thấy những đường cong thật mềm của thiếu nữ mà còn thoáng chút gì như e lệ, một chút chùng chình khi đến nơi hẹn với người tình chung thủy. Đấy là nơi sông Hương sẽ gắn bó mãi với kinh thành.

Từ Bến Tuần, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy những con thuyền trên sông Hương chỉ bé vừa bằng con thoi, còn sông Hương lại như tấm lụa khổng lồ. Đấy là những tấm lụa rực rỡ những sắc màu và những sắc màu ấy lại biến đổi theo thời gian: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Thật ra, đó chỉ phản quang theo thời gian trong ngày nhưng cũng đủ cho ta thấy vẻ đẹp kì ảo của thiên nhiên một miền đất. Những sắc màu ấy không cùng đồng hiện, nếu thế thì không còn là rực rỡ mà chỉ là sặc sỡ. sắc màu ấy đã biến đổi theo thời gian, theo quy luật, trở thành cách nói quen thuộc của người dân xứ Huế. Như thế, cảnh sắc càng trở nên diễm lệ và mơ màng. Đấy là những sắc màu phản quang biến đổi theo thời gian của một ngày hay đấy là nỗi niềm của con người đồng hành với những sắc màu của một miền đất ? Cảnh sắc ấy càng khiến người ta bâng khuâng:

Sớm trông mặt đất thương xanh núi

Chiều vọng chân mây nhớ tím trời

(Xuân Diệu)

Nói đến Huế còn phải nói đến những lăng tẩm – dường như đây là điều không thể tách rời. Tác giả nói đến một đoạn sông Hương trôi chảy giữa quần sơn lô xô, nơi đấy chỉ có những rừng thông u tịch, như cảm nhận được niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm, bao nhiêu lăng của vua chúa khiến cho một đoạn sông Hương như chìm trong núi phủ mây phong cùng với bóng tùng:

Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên

Đoạn sông Hương này dòng chảy không cuộn xoáy, không rầm rộ mà dường như mây phong núi phủ đã khiến nó trở nên trầm mặc, nghĩa là gợi ra những cảm nhận về nghĩ suy, về những gì là thâm nghiêm. Nét trầm mặc này được tác giả ví như triết lí, như cổ thi – tác giả đã không so sánh với những gì cụ thể, dễ nhận biết mà lại so sánh với những thứ xa xôi, trừu tượng, mơ hồ để con người như càng thêm trầm tư, mặc tưởng trước vẻ đẹp đặc thù của một đoạn sông Hương.

Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế thân yêu – có lẽ đây là đoạn tác giả nói về vẻ đẹp của dòng sông đẹp nhất, duyên dáng, trữ tình nhất. Từ chùa Thiên Mụ trở đi, sông Hương lại mang một vẻ đẹp khác. Tác giả đã thấy sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc. Chi tiết này làm ta nhớ đến những câu thơ trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm nói về dòng sông ra đi giữa đôi bờ xanh bãi mía bờ dâu. Có lẽ đó cũng là nét đẹp thường thấy ở nhiều dòng sông khác. Nhưng nếu như Hoàng cầm chỉ gửi gắm nỗi niềm kín đáo thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nói rõ sông Hương vui tươi hẳn lên vì .nó đã tìm đúng đường về. Cái vui tươi của dòng sông lại cho ta liên tưởng đến cái vui tươi của con người, đến cuộc sống yên bình của người dân một miền đất với những bờ bãi xanh biếc, màu mỡ ,…

Sông Hương đã gặp cầu Tràng Tiền trên đường về. Tác giả thấy nhịp cầu với hình bán nguyệt in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Có thể nói liên tưởng, so sánh ấy thật hợp lí và bất ngờ và cũng thật nên thơ bởi so sánh ấy đã nói được hình dáng, màu sắc của cây cầu và dường như nhịp cầu có phản chiếu một ít ánh sáng. Hình bán nguyệt bừng sáng ở phía xa ấy như vành trăng non để liên tưởng có tiếp ở người đọc là ánh mắt của người thiếu nữ. Có lẽ khi đi tới những liên tưởng, những so sánh này thi Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nghĩ đến câu kiều: Mày ai trăng mới in ngần (bài kí hơn một lần cho thấy những liên tưởng về Truyện Kiều của Nguyễn Du).

Niềm vui của dòng sông khi gặp cầu Tràng Tiền không ồn ào mà có gì đó sâu thẳm, lặng lẽ. Sông Hương đến gần với xứ Huế chỗ cồn Giã Viên thì tác giả thấy nó có những nét cong thật mềm mại và đã được so sánh, nhìn nhận: dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. So sánh này thật là độc đáo, tài hoa và tinh tế. Tác giả đã so sánh với những cái khá mơ hồ nhưng lại gợi được những liên tưởng: cô gái ấy thuận tình nhưng lại không nói ra vì e lệ. Điều này làm ta liên tưởng đến nét đẹp của cô gái xứ Huế tình tứ, duyên dáng mà vẫn e lệ, vẫn kín đáo – Hàn Mặc Tử cũng đã có câu thơ nói về điều này: Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? (Đây thôn Vĩ Dạ).

Sông Hương giữa lòng thành phố Huế có gì đó gợi nhắc đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,…. nhưng những dòng sông ấy vừa giống lại vừa khác với Hương Giang. Đó đều là những dòng sông gắn liền với thủ đô, kinh đô nhưng sông Hương vẫn khác với hai con sông đó ở chỗ sông Hương không hoàn toàn gắn với những gì hiện đại mà còn gắn với những xóm thuyền, với nhưng ánh lửa thuyền chài. Sông Hương chảy giữa lòng thành phố ở đây ta như thấy có sự đan cài giữa quá khứ với hiện đại. Sự cận kề và đan xen ấy tạo nên nét đặc thù cho xứ Huế và sông Hương.Hương Giang phía hạ nguồn đã chảy chậm hơn. Đây cũng là một nét khác biệt nữa của dòng sông với sông Nê-va. Sông Nê-va chảy quá nhanh, quá xiết, còn dòng sông Hương chảy giữa lòng thành phố lại lặng lờ, êm đềm. Nó không còn vũ điệu cuồng nhiệt của cô gái Di-gan, chẳng còn nữa những gì là rầm rộ, là mãnh liệt. Điệu chảy khác thường ấy của sông Hương đã được tác giả gọi là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Nét êm đềm, lững lờ chảy của dòng sông chính là khuôn mặt kinh thành đã in dấu trong thơ của nhiều người:

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng Huế nên rất thơ

(Thu Bồn)

Hương Giang ơi, dòng sông êm

Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình

(Tố Hữu)

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

(Hàn Mặc Tử)

Sông Hương qua cảm nhận của tác giả chủ yếu được nhìn nhận theo chiều không gian, theo dòng chảy của con sông. Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu không nói đến vẻ đẹp của Hương Giang từ bình diện thời gian mà vẫn gắn với kinh thành, với đêm khuya trên dòng sông. Trong bài kí, tác giả đã nhắc đến tiếng đàn, tiếng cổ nhạc đêm khuya trên sông Hương. Dòng sông lúc ấy đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn thật có lí khi cho rằng không thể nghe tiếng nhạc Huế ban ngày, nghe ở nhà hát mà dứt khoát phải nghe lúc đêm khuya ở một khoang thuyền. Khi ấy, tiếng đàn sẽ hòa điệu với tiếng nước rơi trên mái-chèo để tạo nên một sự cộng hưởng lạ lùng. Từ đây, tác giả mới có liên tưởng đến Nguyễn Du. Thi hào có lẽ đã sống với những phiến trăng sầu, những đêm trên sông Hương với bao nỗi niềm, nghe tiếng đàn để có được câu thơ: Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới xa nửa vời mà một nghệ nhân gắn bó với cổ nhạc xứ Huế nửa thế kỉ qua đã quả quyết đó chính là Tứ đại cảnh (một bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua Tự Đức sáng tác). Dòng sông Hương là nơi sinh thành cổ nhạc Huế với những điệu nam ai, nam bình không thể nào quên. Đó là môi trường diễn xướng để tiếng nước rơi trên mái chèo làm tôn thêm tiếng đàn. Môi trường ấy đã nuôi dưỡng hồn thơ của một thi hào để từ đó có những câu thơ tuyệt diệu về tiếng đàn đi suốt cuộc đời nàng Kiều.

Khi chảy qua thành phố Huế, sông Hương dường như không vội vã mà muốn vòng lại lưu luyến. Hơn một lần Hoàng Phủ Ngọc Tường nói đến khúc quanh của dòng sông: có lúc là đường cong thật mềm, có lúc như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, còn ở đây tác giả lại thấy dòng sông vấn vương và có một chút gì lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Sông Hương đã là một cô gái thật đáng yêu, là Thúy Kiều trong đêm tự tình. Dòng sông ấy đã vòng lại, chảy lại để nói lời giã biệt với Kim Trọng và khẳng định một lời thề trước khi ra biển cả rộng lớn: còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ… Chia tay là một điều không thể khác, ra biển với những dòng sông là lẽ tự nhiên nhưng chỗ vòng lại khúc quanh ấy lại biểu hiện tất cả những bịn rịn, ước hẹn: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn (Thề non nước, Tản Đà). Dòng nước có trôi đi thì rồi giọt nước lại rơi về. Biết bao nhiêu nỗi vấn vương bâng khuâng tạo ra những liên tưởng về sự hóa thân, về những gì vang vọng trong câu hò dân gian về nét đẹp trung tình của con người một miền đất.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là bài văn xuôi đặc sắc đầy chất thơ về dòng sông Hương. Với tình yêu say đắm, thiết tha và với vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí,… nhà văn đã cống hiến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm về vẻ đẹp của dòng sông xứ Huế mộng mơ, nhất là đoạn chảy ở đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế. Hương Giang vốn đã đẹp ở ngoài nhưng trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến dòng sông đẹp hơn như một bức họa đồ, nhẹ nhàng êm ái như điệu slow tình cảm, hay dịu dàng cuốn hút như người tình trong mộng. Tất cả những điều đó làm dấy lên trong lòng người đọc nhưng khao khát được đến với sông Hương của xứ Huế thơ mộng. Dòng sông đúng là một công trình nghệ thuật mà tạo hóa đã ban tặng cho con người.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 3

Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa? Sông Hương chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ông là một nhà văn chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986. Tác phẩm đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng.

Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lí đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.

Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”. Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa để bạn đọc cảm nhận được sông Hương như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dòng sông nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di- gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.

Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu dàng và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sông đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình. Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dòng chảy trôi đi thật chậm. Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp của người con gái Di – gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục. Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về, sông Hương còn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ yên bình. Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dòng sông mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô – tê xưa cũ”.

Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau. Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.

Sông Hương là dòng sông lịch sử. Dòng sông được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dòng sông ấy còn vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.

Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận. Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nôi của văn chương, văn hóa. Từ góc độ thơ ca, sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát. Sông Hương quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất thơ.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế qua đó đã thể hiện cái “tôi” cá nhân của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tôi” tài hoa, uyên bác. Sông Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dòng sông. Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa từ bao đời nay. Sông Hương còn được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu. Thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, khi chảy giữa thành phố Huế, sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như “người con gái dùng dằng chia tay người yêu”, thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tôi” của tác giả là một cái “tôi” nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu quê hương lắm thì mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như vậy. Nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình của dòng sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan. Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể dòng sông đã có những thay đổi ra sao. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là một cái “tôi” đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng vẻ đẹp của dòng sông và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di – gan, người mẹ phù sa, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du, Tố Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên sông Hương. Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái “tôi” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn, có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.

Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút ký đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:

“Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều”

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 4

Điểm nhìn của tác giả đối với sông Hương kéo dài theo suốt cuộc hành trình của con sông. Sau cái khởi nguồn ở vùng thượng lưu, sông Hương tiếp tục hành trình cam go, vất vả của mình để đến với Huế. Trước khi chảy vào lòng thành phố thân thương, nó cũng đã kịp để lại những dấu ấn riêng của mình. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của tác giả, toàn bộ cuộc hành trình của dòng sông từ thượng nguồn về tới Huế giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cô gái đẹp trong câu chuyện cổ tích lãng mạn về tình yêu. Trong tình yêu với Huế, người tình sông Hương hiện lên với những vẻ đẹp như thế nào?

Ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương giống như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa cúc dại được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích. Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như người con gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Nó thể hiện một vóc dáng mới, sức sống mới, đầy khát khao và lãng mạn “Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Hành trình đến với người tình mong đợi của người giá đẹp khá gian truân và nhiều thử thách. Nhưng trong quá trình ấy sông Hương lại như có cơ hội phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình – vẻ đẹp gợi cảm với những đường cong tuyệt mĩ của người gái đẹp ra từ cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển sang hướng Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Bằng lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Tác giả đã vẽ lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Ông không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn là biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ.

Khi chảy vào Huế, sông Hương mang một vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi. Đi giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch”. Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông như bỗng trở nên nghiêm trang hơn, nó như khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay. Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước sông Hương trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa bạt ngàn tiếng gà của những xóm làng.

Vượt qua muôn vàn khó khăn, cuối cùng sông Hương cũng đến nơi mà nó cần đến, cũng gặp được “thành phố tương lai” mà nó mong đợi, có lẽ vì thế mà con sông “tươi vui hẳn lên”. Sông Hương cập bến thành phố thân yêu giữa những “thuyền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long” để rồi “giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên”. Đến đây, con sông giống như một cô gái đẹp e lệ, dịu dàng nghiêng mình chào Huế “…sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, “như một tiếng vang không nói ra của tình yêu”. Giống như sông Xen ở Pari, sông Đa- nuýp ở Bu- đa- pét, “sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”.

Sông Hương trong lòng thành phố Huế còn như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc. Trong tiếng Anh, “slow” nghĩa là chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho Huế mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế khi nhìn ra một đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc điểm địa lý : “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva – con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Petecbua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”. Mượn câu nói của Hêraclít – nhà triết học Hy Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác, hết sức thú vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ trái tim: sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa.

Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước.

Sông Hương đối với Huế như một người tình dịu dàng và thủy chung. Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến và trong liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn dường như đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý ở đất nước ta nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. . Nhà văn tưởng tượng, hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.

Qua những cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào thành phố Huế, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn ấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 5

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương. Tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.

Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có sở trường về bút kí. Các sáng tác của ông có một phong cách riêng khó lẫn, thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn giàu cảm xúc và tài hoa. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là nhà thơ trữ tình đằm thắm có những vần thơ đậm chất suy tưởng về con người và cuộc đời. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2007. Tác phẩm chính về văn xuôi : Ngôi sao trên đỉnh Phù Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1987), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Miền gái đẹp (2001). Thơ: Những dấu chân qua thành phố(1976), Người hái phù dung (1992)…

Tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? được tác giả viết tại Huế tháng 1 – 1981, in trong tập kí cùng tên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của thiên tùy bút này.

Đặc điểm của thể văn tùy bút là hết sức lãng mạn, bay bổng, ngẫu hứng, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào. Nhân vật chính của tùy bút là cái tôi của tác giả. Vì thế, muốn hiểu bài văn, người đọc cần phải thấy được cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái tôi tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, say mê cái đẹp của cảnh vật và con người xứ Huế.

Bài kí miêu tả vẻ đẹp của sông Hương, mở rộng ra là xứ Huế đẹp đẽ và thơ mộng; ca ngợi lịch sử vẻ vang, bề dày văn hóa của cố đô Huế và chiểu sâu tâm hồn người Huế. Thông qua đó thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào của tác giả về non sống gấm vóc, về những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân tộc.

Bố cục đoạn trích gồm ba phần:

Phần thứ nhất: Từ đầu đến… dưới chân núi Kim Phụng: vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn.

Phần thứ hai: Tiếp theo đến… quê hương xứ sở: vẻ đẹp của sông Hương khi chảy qua đồng bằng, ngoại vi và thành phố Huế rồi đổ ra biển.
Phần còn lại: vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi ca.

Bằng sự quan sát sắc sảo và năng lực cảm nhận tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phản ánh sinh động và thú vị vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của sông Hương ở thượng nguồn và hạ lưu. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn xuôi về biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế, được tác giả miêu tả và thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: vừa mãnh liệt, sối nổi; vừa sâu lắng, thiết tha; vừa bình thản, trí tuệ.

Phần thứ nhất giống như khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca về quê hương đất nước với những hình ảnh tuyệt đẹp để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Tác giả so sánh sông Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca của rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.

Tác giả phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng… Khi về đồng bằng, chính rừng già đá chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình. Từ đó, sông Hương nhanh chóng mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc địa và khai thác tối đa đã mang lại cho sông Hương một linh hồn giống như con người.

Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành Huế mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì người ta khó mà hiểu hết được bản chất của sông Hương và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Tác giả đã kín đáo ngụ ý rằng: muốn hiểu đầy đủ về một con người, một miền đất, rộng ra là một đất nước, một dân tộc thì phải biết rõ về quá khứ; nếu không thì chẳng bao giờ hiểu đúng về hiện tại và xác định đước tương lai.

Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thể hiện nét lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người đọc cảm nhận được sức hấp dẫn kì lạ toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế, gợi ra những liên tưởng kì thú: Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó… Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách…

Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương mềm như tấm lụa khi chảy qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím, êm ả lúc lượn qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố. Dòng sông mang vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lăng tẩm, đền đài, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch… để rồi sau đó bừng sáng khi gập tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…

Phải là người con của Huế, gắn bó yêu thương máu thịt với Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết được những câu văn đầy chất thơ và rưng rưng cảm xúc như vậy. Ở đoạn này, hai bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn; sự phối hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh làm nổi bật vẻ đẹp của từng khúc sông Hương. Tác giả sử dụng khéo léo, tài tình phép tu từ thường thấy trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ… khiến đoạn văn giống như bài thơ trữ tình làm xao xuyến lòng người.

Dường như sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như nhũng vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến ; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.

Sông Hương giống sống Xen của Pa-ri, sống Đa-nuýp của Bu-đa-pét ở chỗ là đều chảy qua giữa lòng thành phố. Tác giả quan sát và cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ. Ở đoạn này, tác giả miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc độ văn hóa. Bằng con mắt của họa sĩ, tác giả thấy các nhánh của sông Hương tạo ra những đường nét uyển chuyển, mềm mại, làm nên vẻ đạp cổ kính của cố đô: Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh Sông Đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lữa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được.

Từ góc độ âm nhạc, tác giả cảm nhận sông Hương giống như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình: Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ảnh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

Các chi tiết về phong tục, lễ hội qua cảm quan nhạy bén của tác giả cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, thành thơ. Những câu văn dài với nhịp điệu du dương, êm ái làm cho tâm hồn người đọc tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Với tác giả thì sông Hương là cội nguồn của dòng nhạc cung đình Huế, là cảm xúc của Nguyễn Du để viết Truyện Kiều :

Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt rước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kĩ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời…”. Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.

Với cái nhìn đắm say của một nghệ sĩ, tác giả thấy sông Hương khi rời thành phố giống như người tình dịu dàng và chung thủy. Điều này được diễn tả bằng một phát hiện thú vị: …Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ…

Cũng theo tác giả, khúc quanh rẽ ngoặt thật bất ngờ đó có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người, tựa như một nỗi vương vấn và dường như còn có cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu… Ra biển, sông Hương rất nhớ thành phố. Nỗi nhớ ấy đọng trong lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian ; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Vẫn là so sánh kết hợp với nhân hóa ẩn dụ nhưng tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh đầy ấn tượng, đậm đà nét đẹp văn hóa xứ Huế.

Trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca chiến trận ghi lại những vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Sông Hương là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt, Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa ; nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển đất trời qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta. Sông Hương là nhân chứng lịch sử chứng kiến mùa xuân Mậu Thân (1968), thời điểm quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào huyệt Mĩ – ngụy và sông Hương cũng chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế.

Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó với từng con người xứ Huế, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ : Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.

Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Sông Hương gắn với cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả:

Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó : từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “dòng sông trắng, lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.

Có thể nói nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn van là tình yêu say đắm đối với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu cảm xúc và trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương cùng một văn phong tao nhã và tinh tế.

Sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử và thẩm mĩ của nó. Trong bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ?, Hoàng Phủ Ngọc Tường khẳng định chân lí: vẻ đẹp huyền diệu của sông Hương là cội nguồn sinh ra vẻ đẹp của tâm hồn Huế. Trong cảm nhận tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thủy trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiêm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Giá trị nghệ thuật của đoạn văn tăng lên qua từng chi tiết và cuối cùng thì thăng hoa bằng câu chuyện về một nhà thơ già:

Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng sông ?

Để rồi đến phần thứ ba của bài kí, tác giả lí giải tên dòng Hương Giang bằng huyền thoại đầy chất thơ:

Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sống cho làn nước thơm tho mãi mãi.

Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng ?

Giai thoại đó khiến cho dòng sông vốn đã nên thơ càng thêm thơ mộng : Hương là hương thơm của ngàn hoa đổ xuống làm cho làn nước thơm tho mãi mãi. Thơm tự ngàn năm, thơm đến ngày nay và mãi mãi về sau.

Cả bài kí toát lên vẻ đẹp diệu kì của sông Hương bởi trí tưởng tượng phong phú, bay bổng đầy sáng tạo và ngòi bút tài hoa của tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn sông Hương như một cô gái Huế, có lúc như là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung vẫn là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa kiêu sa trong sắc áo dài màu điều lục.

Bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên họa, nên nhạc của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, đặc biệt là sông Hương ; thấy được bề dày lịch sử, văn hóa của Huế và những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Với một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một vốn văn hóa phong phú về Huế và trước hết với một tình cảm gắn bố thiết tha đối với Huế, tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế, thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương – một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 6

“Ai đặt tên cho dòng sông?” là một bài bút ký nổi tiếng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong bài kí này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ca ngợi vẻ đẹp của con sông Hương và cũng chính là ca ngợi vẻ đẹp của con người Huế. Nhà văn miêu tả vẻ đẹp của con sông Hương bằng tất cả tình cảm đắm say tha thiết và đầy tự hào của mình, nhất là khi nhà văn mô tả hình ảnh của con sông Hương khi chảy vào kinh thành Huế.

Sông Hương khi chảy vào thành phố được tác giả miêu tả bằng một lối văn trữ tình, hướng nội, độc đáo và tài hoa. Với cái nhìn tinh tế, đầy cảm xúc và đầy sáng tạo của nhà văn, dòng sông Hương khi chảy vào thành phố Huế hiện lên với những đặc trưng riêng của nó mà không có dòng sông nào có được. Khi chảy vào thành phố thân yêu, sông Hương như tìm thấy chính mình, nên “vui hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Từ đó, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi sông Hương được nhà văn nhân hóa, “sông Hương nhìn về phía đó và nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vầng trăng non”. Và đến khi “giáp mặt thành phố ở cồn Giá Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang đến cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Với sự so sánh độc đáo này, nhà văn đã làm nổi bậc tính dịu dàng, trầm mặc của con sông Hương khi chảy vào thành phố”. Và hơn nữa để làm nổi bật tính chất này, nhà văn đã so sánh sông Hương cũng “‘giống như sông Xen của Pari, sông Đa- nuýp của Budapest; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông”. Nhưng sông Hương đã tạo cho thành phố Huế một nét độc đáo riêng mà không có thành phố hiện đại nào trên thế giới có được: “Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừ cổ thụ tỏa lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.

Sông Hương khi chảy qua thành phố được tác giả cảm nhận dưới nhiều góc độ: có khi nhà văn nhìn sông Hương dưới góc độ hội họa: sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những đường nét tinh tế làm nên vẻ đẹp của cố đô; có khi nhà văn cảm nhận sông Hương bằng âm nhạc: sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình; có khi nhà văn cảm nhận sông Hương bằng cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình đầy lãng mạn: “sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy”. Điều này được tác giả diễn tả trong một đoạn văn thật thú vị, đầy sáng tạo, với một cảm quan nghệ thuật độc đáo: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về phía chính bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vàng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt theo hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. Và cũng bằng cảm quan nghệ thuật, tác giả đã có phép so sánh và nhân hóa tuyệt vời: “Riêng với sông Hương” vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thật bất ngờ biết bao. Có một cái gì đó rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đó là nỗi vương vấn. Cả một chúi lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tự tình, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để có một lời thề trước khi về biển cả…”.

Như vậy, dưới cái nhìn và sự cảm nhận đầy tinh tế, đầy nghệ thuật, dòng sông Hương hiện lên qua đôi mắt và tâm hồn của nhà văn, nó không còn là một dòng sông bình thường nữa mà nó là một cô gái dịu dàng đi tìm người yêu chung thủy của mình với một tình yêu sâu lắng, đắm say, tha thiết.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 7

Có điều gì tuyệt đẹp hơn vẻ đẹp của quê hương đất nước. Một đất nước đẹp không chỉ có con người cần cù lao động, mà còn có những vẻ đẹp tuyệt vời nơi ấy. Sông hương – là biểu tượng của Huế. Và cũng là nét đẹp đặc trưng Việt Nam. Và đặc biệt ta ấn tượng với cảnh sông hương chảy vào lòng thành phố Huế.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất xuất sắc khi khám phá và khắc họa ra một hình ảnh sông Hương lúc chảy vào trong lòng thành phố cực kì tuyệt đẹp và tuyệt mĩ. Có lẽ, người đọc sẽ khá bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng và mềm mại, cực kì uyển chuyển của con sông nơi thành phố này.

Tác giả đã dùng ngòi bút của mình, ví sông hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô” Không phải vô duyên mà tác giả đã ví von so sánh với hình ảnh đầy tính nghệ thuật như vậy.

Lúc chảy về thành phố này, sông Hương đã có một sức hút đặc biệt với người đọc. Đó là một lối viết cực kỳ nhẹ nhàng và tinh tế, qua đó thấy được một tài năng hết mực tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông không chỉ khắc họa vẻ đẹp lúc này của con sông Hương bằng vẻ đẹp ngôn từ, mà còn chắt lọc từ chính những xúc cảm chân thành và con tim tràn đầy tình yêu thương của mình.

Giữa một cánh đầu châu hóa hoa dại, sông Hương đã hiện lên như một “cô gái đẹp ngủ mơ màng” đó là một vẻ đẹp như bước ra từ trong truyện cổ tích vậy, thật đẹp và thơ mộng biết bao, như những câu chuyện cổ tích tràn đầy hình ảnh và màu sắc. Và sông hương, không những thế còn chuyển dòng một cách liên tục, cố “ôm lấy chân đồi thiên mụ” rồi “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như những thành quách” vẻ đẹp như lụa như nhung, còn ánh lên nhiều màu sắc, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đã làm nên một vẻ đẹp đặc trưng với những người ngắm con sông Hương này.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về sông Hương. Vẽ một bức tranh hoàn mĩ về con sông này, con sông Hương như một cô gái rồi thành một người bồi đắp phù sa cho một thành phố tươi đẹp. Cảm ơn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang vẻ đẹp ấy đến trái tim bạn đọc.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 8

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa.

Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích luỹ cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.

Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tuỳ bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tuỳ theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.

Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.

Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”

Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.

Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “con sông dùng dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:

“Con sông đám cưới Huyền Trân

Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn

Hèn chi thơm thảo nỗi buồn

Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ

Con sông nửa thực nửa mơ

Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”

Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thốt lên: “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương-dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.

Chắc hẳn các bạn đã biết đến vẻ đẹp của dòng sông Hương Giang qua tranh ảnh hay qua những thước phim, tuy nhiên thông qua những am hiểu vô cùng sâu sắc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất và vẻ đẹp của sông Hương qua Ai đã đặt tên cho dòng sông sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về điều này.

Hình tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông Phân tích Hành trình đi tìm vẻ đẹp của sông Hương nơi đầu nguồn trong đoạn Ai đã đặt tên cho dòng sông Nghị luận Vẻ đẹp con sông Việt Nam qua 2 tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà Vẻ đẹp của con sông Hương ở thượng nguồn mà em cảm nhận được qua bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông Vẻ đẹp của con Sông Hương từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ mà em cảm nhận được qua bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 9

Ngay từ khi đọc nhan đề, ở người đọc đã vang lên câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – câu hỏi có dáng dấp ngẩn ngơ rất thi sĩ. Từ thoáng ngẩn ngơ này, bao nhiêu ấn tượng về cái đẹp của sông Hương sẽ ùa về trong tâm, trí, khơi lên mạch viết dạt dào cảm xúc về “nhan sắc” thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua Huế cố đô. Vang lên những lần khác trong tác phẩm, câu hỏi biến thành một nỗi suy tư thâm trầm, đánh động bao vốn liếng văn hóa tích tụ trong người viết và cũng đòi hỏi nó phải được hiện diện trên trang giấy. Vậy đó, ta đang nói đến những mạch cảm hứng lớn đã dẫn dắt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đến và đi với sông Hương, để rồi tiếp nữa, làm một cuộc viễn du vào lòng muôn độc giả, đóng vai người truyền cảm hứng cho họ bộc lộ tình yêu xứ sở hết sức thiết tha của mình.

Sau khi làm “bản trường ca của rừng già” và “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn” ở khúc thượng nguồn, thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương chính thức chảy vào trong thành phố Huế.

Dưới góc nhìn địa lí, sông Hương giáp mặt với Huế ở Cồn Giã Viên, uốn mình một đường cong chảy vào thành phố Huế. Lưu tốc của sông giảm hẳn do có sự hiện diện hai hòn đảo nhỏ và những chi lưu mang nước đi khắp thành phố. Vì thế sông trôi thật chậm như một mặt hồ yên tĩnh.

Dưới góc nhìn tài hoa và mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên với gương mặt riêng. Sông chảy theo hướng tây nam – đông bắc, “kéo một nét thẳng thực yên tâm” “như tìm đúng đường về”, như người con gái đã tìm thấy bến đỗ của tình yêu, vui tươi và yên tâm. Dáng người con gái ấy “mềm mại như dáng lụa”, mềm như “tiếng vâng không nói ra của tình yêu” vừa duyên dáng và ý nhị. Cái nhìn ấy của Hoàng Phủ không chỉ đơn giản là cái nhìn quan sát, khám phá mà là cái nhìn mê đắm của chàng trai dành cho người con gái. Hai bên bờ sông có đủ những cảnh đẹp: xa – gần, cổ kính – bình dị, sang trọng – mộc mạc của cuộc sống cần lao: “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Tiếp theo đó là dạng nước. Trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử, nhịp điệu của sông nước là nhịp buồn:

“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Trong cái nhìn Tố Hữu là nhịp của những tình nghĩa:

“Hương giang ơi, dòng sông êm

Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”

Với Thu Bồn lại là nhịp lắng đọng:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy”

So với con sông ở Lê-nin-grát, sông Nê- va, tác giả lại càng thấy nhớ, thấy quý điệu chảy lặng lờ. Bởi điệu chảy của sông Hương là điệu tâm hồn, là nhịp sống chậm, là những giây phút vừa sống vừa cảm nhận, vừa lắng nghe. Nhìn con sông xứ người mà thêm yêu con sông xứ mình. Tác giả đã thực sự trở thành một tri kỉ của sông Hương, hiểu ngọn ngành khí chất của nó.Theo tác giả, sông Hương đã thật “tâm lí” khi “trôi chậm, thực chậm” qua kinh thành Huế, như để an ủi người ta đừng quá sầu muộn về sự biến đổi vô thường của cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời gian. Dòng nước sông đã lặng tờ một cách cố tình để muốn những ánh hoa đăng trong đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về qua Huế “bồng ngập ngừng như muốn đi muốn ở” . Bằng cách trôi rất riêng đó của mình, sông Hương như muốn nhắc người ta rằng cuộc đời này có rất nhiều cái đáng vương vấn. Rồi nữa, nếu không nhờ sự phát hiện đầy tính chất đồng điệu của tác giả đối với sông Hương, mấy ai biết rằng việc sông Hương đột ngột đổi dòng ngay khi vừa chia tay Huế là thuận theo một lí do rất tình cảm, rất “người”: chẳng qua nó muốn gặp lại Huế “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Ở đây có đến ba thái độ chí tình cùng “hợp lưu” với nhau: chí tình của sông Hương đối với Huế, chí tình của con người Huế trong tình yêu và chí tình của chính tác giả dành cho sông Hương, dành cho cả mảnh đất xưa gọi là Châu hóa. Suy cho cùng nếu không có cái chí tình của tác giả thì cái chí tình của sông Hương không thể trở thành một “khách thể tinh thần” gây ấn tượng sâu đậm đến vậy!

Nếu biết cất tiếng người, hẳn sông Hương sẽ nói rằng nó đã thực sự yên tâm khi chọn trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hóa thân. Có lẽ chính nhà văn cũng nhận thấy, cũng hiểu niềm tin cậy đó, nên từng câu văn của ông bay bổng, diễm ảo lạ thường. Nhiều lúc độc giả có cảm tưởng ngôn từ trong bài bút kí không phải là của tác giả dùng để miêu tả sông Hương mà chính là ngon từ của sông Hương đang hát lên bài ca cho mình. Ngôn từ ấy trôi chảy hết sức tự nhiên, nếu có “luyến láy” thì cũng “luyến láy” một cách tự nhiên bởi chất hào hoa, đa tình vốn đã là cái gì thuộc về căn cốt của người viết rồi. Thiên bút kí đưa đến rất nhiều thông tin mà đọc lên vẫn thấy thanh thoát là nhờ thế. Rất nhiều trải nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và đất nước đã được đưa vào đây.

Yêu sông Hương nhưng tình yêu ấy không ngăn cản ta yêu những dòng sông khác có trên trái đất. Và ngược lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét độc đáo của những dòng sông thuộc các vùng khác nhau lại làm tươi mười trong ta nỗi rung động bồi hồi rất đặc biệt trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 10

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút ký xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.

Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

Ở thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh, toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”. Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Seine của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…

Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng, thủa nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công dung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…

Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 11

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, nổi bật lên trong phong cách đó là bút kí: Ai đã đặt tên cho dòng sông.

Sông hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ra với một vẻ đẹp toàn mĩ, đó là một bức trang thiên nhiên đẹp thơ mộng. Bài bút ký đã được tác giả dành toàn   bộ tình yêu của mình, bài có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những yếu tố thực và những yếu tố tạo nên một vẻ đẹp sông hương với những nét đẹp của những cô gái Di Gan đẹp thơ mông. Toàn bộ bài bút kí là cảnh đẹp của sông hương, sông hương khi nhìn từ cội nguồn  nó có vẽ đẹp lãng mạn hào nhoáng, sông hương được so ánh với vẻ đẹp của cô gái Di Gan đẹp thơ mộng và có những nét dịu dàng  đằm thắm của những nét đẹp quê hương, sông hương nhẹ nhàng và tình tứ nó được tác giả so sánh với những cảnh đẹp vô cùng hoàn hảo, sông hương hiện lên trong con mắt người đọc bởi vẻ đẹp thu hút lòng người, tác giả đã giành tình yêu của mình để viết lên bài bút ký hay như vậy.

Tất cả những vẻ đẹp đó đều được tác giả hội tụ nhằm nói lên vẻ đẹp của quê hương Việt Nam, đại diện là sông hương thơ mông và hào hùng của dân tộc Việt Nam. Vẻ đẹp của sông hương ở cội nguồn được so sánh là đầy hoang dại và thấm đẫm chất thơ nó được so sánh với rừng già đã hun đúc cho nó một tâm hồn hào hoa và lãng mạn. Ngoài vẻ đẹp hoang dại dịu dàng đằm thắm được so sánh với vẻ đẹp của cô gái Di Gan, thì sông hương được tác giả nhìn dưới nhiều góc độ của thiên nhiên tác giả quan sát sông hương từ gần tới xa, những nét đẹp độc đáo của sông hương được tác giả cảm nhận bằng chính trái tim của mình, ngoài những nét đẹp độc đáo khiến tác giả mê hồn bởi nét đẹp đang dần cuốn hút và chạm khắc đến trái tim của mình. Sông hương lúc dịu dàng và được tác giả so sánh với nét đẹp của người con gái di gan phóng khoáng, lúc dữ dội được miêu tả và so sánh với những nét đẹp hoàn mỹ mà đẫm chất thơ đậm chất trữ tình.

Dòng sông hương thật đẹp và thơ mộng khi với cái tên của mình chúng ta đã nhận thấy trong đó những vẻ đẹp toàn mỹ của những nét đẹp thiên nhiên, sông quê hương một dòng sông của chứng mình lịch sử hào hùng tráng lệ, người con gái dịu dàng được  so sánh với nét đẹp từ thượng nguồn của sông hương, sông hương đang sống dậy trong lòng người đọc những hoài niệm bởi vẻ đẹp nên thơ của mình, tác giả đã nói đến sông hương bằng cả tình yêu thương của mình, khi tồn tại xung quanh sông Hương là cả một khoảng không gian đất trời cả những ánh sáng lộng lẫy của thiên nhiên. Sông hương được tác giả thể hiện ngay trong đoạn đầu đó là vẻ đẹp của khúc dạo đầu một vẻ đẹp lam cho con người ta đắm say trước vẻ đẹp của sông hương, không chỉ quan sát sông hương ở 1 góc cạnh tác giả con nhìn sông hương ở các chiều sâu của lịch sử, sông hương được tác giả quan sát ở thượng nguồn, nó được so sánh với vẻ đẹp thơ mộng của cô gái DiGan đẹp tuyệt mỹ và nó cũng được so sánh với những vẻ đẹp nên thơ bởi nét đẹp dịu dàng của nó tạo nên những thơ mộng dịu dàng trong mỗi người đọc. Khi nói về vẻ đẹp của sông hương qua cội nguồn nó lại có vẻ đẹp mạnh mẽ hơn, với những rùng già của vẻ đẹp mãnh liệt và thu hút lòng người, sông hương hiện lên với hai tính cách thật khiến con người ta cảm thấy yêu mến sông hương khi sông hương đang ngập tràn những vẻ đẹp hoàn mĩ, nó vẽ ra cho tác giả một vẻ đẹp thu hút lòng người, sông hương thơ mộng, hào nhoáng và lên thơ, một vẻ đẹp toàn bích, tác giả thật xuất sắc khi vẻ ra một bức tranh hoàn mỹ như vậy. Sông hương không chỉ đẹp trong mắt những người yêu thơ mà nó còn đặc sắc với những khung cảnh thật hùng vĩ và những nét táo bạo, mỗi con người chúng ta ai ai cũng đều mong được đặt chân tới đây để ngắm khung cảnh thiên nhiên nơi đây và cảm nhận được sự thú vị và vẻ đẹp được nhìn từ nhiều phương diện của mình.

Dòng sông hương không chỉ nói về vẻ đẹp trời phú mà thiên nhiên đã ban tặng cho dòng dòng sông này, nó còn mang một vẻ đẹp lãng mạn với những vẻ đẹp dịu dàng của cô gái DiGan với những nét dịu dàng pha lẫn trầm tư, dòng sông hương thật tuyệt vời và đầy cảm xúc trong mỗi người đọc. Dòng sông hương của quê hương thật hoang dại và đầy bí ẩn những dưới ngòi bút thần tài của mình dòng sông hương nổi lên với những nét đẹp dịu dàng. Sông hương xứng đáng là một địa danh đẹp của dân tộc Việt Nam.Sông hương đã được tác giả nhìn dưới rất nhiều góc độ qua đó ta càng thấy được những nét đặc sắc trong nghệ thuật nhìn thiên nhiên của Người, tác giả đã cảm nhận một cách toàn vẹn về sông hương và ở mỗi một góc độ thì sông hương lại có những nét đẹp riêng biệt và rất độc đáo.

Sông Hương trầm mặc dưới hàng thông của rừng già và những bản tình ca, nó tạo nên cho sông hương một vẻ đẹp ngày càng lãng mạn và thu hút đắm say, sông Hương hiện lên cho chúng ta một vẻ đẹp hoản hảo, đẹp tới những vẻ đẹp đỉnh cao của sự hoàn mỹ, dưới ngòi bút thân của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường càng thể hiện được sông hương là 1 minh chứng lịch sử với việc đánh bại chiến lược mậu thân năm 1968, đó là một minh chứng lớn lao cho lịch sử của Việt Nam, với những vẻ đẹp đó sông hương trở thành 1 người tình gợi cảm trong mắt người đọc. Được coi như là một chứng minh lịch sử, dòng sông này đã chúng kiến bao chiến công hào hùng của dân tộc ta, mỗi chúng ta ai ai cũng đều tự hào về dòng sông của quê hương của dân tộc, nó vừa đẹp và cũng đầy chất tạo bạo, hào hùng khi trải qua bao cam go ác liệt.

Tác giả đã giành tình yêu của mình để thể hiện được vẻ đẹp lãng mạn và thu hút lòng người trong vẻ đẹp của sông hương đó là vẻ đẹp thơ mộng và thu hút người đọc bởi những nét tình tứ và cả những giai điệu hào hùng của cả dân tộc ta. Sông hương đã được tác giả cảm nhận bằng cả trái tim yêu thiên nhiên của mình, với tài hoa thiên bẩm ông đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên thật hùng vĩ và đầy thơ mộng.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 12

Có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Bởi vậy mà, nó đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật trong đó có văn chương. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút “ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nổi bật của tác phẩm này là hình tượng sông Hương đẹp, đầy màu sắc.

Trước hết, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”.  Sông Hương gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hùng tráng trữ tình như bản trường ca bất tận của thiên nhiên: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Câu văn dài gợi dậy cái dư vang của trường ca. “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Digan phóng khoáng man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Đây là một liên tưởng thú vị độc đáo. Bằng việc ví sông Hương với cô gái Digan, tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Sông Hương hiện lên như một con người có cá tính, có tâm hồn với vẻ đẹp hoang dại đầy tình tứ. Khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Cách gọi này giúp người đọc có thêm một cách nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ đầy chất thơ. Sông Hương còn là một đấng sáng tạo. Nó đã tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng xứ sở.

Nhà văn tiếp tục hình dung sông Hương như “người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây, thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi như một cuộc tìm kiếm có ý thức. Người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu truyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Thủy trình của sông Hương được miêu tả với sức sống mới, vóc dáng mới. Dòng sông chuyển dòng một cách kiên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột uốn mình qua những đường cong thật mềm. Hành trình khá gian truân, vượt qua nhiều thử thách: “từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc  Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Những câu văn miêu tả dòng chảy địa lý tự nhiên của dòng sông, biến dòng chảy ấy trở thành một hành trình của người con gái đẹp duyên dáng.

Vào giữa lòng thành phố, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc”. “Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình”. Sông Hương phẳng lặng đã khiến cho cảnh vật phố Huế trở nên mộng mị, ảo diệu, nhẹ nhàng. Sông Hương như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Sông Hương như một giai điệu chậm rãi khiến cho mọi cảnh vật, mọi thứ xô bồ như một phút lặng. Sông Hương còn được ví với “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Tác giả đã gợi đến một nét đẹp văn hóa của Huế gắn với dòng sông thơ mộng: nhã nhạc cung đình Huế. Nhã nhạc phải được biểu diễn trên sông vào đêm khuya mới cảm nhận hết được vẻ đẹp âm nhạc và màu săc văn hóa đặc trưng ở nơi đây.

Khi rời khỏi thành phố, sông Hương như một “người tình thủy chung”. Khúc ngoặt về hướng Đông của dòng sông trong con mắt của người nghệ sĩ là biểu hiện của nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại gặp Kim Trọng để nói lời thề trước khi đi xa.

Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bị tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khẳ năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu.

Hình tượng sông Hương hiện lên trong tác phẩm càng khiến cho bạn đọc yêu thêm dòng sông và muốn được đến thăm thú, nhìn ngắm vẻ đẹp của dòng sông. Đó chính là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế – Mẫu 13

“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Có lẽ vì đặc trung của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.

Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.

Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ “sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.

Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông hương tựa như “Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.

Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.

Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp màu màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.

Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.

Thú vị nhất là đoạn sông hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.

Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình… Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.

Sông hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng Nguyễn Huệ…”

Có thể nói rằng để cảm nhận sông hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kì đầy sắc bén và tình cảm này. “Ai đã đặt tên cho dòng sông này” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông Hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.

Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc đáo. Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế. Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính la tình cảm đặc biệt mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và xứ Huế. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya. Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn. Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối”: “chiếc cầu trắng ở thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến”, đường cung ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, “nghìn cánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có “những vấn vương của một nỗi lòng, không nỡ rời xa thành phố…”. Quả đúng như câu thơ Thu Bồn: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

*****

Trên đây là 13 bài mẫu Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (48 bình chọn)


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button