Học TậpLớp 12

Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)

Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau bao gồm hướng dẫn viết cùng 3 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 12 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.

Đề bài: Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau.

Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau.
Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau.

Mục lục

Hướng dẫn Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12

Bước 1: Chọn vấn đề cần nghị luận, xác định yêu cầu của đề về nội dung, vấn đề cần nghị luận, thao tác lập luận, phạm vi tư liệu sử dụng…

Bạn đang xem: Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)

Bước 2: Suy nghĩ, trình bày luận điểm trong phần thân bài của phần dàn ý

+ Lựa chọn các luận điểm chính, đặc sắc

+ Kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận để được sáng tỏ, sức thuyết phục, hấp dẫn người đọc

+ Trong thao tác lập luận, thao tác đóng vai trò chủ đạo là phân tích, bởi phân tích sẽ mang lại cái nhìn cặn kẽ về các vấn đề.

Bước ba: Diễn đạt các ý chuẩn bị thành chuỗi các câu văn đúng ngữ pháp, liên kết với nhau, thể hiện được phong cách ngôn ngữ chính luận

Trước khi viêt, học sinh cần xác định yêu cầu của đề về nội dung vân đề cần nghị luận, các thao tác lập luận, phạm vi tư liệu sử dụng…

Vi dụ:

– Giới thiệu tác phẩm mới ra đời đang được công chúng quan tâm (muốn biết tác phẩm nào đang được quan tâm, nên theo dõi báo Văn nghệ, Văn nghệ trẻ…)

– Tóm tắt nội dung tác phẩm đó (Tác phẩm viết về đề tài nào? Chủ đề? Đặc sắc nghệ thuật?)

– Dư luận đang quan tâm đến vấn đề gì trong tác phẩm? Các ý kiến khác nhau?

Với tác phẩm Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa, có rất nhiều ý kiến trái ngược. Có người không đồng tình với Trần Đăng Khoa. Cho rằng tác giả đã làm thay đổi một cách không đúng những giá trị đã ổn định trong đời sống văn học. Cũng có người ủng hộ tác giả vì cho rằng, cần thay đổi cách nhìn, cách nghĩ đã quá sáo mòn trong phê bình văn học.

– Nêu ý kiến của anh/ chị (Đồng tình hay phản đốì? Vì sao?)

– Kết luận: Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề, hoặc phủ định những sai lầm trong quan niệm cần bác bỏ.

Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau – Mẫu 1

Xuân Quỳnh được biết đến là một hồn thơ dịu dàng, nữ tính. Chị không chỉ mang đến cho thi đàn những vần thơ nồng nàn, cháy bỏng của trái tim đang thổn thức trong tình yêu mà chị còn mang cả thế giới trẻ thơ, thế giới cổ tích, thế giới của bà với cháu vào trong thơ mình. Trái ngược với cái dữ dội, ác liệt của cuộc chiến chống đế quốc Mĩ, đọc thơ Xuân Quỳnh, người ta vẫn thấy một khung cảnh thật êm đềm, một tâm hồn thật tinh tế với những kỉ niệm, cảm xúc mãnh liệt. Chỉ từ một âm thanh quen thuộc là tiếng gà trưa của xóm nhỏ trên đường hành quân, chị đã nhớ tới người bà thân thương của mình để rồi, kết lại bài thơ là những câu nói như thủ thỉ, tâm tình nhưng lại đầy quyết tâm:

“Cháu chiến đấu hôm nay

Vì tình yêu tổ quốc

Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà

Vì tiếng gà cục tác

Ổ trứng hồng tuổi thơ”

Những người lính trên đường hành quân khi nghe thấy tiếng gà bỗng nhớ tới quê hương và những người thân thuộc của mình. Họ chiến đấu chống lại kẻ thù là vì tình yêu tổ quốc, yêu quê hương. Họ chiến đấu vì để bảo vệ xóm làng thân thuộc – nơi họ đã sinh ra và lớn lên. Nhưng quan trọng hơn nữa, cuộc chiến đấu ấy là vì người bà của mình vì tiếng gà cục tác – Ổ trứng hồng tuổi thơ. Mọi kí ức về bà đều gắn liền với tiếng gà cục tác, với ổ trứng của con gà mái mơ. Đó có lẽ là khoảng thời gian đẹp nhất, hạnh phúc nhất trong tâm trí của đứa cháu. Chẳng có ai muốn rời xa nơi bình yên và hạnh phúc mà lao vào cuộc chiến sinh tử với một kẻ thù quá mạnh. Chẳng có ai đủ dũng cảm để lìa xa người mình yêu thương nhất mà ra đi không biết ngày nào mới trở về. Chỉ có tình yêu mới đủ sức mạnh để thôi thúc con người ta hi sinh cá nhân để bảo vệ những điều lớn lao hơn thế. Và dĩ nhiên, với những đứa con, đứa cháu, sự hi sinh ấy rốt cuộc cũng chỉ vì người thân yêu. Có ai đó đã từng nói, lòng yêu nước bắt nguồn từ việc yêu những thứ bé nhỏ nhất. Và với những người dân Việt Nam lúc bấy giờ, yêu bà, yêu mẹ, yêu gia đình, yêu xóm làng chính là yêu nước. Yêu nên mới sẵn sàng hi sinh. Yêu nên mới quyết tâm chiến đấu để bảo về. Và cũng vì yêu nên hình ảnh của người bà chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí để rồi chỉ cần nghe thấy âm thanh quen thuộc ấy thôi, đứa cháu cũng bồi hồi nhớ về bà.

Cũng viết về tình cảm bà cháu, nhưng hình ảnh người bà của Bằng Việt lại hiện về trong tâm trí của đứa cháu gắn liền với hình ảnh của bếp lửa chờn vờn. Nếu bếp lửa là nơi nuôi dưỡng tâm hồn và ước mơ mà người bà dành cho cháu thì ổ trứng gà là nơi ấp ủ, nâng niu hạnh phúc đời thường của người bà. Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh và Bếp lửa của Bằng Việt tuy khác nhau về cội nguồn khơi gợi song lại gặp nhau ở tình cảm thiêng liêng cao cả của tình bà cháu. Tình cảm ấy chính là sợi dây để gắn kết những người con trên cùng một mảnh đất hướng về quê hương, Tổ quốc của mình.

Dù là tiếng gà hay bếp lửa, hình ảnh người bà cũng hiện lên với vẻ tảo tần, vất vả, với tình yêu bao la mà bà dành cho cháu.

  • Thao tác lập luận chính: Phân tích
  • Ngoài ra còn sử dụng thao tác: bác bỏ (đoạn in đậm, chữ nghiêng), so sánh (đoạn chữ nghiêng)

Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau – Mẫu 2

Khi nhắc đến nhà thơ Xuân Quỳnh, người đọc sẽ nghĩ đến một nhà thơ của tình yêu. “Sóng” được coi là một trong những bài thơ tình hay nhất của chị. Khi viết bài thơ này, Xuân Quỳnh đã xây dựng hình ảnh “sóng” và “em” mang nhiều ý nghĩa.

Hình tượng “sóng” và “em” có lúc phân đôi để soi chiếu, từ đó cho thấy sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Trong tình yêu có thật nhiều cung bậc: khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong một thể thống nhất là “sóng”. Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng tình yêu trong tâm hồn đầy bí ẩn của người con gái, khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì lạ giữa sóng và nhân vật trữ tình “em” cho thấy “sóng” chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng tình yêu nhiều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ.

Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian rộng lớn. Nếu như “sông” không thể hiểu nổi mình, “sóng” sẵn sàng tìm ra biển lớn:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Còn em “khát khao” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em.

Và rồi đứng trước muôn trùng sóng bể, em băn khoăn về nguồn gốc của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

Người phụ nữ trong tình yêu luôn trăn trở, suy nghĩ. Điệp từ “em nghĩ” đã cho thấy điều đó. “Em” khi đứng trước đại dương mênh mông, em nghĩ đến anh đầu tiên rồi mới nghĩ về biển lớn. Và em cũng tự hỏi lòng mình rằng sóng bắt nguồn từ nơi nào. Câu hỏi được đặt ra đã tự có được câu trả lời cho riêng mình: sóng bắt đầu từ những cơn gió – một cách lý giải rất thực tế. Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không dừng lại: “Gió bắt đầu từ đâu?” thì lại không có câu trả lời. Cũng giống như tình yêu bắt nguồn từ lúc nào. Còn ông hoàng thơ tình Xuân Diệu lại từng bộc lộ:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có khó gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

(Vì sao?)

Nếu “sóng” nhớ đến “bờ” thì “em” nhớ đến “anh”. Dù ở không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm” thì con sóng vẫn nhớ “đến bờ” mà thao thức bồn chồn đến nỗi “không ngủ được”. Xuân Quỳnh đã lấy không gian và thời gian để đo đếm nỗi nhớ trong tình yêu. Nhưng nào ai có thể đong đếm hết được nỗi nhớ? Nếu con sóng nhớ đến bờ có thể bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thì nỗi nhớ của “em” lại vượt qua mọi khoảng cách về không gian, thời gian. Nếu sóng nhớ đến bờ thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm trí của “em”. Ngay đến trong giấc mơ cũng chẳng thể nào ngừng được. Ca dao đã từng diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

Như đứng đống lửa như ngồi đống than?”

Nỗi nhớ trong tình yêu đã không còn xa lạ gì, nhưng cách diễn tả của Xuân Quỳnh lại thật đặc biệt.

Đặc biệt nhất là ở khổ thơ cuối cùng:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàm năm còn vỗ”

Câu hỏi tu từ “Làm sao” mở đầu khổ thơ như một lời tự vấn. Sóng khát khao được tan ra để hòa vào biển lớn. Cũng giống như em khát khao được sống trọn vẹn với tình yêu. à Người phụ nữ khi yêu cũng vô cùng mãnh liệt, họ ước mong được sống trọn vẹn với từng khoảnh khắc trong tình yêu. Ở đây, Xuân Quỳnh sử dụng từ “tan ra” thể hiện nét dịu dàng của người phụ nữ, khác hẳn với cái mạnh mẽ của Xuân Diệu:

“Đã hôn rồi, hôn lại

Cho đến mãi muôn đời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt…

Cũng có khi ào ạt

Như nghiến nát bờ em

Là lúc triều yêu mến

Ngập bến của ngày đêm”

(Biển)

Nhưng Xuân Diệu còn có ngày thôi “dào dạt”. Còn Xuân Quỳnh thì vẫn “ngàn năm còn vỗ”. Hai câu thơ cuối cùng là lời khẳng định của nhà thơ. Tình yêu của “em” sẽ tồn tại vĩnh cửu, cũng như con sóng kia đến “ngàn năm” vẫn còn vỗ.

“Sóng” và “em”, tuy hai nhưng là một, thể hiện những cảm nhận thật tình tế của Xuân Quỳnh trong tình yêu.

– Các thao tác được sử dụng: Phân tích nét đẹp của hình tượng “sóng” và “em”; Chứng minh bằng dẫn chứng qua các khổ thơ; So sánh với thơ của Xuân Diệu.

Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau – Mẫu 3

Một nền tảng tri thức rộng cũng là nhân tố quyết định đến sự hành công của tác phẩm nghị luận. Bôn ba khắp bốn bể chân trời, Hồ Chí Minh đã tích luỹ được kho kiến thức vô cùng phong phú. Việc trích dẫn hai bản truyện ngôn của Pháp – kẻ từng nhân danh “bảo hộ” thực chất là xâm lược, đặt ách đô hộ trên đất nước ta – và Mĩ – nước đang có vai trò quan trọng trong lực lượng đồng minh chống phát xít, Hồ Chí Mình không chỉ dùng gậy ông đập lưng ông mà còn nâng tầm cách mạng giải phóng dân tộc ta lên ngang tầm những cuộc cách mạng được xem là tiêu biểu cho mọi thời; nâng tầm vóc hành động của dân tộc ta lên tầm vóc của những sự thay đổi tích cực của nhân loại trên bước đường phát triển.

Nhưng Hồ Chí Minh không chỉ viện dẫn từ sách vở, Người còn đưa ra rất nhiều bằng chứng xác thực lấy từ chính cuộc sống cơ hàn nhưng vô cùng bất khuất của dân tộc ta.

Nhân danh “bảo hộ” nhưng thực chất thực dân Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật.

Nhân danh “khai hoá” nhưng thực chất Pháp làm thui chột cả trí lực lẫn sức lực của nhân dân ta để dễ bề cai trị.

Nhân danh Đồng minh nhưng thực chất Pháp đã phản bội lại Đồng minh vì đã đầu hàng phát xít Nhật.

Nhân danh quyền con người nhưng Pháp lại đi giết tù chính trị của ta ở Yên Bái và Cao Bằng trước khi tháo chạy trước phát xít Nhật.

Trên đây là những lập luận thuận chiều với nhiều chứng cớ không thể nào chối cãi. Chưa đủ, Hồ Chí Minh còn sử dụng lối lập luận ngược chiều để vạch mặt sự nham hiểm, độc ác không thể nào dung thứ đối với thực dân Pháp.

Ấy là, mặc dù thực dân Pháp đối xử với chúng ta tàn bạo, vô nhân đạo đến mức dã man, nhưng trái tim người Việt Nam luôn nhân hậu, sẵn sàng mở lượng hiệu sinh cứu giúp người Pháp khi bị phát xít Nhật truy giết. Đưa ra bằng chứng này không chỉ nhằm để khẳng định người Việt Nam có truyền thống nhân đạo, mà còn cốt để xâu chuỗi mạch lập luận rằng một dân tộc chịu nhiều đau thương, một dân tộc ngoan cường, một dân tộc yêu chuộng tự do và giàu lòng nhân ái thì tất yếu phải được sống cuộc sống tự chủ, độc lập như bao dân tộc khác.
Lập luận của Tuyên ngôn Độc lập vô cùng độc đáo ở chỗ một mũi tên bắn trúng hai đích, nên ẩn ý của từ ngữ vô cùng sâu rộng. Điều đó chứng tỏ sức mạnh ngôn từ của dân tộc, tài năng của người cầm bút.

*****

Trên đây là 3 bài mẫu Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.

Đăng bởi: THCS Bình Chánh 

Chuyên mục: Học tập, Lớp 12

5/5 - (11 bình chọn)


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button