Học TậpLớp 9

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất (18 bài mẫu)

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn, hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 18 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

Mục lục

Dàn ý Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương chi tiết

Dàn ý Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 1

1.Mở bài

Bạn đang xem: Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất (18 bài mẫu)

  • Giới thiệu bản thân
  • Khái quát cuộc đời mình

2. Thân bài

  • Vì tính chồng đa nghi nên tôi luôn phải giữ gìn phép tắc.
  • Chồng tôi lên đường ra trận, tôi ở nhà làm tròn bổn phận người mẹ, người con dâu hiếu thảo.
  • Khi chồng tôi trở về, nghi ngờ tôi không chung thuỷ, đánh mắng và đuổi tôi ra khỏi nhà.
  • Vì oan ức không thể dãi bày, tôi gieo mình xuống sông Trường Giang.
  • Tôi được Linh Phi cứu giúp và gặp lại Phan Lang, tôi nhờ chàng nhắn với Trương Sinh mong chàng lập đàn giải oan
  • Khi lập đàn giải oan, tôi hiện lên cảm ơn và từ biệt chàng rồi trở về thuỷ cung.

3. Kết luận

Cảm nghĩ của bản thân

Dàn ý Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 2

1. Mở bài:

Giới thiệu bản thân: Gia đình, ngoại hình, tính cách và hôn nhân với Trương Sinh.

2. Thân bài:

  • Lí do tôi kết hôn với Trương Sinh
  • Sự việc Trương Sinh đi lính khiến tôi buồn khổ, suy nghĩ
  • Buổi chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa tôi và chồng
  • Mẹ chồng ốm đau, bệnh tật và qua đời
  • Chồng tôi trở về trong nhung nhớ của cả gia đình
  • Sự việc khiến chồng tôi hiểu lầm tôi nhưng không cho tôi giải thích
  • Tôi nhảy xuống dòng Hoàng Giang sau những hiểu lầm từ chồng
  • Đến khi chồng tôi nhận ra mình hiểu lầm tôi thì mọi sự việc đều đã qua rồi

3. Kết bài

Cuộc đời tôi đã kết thúc nhưng có lẽ, cuộc đời ấy vẫn tiếp diễn dưới thủy cung.

18 bài mẫu Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 1

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến, thường khen tôi nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Ai cũng cầu mong tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hạnh phúc. Tối đã gặp gỡ và trở thành vợ của Trương Sinh. Chàng hết mực yêu thương tôi nhưng cũng rất đa nghi, biết tính chồng như vậy nên tôi cố gắng cẩn thận từ lời ăn tiếng nói cho tới hành động đều giữ đúng khuôn phép, nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của chúng tôi cứ thế êm đềm trôi qua, cho tới một ngày chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải lên đường ra trận. Buổi tiễn đưa chồng ra biên ải, lòng tôi nặng trĩu những lo âu, phiền muộn. Nghĩ tới cảnh chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật,.. lòng tôi thương chàng vô cùng. Tôi chỉ mong chàng bình an trở về.

Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, trong lòng tôi chỉ có một nỗi nhớ về chàng đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai, đặt tên là Đản. Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thương con và sinh bệnh. Dù tôi đã hết sức thuốc thang, động viên nhưng bệnh tình càng ngày càng trầm trọng, bà đã không kịp chờ con trai về phụng dưỡng. Tôi đã làm hết trách nhiệm của một người con dâu, lo ma chay chu tất cho mẹ.

Sau bao chờ đợi mòn mỏi, nhớ thương, cuối cùng Trương Sinh đã bình an trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc, nhưng cuộc đời không ai đoán trước được điều gì, chàng về tới nhà, biết mẹ mình đã qua đời, bế cong cùng ra mộ thăm mẹ, ngờ đâu lúc trở về chàng nổi giận đùng đùng, la mắng om sòm, cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng và sửng sốt, tôi vừa khóc vừa giải thích: “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng xum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mình giữ tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin tưởng thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp”. Nhưng dù tôi có nói bao nhiêu lời cũng không làm chàng thay đổi suy nghĩ. Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và nói đỡ giúp tôi nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ và đánh đuổi tôi đi.

Tôi từng mong có một gia đình hạnh phúc với một người con ngoan, một người chồng thương yêu tôi. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan biến, trâm gãy tình tan, tôi đâu còn mặt mũi sống trên đời. Nghĩ đoạn, tôi tắm rửa sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Con duyên phận hẩm hiu bị chồng ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị Nương hoặc cỏ Ngu Mĩ. nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi người phỉ nhổ” sau đó gieo mình xuống dòng sông Trường Giang.

Thấu hiểu cho hoàn cảnh bị oan ức của tôi, thần linh đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nương nhờ trong cung điện của Linh Phi. Sau đó tôi gặp Phan Lang-người cùng làng, nghe chàng kể gia cảnh chồng con tôi từ sau khi tôi ra đi nhà cửa, vườn tược hoang vu,..lòng tôi xót xa ai oán. Được biết chồng tôi đã tỏ rõ sự tình, và vẫn thương tôi, tôi bèn nhắn Phan Lang khi chàng trở về trần gian cầm theo một chiếc hoa vàng và báo rằng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa cũ xin lập một đang giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Nghe lời dặn, Trương Sinh làm theo, tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng, tôi nghe tiếng chàng gọi mà lòng xót xa không tả. Nhưng giữa chúng tôi có một khoảng cách vô cùng lớn kẻ âm người dương không thể hàn gắn. Để bày tỏ lòng biêt ơn, tôi đã nguyện ở lại với đức Linh phi, sau đó tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan cho tôi rồi quay về chốn thuỷ cung.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 2

Tôi là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi Vũ Nương quê ở Nam Xương. Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng cha mẹ tôi luôn dạy bảo tôi chu đáo, ân cần nên mọi người thường khen ngợi tôi thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp vì thế có rất nhiều người theo đuổi tôi. Trong đó có chàng Trương Sinh là con của một nhà hào phú xin đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến tôi gặp rất nhiều khó khăn, bất hạnh.

Tôi biết chồng mình là người có bản tính hay ghen tuông nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép, vợ chồng trước nay chưa từng xảy ra bất hoà. Hai chúng tôi ăn ở êm ấm, lại chuẩn bị đón đứa con đầu lòng nên chúng tôi đều rất vui và hạnh phúc. Thế nhưn hạnh phúc chẳng được bao lâu, giặc Chiêm xâm lăng, chồng tôi học ít nên bị bắt đi lính, chúng tôi chia tay nhau từ đây. Buổi tiễn đưa chồng tôi lên đường, tôi rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về, thấu cảm cho những nỗi đau mà chồng phải chịu.

Thời gian thấm thoát trôi qua, ngày tôi chuyển dạ, sinh được một cậu con trai kháu khỉnh, đặt lên là Đản. Chính đứa trẻ này đã làm tôi với bớt nỗi nhứo chồng. Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thuong con trai nên đã sinh bệnh, chẳng ăn chẳng uống, tôi đã khuyên mẹ cố gắng mạnh khoẻ để chờ ngày Trương Sinh về. Nhưng rồi mẹ tôi cũng không qua khỏi, trước lúc lâm chung, bà căn dặn tôi:

“Sau này ….phụ mẹ” (Trích câu văn trong SGK)

Tâm lòng của bà thật nhân hậu biết bao! Từ đó trong nhà chỉ còn tôi và bé Đản. Mỗi lức nhớ chồng và muốn bù đắp cho con thiếu vắng hơi cha, mỗi tối tôi thường chỉ vào cái bóng của mình trên tường và bảo con “Cha Đản lại đến kìa”. Thằng bé ngây thơ, tin là thật chơi đùa cùng chiếc bóng.

Ba năm trôi qua, chồng tôi bình an trở về. Vợ chồng chúng tôi gặp nhau vừa mừng vừa tủi, hạnh phúc vỡ oà. Biết tin mẹ mất, Trương Sinh bế bé Đản ra mộ thắp nahng cho bà. Nhưng khi chàng vừa trở về và nổi cơn thịnh nộ, chàng mắng tôi không tiếc lời, một mực nói tôi hư thân, mất nết không thuỷ chung. Tôi khóc lóc phân trần:

“Thiếp vốn con….như lời chàng nói”.

Có lẽ tất cả những lời giải thích của tôi, chàng đều coi là gió thoảng, hàng xóm cũng sang bênh vực tôi nhưng chàng không nghe, tôi hỏi ai nói thì chàng giấu, tôi không thể thanh minh.

Lửa ghen tuông trong lòng chàng mỗi lúc một lớn, chàng mắng mỏ và chửi rủa tôi, đuổi tôi ra khỏi nhà. Giờ đây tôi khong còn hạnh phúc, gia đình tan nát, danh dự bị bôi nhọ, tuyệt vọng, cùng đường tôi chỉ biết tìm tới cái chết. Tôi tắm rửa sạch, sau đó ra bến Trường Giang gieo mình tự vẫn.

Người ở hiền khắc sẽ gặp lành, đồng cảm với nỗi oan khuất của tôi, tôi được các nàng tiên cá đưa xuống thuỷ cung của Lương Phi, nơi đây thật là lộng lẫy. Trong một bữa tiệc, tôi gặp lại Phan Lang là người cùng làng. Nghe Phan Lang kể lại, Trương Sinh ngồi bế con bên ngọn đèn dầu, con chỉ bóng chàng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan bấy lâu tôi phải chịu. Cuộc đời sao lại trớ trêu với tôi như thế, chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm hoạ, người chồng tôi hết lòng thuỷ chung lại đưa tôi tới bước đường cùng. Theo lời Phan Lang nói, từ lúc tôi ra đi, nhà tôi tan tác tiêu điều, tôi nghe mà không thể cầm được nước mắt. Mặc dù rất giận Trương Sinh nhưng tôi vẫn tìm về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang. Toi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ chàng đã giúp tôi minh oan mà không thể trở về trần gian.

Cuộc sống cõi trần thật bạc, mong rằng xã hội sẽ xoá bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng, nam nữ bình quyền, tôi mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc bởi hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu, tôn trọng lẫn nhau.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 3

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi là Vũ Nương. Thoe lời mọi người nhận xét nhan sắc của tôi cũng thuộc hành mỹ nhân. Tù nhỏ tôi đã được cha mẹ dạy dỗ những lễ nghi, phép tắc, công dung ngôn hạnh. Đến tuổi lấy chồng, tối được gả vào nhà họ Trương. Chồng tôi tên là Trương Sinh, yêu chiều tôi hết mực, nhưng chàng lại hay ghen. Chính vì vậy tôi luôn giữ chừng mực. Lấy nhau chẳng bao lâu, đất nước lâm nguy, chồng tôi phải lên đường đi lính. Ngày tiênc hồng lên đường, tôi bịn rịn chẳng muốn chia xa, chẳng mong được chức quan hầu mà chỉ mong hai chữ bình yên.

Chồng đi xa, tôi ở nhà hoàn hành trách nhiệm của một người mẹ tốt, người con dâu hiếu thảo. Do tuổi già sức yếu và quá nhớ thương con trai, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng rồi qua đời. Từ đó trong nhà chỉ còn tôi và bé Đản. Thương con, muốn bù đắp cho con sự thiếu vắng hơi cha, mỗi tối tôi thường chỉ lên bóng mình trên tường và nói “Cha Đản lại đến rồi kìa”. Tôi chẳng ngờ hành động đó của tôi vô tình trở thành nguyên nhân đẩy tôi tới cái chết sau này.

Thời gian thấm thoát trôi qua, chồng tôi bình an trở về, biết tin mẹ mất, chàng rất buồn. Một buổi nọ, chàng bế Đản ra mộ thắp hương cho mẹ. Đến khi về, chàng nổi cơn thịnh nộ, nói tôi thất tiết, không giữ gìn khuôn phép. Mặc dù tôi đã cố gắng giải thích nhưng với bản tính ghen tuông ăn sâu vào máu, chàng không tin và đuổi tôi ra khỏi nhà.

Danh dự bị bôi nhọ, hạnh phúc gia đình tan nát, tôi chỉ biết tìm tới cái chết ở bến Trường Giang. Thấu hiểu hoàn cảnh của tôi, Linh Phi đã ra tay cứu giúp, đưa tôi về thuỷ cung. Một ngày nọ, tôi gặp Phan Lang là người cùng làng và là ân nhân của Linh Phi. Sau khi nghe kể, tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn dầu, thằng Đản chỉ vào cái bóng nhận cha, lúc đó chàng mới nhận ra đã nghi oan cho tôi. Chàng vô cùng hối hận. Phan Lang khuyên tôi trở về, nhưng vì để trả ân đức cho Linh Phi, tôi nhờ Phan Lang cầm theo chiếc hoa vàng cùng lời nhắn gửi tới chồng tôi, lập đàn giải oan cho tôi tại bến Trường Giang. Tôi trở về giữa dòng sông trên chiếc kiệu hoa, nói vọng vào bờ lời tạ từ chồng con rồi biến mất.

Câu chuyện của tôi là một câu chuyện buồn, dù quá khứ đã qua đi nhưng những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt, nối nhớ chồng con vẫn không nguôi ngày nào.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 4

Chàng Trương Sinh vốn là người cùng làng với tôi. Bởi cảm mến, chàng đã đem lòng thương yêu và cùng tôi kết tóc xe duyên, hứa hẹn sẽ cùng chung sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Biết tính chàng hay ghen nên tôi cũng cố gắng gìn giữ khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hoà.

Năm ấy, quân giặc quấy nhiễu biên cương, chàng tuy là con nhà hào phú nhưng không có học, nên phải đi lính. Trước khi đi mẹ chàng dặn dò cặn kẽ mọi việc, còn tôi chẳng biết nói gì, lòng bịn rịn thương xót chàng, chẳng mong công danh chức trọng, chỉ mong bình an trở về. Lúc chàng lên đường, tôi đang mang trong mình giọt máu của chàng, sau khi chàng đi được ít lâu, tôi sinh con trai đầu lòng đặt tên là Đản.

Thời gian cứ thấm thoát trôi đi, sau khi tiễn con trai ra trận, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng rồi qua đời, trước lúc đi xa, mẹ tôi căn dặn nhiều điều. Là một người con dâu, tôi hoàn thàn trách nhiệm lo ma chay lễ bái cho mẹ chồng chu toàn. Tôi cố gắng nuôi dạy con lên người. Thương con thiếu tình cha, mỗi tối tôi ngồi bế con và chỉ vào bóng của mình nói rằng đó là cha nó, đứa con ngây thơ tưởng thật, chơi đùa cùng bóng.

Chiến tranh qua đi, cũng tới ngày chồng tôi trở về, lúc này Đản đã biết nói bập bẹ. Những tưởng cuộc sống hạnh phúc của ba người bắt đầu từ đây. Ngờ đâu, một buổi nọ, chàng bế Đản ra thăm mộ mẹ, khi trở về, chẳng hiểu cớ nào, chàng đùng đùng nổi giận với tôi, lăng mạ tôi đủ điều, mắng nhiếc tôi không chung thuỷ, bỏ qua mọi lời giải thích của tôi mà đuổi tôi ra khỏi nhà.

Vừa buồn tủi, vừa oan ức, tôi chẳng còn thiết sống trên đời, sau khi tắm rửa sạch sẽ, tôi ra bến Hoàng Giang than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Nói xong tôi gieo mình xuống sông, mong rửa sạch nỗi oan khuất, tấm lòng thuỷ chung, luôn hướng về chồng con.

Thấu cảm cho hoàn cảnh của tôi, tôi được Đức Linh Phi cứu giúp, tôi được sống trong cung của người, nhưng trong lòng vẫn không thể nguôi ngoai nỗi nhớ chồng con. Trong một buổi tiệc, tôi gặp lại Phan Lang trước kia là người cùng làng, nghe chàng kể lại, sau khi tôi đi được ít lâu, Trương Sinh ngồi bế con, con chỉ lên chiếc bóng nhận bố, chàng mới hiểu ra nhưng sự tình đã quá muộn. Khi Phan Lang trở về trần gian, tôi gửi cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng cùng lời nhắn nếu còn chút tình xưa thì hãy lập đàn giải oan cho tôi ở bến sông. Nghe lời dặn, Trương Sinh lập một đàn ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Tôi hiện về giưuax dòng, trên chiếc kiệu hoa nói vọng vào “Thiếp cảm ơn đức của Linh phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về trần gian được nữa”. Giờ đây tôi sẽ ở chốn cung nước này mãi mãi, không thể trở về trần gian, vì tôi hiểu rằng, nhân gian oan nghiệt không còn chỗ cho mình dung thân.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 5

Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đang giải oan, tôi hiện về nói lời từ biệt rồi ra đi mãi mãi. Tôi dần quen với nhịp sống nơi thuỷ cung của Linh Phi. Nhưng trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn đau đáu nhớ về quê nhà, nhớ cuộc sống gia đinh hạnh phúc trước kia.

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy tôi xuất thân trong gia đình nghèo nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn, nên biết trên biết dưới, cư xử đúng mực. Tới tuổi lấy chồng, cha mẹ tôi không muốn con vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng nhà họ Trương và gả tôi cho Trương Sinh. Chồng tôi là một con người rất hay ghen, biết tính chồng là vậy tôi luôn giữ gìn khuôn phép không để vợ chồng bất hoà.

Lấy nhau chưa được bao lâu, đất nước có giặc ngoại xâm. Chồng tôi phải ra trận chiến đấu. Lúc tiễn đưa chồng lên đường lòng tôi bịn rịn không nguôi, chẳng mong chàng ra đi công danh phú quý, chỉ mong trở về bình an. Sau khi chồng đi, tôi hạ sinh được một cậu con trai, đặt tên là Đản.

Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thương con trai mà sinh bệnh. Tôi hết lòng chăm sóc, thuốc thang, động viên mẹ chóng khoẻ chờ ngày đoàn tụ. Nhưng tuổi cao sức yếu, mẹ chồng tôi đã qua đời.

Ngày trở về biết tin mẹ qua đời, chông tôi vô cùng đau xót. Một buổi nọ chồng tôi bế bé Đản ra viếng mộ bà. Cứ ngỡ tháng ngày về sau sẽ chỉ là hạnh phúc vui vẻ của cuộc sống ba người, ngờ đâu, chồng tôi trở về và nổi cơn thịnh nộ với tôi. Chàng nói tôi không chung thuỷ, phản bội chàng, cho dù tôi đã hết sức giải thích nhưng chàng vẫn một mực mắng mỏ và đuổi tôi ra khỏi nhà.

Quá oan ức và buòn tủi, tôi đã tìm tới cái chết ở sông Trường Giang. Xót thương cho hoàn cảnh của tôi, Đức Linh Phi đã đưa ta cứu giúp và đưa tôi về thuỷ cung.

Một ngày nọ tôi gặp được một người cùng làng teen là Phan Lang, sau khi nghe Phan Lang kể lại, tôi được biết chồng tôi rất ân hận khi đã vu oan cho tôi, từ khi tôi ra đi nhà cửa vườn tược không ai chăm sóc, vắng vẻ đìu hiu. Mặc dù thương chồng xót con nhưng vì trả ơn đức Linh Phi, tôi chỉ có thể nhắn gửi Phan Lang là báo với Trương Sinh lập đàn giải oan cho tôi ở bờ sông.

Theo lời dặn, Trương Sinh lập đàn giải oan cho tôi, tôi trở về giữa sông cờ hoa kiệu võng linh đình, mờ mờ ảo ảo. Sau khi nói lời cảm tạ và từ biệt với chồng con, tôi biết mất giữa dòng.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến thật bị rẻ rúng coi thường. Còn biết bao những người phụ nữ phải chịu tiếng oan như tôi chưa được giải.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 6

Như thường lệ, mỗi năm một lần thủy cung lại mở hội mùa xuân. Năm nay để mừng thọ vua Thủy Tề, lễ hội mùa xuân được chuẩn bị công phu, chu đáo hơn mọi năm. Hôm đó ngay từ sớm Thủy cung đã được trang hoàng thật lộng lẫy. Từ xa đã thấy thấp thoáng bóng mấy hàng cờ hội tung bay phấp phới, tiếng trống, tiếng chiêng nổi lên rộn ràng. Đến nơi một khung cảnh tuyệt đẹp của chốn thần tiên đã hiện ra. Những khóm hoa màu sắc rực rỡ toả hương ngào ngạt, những bức trướng chạm khắc hình nổi trông thật tinh xảo, các cung nữ tết tóc cài trâm, thướt tha trong bộ xiêm y lộng lẫy. Khi vua Thủy Tề cùng Linh Phi bước ra cũng là lúc các hoàng tử, công chúa, và các quần thần đã có mặt đông đủ. Rồi khi mọi người đã yên vị và tiệc rượu chuẩn bị bắt đầu, bỗng nhà vua hướng về phía Vũ Nương và nói:

– Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi Vũ Nương được Linh Phi đưa về thủy cung sống cùng các nàng tiên trong cung nước, lúc nào ta cũng thấy vẻ u buồn hiện rõ trên nét mặt nàng. Có phải nàng vẫn đang ngày đêm nhớ về quê hương, gia đình không? Vậy nàng có thể kể cho ta, Linh Phi và mọi người ở đây biết về cuộc đời của nàng khi còn ở chốn dương gian được không? Nhà vua vừa dứt lời, đã có mấy tiếng nói ở phía sau cất lên:

– Đúng đấy, Vũ Nương kể đi! Kể đi cho mọi người ở đây được biết!Trước lời đề nghị của mọi người, biết không thể từ chối, Vũ Nương đã cất tiếng kể:

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 tôi đã trở thành một thiếu nữ nết na, xinh đẹp nổi tiếng trong vùng. Đã có biết bao chàng trai đánh tiếng muốn cưới tôi làm vợ. Cha mẹ tôi không muốn con vất vả nên đã đồng ý gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu có trong làng và thế là tôi được yên bề gia thất. Biết chồng là con nhà giàu nhưng ít học lại đa nghi, hay ghen nên tôi luôn cư xử khéo léo, giữ gìn khuôn phép vì thế mà vợ chồng tôi chưa bao giờ xảy ra mâu thuẫn.

Hạnh phúc gia đình chưa được bao lâu thì chiến tranh binh lửa đã khiến vợ chồng tôi phải xa cách nhau. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Biết được tin này cả tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn rầu, lo lắng. Buổi tiễn chàng ra biên ải, mẹ tôi nghẹn ngào dặn chồng tôi rằng ra chiến trường, chỗ binh cách không nên ham quan cao tước lớn, quan trọng phải biết giữ mình để được bình an trở về thì mẹ mới yên lòng được. Nghe lời mẹ, chồng tôi quỳ xuống đất vâng lời dạy. Lúc này lòng tôi cũng nặng trĩu lo âu, phiền muộn, nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, tôi lại càng thương chàng vô hạn. Tôi cầm tay chàng mà căn dặn rằng:

– Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi.Chẳng mấy chốc giờ phút chia tay đã hết, chàng dứt áo ra đi với biết bao lưu luyến bịn rịn. Mắt nhòa lệ, lòng tê tái đau xót, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng cho đến khi khuất hẳn sau hàng dâu.

Sau khi chồng tôi đi được mươi ngày thì tôi sinh con trai đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại thoắt đã nửa năm chồng tôi đi lính xa nhà. Nén lại nỗi nhớ thương vơi đầy, một mình tôi vừa chăm sóc con thơ, vừa phụng dưỡng mẹ già và lo toan chu toàn cho gia đình nhà chồng. Tôi một lòng mong ngóng, chờ đợi chồng sớm về đoàn tụ. Trong thời gian chồng tôi đi lính mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi rất lo lắng, đã hỏi tìm mua thuốc khắp nơi, ai mách ở đâu có thuốc tốt tôi cũng tìm đến mua cho mẹ uống. Song bệnh tình của mẹ chồng tôi vẫn không thuyên giảm mà cứ mỗi ngày một nặng thêm. Tôi hết sức lo lắng cho mẹ, chẳng còn biết làm cách nào hơn để chữa bệnh cho mẹ, nên tôi đã chuẩn bị lễ cúng thần phật mong thần phật phù hộ độ trì cho mẹ tôi khỏi bệnh. Tôi cũng hết lời khuyên nhủ mong mẹ gắng gượng ăn uống, thuốc thang cho chóng khỏe đợi chồng tôi trở về. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi đã ko qua khỏi. Đau xót tột cùng, tôi khóc tang mẹ đến sưng cả hai mắt và lo việc ma chay tế lễ cho mẹ như với cha mẹ đẻ của mình.

Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, tuy buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, còn tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho chàng bình yên trở về vừa để mừng ngày vợ chồng tôi đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang. Buổi trưa khi hai cha con trở về, mặt đỏ bừng bừng chàng giận dữ lôi đình đi thẳng vào bếp, nơi tôi đang chuẩn bị cơm để la mắng, tra hỏi tôi. Chàng nói trong cơn giận dữ rằng trong thời gian chàng đi xa tôi đã làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… Như sét đánh ngang tai, tôi chết điếng người, không hiểu rõ nguyên nhân vì sao chàng như vậy. Tôi hết lời giải thích cho chàng hiểu rằng mình là con nhà nghèo khó được nương tựa nhà giàu, trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chàng đừng một m nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Mặc cho làng xóm bênh vực khuyên can, chàng vẫn một mực không nghe, cứ mắng nhiếc, lăng mạ rồi đuổi tôi ra khỏi nhà. Đau xót đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập xuống, tôi tha thiết phân trần nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Tuyệt vọng, buồn chán vì không có cách nào cởi bỏ được mối nghi ngờ trong lòng chàng. Cuộc đời với tôi giờ ko còn ý nghĩa gì nữa, bao nhiêu vất vả lo toan cho gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung hết mực với chồng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi đã tắm gội chay sạch rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than, cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình. Nói xong tôi gieo mình xuống sông tìm cái chết để giải thoát.Kể đến đây, Vũ Nương đã không thể kìm được nỗi đau xót, giọng nàng nghẹn ngào thổn thức và những giọt nước mắt đã lăn dài trên khuôn mặt đầy đau khổ. Thấy vậy vua Thủy Tề đã lên tiếng an ủi động viên Vũ Nương:

– Vũ Nương à! Nỗi oan khuất của nàng đã thấu tới chốn thủy cung của ta và ta đã cho các nàng tiên trong cung nước đợi sẵn để kịp thời rẽ nước mở đường đưa nàng về đây. Hôm nay câu chuyện của nàng đã cho ta hiểu rõ về nàng và càng thấy thương nàng hơn. Ta mong nàng từ nay hãy sống thật an lạc ở nơi này cùng Linh Phi và các cung nữ. Đây cũng là món quà mà ta muốn bù đắp cho những thiệt thòi của nàng trước đây. Nói xong nhà vua ra hiệu lệnh cho mọi người bắt đầu buổi tiệc. Và không khí lại rộn ràng vui tươi bởi tiếng chiêng tiếng trống hòa đã cùng tiếng nói tiếng cười, tiếng hát của mọi người.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 7

Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đàn giải oan, tôi hiện về nói lời tạ từ rồi ra đi mãi mãi. Tôi cũng đã bình tâm trở lại mà chấp nhận cuộc sống dưới thủy cung với Linh Phi và các nàng tiên trong cung nước. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn không nguôi nhớ trần thế, nhớ quê hương, nhớ cuộc sống gia đình hạnh phúc trước kia, đặc biệt là con trai. Những kỉ niệm ấy vẫn luôn hiện về trong tâm trí tôi.

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 trong làng đã có vài người đánh tiếng trống hỏi tôi, nhưng vì cha mẹ của tôi không muốn tôi vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng rồi gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu trong làng, thế là tôi được yên bề gia thất nhưng biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, tuy là con nhà giàu nhưng đa nghi ít học nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa.

Cuộc đoàn viên chưa được bao lâu thì đất nước có giặc. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình vừa chăm sóc con, một lòng thủy chung chờ đợi mong chồng sớm về đoàn tụ.

Nhưng mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật rồi khuyên như mong mẹ chóng khỏe. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi qua đời. Trước khi mất bà nói: “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tôi hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ của mình.

Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: Tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chồng đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng mỏ rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Nhưng các nàng tiên trong cung nước thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung.

Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: Một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.

Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.

Chuyện của gia đình tôi là câu chuyện buồn: Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi đến cái chết. Hy vọng rằng đừng gia đình nào rơi vào bi kịch.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 8

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hưởng hạnh phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.

Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.

Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích: “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp”. Nhưng bao nhiêu lời nói chân thành, tha thiết cũng không làm chàng tin. Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhưng rốt cuộc chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt vọng.

Tôi đã nương dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận, hạnh phúc. Nhưng giờ đây, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Dù vẫn thương chồng, thương con tha thiết, nhưng tôi đâu còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy, tôi bèn tắm gội sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Con duyên phận hẩm hiu, bị chồng con ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị Nương hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi người phỉ nhổ”. Sau đó, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn. Thần linh thấu hiểu và thương tình đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nương nhờ trong cung điện của Linh Phi.

Xuống thiên cung, tôi gặp lại Phan Lang – người cùng làng. Nghe Phan Lang kể gia cảnh chồng con tôi, nhà cửa, vườn tược hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt, lòng tôi xót thương, ai oán. Được biết chàng Trương đã hiểu đúng ngọn ngành sự việc và vẫn thương nhớ tôi, tôi rất vui, bối rối nhưng lại cũng cảm thấy tủi cực bởi mình vẫn chưa được minh oan. Khi Phan Lang trở lại trần gian, tôi bèn gửi cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa cũ xin lập một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Trương Sinh liền làm theo. Tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng. Thấy tôi, chàng vội gọi. Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng tôi bồi hồi, xót xa khôn xiết. Nhưng giữa chúng tôi đã có một khoảng cách không sao hàn gắn được. Tôi cũng đã thề với đức Linh Phi nên không thể trở về nhân gian được nữa. Tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan rồi quay lại thuỷ cung dù trong lòng còn bao lưu luyến cõi trần.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 9

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương người đời yêu quí gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Chính cuộc hôn nhân khập khiễng này khiến tôi gặp bao điều khó khăn. Ôi số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này bất hạnh biết bao!

Ngày ấy tôi cũng biết chồng đa nghi hay ghen với vợ phòng ngừa quá sức nên hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện thất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng vui mừng hạnh phúc biết bao nhưng cuộc sống không bao giờ êm ả xuôi chiều mát mái như ta trong đời. Giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi nước ta chồng tôi ít học nên bị bắt đi lính vào loại đầu, chia lìa mất mát đau thương là những gì chiến tranh mang lại. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về. Thấu hiểu khó khăn mà chồng phải chịu. Bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ mong của mình.

Thời gian đằm đắm trôi qua đến cữ tôi sinh bé Đản phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi nhớ con trai mà sinh ốm tôi đã lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để Trương Sinh về rồi thuốc thang lễ bái thần phật tôi mong mẹ chồng khỏe. Như mẹ tôi đã không qua nổi trước lúc mất bà còn trăn trối lại ghi lại công lao của tôi.

“Sau này… phụ mẹ”

Tấm lòng của bà nhân hậu biết bao! Từ đấy chỉ còn có tôi cùng bé Đản. Nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho con. Tôi thường chỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con “Cha Đảm lại đến kia kìa!”. Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Thấm thoắt đã 3 năm. May mắn biết bao chồng tôi an lành trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng vừa trở về “giông tố” đã nổi lên chàng la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tai họa ở đâu ập xuống đầu tôi khủng khiếp như vậy tôi khóc lóc phân trần giải thích:

“Thiếp vốn con… như lời chàng nói”.

Có lẽ tất cả những lời phân trần của tôi không thể lọt tai chàng họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu. Khiến tôi không thể thanh minh.

Lửa ghen trong lòng chàng mỗi lúc bùng phát dữ dội hơn chàng mắng nhiếc rồi đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Ước mơ bé nhỏ mà cả đời tôi theo đuổi là hạnh phúc gia đình giờ đây không còn nữa. Gia đình không còn nữa. Danh dự bị bôi nhọ. Bị tuyệt vọng tột cùng tôi chỉ biết tìm đến cái chết. Tắm rửa chay sạch tôi ra bến Trường Giang than cùng trời đất chứng giám tấm lòng trong sạch của mình rồi gieo mình xuống sông tự vẫn.

Người ta nói ở hiền gặp lành không ngờ nỗi oan khuất của tôi đã động lòng trời đất các nàng tiên cá đã rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Lương Phi chốn này đến đài cung điện nguy nga lộng lẫy. Người đối xử với nhau nhân hậu vô cùng thật là cuộc sống mong đợi ước ao! Trong một bữa tiệc. Lương Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – Người cùng làng và cũng là ân nhân của Lương Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn con trỏ bóng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan của tôi. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn đến vậy chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm họa. Chính người chồng tôi hết lòng yêu thương thủy chung đã đa nghi hay ghen hồ đồ đẩy tôi vào chỗ chết.

Phan Lang còn kể cảnh nhà tôi tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chàng Trương Sinh, nhưng tôi nhất quyết tìm về có ngày. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn khi chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang tôi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ tình chàng đã giúp tôi minh oan triều tuyết giữa thanh thiên bạch nhật mà không thể trở về trần gian vì tôi không muốn phụ ân đức của Phan Lang. Và cũng bởi thực tế ở đời người chết không thể sống lại được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Xã hội phong kiến bất bình đẳng này không thể có chỗ dung thân cho những người như tôi.

Chao ôi! Cuộc sống ở cõi trần thật đen bạc! Mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ chính tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào cuộc đời oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng nam nữ bình quyền kể ra câu chuyện này tôi còn mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu tôn trọng lẫn nhau. Ghen bóng ghen gió sẽ khiến gia đình tan vỡ.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 10

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, mọi người yêu quý hay gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú. Và cuộc đời tôi cũng thay đổi từ đó.

Chàng đem lòng yêu mến bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Có lẽ, cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến cuộc sống của tôi gặp bao khó khăn. Có lẽ, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này chính là khổ cực biết bao!

Về nhà chồng chẳng được bao lâu, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng cuộc sống không bao giờ như ta trong đời, giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi, chồng tôi ít học nên bị bắt đi sung binh loại đầu, đoàn viên chưa được bao lâu đã phải chia lìa. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.

Thời gian chẳng mấy trôi qua, đến ngày tôi sinh bé Đản, đứa con bé bỏng phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì nhớ mong con trai mà càng ngày sức khỏe càng kém, tôi đã lấy lời khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để chờ chồng về rồi cả thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ mau khỏe. Như mẹ tôi tuổi già lại có nhớ mong quá độ đã không qua nổi. Trước lúc mất bà còn trăn trối lại:

“Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.”

Mẹ chồng mất, tôi hết lòng ma chay như với mẹ thân sinh vậy. Kể từ đó, tôi chỉ còn bé Đản. Thương con chưa gặp cha lần nào, tôi bèn nghĩ cách trỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Vậy là, thấm thoắt đã 3 năm, giặc Chiêm chịu rút về nước. May mắn biết bao khi thấy chồng bình an trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ nhưng tôi chẳng ngờ đâu từ khi chàng trở về lại la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tự dưng tai họa ở đâu ập xuống đầu, tôi ngỡ ngàng liền phân trần giải thích:

“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, ….., đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.

Nhưng mọi thứ tôi nói đều không thể lọt tai chàng, họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu khiến tôi không biết làm sao để thanh minh nữa

Cuối cùng, chàng đuổi tôi ra khỏi nhà. Chẳng thể ngờ sau 3 năm chia cách, 3 năm ngóng trông, để rồi hạnh phúc mà tôi cố vun đắp giờ đây chẳng còn nữa. Tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng thiết gì nữa. Danh dự không còn liền để nước sông Trường Giang chứng giám tấm lòng trong sạch của mình, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn.

Không nghĩ tới, nỗi oan khuất của tôi động lòng trời đất, các nàng tiên cá rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Linh Phi, tôi bèn an cư tại chốn này.

Trong một bữa tiệc Linh Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – người cùng làng với tôi và cũng là ân nhân của Linh Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh đã thấu hiểu nỗi oan của tôi. Thì ra chàng hiểu lầm chỉ vì lời nói vô tư của con nhỏ, chỉ vì chàng đa nghi, ghen tuông hồ đồ mà khiến gia đình tôi ra nông nỗi này.

Phan Lang kể rằng nhà tôi giờ tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chồng nhưng tôi vẫn quyết định tìm ngày về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn kêu Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Trường Giang.

Khi thấy chồng và con tôi thật sự muốn trở về nhưng người chết nào đâu có thể sống lại. Nỗi oan khuất được giải trừ, tôi chỉ được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Chỉ thương con côi cút không có mẹ chăm nom, thương cho tình nghĩa phu thê chưa tròn.

Tôi chỉ mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ, và từ câu chuyện cuộc đời của tôi để người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà nó còn phải ở cả sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 11

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương, mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Tôi đã gặp và trở thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương, nhưng lại vốn tính đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi mặc dù con nhà hào phú nhưng lại ít học, vì vậy phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chàng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn.Tôi không mong chàng lập công lao cao cả để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng có thể bình an trở về. Giờ phút chia tay, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhòa lệ, lòng tái tê chua xót.

Đương thời lúc đó tôi đang mang thai, đến thời điểm, tôi sinh được một bé trai kháu khỉnh và đặt tên con là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau triền miên. Tôi đã hết lòng thuốc thang, khuyên lơn nhưng vì bệnh tình trầm trọng mẹ không qua khỏi. Tôi đã cố gắng lo ma chay chu tất cho mẹ, thay chồng làm tròn chữ hiếu.

Sau 3 năm chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh cũng bình an trở về. Tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận.

Lúc bấy giờ, bé Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con ra thăm mộ mẹ. Đến trưa trở về, chẳng hiểu vì cơ sự nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đã quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng hết lời can ngăn, giãi bày hộ tôi nhưng chẳng tiếng nào lọt tai chàng.

Tủi nhục cùng đau xót làm sao, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.

Nỗi oan chẳng thấu, lại mang tiếng thất tiết phụ chồng làm sao gột rửa đây? Tôi nghĩ chỉ có cái chết mới chứng minh sự trong sạch của mình.

Tôi chạy ra bến Trường Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng mình bạc mệnh, duyên phận cũng hết, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con. Nói xong tôi liền gieo mình xuống sông.

Ngờ đâu, nỗi oan của tôi động lòng chư tiên cứu vớt, rẽ nước cho xuống thủy cung. Tuy cuộc sống giờ đây sung sướng, nhàn hạ chốn nhưng nỗi nhớ thương chồng con da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp.

Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân đã cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc thì tôi ngạc nhiên vì người đó chính là Phan Lang – người cùng làng với tôi. Ông nhận ra tôi và kể lại cho tôi biết cuộc sống hiện tại của gia đình tôi. Ông nói rằng chồng tôi đã biết rằng đã trách oan tôi, vô cùng ân hận, ông cũng khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng và dặn ông nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông thì tôi sẽ vẽ. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Trường Giang.

Khi thấy được chồng con tôi thật nghĩ rằng mình muốn trở lại trần gian nhưng liệu rằng cuộc sống vợ chồng có còn được lại như xưa, xã hội này có vì thế mà có thay đổi? Đứng ở giữa dòng trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: ”Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi đã không trở về trần gian được nữa! Tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 12

Tôi là Vũ Nương, con gái một gia đình nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ.

Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa hết mức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Sum vầy, êm đềm chẳng được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, chồng tôi tuy là còn nhà hào phú nhưng ít học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.

Ngày tiễn chồng nên đường, tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa, chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cầu áo gấm, công danh. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt.

Đương thời lúc bấy giờ tôi đang mang thai đầu, chàng đi chẳng được bao lâu tôi bèn sinh con và đặt tên con là Đản. Có con trai, tôi phần nào vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì tuổi già, lại nhớ mong con khiến bà sinh bệnh năng. Thay chồng tận hiếu tôi hết mực thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ để lại những trăn trối tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn mẹ con tôi quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.

Mừng rỡ thay, sau 3 năm thì giặc tan, chồng tôi bình yên trở về đúng như mong đợi. Khi biết tin mẹ mất, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng bái tổ tiên tạ ơn phù hộ để chồng bình an, vừa để báo cho mẹ biết để yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn viên gia đình.

Không ngờ giây phút đó chẳng có, buổi trưa khi hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời trách mắng tôi mất nết hư thân… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi cố gắng giải thích rằng thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết.

Thế nhưng, dù hết lời phân giải, làng xóm bênh vực nhưng chàng nhất mực không tin lại nặng lời đuổi tôi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực, không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.

Đứng trên bến Trường Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Ngờ đâu, Linh Phi – vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và để tôi lưu lại ở đó.

Một hôm tôi gặp Phan Lang – người cùng làng trước đây đã có ơn với Linh Phi, được Linh Phi cứu khi gặp nạn. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau nghe con nói về chuyện cái bóng là cha mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa cho chính mình, lại thương chồng con vì không ai chăm sóc. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, tôi lại mong muốn được giải oan nên tôi nhờ Phan Lang trở về với chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương lập đàn giải oan bên bờ Trường Giang.

Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Trường Giang thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi cũng có ý khuyên trở về gia đình. Đến ngày thứ ba, Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi biến mất.

Dù giải oan nhưng liệu rằng chuyện quá khứ vẫn còn đó. Bản thân tôi đã quá sợ cuộc sống trần gian cay nghiệt, sự bất công của xã hội phong kiến thối nát. Có lẽ trở về cũng chẳng sống được những tháng ngày bình yên, vì vậy khi được giải nỗi oan này, tôi liền biến mất.

Mong rằng qua câu chuyện của tôi thì các bạn sẽ rút ra được bài học về hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ và thấu hiểu mới có thể duy trì được mái ấm tưởng trừng là cứng cáp nhưng nó thật sự quá mong manh.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 13

Tôi vốn là con nhà khó nghèo, được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ. Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Tôi tưởng là chúng tôi sẽ sống sum vầy, êm đềm như vậy đến đầu bạc răng long. Thế nhưng, ông trời cay nghiệt, không cho chúng tôi sum vầy diên niên. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, Trương tuy là còn nhà hào phú nhưng không có học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.

Tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa. Chàng xông pha nơi trận mạc, tôi chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cần chức tước mà nguy hiểm mạng sống. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt đã ứa trong mắt tôi mà chảy xuống.

Bấy giờ, tôi lại đang có mang. chàng đi chẳng được bao lâu tôi hạ sinh và đặt tên con là Đản. Có con trẻ, tôi phần nào vơi bớt nỗi mất mát nhớ chồng. Mẹ chồng tôi nhớ con tuổi già nên sinh bệnh nặng, tôi muốn thay phần chồng tôi phục vụ người mẹ già nên hết sức thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ trăn trối lại những lời tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn tôi với bé Đản quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.

Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ.

Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chồng đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

Thế nhưng, dù tôi hết lời phân giải chàng nhất mực không tin. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng nhiếc rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.

Đứng trên bến Hoàng Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. May thay, Linh Phi, vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và cho tôi lưu lại ở đó.

Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế.

Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về. Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.

Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi vào con đường tận tuyệt, dứt tình với nhân gian. Linh Phi nhiều lần động viên tôi trở về đoàn tụ với gia đình nhưng tôi luôn từ chối ân đức áy. Bởi tôi thấu hiểu rằng trần gian oan nghiệt đã không còn chỗ nào cho tôi dùng thân nữa.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 14

Đản à, hôm nay là tròn mười năm kể từ lúc mẹ con mất. Ta nghĩ có thể sẽ ôm bí mật này suốt đời cho đến khi chết nhưng suy cho cùng thì con cũng đã lớn, ta sẽ không giấu con nữa. Hôm nay ta quyết định sẽ kể lại cái chết oan ức của mẹ con cho con nghe.

Mẹ con hồi đó đẹp lắm, nàng thùy mị, nết na, vừa nhìn là ta mê ngay. Lúc đó, ta liền xin bà nội con đem ngay trăm lạng bạc để hỏi cưới mẹ con về. Biết ta có tính đa nghi và hay ghen nên mẹ con cũng luôn giữ khuôn phép, không để gia đình thất hòa.Vì thế mà gia đình chúng ta luôn có tiếng cười hạnh phúc. Chẳng bao lâu sau, do chiến tranh loạn lạc nên cha bị bắt đi lính trong thời gian mẹ con đang mang thai. Vào cái ngày tiễn đưa, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu”, chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về bình yên.

Trong ba năm ta đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng người mẹ già của ta, sinh và nuôi dạy con.

Với mẹ chồng, mẹ con là một cô con dâu hiếu thảo. Ta đi xa nhà, nàng đã thay ta phụng dưỡng mẹ ta rất chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình.

Khi đi lính trở về, tới nhà thì nghe tin mẹ ta đã mất, con vừa học nói. Tình mẫu tử thiêng liêng, nguồn an ủi vô bờ đối với ta nay không còn nữa. Mẹ mất không được đội tang, ta cảm thấy mình mắc tội bất hiếu, một thứ tội lớn nhất của đời người. Ngay lúc đó, ta đã bế con ra thăm mộ của bà nội con trước. Nhưng dù vậy, ta vẫn là một người con không tròn đạo hiếu. Khát vọng tề gia của ta chẳng khác nào bọt nước chiều mưa.

Trong lúc đó, ta bế con ra mộ bà. Ra đến đồng thì con cứ quấy khóc mãi, ta dỗ cũng không chịu nín. Rồi con bập bẹ nói rằng ban đêm thường có người đàn ông hay lui tới, mẹ con đứng thì đứng, mẹ con ngồi thì ngồi.

Đặt vào hoàn cảnh của ta vừa đi chinh chiến về, quá mệt mỏi, ta đang cần một chỗ dựa là gia đình, bên mẹ, bên vợ và bên con nhưng vừa về đến nhà đã gặp bao khổ đau: không có được giây phút hồi hộp, thiêng liêng đón giọt máu của mình chào đời; mẹ già đã ra đi… Bà con mất, niềm hạnh phúc gia đình nhỏ còn lại của ta là vợ và con trai. Vậy nhưng, con nhất định không chịu nhận ta là cha.

Thế nên với bản tính hay ghen và đa nghi, ta liền về nhà với vẻ mặt giận dữ quát lớn cho hả giận. Sau đó đánh đập, mắng nhiếc thậm tệ và đuổi mẹ con ra khỏi nhà. Mặc cho nàng có khóc lóc cố minh oan, mặc cho hàng xóm có giải thích mẹ con trong sạch nhưng ta đều gạt bỏ ngoài tai. Chính vì quá uất ức nên mẹ con tắm rửa chay sạch, rồi gieo mình xuống sông Hoàng Giang mà tự vẫn.

Trong lòng ta dù giận nhưng biết nàng đi tự vẫn cũng động lòng thương xót mà sai người đi vớt xác nàng nhưng không thấy. Rồi một đêm có gió thổi nhè nhẹ, êm dịu, chiếc đèn dầu sáng mập mờ thì con liền thốt lên cha con đã tới và chỉ tay vào cái bóng trên tường. Ta chợt hiểu trong những ngày ta đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên hàng đêm, mẹ con đã chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha.

Cũng tại sự ngu dốt, hồ đồ, sự đa nghi mà ta đã giết nàng, ta thấy hối hận lắm nhưng đã quá muộn rồi. Nếu lúc đó, ta bình tĩnh mà nghe nàng giải thích thì có lẽ giờ gia đình ta đang rất hạnh phúc và mẹ con cũng không bị ta bức tử mà rời xa chúng ta. Kể từ lúc mẹ con đi, căn nhà của chúng ta trở nên trống vắng, con thì đêm nào cũng khóc đòi mẹ, còn ta thì chỉ biết ôm nỗi nhớ nàng một mình và giận chính bản thân.

Vài tháng sau, hay tin của Phan Lang là người cùng làng kể cho ta nghe mẹ con sống dưới thủy cung cũng đang rất nhớ con và muốn nhắn nhủ ta lập đàn giải oan cho nàng. Thoạt đầu ta nghe không tin nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng mà lúc đi mẹ con mang bên mình thì ta liền sợ hãi làm theo lời Phan Lang. Trong vòng ba ngày ba đêm, cuối cùng cũng gặp được mẹ con bên bến sông Hoàng Giang. Ta cố muốn giữ mẹ con lại nhưng lúc này nàng thoắt ẩn, thoắt hiện rồi từ từ biến mất trong làn sương trắng.

Đã quá muộn để ta nói lời xin lỗi với nàng. Cho đến cuối đời, ta cũng sẽ không quên được cái khoảnh khắc ta bức tử nàng, ta sẽ phải cô đơn và dằn vặt bản thân và chắc đó chính là quả báo mà ông trời dành cho ta.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 15

Tôi là Vũ Nương, quê gốc ở Nam Xương, nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam bây giờ. Dù hiện tại tôi sống trong vinh hoa phú quý dưới thủy cung, trường thọ cùng đất trời nhưng tôi không bao giờ quên nỗi đau đớn trong cuộc đời khi bị chính người chồng của mình vu oan. Dù đã được minh oan nhưng nỗi đau ấy vẫn bám lấy tôi dai dẳng. Câu chuyện ấy như sau:

Tôi và chàng Trương nên duyên vợ chồng vì anh ấy mang trăm lạng vàng hỏi cưới tôi về. Nên vợ nên chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Trước khi chàng đi, tôi dặn dò mong chàng trở về bình an là đủ, không cần phải mang về vinh hoa phú quý. Tôi tiễn biệt chàng đi mà lòng đau như cắt, lo lắng cho chàng nơi hòn tên mũi đạn xa xôi, cầu nguyện cho chàng bình an trở về. Tôi ở nhà, chăn đơn gối chiếc, chăm sóc cho mẹ chồng và sinh được một đứa con trai, đặt tên là Đản. Mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai lại thêm tuổi cao sức yếu nên ốm nặng, không qua khỏi. Tôi đã lo ma chay tươm tất cho bà như đối với cha mẹ ruột của mình. Nhà cửa chỉ còn hai mẹ con tôi. Vì con còn nhỏ mà đã phải chịu cảnh không có cha nên tôi vẫn thường hay chỉ bóng của mình trên vách bảo đó là cha con đấy. Năm tháng cứ bình yên trôi qua cho đến khi chồng tôi trở về. Nhận được tin mẹ mất, chàng vô cùng đau xót, muốn bế con trai đi thăm mộ mình nhưng thằng bé không chịu nghe. Sau này tôi mới biết là do nó không nhận cha nó, nó bảo là cha nó là người đàn ông đêm nào cũng đến, thấy tôi đi cũng đi, tôi ngồi cũng ngồi nhưng không bao giờ chịu bế Đản cả. Mọi chuyện sẽ dễ dàng nếu như Trương Sinh cho tôi cơ hội giải thích rằng đó là chiếc bóng của tôi. Đằng này, chàng nhất định không nghe tôi nói, nằng nặc nghi oan tôi không chung thủy, đánh và đuổi tôi đi. Lòng tôi lúc đó đau như cắt từng khúc ruột, cảm thấy như một vết nhơ trên cuộc đời mình mà không thể nào gột rửa được. Tôi hổ thẹn với đất trời, tôi đã không còn nơi nương thân. Sau cùng, tôi thề nguyền và gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, chết một cách oan khuất. Chứng kiến cho lời thề của tôi nên sau khi rơi xuống sông Hoàng Giang, tôi đã trở thành tiên nữ và được hậu đãi ân tình. Một thời gian sau, có người làng tôi là Phan Lang chết đuối được Linh Phi cứu giúp. Nhân dịp Phan về quê cũ, tôi đã đưa chiếc trâm làm tin, nhờ hắn chuyển cho Trương Sinh. Bấy giờ, chàng mới hiểu thấu được mọi chuyện, lập đàn giải oan bên sông cho tôi. Tôi chỉ hiện lên nói lời cảm tạ rồi biến mất. Nỗi đau oan khuất của tôi cũng được nguôi ngoai phần nào, dù sao tôi cũng chẳng thể trở về dương gian được nữa rồi.

Trên đây là câu chuyện của tôi, tôi thương xót cho chàng Trương giờ phải chịu cảnh nuôi con một mình, thương xót cho con tôi lớn lên không mẹ và cũng thương cho chính mình phải chịu cái chết đau đớn này.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 16

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi là Vũ Nương. Mọi người nhận xét nhan sắc tôi cũng thuộc hàng mỹ nhân. Tôi vốn được cha mẹ dạy dỗ đàng hoàng. Đến tuổi lấy chồng, tôi được Trương Sinh cưới về làm vợ. Cưới nhau chưa được bao lâu thì chồng tôi phải đi lính. Ngày tiễn chồng tôi dặn dò đủ thứ, tôi không mong chức quan hầu mà chỉ mong hai chữ bình yên.

Chồng đi tôi ở nhà chăm mẹ chồng và con thơ, quán xuyến gia đình. Tôi cũng biết chồng đa nghi hay ghen với vợ phòng ngừa quá sức nên hết sức giữ gìn khuôn phép. Thời gian trôi qua mẹ tôi đã không qua nổi vì tuổi già cũng như thương nhớ con. Từ đấy chỉ còn có tôi cùng bé Đản. Nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho con. Tôi thường chỉ lên bóng của mình trên tường mỗi tối rồi bảo con “Cha Đảm lại đến kia kìa!”. Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Thời gian thấm thoát trôi qua chồng tôi an lành trở về. Biết tin mẹ mất chồng tôi rất buồn và bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng. Những tưởng được hạnh phúc nào ngờ tai họa ập đến xuống đầu tôi. Chàng nghi cho tôi thất tiết, không giữ gìn khuôn phép. Tôi đã cố gắng giải thích và phân giải nhưng chồng tôi nhất quyết không nghe và đuổi tôi ra khỏi nhà. Danh dự bị bôi nhọ tôi chỉ biết tìm đến cái chết dưới bến Trường Giang. Nhưng rồi chắc trời thương nên đã để Linh Phi cứu giúp tôi, đưa tôi ở lại thủy cung. Không ngờ thời gian sau tôi gặp Phan Lang – người cùng làng và cũng là ân nhân của Lương Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn con chỉ bóng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan của tôi. Tôi đã nhờ Phan Lang nhắn nhủ đến chồng tôi. Chàng làm theo lời tôi, lập đàn giải oan ở bến sông Trường Giang, tôi hiện về chỉ biết cảm tạ tình chàng và biến mất. Xã hội phong kiến bất bình đẳng này không thể có chỗ dung thân cho những người như tôi.

Tôi hy vọng đây sẽ là bài học lớn cho tất cả mọi người cần tin yêu tôn trọng lẫn nhau vì hạnh phúc gia đình.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 17

Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, được mọi người yêu quý mà gọi cho cái tên Vũ Nương. Sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh nghèo khó, tuy vậy nhưng lại được cha mẹ dạy bảo ân cần từ nhỏ, hiểu được lễ nghĩa, bởi lẽ đó mà mọi người trong làng hay khen tôi có tính tình nết na và thùy mị. Lại được ơn trời cho thêm tư dung tốt đẹp. Nên đến tuổi mười tám, một độ tuổi mà người đời xem là độ tuổi rực rỡ nhất của người con gái, tôi được Trương Sinh, là một chàng trai trong làng mến mộ chắc có lẽ là vì dung hạnh nên đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng mà cưới tôi về. Ngày ấy, tôi vốn biết chồng mình có tính đa nghi, hay ghen, đối với tôi lại phòng ngừa quá sức, nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa từng để lần nào vợ chồng phải dẫn đến thất hòa.

Cuộc sống bình yên chẳng được bao lâu thì giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi đất nước, chồng tôi tuy là con nhà hào phú nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Chiến tranh chắc chắn sẽ có chia ly, có mất mát và cả đau thương, vì lẽ đó mà tôi và mẹ chồng đã buồn biết bao nhiêu, buổi tiễn đưa đến, mẹ dặn dò chàng phải biết tự chăm sóc bản thân, giữ gìn sức khỏe và cẩn thận, bởi trên chiến trường đao kiếm nào có mắt. Còn tôi thì không biết gì hơn, chỉ rót chén rượu đầy tiễn chồng, mong chồng sẽ trở về được bình yên, chẳng mong tước vị phải cao sang quyền quý. Một buổi đưa tiễn đầy xúc động, mắt ai cũng nhòe đi bởi giọt lệ, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san.

Sau khi chồng đi được khoản mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình nuôi dạy và chăm sóc con, cũng nhờ có bé Đản nên tôi cũng vơi đi được phần nào nỗi cô đơn nhớ mong chồng trong lòng. Ngày qua tháng lại, thoắt cái đã nửa năm trôi qua, nỗi buồn trong lòng vẫn chẳng thể nào vơi bớt đi. Mẹ chồng tôi lại vì quá nhớ thương con trai mà ngã bệnh, tôi cố hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mong mẹ ăn được miếng cơm, miếng cháo để mau chóng khỏe lại. Song vì tuổi già bệnh nặng mà mẹ đã không qua nổi, trước lúc mất bà còn trăn trối rằng:

“Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”

Tôi đau lòng thương xót, lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Kể từ đó chỉ còn có tôi cùng bé Đản, nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho đứa con bé nhỏ không có cha bên cạnh, tôi thường trỏ bóng mình trên tường vào mỗi tối rồi bảo với con là “cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản còn nhỏ nên ngây ngô tưởng thật, thường vui đùa cùng chiếc bóng.

Qua năm sau, giặc tan đất nước được yên bình, việc quân kết thúc. Chồng tôi may mắn trở về bình yên như mong đợi, hạnh phúc như vỡ òa trong một khoảnh khắc, tuy vậy khi biết được tin mẹ mất, chồng tôi đã rất buồn, chàng hỏi mộ mẹ rồi bế đứa con bé nhỏ đi thăm. Chẳng biết trên đường đã xảy ra chuyện gì nhưng khi về tâm trạng của chàng lại xấu vô cùng, sau đó chàng nặng lời với tôi, trách tôi sao hư thân mất nết, làm chuyện trái đạo lý… Tôi đến cùng không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc và tủi thân. Dùng hết lời để giải thích, hỏi chàng chuyện kia là ai nói nhưng chàng lại giấu mà không trả lời. Tôi vốn biết thân phận mình là con kẻ khó, nương tựa được nhà giàu, chưa từng có suy nghĩ trái đạo lý như vậy. Nhưng nay điều đâu bay buộc, tai họa ập đến. Có lẽ tất cả những lời giải thích của tôi đối với chàng lại chẳng có một lời đáng tin, tuy vậy họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Khiến tôi chẳng thể thanh minh thêm được một lời nào.

Chàng vì nhất thời ghen tuông mà nóng vội đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Danh dự của bản thân bị bôi nhọ, giấc mơ một gia đình hạnh phúc cũng từ đây tan vỡ, tuyệt vọng đến tột cùng tôi chỉ biết tìm đến con đường tự vẫn để chứng minh mình trong sạch. Tắm rửa chay sạch, tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than mong trời chứng giám cho tấm lòng thủy chung của bản thân, xong gieo mình xuống dòng nước lạnh lẽo. Ắt có lẽ vì thấu được nỗi oan của tôi mà thương tôi vô tội, các nàng tiên trong cung nước đã rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá cả rồi. Nơi đây là chốn cung điện của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải, người vô cùng nhân hậu và tốt bụng. Một hôm Linh Phi có tổ chức một yến tiệc để thiết đãi ân nhân của mình thuở trước, lại càng không ngờ đến đó là Phan Lang – người cùng làng với tôi lúc tôi còn ở trần thế. Gặp lại được nhau, chúng tôi đã nhắc lại vài chuyện cũ, cũng nhờ vì vậy mà tôi biết được chồng mình đã thấu rõ được nỗi oan của bản thân, bởi vì lúc chàng bế đứa con bé bỏng ngồi bên ngọn đèn dầu, thì con trỏ bóng nhận cha. Cuộc đời vốn đã vô tình đến thế, có những chuyện xảy ra lại khiến ta không ngờ đến nhất.

Nghe Phan Lang kể, tôi cũng thấy xót xa vì cảnh nhà tiêu điều, chồng con không ai chăm sóc. Cảm thấy bản thân sao lại hồ đồ đến vậy, chưa gì đã vội vàng kết thúc sinh mệnh của mình. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi nghĩ bản thân nào còn mặt mũi để gặp lại người xưa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi cũng muốn quay về để nói lời từ biệt, vì vậy lúc Phan Lang trở về trần thế, tôi đã gửi nhờ một chiếc hoa vàng mà dặn: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”

Mấy ngày hôm sau Trương Sinh quả thật có lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang, cảm nhận được sự chân thành và hối lỗi của chồng tôi, Linh Phi có ý muốn giúp đỡ tôi quay trở về. Cho nên đến ngày thứ ba, tôi lúc ẩn lúc hiện cùng năm mươi chiếc kiệu hoa, võng lọng mà Linh Phi ban cho. Tôi vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất mãi mãi. Bởi lẽ nơi chốn trần gian nào có chuyện người chết sống lại, cũng một phần vì tôi muốn ở lại để báo đáp ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Sau đó tôi liền trở về thủy cung, không một lần trở lại.

Câu chuyện của gia đình tôi là một câu chuyện buồn, chẳng có một hạnh phúc trọn vẹn. Cũng bởi xã hội xưa khiến phụ nữ phải chịu nhiều sự phán xét, không có tiếng nói trong cuộc đời đầy gian khổ của bản thân. Mong là từ câu chuyện của tôi, mọi người sẽ rút ra được kinh nghiệm đó là hạnh phúc của gia đình phải cần cả hai vợ chồng cùng vun đắp mới có thể dài lâu, đừng vì cảm xúc hay cái tôi của bản thân quá lớn mà ích kỷ làm trong tình cảnh của gia đình trở nên tan vỡ. Bởi vì hạnh phúc chính là được xây dựng trên cơ sở tin yêu và tôn trọng lẫn nhau.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương- Mẫu 18

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, mọi người vẫn thường gọi tôi với cái tên thân mật là Vũ Nương. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng cha mẹ luôn dạy bảo tôi ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ. Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa.

Tôi tưởng là chúng tôi sẽ sống sum vầy, êm đềm như vậy đến đầu bạc răng long. Thế nhưng, ông trời cay nghiệt, không cho chúng tôi sum vầy diên niên. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, Trương tuy là còn nhà hào phú nhưng không có học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Một buổi đưa tiễn đầy xúc động, mắt ai cũng nhòe đi bởi giọt lệ, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san.

Chồng đi vắng, bao lo toan mình tôi gánh vác. Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Tôi sinh con khi không có chồng bên cạnh và đặt tên nó là Đản theo ước nguyện của chồng. Mẹ tôi tuổi cao sức yếu dần dần cũng không chịu được mà đổ bệnh. Tôi chăm sóc tận tình, thuốc thang nhưng bà cũng không qua khỏi. Trước lúc mất bà còn trăn trối rằng: “Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Bà mất, tôi bồng con nhỏ lo toan tươm tất cho đáng tang của mẹ được mồ yên mả đẹp. Người làng ai cũng khen ngợi và thương cảm.

Cuộc sống về sau chỉ còn hai mẹ con nương tựa vào nhau. Bé Đản lớn dần, bỗng một hôm nó hỏi “Bố con đâu? Bao giờ bố con mới về?” tôi lúng túng không biết phải nói sao nên trong lúc bất ngờ trước câu hỏi của con, tôi chỉ lên cái bóng trên vách tường bảo đó là bó. Đứa trẻ tin thật và tối nào cũng chơi đùa vui vẻ với cái bóng đó của tôi.

Thấm thoắt đã 3 năm. May mắn biết bao chồng tôi an lành trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng vừa trở về “giông tố” đã nổi lên chàng la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tai họa ở đâu ập xuống đầu tôi khủng khiếp như vậy tôi khóc lóc phân trần giải thích: Thiếp vốn con… như lời chàng nói”.

Có lẽ tất cả những lời phân trần của tôi không thể lọt tai chàng họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe.Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Lửa ghen trong lòng chàng mỗi lúc bùng phát dữ dội hơn chàng mắng nhiếc rồi đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Ước mơ bé nhỏ mà cả đời tôi theo đuổi là hạnh phúc gia đình giờ đây không còn nữa.

Nỗi oan chẳng thấu, lại mang tiếng thất tiết phụ chồng làm sao gột rửa đây? Tôi nghĩ chỉ có cái chết mới chứng minh sự trong sạch của mình. Nghĩ vậy, tôi bèn tắm gội sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng : “Con duyên phận hẩm hiu, bị chồng con ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị Nương hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi người phỉ nhổ”. Sau đó, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn. Người ta nói ở hiền gặp lành không ngờ nỗi oan khuất của tôi đã động lòng trời đất các nàng tiên cá đã rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Lương Phi chốn này đến đài cung điện nguy nga lộng lẫy.

Một hôm tôi gặp Phan Lang – người cùng làng trước đây đã có ơn với Linh Phi, được Linh Phi cứu khi gặp nạn. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau nghe con nói về chuyện cái bóng là cha mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Khi Phan Lang trở lại trần gian, tôi bèn gửi cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa cũ xin lập một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng. Thấy tôi, chàng vội gọi. Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng tôi bồi hồi, xót xa khôn xiết. Nhưng giữa chúng tôi đã có một khoảng cách không sao hàn gắn được. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.

Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói lời tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan rồi quay lại thuỷ cung.

Dù giải oan nhưng chuyện quá khứ vẫn còn đó. Bản thân tôi đã quá sợ cuộc sống trần gian cay nghiệt, sự bất công của xã hội phong kiến thối nát gây đau khổ cho người phụ nữ. Có lẽ trở về cũng chẳng sống được những tháng ngày bình yên, vì vậy khi được giải nỗi oan này, tôi liền biến mất. Mong rằng qua câu chuyện của tôi thì các bạn sẽ rút ra được bài học về hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ và thấu hiểu mới có thể duy trì được mái ấm tưởng trừng là cứng cáp nhưng nó thật sự quá mong manh.

Trên đây là nội dung bài học Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất (18 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (1 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button