Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật bao gồm hướng dẫn viết cùng 18 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 9 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.
Đề bài: Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Hướng dẫn Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
I. Mở bài
Bạn đang xem: Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật lớp 9 (18 Mẫu)
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu vẻ đẹp của những người chiến sĩ trong bài thơ.
II. Thân bài
1. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe
– Trước hoàn cảnh khó khăn bởi những chiếc xe không kính, tư thế của người lính lái xe: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Trong mưa bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía trước.
– Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn:
- Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường bay vào mắt – từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.
- Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không có kính khiến mọi khoảng cách bị xóa bỏ.
- Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.
2. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn
- Họ phải đối mặt với khó khăn khi chiếc xe không có kính, nhưng thái độ thật thản nhiên như một điều bình thường: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.
- Cách nói “không có… ừ thì” cho thấy một thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn của người lính.
- Hành động của người lính trước khó khăn: “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi”: cho thấy sự ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời bất chấp những gian khổ phải đối mặt.
3. Tình động đội của những người lính
- Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội”: những chiếc xe từ trong mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là những đồng đội cùng chung một lý tưởng.
- Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.
- “Bếp Hoàng Cầm dựng đứng giữa trời”: Cuộc chiến tranh khốc liệt khiến họ phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi nên một cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả.
- “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Họ gắn bó giống như những người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột thịt. Giọng thơ đầy hồn nhiên, vui vẻ.
- Trên hành trình không ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng. Giấc ngủ chập chờn không yên.
- Những vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” – Điệp từ “lại đi” giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.
- Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía trước. Niềm tin và trái tim nhiệt huyết vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
4. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc
- Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước…
- Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính: xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống nhất.
- Chỉ cần trong xe có một trái tim: hình ảnh “một trái tim” là hình ảnh hoán dụ, chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.
- Tài năng khắc họa, miêu tả của Phạm Tiến Duật.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 1
Nhắc đến Phạm Tiến Duật là nhắc đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của những năm tháng kháng chiến chống Mỹ vĩ đại. Là một người từng trải, lại trực tiếp nắm tay lái trên tuyến đường Trường Sơn nhà thơ đã tạo nên những vần thơ vô cùng mới mẻ. Vừa có nét gì đó tinh nghịch, hóm hỉnh lại không kém phần suy tư. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã làm sống dậy cả những năm tháng hào hùng của dân tộc.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Bài thơ có nhan đề vô cùng độc đáo nó góp phần thể hiện tâm hồn vô cùng lạc quan yêu đời của những chiến sĩ lái xe tiếp viện cho tiền tuyến. Những con người đầy ngang tàng, nhưng cũng không kém phần giản dị chuẩn mực. Hình ảnh của những người chiến sĩ lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính, một hình ảnh miêu tả vô cùng chân thực. Bom đạn của giặc đã khiến cho những chiếc xe trở nên thiếu hụt đủ thứ: không đèn, không kính, không mui thậm chí còn xước xác….
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Thế nhưng chính vì không có kính nên hình ảnh những người chiến sĩ lái xe mới hiện lên một cách chân thực và tài tình đến vậy. Những con người bất chấp sự thiếu thốn, khó khăn vẫn băng băng lao về phía trước một lòng vì tiền tuyến:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Đến đây ta thấy nhịp thơ trở nên dồn dập và nhanh đến lạ nó như là những nhịp xe chạy trên đường vậy. Chính vì xe không có kính nên các anh mới có thể cảm nhận rõ nhất những thứ đang ở ngoài đến vậy: thấy gió, thấy con đường, cánh chim, sao trời…. Chỉ có những con người đã trải qua thực tế mới có thể có những cảm nghĩ chân thực đến vậy. Gió ùa vào làm xoa dịu đi mắt đắng. Mắt đắng ở đây không phải do bụi mà là do thiếu ngủ, chính cơn gió ùa vào nơi cửa đã giúp các anh trở nên tỉnh táo và minh mẫn hơn khi cầm lái. Tất cả những cảnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong để các anh có thể nhìn thấy cả con đường chạy thẳng vào tim. Thế nhưng dù thiếu thốn đến vậy khó khăn đến vậy tâm hồn người lính vẫn hết sức lạc quan và ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Có lần bình luận về khổ thơ này nhà thơ Xuân Diệu tỏ ra không hài lòng với cụm từ cười “ha ha”. Thế nhưng biết làm sao được. Có thế mới tạo nên khí phách của các anh có thế mới cảm nhận hết sự sảng khoái hồn nhiên của một tinh thần đầy lạc quan trong những năm tháng kháng chiến gian khổ.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Dẫu cho phải trải qua ngàn khó khăn ngàn gian khổ thì chỉ cần con người còn có niềm tin còn có say mê thì xe vẫn chạy thẳng về phía trước. Bầu trời kia như xanh thêm khi có các anh có nụ cười của các anh.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm đặc biệt. Trong khói lửa hoang tàn của chiến tranh mọi thứ đều bị phá hủy. Chiếc xe thảm hại vì không có kính, chẳng có đèn, không có mui mà lại còn xước thế nhưng bom đạn của kẻ thù dường như chẳng thể thắng nổi ý chí con người. Chỉ cần trong buồng lái vẫn còn một trái tim còn đập còn một tinh thần bất diệt thì xe vẫn còn chạy. Đó chính là điều mà nhà thơ muốn gửi gắm, tinh thần yêu nước sẽ trở thành một ngọn lửa bất diệt chiến thắng mọi kẻ thù, nó vượt lên trên hết cả những mũi tên hòn đạn, đạp lên mọi kẻ thù tàn bạo.
Hình ảnh người chiến sĩ lái xe là hình ảnh đại diện cho vô số lớp người chiến sĩ trong khói lửa chiến tranh. Tinh thần của các anh cũng chính là thứ tình yêu nước thiết tha mà cả dân tộc thời bấy giờ đang hừng hực. Chiến tranh tuy đã lùi xa hơn ba mươi năm thế nhưng hình tượng người chiến sĩ ấy vẫn sống mãi trong lòng độc giả. Nó trở thành những bức tượng đài bất diệt về tinh thần yêu nước và sự quả cảm trong những năm tháng đau thương mà anh hùng của dân tộc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 2
Phạm Tiến Duật là cây bút xuất hiện trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ anh chủ yếu viết về những chiến sĩ, những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Là người trong cuộc nhà thơ rất hiểu cuộc sống chiến đấu, đời sống tâm hồn của họ. Nguyên là một thành viên của đoàn 559, Phạm Tiến Duật đặc biệt quan tâm đến những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn khốc liệt. Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi tươi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam của họ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ khá tiêu biểu cho chủ đề ấy của anh.
Tứ thơ được hình thành từ một hình tượng, một chi tiết độc đáo: những chiếc xe không kính chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Lời thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường hàng ngày. Cái gian khổ nguy hiểm: bom giật làm vỡ kính xe được anh kể lại một cách tự nhiên như không. Đó là chuyện quá bình thường đối với người lính lái xe trong thời chiến. Ngay khổ thơ mở đầu nhà thơ đã phác họa trước mắt người đọc tư thế hiên ngang của họ. Điệp từ “nhìn” được nhấn mạnh ba lần trong một câu kết hợp với cách ngắt nhịp hai – hai – hai: “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã diễn tả được cái tư thế hiên ngang ấy. Mặc dù bom đạn trên đầu, mặc dù mặt đường sạt lở cây cối ngổn ngang, phải qua bao dốc cao, vực thẳm họ vẫn giữ nguyên tư thế ung dung, hiên ngang, như chẳng có việc gì xảy ra. Không có kính hóa ra lại hay, bởi vì:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Phải người trong cuộc mới viết được những câu thơ vừa hay vừa chính xác đến như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái xe thật lãng mạn. Nhờ không có kính mà sao trời, cánh chim “như sa, như ùa” vào buồng lái. Sao và chim trở thành người bạn đường của họ. “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” tả rất đúng cảm giác của người lái xe không kính, đồng thời còn nói được sự gắn bó của họ đối với con đường Trường Sơn, con đường đánh Mĩ: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những chiến sĩ lái xe thật trẻ, thật hồn nhiên, pha một chút ngang tàng đáng yêu, đúng là kiểu ngang tàng của lính lái xe:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Có lần, bình khổ thơ này, Xuân Diệu tỏ ra không thích lắm về tiếng cười “ha ha”. Biết làm sao được! Đó là quyền của người thưởng thức. Nhưng cánh lính lái xe chắc là rất khoái vì Phạm Tiến Duật đã vẽ được rất đúng chân dung của họ. Cái dáng “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ trung càng làm nổi bật tư thế hiên ngang, tâm hồn lạc quan của họ trong những năm tháng vô cùng ác liệt.
Những người lái xe coi gian khổ như không:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!.
“ừ thì ướt áo” chuyện quá bình thường không đáng kể. “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” thì cũng chẳng sao. Tất cả rồi sẽ nhanh chóng qua đi: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi?”… Vẫn cái chất giọng ngang tàng đáng yêu của lính lái xe.
Tình cảm gắn bó giữa các chiến sĩ lái xe cũng được diễn tả rất đúng, rất hợp cái phong cách ngang tàng đáng yêu của họ:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội,
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Họ đều vất vả gian khổ như nhau, họ phải trải qua những phút giây nguy hiểm như nhau, họ chào nhau bằng cái bắt tay cảm thông và tin cậy. “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mang rất nhiều ý nghĩa. Sự gắn bó thân thiết ấy còn được nhà thơ diễn tả qua bữa ăn dã chiến của họ: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Họ coi nhau như anh em trong một nhà, cùng san sẻ với nhau bao khó khăn, vất vả. Đời sống chiến đấu càng thiếu thốn, gian khổ càng xích họ lại gần nhau hơn.
Bài thơ kết thúc bằng sự nhận thức rất sâu sắc của người lính lái xe:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Có thể còn nhiều gian khổ, còn nhiều mất mát, còn nhiều hi sinh… nhưng không thể ngăn cản được bước tiến của người lái xe nói riêng của dân tộc ta nói chung. “Trái tim”ở đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã nguyện chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính có một chất giọng riêng đáng quý. Chất giọng tự nhiên pha chút ngang tàng rất phù hợp với các chiến sĩ lái xe thời chiến. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu được đời sống chiến đấu hết sức gian khổ thiếu thốn của họ, hiểu được tư thế hiên ngang, tâm hồn trẻ trung lãng mạn và ý chí cao đẹp của họ. Phạm Tiến Duật đã có những đóng góp đáng quý cho nền thơ ca chống Mĩ cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 3
Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt vẻ đẹp của những cô gái thanh niên xung phong, của những người lính trên tuyến đường Trường Sơn trở thành một đề tài hết sức hấp dẫn, luôn nhận được sự quan tâm, sáng tác của nhiều tác giả. Và trong những tác phẩm ấy, ta không thể không nhắc đến những người lính trên chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Chân dung họ hiện lên với những khám phá mới mẻ mà vẫn vô cùng thống nhất.
Nếu như, trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu hình ảnh người lính nông dân hiện lên trong sự đồng cam cộng khổ, thấu hiểu những nỗi niềm của nhau, nhớ cây đa, bến nước, cùng nhau vượt qua thiếu thốn : Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay . Thì người lính trong tác phẩm này lại hiện lên với một chân dung mới lạ, khác hẳn. Họ là những con người trẻ trung mang trong mình vẻ ung dung, hiên ngang trước những thử thách trên tuyến đường Trường Sơn:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng
Trong cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt, nhưng người lính vẫn giữ được phong thái ung dung, với cái nhìn thẳng đầy tự tin, tràn đầy nhiệt huyết. Nhịp thơ 2/2/2 kết hợp với từ láy ung dung được đảo lên đầu câu nhấn mạnh vào tư thế hiên ngang, làm chủ chiến trường của những người lính. Cái nhìn thẳng của họ không chỉ là nhìn vào con đường phía trước với sự tập trung cao độ mà đó còn là cái nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh khốc liệt, tinh thần sẵn sàng tiến lên phía trước. Sau cái nhìn đó là cảm nhận của người chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng/ Thấy con đường chạy thẳng vào tim/ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/ Như sa như ùa vào buồng lái.
Bốn câu thơ vừa khắc họa khung cảnh hiện thực nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, lãng mạn. Những chiếc xe không kính di chuyển trên đường nên tất yếu các cơn gió sẽ ùa vào khoang lái, gió bụi ùa vào khiến họ cảm thấy bỏng rát, nhất là vào những trưa hè. Nhưng dưới con mắt lãng mạn của người chiến sĩ thì những ngọn gió đó vào xoa dịu những vất vả của họ. Hình ảnh con đường chạy thẳng vào tim là một trường liên tưởng vô cùng thú vị. Diễn tả được tốc độ di chuyển nhanh của những chiếc xe không kính, lao mình trong mưa bom bão đạn, không sợ hiểm nguy.
Không chỉ vậy, dưới con mắt đầy thi sĩ của người chiến sĩ, họ còn thấy những chú chim và sao trời sa, ùa vào buồng lái, làm bạn với họ trên quãng đường đầy gian khổ, ác liệt. Với nghệ thuật nhân hóa, sử dụng động từ mạnh sa, ùa tác giả đã cho thấy cái nhìn lạc quan của những người lính: thiên nhiên không phải trở ngại, cản bước họ tiến lên mà trở thành người bạn thân thiết, chia sẻ với họ những gian lao trên con đường tiến vào miền Nam.
Không chỉ là những con người ung dung, hiên ngang, trong tâm hồn những người lính trẻ ấy còn mang trong mình nhiệt huyết cách mạng, dũng cảm, coi thường nguy hiểm, gian khổ và một tinh thần trẻ trung, sôi nổi, lạc quan. Khổ thơ thứ ba và thứ tư đã cho thấy những khó khăn người lính phải đối mặt: không có kính khiến bụi, mưa tuôn mưa xối như ở ngoài trời. Đây là những câu thơ miêu tả hết sức chân thực những khó khăn mà người lính phải trải qua trên con đường Trường Sơn vô cùng nguy hiểm. Các động từ tuôn, xối, phun càng nhấn mạnh hơn nữa sự khắc nghiệt mà thiên nhiên đang thử thách các anh. Nhưng trái lại, những người lính đáp lại bằng câu nói nhẹ nhàng, dường như đó chẳng phải là vấn đề đáng bận tâm: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Các anh sẵn sàng đối mặt với tất cả thử thách bằng tinh thần hiên ngang, cứng cỏi, bằng giọng điệu vui đùa, trẻ trung.
Không chỉ vậy họ còn hết sức tinh nghịch, trẻ trung. Dù bụi lùa vào khoang lái họ vẫn có những tiếng cười thật rộn rã: nhìn nhau mặt lấm cười ha ha, tiếng cười khoan khoái đã giúp họ xóa tan bao cực nhọc, tiếp thêm sức mạnh để họ vững bước lên đường. Tinh thần lạc quan yêu đời chính là biểu hiện rõ nét nhất của lòng dũng cảm, của sức mạnh tinh thần ở người chiến sĩ. Khổ thơ đã tạc lên chân dung đẹp đẽ, những phẩm chất thật quý báu của người lính.
Trong những năm tháng kháng chiến, phải sống xa gia đình, thì tình cảm đồng chí đồng đội gắn bó thật đáng quý và đáng trân trọng. Nguồn sức mạnh tinh thần ấy sẽ giúp họ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Những người lính lái xe cũng vậy, qua những ô cửa kính vỡ chỉ cần cái bắt tay vội vã mà nồng ấm tình thương cũng khiến những con người xa lạ trở nên gần gũi với nhau hơn. Và còn điều gì tuyệt vời hơn, khi tranh thủ cùng ăn bát cơm trắng đạm bạc với nhau giữa rừng. Những lúc đó họ không chỉ còn là những người bạn đường nữa mà đã trở thành gia đình của nhau: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/ Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy. Chính những bữa cơm ấy giúp họ xích lại gần nhau hơn, gắn bó với nhau như những người trong gia đình. Tình cảm đồng chí, đồng đội, tình cảm gia đình gắn bó chính là nguồn động lực tiếp sức họ lên đường: Võng mắc chông chênh đường xe chạy/ Lại đi lại đi trời xanh thêm. Với tinh thần, ý chí chiến đấu kiên cường họ vẫn kiên gan, bền bỉ lại đi, lại đi vì màu xanh hi vọng, độc lập ở phía trước.
Đối lập với những khó khăn, thiếu thốn vật chất bên ngoài là sức mạnh tinh thần bền bỉ, mạnh mẽ của người lính với trái tim nhiệt thành, cháy bỏng: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim. Những chiếc xe không chỉ chạy bằng nhiên liệu mà còn chạy bằng ý chí, nghị lực phi thường của những người lính. Chỉ cần có trái tim lạc quan, mang trong mình niềm tin chiến thắng thì người lính có thể đưa đoàn xe đến mọi nẻo đường.
Với ngôn ngữ và giọng điệu độc đáo tác giả đã khắc họa lên tượng đài người lính lái xe vừa hiên ngang, dũng cảm vừa hóm hỉnh, lạc quan yêu đời. Họ là những hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Đó là thế hệ anh hùng, hiên ngang, dũng cảm, quyết đem cả tính mạng, tuổi trẻ của mình để cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 4
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Đó là ý chí của những chiến sĩ Trường Sơn. Các anh hiện lên trên trang thơ thật dí dỏm, thật yêu đời. Khi gian khổ tưởng chừng không thể nào vượt qua được, khi cái chết tới gần. Vậy mà nụ cười lạc quan vẫn hiện hữu trên khuôn mặt các anh, nụ cười ấy rất ngang tàng và cũng đầy tinh nghịch. Nhắc tới họ, ta không thể quên người chiến sĩ lái xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Không biết nhà thơ dã bao nhiêu lần trực tiếp lái chiếc xe như thế mà ông lại viết ra được những dòng thơ hết sức chân thực và sống động đến vậy:
Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Đó là lời giới thiệu của các anh, hết sức giản dị, rất thật. Trên chiếc xe không có kính đó người lính lái xe ở tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng khốc liệt. Bom giật bom rung họ vẫn vững tay lái, nhấn ga cho xe băng băng lao ra chiến trận.
Chúng ta hãy lắng nghe các anh kết chuyện về mình với giọng điệu thật vui vẻ và hài hước:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh tư thế bình tĩnh, đường hoàng, hiên ngang, tự tin khi họ phải lái một chiếc xe không kính. Nhìn thẳng là nhìn vào gian khổ, hy sinh không run sợ, không né tránh bởi họ chiến đấu vì chính nghĩa. Lái xe không kính, là gặp phải khó khăn nhưng những khó khăn lại thật bất ngờ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ rất thực, thực đến từng chi tiết. Xe không có kính chắn gió lại chạy với tốc độ cao nên người lính lái xe phải đối mặt với bao nguy hiểm: gió xoa mắt đắng, con đường ngược lại chạy thẳng vào tim, sao trên trời, chim dưới đất bất ngờ như sa, như ùa, như rơi, rung, quăng, ném vào buồng lái… Những câu thơ chân thực, sống động, đầy ấn tượng như chính nhà thơ đang cầm vô lăng mà lái.
Bao khó khăn thử thách nhưng người lính lái xe vẫn không run sợ, hoảng hốt. Trái lại, tư thế của các anh rất hiên ngang, ung dung tự tại, tinh thần của các anh vẫn vững vàng. Bởi các anh vẫn quyết tâm vượt qua gian khổ, để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Nhà thơ lại tiếp tục khắc họa những khó khăn, gian khổ của những người lính lái xe. Những câu thơ như những lời nói thường ngày, không gắn liền với những tiếng nói bỗ bã, đầy chất lính ngang tàng song cũng rất đáng yêu như bật lên từ tình cảm thực của những người lính lái xe. Khó khăn là thế và vẫn chấp nhận là tất yếu: “ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” nhưng cũng với thái độ rất thản nhiên:
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
…
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Sự bình thản của những người lính lái xe đến vô tư. Câu thơ cân đối, nhịp nhàng theo độ rung của bánh xe lăn, các thanh bằng, trắc phối hợp linh hoạt, giọng thơ pha chút ngang tàng thường thấy ở người lái xe.
Hai khổ thơ làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe: dũng cảm, hiên ngang, phớt đời, bất chấp hiểm nguy trước biết bao thử thách. Họ đạp bằng gian khó tiến về phía trước với một quyết tâm giải phóng miền Nam. Đúng là chiến tranh ác liệt có thể tàn phá những phương tiện kỹ thuật vật chất nhưng không thể đè bẹp được sức mạnh tinh thần của con người. Trái lại, nó chỉ càng làm nổi rõ thêm tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của họ mà thôi:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Trong hoàn cảnh ác liệt, những người lính lái xe có cùng một mục đích, cùng chung lý tưởng nên ở họ đã hình thành nên tình cảm đồng chí, đồng đội tốt đẹp, ấm cúng như trong một gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi đã gợi lên ý nghĩa về người lính lái xe gan góc vượt qua gian nan thử thách. Khi gặp nhau tình cảm giao lưu của họ thật là đặc biệt:
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Để rồi:
Lại đi, lại đi trời thêm xanh.
Khổ thơ cuối cùng có một cái gì đó thật lãng mạn và lạc quan:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe không có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng đến trơ trụi: không kính, không đèn, không mui… Nhưng đoàn xe vẫn cứ chạy vì một mục đích cao cả: vì miền Nam ruột thịt, vì thống nhất nước nhà. Thì ra mọi cội nguồn tạo ra sức mạnh của đoàn xe được tích tụ lại ở trái tim gan góc, kiên cường giàu bản lĩnh nhưng chan chứa tình yêu thương ở người cầm lái. Chính tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào đã khích lệ, động viên người lính lái xe đạp bằng gian khó, lạc quan, bình tĩnh, nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe tới đích. Khổ thơ cho ta thấy chân lý của cuộc đời: sức mạnh không chỉ là vũ khí, là vật chất mà chính là con người. Con người mang trái tim nồng cháy, yêu thương, có ý chí kiên cường chiến đấu là con người chiến thắng:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Câu thơ làm tỏa sáng hình tượng người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, là linh hồn của cả bài thơ.
Bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người chiến sĩ lái xe thật đẹp, thật dí dỏm, thật lính. Đó là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mỹ một thế hệ anh hùng, sống đẹp và giàu lí tưởng. Họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì, đi bất cứ đâu mà Tổ quốc cần, trong gian khổ vẫn giữ vững một niềm tin, một niềm lạc quan tin tưởng vào chiến thắng. Đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 5
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ, đã từng trải nghiệm cuộc sống trên tuyến đường Trường Sơn nên thơ của Phạm Tiến Duật hầu như chỉ viết về những người lính trẻ và những cô thanh niên xung phong. Thơ ông chinh phục trái tim bạn đọc bằng những giọng điệu sôi nổi trẻ trung, ngang tàng và mang đậm chất lính.
“Bài thơ tiểu đội xe không kính” đã in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ này vào năm 1969 trong thời điểm gay go, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thi phẩm nằm trong chùm thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Trong thi phẩm, Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn – hình ảnh cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Chân dung người lái xe Trường Sơn được tác giả khắc họa qua hình ảnh những chiếc xe không kính và một giọng thơ ngang tàng, trẻ trung, gần gũi. Cảm hứng về những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của mình về vẻ đẹp của những chiến sỹ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mỹ. Đó là tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, đó còn là lòng lạc quan, yêu đời, tình đồng chí đồng đội thắm thiết và lòng yêu nước nồng nàn, lý tưởng chiến đấu cao đẹp. Cái nhìn lạc quan của người lính về sự ác liệt của chiến tranh được thể hiện rất rõ qua cách lý giải về những chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Điệp từ “không” khiến câu thơ giãn ra, tạo nhịp điệu khoan thai, đặc biệt từ “rồi” khép lại câu thơ thứ hai đã làm nên một giọng điệu rất nhẹ. Người lính nói về những chiếc xe không kính chính là nói về cuộc chiến khốc liệt mà họ phải trải qua. Vậy mà người lính lái xe lại kể về tất cả những điều ấy bằng một giọng thản nhiên đến lạ lùng. Điều này cho thấy rất rõ cái nhìn bình thản của người lính về những mất mát của bom đạn mà kẻ thù đã gây ra. Đó là cái nhìn lạc quan của bản lĩnh anh hùng. Phẩm chất anh hùng của một người lái xe Trường Sơn ngời sáng qua tư thế ung dung:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng
“Ung dung” là tư thế thoải mái, là tâm trạng bình thản và thái độ bình tĩnh, tự tin. Đặt vào hoàn cảnh chiến tranh ác liệt lại lái những chiếc xe không kính thì sự ung dung này chính là biểu hiện cho lòng dũng cảm của người lính lái xe. Điệp từ “nhìn” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ đã họa lên tư thế hiên ngang của người lính. Tư thế ấy là một sự thách thức với bom đạn của kẻ thù. Phải chăng nhờ những chiếc xe không kính mà người lính mới có điều kiện bộc lộ phẩm chất anh hùng và nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao của mình. Miêu tả cảm giác của người lính khi lái những chiếc xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã mở ra một thế giới tâm hồn phong phú, đẹp đẽ của họ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Không còn kính chắn gió, người lái xe lại có cái thú vị là được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Qua khung cửa không còn kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với “sao trời” và “cánh chim” cũng như “ùa vào buồng lái”. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã miêu tả rất chính xác cái cảm giác mạnh và đột ngột khi ngồi trên chiếc xe không kính lao nhanh về phía trước. Nhịp thơ dồn dập, khỏe khoắn, vừa gợi cảm giác về tốc độ của tiểu đội xe không kính, vừa mở ra tâm trạng hồ hởi, háo hức của người lính trên đường ra trận. Với người chiến sỹ Trường Sơn “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Bởi niềm hạnh phúc lớn nhất là được có mặt trên trận tuyến đánh quân thù. Với những câu thơ này, Phạm Tiến Duật đã làm dậy khí thế của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Cái nhìn của người lính lái xe vào thiên nhiên vũ trụ là cái nhìn đậm chất lãng mạn chỉ có ở những người can đảm, biết vượt lên những thử thách khốc liệt. Lái xe không kính không phải là không gặp những khó khăn nào là “Gió vào xoa mắt đắng”, rồi những thứ bên ngoài như quăng như quật vào người lái xe nhưng chủ yếu vẫn là cảm giác thú vị về thiên nhiên vũ trụ bỗng trở nên thật gần gũi. Hóa thân vào những người chiến sỹ lái xe, tác giả đã nhìn hiện thực chiến tranh bằng con mắt của người lính. Đó là cái nhìn lãng mạn, trẻ trung, yêu đời. Trước những thách thức khốc liệt do những chiếc xe không kính mang lại, người lính đã tỏ thái độ bất chấp, coi thường hiểm nguy.
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay thái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Hai khổ thơ đầy ắp những chi tiết hiện thực, đó là một kiểu hút thuốc “phì phèo” rất lính, rồi tiếng cười “ha ha” vô tư, sảng khoái, đó là “bụi phun”, “mưa tuôn”, “mưa xối”. Những chi tiết rất thực rất sống động ấy mà đưa ta đến cuộc sống gian khổ nhưng đầy ắp niềm vui và tiếng cười của những người lính trẻ. Hiện thực đời lính đã được Phạm Tiến Duật tái hiện bằng những câu thơ đậm chất văn xuôi và một giọng thơ ngang tàng, hồn nhiên rất lính.
Thực tế những bánh xe lăn là những gian khổ, những hiểm nguy. Đó là những thách thức rất thực mà những người lính lái xe không kính đã trải qua trên đường và chiến trường. Nhưng với họ, gian khổ chả có ý nghĩa gì. Điệp từ “ừ thì” và “chưa cần” đã làm bật lên thái độ thách thức, bất chấp hiểm nguy của người lái xe. Đây là thái độ của con người đứng cao hơn hoàn cảnh, coi thử thách là cơ hội để thể hiện mình. Không phải là người lính gồng mình lên để vượt qua gian khổ, mà các anh đã chiến thắng thử thách khốc liệt một cách hết sức nhẹ nhàng bằng tiếng cười “ha ha” đầy sảng khoái. Đó là tiếng cười của niềm lạc quan yêu đời, chất chứa trong đó biết bao hồn nhiên, trong sáng tuổi trẻ. Bằng ống kính điện ảnh, nhà thơ đã ghi lại được những khoảng khắc xúc động của tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính Trường Sơn.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Phạm Tiến Duật đã khéo léo đưa những chiếc xe không kính vào thơ để làm cơ sở nảy nở tình cảm giữa những người lính lái xe. Mới đầu chỉ là những chiếc xe không kính, nhưng về sau đã hợp thành cả một tiểu đội xe không kính. Từ “tiểu đội” cho ta hiểu rằng tình cảm giữa những người chiến sĩ lái xe trước hết là tình đồng đội giữa những con người cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Qua hình ảnh tiểu đội xe không kính, nhà thơ vừa gợi được sự ác liệt của chiến tranh, vừa tạo ra được tình huống để người lính lái xe bộc lộ tình đồng chí đồng đội.
Nhờ xe không có kính mà người lính dễ dàng giao lưu với nhau hơn. Không kính tưởng như thô sơ, hỏng hóc nhưng đến đây đã làm bật lên vẻ đẹp riêng của nó. Gặp nhau trên con đường Trường Sơn huyết mạch, người lính bắt tay nhau qua cửa kính vỡ như một cách bộc lộ tình cảm. Cái bắt tay nồng ấm tình đồng chí này không nhẹ nhàng như cái nắm tay giữa những người nông dân trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu mà có một cái gì đó thật mạnh mẽ và ngang tàng. Đây cái bắt tay này còn có cả những tiếng cười hồn nhiên trong sáng và cái sôi nổi của tuổi trẻ mang theo vào chiến trường. Đầu tiên giữa những người lính lái xe chỉ là tình đồng đội giữa những người cùng một tiểu đội, về sau đã phát triển thành bạn bè và hơn thế nữa thành tình cảm gia đình.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Bếp Hoàng Cầm là bếp dã chiến do anh nuôi tên là Hoàng Cầm chế tạo ra. Đây là loại bếp được đặt sâu trong lòng đất để hạn chế sự tỏa khói, tránh bị địch phát hiện. Nhưng đi vào trang thơ Phạm Tiến Duật, cái bếp của người lính đã được “dựng giữa trời”, thật sừng sững, thật ngang tàng như thách thức kẻ thù. Trong thơ Phạm Tiến Duật, bếp hoàng cầm đã trở thành tín hiệu của sự sum họp, đoàn tụ. Ở nơi nào có bếp Hoàng Cầm là nơi đó có một gia đình lính, bởi theo họ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Câu thơ có giọng điệu rất dí dỏm và thoáng nụ cười hồn nhiên rất chất lính. Ở đây tác giả đã có một cách định nghĩa rất độc đáo về gia đình.
Đối với những người lính lái xe, không nhất thiết phải chung huyết thống mà chỉ cần chung bát, chung đũa thì đã là gia đình rồi. Bát đũa bình thường giản dị mà đã trở thành vật thiêng liêng gắn kết tình cảm giữa những người lính xa nhà chỉ cần được quay quần xung quanh bếp Hoàng Cầm, cùng chia sẻ bữa cơm đạm bạc là họ đã được tận hưởng cảm giác ấm cùng của gia đình. Dường như với những người lính Trường Sơn, tình đồng chí đồng đội cũng đẹp đẽ, thiêng liêng chẳng khác nào tình cảm gia đình. Lý tưởng chiến đấu cao đẹp và niềm tin vào chiến thắng của dân tộc ở người lính lái xe được thể hiện thật chân thành và xúc động trong những vần thơ giản dị.
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Tác giả đã miêu tả hết sức chân thực giấc ngủ của người lính lái xe. Giấc ngủ “chông chênh” vì đường xe chạy gập ghềnh, từ láy “chông chênh” đã góp phần tô đậm cuộc sống gian khổ của người lính Trường Sơn. Câu thơ cuối ngắt nhịp 2/2/3 đã làm nên âm hưởng phơi phới. Đặc biệt điệp ngữ “lại đi” khiến câu thơ như một tiếng reo vui, chất chứa trong đó là bao nhiêu hồ hởi, háo hức của người lính lúc lên đường ra trận. Người lính hiểu mỗi chuyến xe vào chiến trường là để cho “trời xanh thêm”. Hình ảnh “trời xanh” là ẩn dụ cho hòa bình, cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đến đây lí tưởng chiến đấu của người lính Trường Sơn đã sáng ngời. Người chiến sĩ thấy “trời xanh thêm” là đã tin tưởng vào ngày chiến thắng đang đến gần, niềm tin ấy đã làm nên nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao cho cả tiểu đội xe không kính. Vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn kết đọng ở lòng yêu nước cháy bỏng và ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Điệp ngữ “không có” đã làm nên âm điệu nhanh, mạnh, khỏe khoắn, dồn dập cho cả đoạn thơ. Ta cảm nhận thấy trong nhịp điệu ấy khí thế khẩn trương, hối hả của những đoàn xe ra trận và cả sự ác liệt trong cuộc chiến. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật liệt kê “không có kính”, đồng nghĩa với sự chồng chất những mất mát, hi sinh của người lính. Đến đây hình tượng những chiếc xe không kính đã phát triển ở mức cao hơn. Xe không chỉ “không có kính”, mà còn “không có đèn”, “không có mui xe”, chiếc xe đã trở lên hỏng hóc, méo mó và biến dạng như một thứ đồ phế thải.
Tưởng chừng xe không thể chạy được, nhưng thật kì diệu “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Đây là một điều bất ngờ, hơn thế nữa là những phi thường, là một sự bất chấp đầy thách thức. Tại sao lại có điều kì diệu ấy? Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã phát hiện rằng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” thì dù thế nào xe vẫn cứ chạy. Không có cách lí giải nào cụ thể và thuyết phục hơn thể “Chỉ cần” có nghĩa là yếu tố duy nhất để xe vẫn cứ chạy chính là trái tim người lính. Chỉ có trái tim quả cảm, giàu lòng yêu nước của người chiến sĩ lái xe thì có mọi khó khăn đã lùi lại phía sau. Đặc biệt nhà thơ đã phát hiện ra cả tiểu đội xe không kính vẫn chạy vì “miền Nam phía trước”, vì một nửa đất nước đang rên siết dưới gót giày xâm lược của đế quốc Mỹ. Ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của người lính Trường Sơn đến đây đã ngời sáng.
Đẹp nhất trong bài thơ là “trái tim” người lính. Hình ảnh này được đặt trong thể đối lập với ba cái “không”: “không kính”, “không đèn”, “không mui”. Đây chính là sự đối lập giữa cái ác liệt của cuộc chiến với tinh thần, khí phách, tầm lòng của người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” chính là hoán dụ cho người chiến sĩ Trường Sơn yêu nước dũng cảm. Với hình ảnh giàu ý nghĩa này, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã mở ra một góc nhìn mới cho hình tượng người lính lai xe không kính. Phải chăng “trái tim” là cội nguồn sức mạnh của cả tiểu đội xe không kính, gốc rễ phầm chất anh hùng của người lính Trường Sơn. Từ hình ảnh “trái tim” cầm lái, nhà thơ đã khẳng định một chân lí của thời đại chống Mĩ, đó là sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là phương tiện, vũ khí mà là con người với trái tim yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường dũng cảm. Có thể nói hình ảnh “trái tim” đã làm bật lên chủ đề của bài thơ và làm ngời sáng vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ.
Hình ảnh người lính lái xe không kính đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa bằng chất liệu hiện thực sống động của cuộc sống chiến trường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ tự nhiên, khỏe khoắn, mang cái ngang tàng của những người trẻ. Chọn hình ảnh những chiếc xe không kính, Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành một hình tượng điển hình nhằm phản ánh hiện thực chiến tranh là biểu dương tinh thần, ý chí của người lính Trường Sơn. Đặc biệt tác giả đã khắc họa thành công chân dung người lính lái xe với nhiều phẩm chất cao quý. Đó là tư thế hiên ngang, dũng cảm, là thái độ bất chấp, coi thường nguy hiểm. Đó còn là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội và lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng, ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Với những phẩm chất cao đẹp ấy, người lính lãi xe trong bài thơ đã trở thành biểu tượng đẹp cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã góp một tiếng nói mới mẻ về người lính, về tuổi trẻ Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thi phẩm đã đem đến cho nhiều thế hệ bạn đọc những hiểu biết về những đóng góp hi sinh của thế hệ cha anh, đồng thời giáo dục thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 6
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông là người lính trực tiếp cầm súng ra mặt trận và là người chiến sĩ lái xe vận tải chở vũ khí, lương thực ào ào trên tuyến lửa Trường Sơn đầy bom rơi, đạn lạc. Vì thế, hiện thực khốc liệt của chiến tranh đã trở thành chất xúc tác, khơi nguồn mạch chảy cảm xúc văn chương cho Phạm Tiến Duật, để rồi hình tượng người lính và các cô gái thanh niên xung phong cứ lặng lẽ, tự nhiên, chân thật đi vào trong thơ ông mà tạo nên biết bao thi phẩm tuyệt tác, độc đáo.
Và một trong các bài thơ đó có “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm hay, rất tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khắn, tươi vui, tràn đầy sức sống, đậm đà chất lính của nhà thơ. Tác phẩm nằm trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, sau được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”. Qua bài thơ, người đọc thấy được hiện thực khốc liệt của chiến tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, tư thế hiên ngang, bất khuất, ý chiến đấu ngoan cường, mạnh mẽ của những người lính lái xe trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Có thể nói, bài thơ là bức tượng đài tráng lệ, thiêng liêng về người lính lái xe anh hùng trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ cứu nước.
Trước hết, hình tượng người lính hiện lên là những chàng trai dũng cảm, hiên ngang, ung dung, bất khuất trong tư thế lái những chiếc không kính. Mặc dù những chiếc xe bị bom đạn hủy hoại, tàn phá nhưng các anh vẫn rất hiên ngang, ngạo nghễ vững tay lái cho xe lăn bánh bon bon ra chiến trường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô cùng khách quan, chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn: nào là “gió”, nào là “cánh chim”, nào là “sao trời”… tất cả “như sa, như ùa” vào mặt, vào người, vào trong buồng lái; các động từ mạnh như “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính lái xe phải đối diện. Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ, hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy tư thế rất tự tin, bình thản và có phần ngang tàng của người lính. Điệp từ “nhìn”, “thấy” được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc bé lại, thu vào đôi mắt của người lính. Điều đó không chỉ cho thấy sự tập trung cao độ của một tinh thần trách nhiệm lớn lao mà còn cho thấy được tâm hồn lãng mạn, hiên ngang, mở lòng đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua ô cửa kính vỡ. Chưa dùng lại ở đó, trên dọc đường lái xe ra tiền tuyến, người lính còn chịu rất nhiều những khó khăn từ ngoại cảnh như gió, mưa và bụi:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn xối như ngoài trời”
Nhưng với tinh thần quả cảm, mạnh mẽ, bất chấp, khó khăn, gian khổ người lính đã vượt qua tất cả:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Điệp ngữ “Không có kính, ừ thì…”; “chưa cần…” là lối nói mang đậm tính khẩu khí ngang tàng. Với cách nói nôm na, thông thường mà cứng cỏi, mạnh mẽ họ đã biến những khó khăn thành những điều thú vị. Người đọc như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi gian khổ của người lính. Những chi tiết hình ảnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây nữa… khô mau thôi” đã cho thấy tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của họ. Cảm giác như những khó khăn ấy cũng không thể nào dập tắt đi chất trẻ trung, tinh thần lạc quan và dũng cảm của người lính.
Người lính lái xe không chỉ hiện lên là những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà họ còn là những người chiến sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. Có thể nói, khó khăn, thử thách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí, nghị lực kiên cường mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ thêm gắn bó, keo sơn:
Những chiếc xe từ trong bom rời
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ đi rồi.
Trên dọc đường từ hậu phương ra tiền tuyến có biết bao nhiêu những chiếc xe không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng chí đồng đội. Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên và cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả. Họ coi nhau như anh em ruột già máu mủ trong gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của PTD về gia đình – về mối quan hệ thiết thân của những người lính trong chiến tranh, đó là: chung bát đũa, chung bếp lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung con đường chiến đấu… Tất cả những điều ấy đã khiến những con người vốn xa lạ nhưng lại hóa quen nhau, thân thiết gắn bó keo sơn, đoàn kết cùng nhau vì lí tưởng cách mạng cao đẹp. Chính tình cảm đồng chí, đồng đội đã tiếp sức cho những người lính tiến lên phía trước: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” có ý nghĩa nhấn mạnh đến những đoàn xe không kính không ngừng tiến lên phía trước.
Hình ảnh “trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời, chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống, của cách mạng. Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàn sôi nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy, trông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.
Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom, đạn có thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dùng cảm, niềm lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính. Chính “trái tim” của họ là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ là một bức tượng đài rực rỡ và chói sáng, một biểu tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng Mĩ cứu nước với tinh thần:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dạy tương lai.
Điều đó cho thấy tinh thần yêu nước sâu sắc và sự ý thức trách nhiệm công dân cao độ của những người lính khi tổ quốc lâm nguy.
Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc điệu…Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sắt son. Dù chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới: tự do – độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mĩ vẫn mãi sống với thời gian năm tháng và trong lòng mối người Việt.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 7
Có thể nói, thơ Phạm Tiến Duật như một luồng gió mới thổi vào vườn thơ cách mạng với một phong cách vô cùng sáng tạo. Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, ông đã đưa tất cả những chất liệu của hiện thực đời sống chiến trường vào trong thơ ca. Tuyến đường Trường sơn khói lửa – tuyến đường của mưa bom bão đạn, của chiến tranh tàn khốc và của lòng nhiệt huyết tuổi trẻ. “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” – niềm vui đó như ánh sáng chói chang soi sáng tâm hồn nhà thơ để tạo thành một hồn thơ chiến sĩ rất lạ, rất mới, rất độc đáo. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu của ông viết về những người lính lái xe can trường, dũng cảm, lạc quan, yêu đời trong mưa bom, bão đạn. Họ quyết chiến đấu hi sinh vì lý tưởng giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Đó là tiếng nói chân thành của người trong cuộc với một tâm hồn đấy chất thơ.
Có lẽ chất thơ Phạm Tiến Duật hay bởi cái mới mẻ, sáng tạo, bởi hồn thơ chiến sĩ trẻ trung, tếu táo. Thơ ông không phản ánh một cách chân thực, giản dị đời sống cách mạng như thơ Chính Hữu mà phả vào đó một luồng chất thơ, chất tinh nghịch của tuổi trẻ. Ông đã thi vị hóa cái hiện thực để tạo được hình ảnh thơ sống động, độc đáo, đó là “những chiếc xe không kính”. Đây chỉ là thứ tưởng chừng như khô khan, trần trụi nhưng lại được Phạm Tiến Duật nhìn với con mắt rất thơ. Những chiếc xe không có kính chắn gió ư? Phải chăng đây là kết quả của một hành trình vượt qua mưa bom bão đạn? “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” – một lời lý giải chân thực, gần như văn xuôi lại pha thêm chút giọng thản nhiên khiến người đọc nhận ra chất thơ ngay từ hình ảnh đó. Những chiếc xe đã vượt qua bom đạn thử thách để rồi mang trong mình đầy thương tích. Mặc cho gian khổ, đoàn xe vẫn băng băng ra chiến trường vì miền Nam phía trước vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Phải chăng qua hình ảnh ấy, Phạm Tiến Duật muốn làm nổi bật vẻ đẹp của những con người cầm lái?
Phải nói rằng, tác giả đã dùng cách mở hết sức tài tình. Bài thơ này đâu phải viết về những chiếc xe không kính. Vì sao vây? Bởi hình ảnh đó tượng trưng cho những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến. Ông đã tạo nên một hình tượng người lính – nơi hội tụ những phẩm chất cao đẹp. Trên những chiếc xe không kính, họ vẫn cầm lái với tư thế ung dung, hiên ngang giữa trời đất. Họ thiếu thốn về phương tiện, vật chất. Điều đó đã không còn là trở ngại lớn lao bởi họ biết biến nó thành “cơ hội” để hưởng thụ, để tiếp cận thiên nhiên. Phạm Tiến Duật đã lấy cái khó khăn, gian khổ làm cơ hội để bộc lộ được những phẩm chất cao đẹp của người lính cách mạng:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế – một tư thế chiến đấu rất đẹp Mặc cho mưa đạn khói lửa, mặc cho khó khăn thử thách, các anh vẫn bình tĩnh, tự tin, đưa hàng ra tiền tuyến. Để rồi, họ nhìn – một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa đất trời: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Họ không thẹn với đất trời, họ không run sợ hay né tránh mà nhìn thẳng vào gian khổ, vào tương lai để lần theo ánh sáng lý tưởng cách mạng. Nhìn qua khung cửa vỡ – họ nhìn thấy cả một không gian rộng lớn, thấy những cung đường chiến lược phía trước. Đoàn xe vẫn vun vút bươn trải, vẫn lao nhanh với tốc độ phi thường. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái những chiếc xe không kính đó nên câu chữ mới sinh động, cụ thể, gợi cảm như vậy. Lời thơ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát vút cao giữa chiến trường bom đạn.
Ở những người lính trẻ ấy còn sáng bừng lên tinh thần lạc quan, thái độ bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Nếu ở hai khổ thơ trên là những cảm giác về khó khăn thử thách thì giờ đây những khó khăn thử thách lại ập đến một cách cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn mưa xối”. Phải chăng đó chính là cái hậu quả tất yếu của những chiếc xe không kính? Nhưng những khó khăn đó đâu làm họ nao núng. Họ đã chấp nhận nó như một thử thách mới để rồi bình thản, cố gắng vượt lên trên hoàn cảnh. Nếu ở bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, tiếng “mặc kệ” cất lên biểu thị thái độ sẵn sàng chấp nhận thì ở bài này cũng vậy, trước khó khăn gian khổ, những người lính trẻ vang tiếng “ừ thì” thật nhẹ nhõm. “Bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối” ư? Điều đó chẳng là gì đối với những con người can trường, lạc quan này. Họ “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” để rồi “phì phèo châm điếu thuốc” và “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Phải chăng đây là sức mạnh của tinh thần lạc quan, thái độ bất chấp mọi hiểm nguy? Nhà thơ đã xây dựng hình tượng người lính vừa mang nét giản dị, phong trần nhưng lại không thiếu phần kiêu hùng, lãng mạn. Phải nói rằng, câu thơ Phạm Tiến Duật chẳng những hay về hình ảnh mà còn hay về âm điệu. Những thanh bằng, trắc được phối hợp linh hoạt, phô diễn được cái nghiệt ngã của người lính trong chiến tranh: “Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” hay “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” – câu thơ với sáu thanh bằng gợi sự nhẹ nhõm, yên ả trong tâm hồn người lái xe. Phải chăng đó là nốt nhạc vui sôi nổi vang dậy cả Trường Sơn.
Hình tượng người lính lái xe còn được Phạm Tiến Duật phát hiện thêm một nét đẹp nữa, đó là tình đồng đội gắn bó, chia ngọt sẻ bùi. Những con người dũng cảm ấy đã vượt qua bao khó khăn thử thách, họ đến “từ trong bom rơi”, để rồi những chiếc xe không kính ấy “đã về đây họp thành tiểu đội”. Nhưng hiểm nguy, gian khổ là cơ hội để họ gần nhau hơn và trở thành bạn bè để rồi “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – cái bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – cái bắt tay đầy ý nghĩa, thắm tình đồng đội. Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính, nhưng mỗi thời mỗi khác, anh chiến sĩ trong thời chống Pháp thì “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng tất cả cái bắt tay ấy đều xuất phát từ bao gian khổ, hiểm nguy và mở ra một tình bạn cách mạng cao cả. Để rồi, ánh sáng của tình đồng chí, đồng đội đã làm ấm cả chiến trường bom đạn lạnh lẽo.
Cuộc đời người lính rất bình dị nhưng cũng vô cùng sang trọng. Giữa chiến tranh bom đạn, họ vẫn ung dung “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”. Bữa cơm gia đình thật ấm áp, khiến tình đồng chí, đồng đội đã trở thành tình cảm gia đình. Dường như giữa họ không hề tồn tại một sự ngăn cách nào. “Chung bát đũa nghĩa là chung gia đình đấy” – một cách định nghĩa tếu táo mà sâu nặng nghĩa tình. Trong thơ Xuân Diệu, hai từ “nghĩa là” cũng được thi vị hóa trở nên óng ánh chất thơ:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Dưới ngòi bút Phạm Tiến Duật, hai chữ “nghĩa là” lại trở nên đậm đà; chan chứa cái tình của người lính. Nhà thơ đã thực sự thành công khi thổi hồn vào ngôn từ, vào câu chữ. Chỉ với hai từ thôi mà tình đồng đội đã rút ngắn mọi khoảng cách để trở thành tình cảm anh em ruột thịt. Phải chăng tình cảm ấy là nguồn sức mạnh to lớn để họ tiếp tục lên đường? Những người lính trẻ vẫn tiếp tục ra mặt trận trong không khí hồ hởi của cuộc kháng chiến: “Lại đi, lại đi, trời xanh thêm” – đoàn xe vẫn không ngừng lăn bánh trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Điệp ngữ “lại đi” như nhấn mạnh nhịp hành quân đều đặn. “Trời xanh thêm cũng chính là niềm lạc quan yêu đời, chan chứa hy vọng của người lính. Vậy nếu có niềm tin thì chẳng có việc gì là họ không làm được.
Trải qua bom đạn kẻ thù, những chiếc xe giờ đây không còn nguyên vẹn mà mang đầy thương tích. Xe không có kính, không có đèn, không có mui – đó là những khía cạnh của cái “không có” mà Phạm Tiến Duật đã phát hiện một cách tài tình. Nhưng hoàn cảnh đó đâu làm nản chí những con người kiên cường kia.
Họ vẫn đàng hoàng ung dung, đoàn xe vẫn lăn bánh đều đặn ra mặt trận. Vì sao vậy? Bởi lẽ trong cái mảng “không có” mịt mù vẫn còn lóe lên một cái “có” – đó là “trái tim” của người cầm lái.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Thì ra cội nguồn sức mạnh để họ vượt qua khó khăn gian khổ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường mà chan chứa yêu thương này. Đó là trái tim nồng nàn yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước “Chỉ cần trong xe có một trái tim” – câu thơ nhẹ nhàng mà kiên quyết, làm tỏa sáng và chói ngời cả bài thơ “trái tim ấy” – “trái tim” nhiệt huyết của người lính – “trái tim” vĩnh hằng bất biến của tổ quốc. Vậy sức mạnh quyết định chiến thắng đâu phải là vũ khí, công cụ! Đó là niềm tin và hy vọng về một ngày mai độc lập, tự do. Qua đây, vẻ đẹp của người lính đã được hoàn thiện qua nét vẽ của nhà thơ.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 8
Nói đến thơ ca thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, không thể không nhắc đến một người, đó là nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ông như thể được sinh ra để làm thơ về cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta và để trở thành đỉnh cao của thơ ca thời kỳ này. Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời.
Không giống các nhà thơ khác, Phạm Tiến Duật đã thể hiện tính cách khác người của mình ngay ở hai câu thơ mở đầu. Không mĩ lệ hóa, không dùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ để so sánh, không trau chuốt, không bóng bẩy, hình ảnh chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật rất trần trụi, bình dị, bị bom đạn không còn nguyên vẹn: Không có kính không phải vì xe không có kính. Đơn giản là vì Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi nên xe không còn nguyên vẹn nữa. Thế nhưng, chiếc xe không kính ấy vẫn băng băng ra chiến trường làm nhiệm vụ.
Chiếc xe đầy tự tin, không hề lo sợ trước bom đạn khủng khiếp của giặc Mĩ. Khác với những gì trần trụi bên ngoài, đây là một chiếc xe dũng cảm, hiên ngang băng băng chạy. Xe vẫn băng ra tiền tuyến trên những đoạn đường đầy hiểm nguy. Có khác chăng đó là hình tượng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Vì xe không có kính nên các anh được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Gió, sao trời, cánh chim, và cả bầu trời rộng cũng ùa vào buồng lái, hòa cùng nhịp thở nhộn nhịp của các anh chiến sĩ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Không có một sự ràng buộc hay rào cản nào ngăn cách các anh tiếp xúc với đất trời. Mà cả thiên nhiên cũng muốn hòa mình với khí thế ấy. Chính vì thế mà các anh có thể nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng một cách vô cùng thoải mái, tự nhiên. Không có kính thì điều kiện chiến đấu cũng thiếu thốn nhưng các anh vẫn yêu đời, vẫn tự tin vào chiến thắng. Các anh xem mọi trở ngại chỉ là cơ hội để thử thách bản thân:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp cấu trúc không có kính … ừ thì …chưa cần thể hiện tính cách ngàng tàng, bất chấp tất cả khó khăn, gian khổ của hình tượng người lính trong bài thơ này. Không có kính chắn bụi thì đương nhiên phải có bụi bám lên tóc, nhưng các anh vẫn không lo, cứ để vậy mà nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha. Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi! Dù có thiếu thốn, cực khổ đến đâu, các anh vẫn yêu thương, chia sẻ cho nhau tình yêu thương cao cả:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Dường như trong chiến đấu gian khổ giúp chiến sĩ tôi rèn ý chí và giúp cho tình đồng đội của các anh thêm gắn kết, keo sơn. Dù vào sinh ra tử nhưng người lính vẫn hồn nhiên, vô tư và lạc quan tin tưởng. Chỉ một cái bắt tay qua khung kính vỡ rồi những cũng đủ gieo vào nhau những tình cảm tốt đẹp, các anh động viên nhau tiến bước quân hành. Tình cảm ấy đã làm các anh cảm thấy đầm ấm khi cùng chung một tiểu đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tiểu đội của các anh như một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Ở đó có vẻ đẹp của sự sum họp, chan hòa. Các anh có chung một điểm tựa, tâm hồn nên gia đình ở chiến trường của các anh đều cùng chung một nhiệm vụ thiêng liêng. Các anh luôn tin tưởng vào tương lai đang chờ đợi họ phía trước. Câu thơ lại đi, lại đi trời xanh thêm với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi đã tạo nên một âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng. Điều làm nên chiến thắng của các anh chính là lòng yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Ở các anh có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có kính rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn… Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về phía trước, vì miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.
Với chất liệu hiện thực độc đáo, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Qua bài thơ, ta càng thấy rõ phẩm chất của người lính Trường Sơn: mộc mạc, giản dị và vĩ đại. Chúng ta càng biết ơn các anh chiến sĩ dũng cảm. Thế hệ trẻ Việt Nam nguyện tiếp bước các anh gìn giữ Tổ quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 9
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu của Phạm Tiến Duật. Qua bài thơ này, tác giả đã khắc họa cho người đọc thấy được vẻ đẹp của những người lính lái xe”.
Tứ thơ được hình thành từ một hình tượng, một chi tiết độc đáo: những chiếc xe không kính chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Lời thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường hàng ngày. Cái gian khổ nguy hiểm của nơi chiến trường khốc liệt “bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe được anh kể lại một cách tự nhiên như không. Đó là chuyện quá bình thường đối với người lính lái xe trong thời chiến. Ngay khổ thơ mở đầu nhà thơ đã phác họa trước mắt người đọc tư thế hiên ngang của họ. Điệp từ “nhìn” được nhấn mạnh ba lần trong một câu kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2: “nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng” đã diễn tả được cái tư thế hiên ngang ấy. Mặc dù bom đạn trên đầu, mặc dù mặt đường sạt lở cây cối ngổn ngang, phải qua bao dốc cao, vực thẳm họ vẫn giữ nguyên tư thế ung dung, hiên ngang, như chẳng có việc gì xảy ra. Không có kính hóa ra lại hay, bởi vì:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Phải người trong cuộc mới viết được những câu thơ vừa hay vừa chính xác đến như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái xe thật lãng mạn. Nhờ không có kính mà sao trời, cánh chim “như sa, như ùa” vào buồng lái. “Sao và chim” đã trở thành người bạn đường của họ. Đặc biệt nhất là hình ảnh “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” tả rất đúng cảm giác của người lái xe không kính, đồng thời còn nói được sự gắn bó của họ đối với con đường Trường Sơn, con đường đánh Mỹ: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những chiến sĩ lái xe thật trẻ, thật hồn nhiên, pha một chút ngang tàng đáng yêu, đúng là kiểu ngang tàng của lính lái xe:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Cụm từ “không có… ừ thì” được nhắc lại tới hai lần cho thấy dường như đó là chuyện quá bình thường không đáng kể. Cái dáng điệu “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ trung càng làm nổi bật tư thế hiên ngang, tâm hồn lạc quan của họ trong những năm tháng vô cùng ác liệt.
Họ đã coi gian khổ như không có gì:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
“Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” thì cũng chẳng sao. Tất cả rồi sẽ nhanh chóng qua đi: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi?”… Vẫn cái chất giọng ngang tàng đáng yêu của lính lái xe.
Tình cảm gắn bó giữa các chiến sĩ lái xe cũng được diễn tả rất đúng, rất hợp cái phong cách ngang tàng đáng yêu của họ:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội,
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Trong chặng hành trình gian khổ, những người lính phải trải qua những phút giây nguy hiểm như nhau nên quá đỗi thấu hiểu. Cái bắt tay chào nhau chứa đựng sự cảm thông, chia sẻ và đầy tin cậy. Sự gắn bó thân thiết ấy còn được nhà thơ diễn tả qua bữa ăn dã chiến của họ: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Hoàn cảnh khó khăn, người lính phải dựng bếp ăn giữa đường. Những bữa ăn đơn giản nhưng chứa chan tình cảm thắm thiết. Họ coi nhau như anh em trong gia đình, cùng san sẻ với nhau bao khó khăn, vất vả. Đời sống chiến đấu càng thiếu thốn, gian khổ càng xích họ lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Và dù chỉ được nghỉ ngơi trong chốc lát, họ vẫn mong muốn không mệt mỏi. Điệp ngữ “lại đi” dường như đã trở thành một nhịp điệu. Họ vẫn tiến về phía trước với một niềm tin “trời xanh thêm” – hy vọng về tương lai độc lập, hạnh phúc.
Bài thơ kết thúc bằng sự nhận thức rất sâu sắc của người lính lái xe:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Có thể còn nhiều gian khổ, còn nhiều mất mát, còn nhiều hy sinh… Nhưng không thể ngăn cản được bước tiến của người lái xe nói riêng của dân tộc ta nói chung. “Trái tim” – một hình ảnh hoán dụ mang tính biểu tượng cao. Trái tim ở đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã nguyện chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có một chất giọng riêng đáng quý. Chất giọng tự nhiên pha chút ngang tàng rất phù hợp với các chiến sĩ lái xe thời chiến. Qua đó giúp người đọc hiểu được đời sống chiến đấu hết sức gian khổ thiếu thốn của họ, hiểu được tư thế hiên ngang, tâm hồn trẻ trung lãng mạn và ý chí cao đẹp của họ. Với bài thơ này, Phạm Tiến Duật đã góp phần khắc họa thật chân thực hình ảnh người những chiến sĩ lái xe trong những năm chống Mỹ thật khốc liệt.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 10
“Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã “đẻ” ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở Trường Sơn”. Đó là những lời tâm sự chân thành của nhà thơ Phạm Tiến Duật khi ông đang trên giường bệnh chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác. Những năm tháng chiến tranh đã để lại dấu ấn sâu đậm trong trái tim người lính ấy, để rồi ngân thành những cung bậc cảm xúc, những giai điệu hào hùng, trẻ tráng và hồn nhiên. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những khúc ca hay nhất, mang đậm âm hưởng của những ngày tháng gian khó mà tràn đầy hùng tâm tráng trí của những người lính trên tuyến dường Trường Sơn những năm chống Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã “ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự, qua đó ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời chống Mĩ”. Ấn tượng đầu tiên của người đọc về những người lính lái xe Trường Sơn ấy là tư thế ung dung, hiên ngang:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Ta tưởng như đó là dáng ngồi khoan thai, thong thả của những con người nhàn nhã trong cuộc sống đời thường chứ đâu phải là của người lính trên tuyến đường Trường Sơn mưa bom bão đạn ! Tính từ “ung dung” được đảo lên đầu câu thơ, cũng là từ đầu tiên Phạm Tiến Duật dùng để nói về người lính, như một sự khắc sâu vào tâm trí người đọc tâm thế của những con người anh dũng ấy. Nhưng ấn tượng mạnh mẽ nhất về họ không phải là tư thế ngồi “ung dung” mà chính là cái nhìn – cái nhìn khoáng đạt, dũng mãnh, chứa đựng cả tinh thần sẩn sàng hi sinh và lòng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nó cho ta thấy một tư thế hùng dũng, hiên ngang.
Họ dám nhìn thẳng vào gian khổ, vào hi sinh mất mát, cũng chính là nhìn thẳng vào bản thân ; không hề run sợ, né tránh. Đó là thái độ của những trái tim dũng cảm, những con người chân chính. Hai chữ “ta ngồi” kết hợp với điệp từ “nhìn” được láy lại ba lần cùng giọng thơ đĩnh đạc đã giúp Phạm Tiến Duật dựng nên thành công tư thế của những người lính lái xe : hiên ngang, kiên định, bất khuất. Nhịp thơ 2/2/2 gợi cho người đọc hình ảnh chiếc xe đang lăn bánh, nhẹ nhàng, thanh thản trước tay lái tự tin của người lính. Chính tâm thế ấy giúp họ bình tĩnh đối diện với những khó khăn, gian khổ của chiến trường:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thắng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như lìa vào buồng lủi.
Đoạn thơ mang đến cho ta cảm giác như một thước phim quay chậm theo ánh nhìn của người chiến sĩ. “Gió”, được nhân hoá qua biện pháp chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng : “xoa mắt đắng”. Hiện thực khó khăn khốc liệt của chiến tranh không làm mất đi nét trẻ trung, lãng mạn trong tâm hồn của người lính. Hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” phải chăng là một lời nhắn nhủ của các chiến sĩ : con đường chiến đấu, con đường đến với miền Nam ruột thịt là con đường của trái tim, được sự chỉ dẫn của trái tim. Những từ “nhìn”, “thấy”, “sa”, “ùa” có tác dụng đặc tả tốc độ phi thường của những chiếc xe đang lướt nhanh, băng mình qua mưa bom bão đạn.
Trên con đường ấy, đồng hành với gió là bụi:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Không cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lâm cười ha ha.
Gió bụi tượng trưng cho những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn phải trải qua. Tiếng “ừ” vang lên như là sự chấp nhận, nhưng là sự chấp nhận một cách chủ động của người chiến sĩ. Độc đáo và dí dỏm biết bao là hình ảnh so sánh : “Bụi phun tóc trắng như người già”. Hiện thực khó khăn, gian khổ đã được những tâm hồn trẻ trung, lạc quan của người lính nhìn nhận một cách hóm hỉnh, bình thản. Đó là cái bình thản của những người coi thường khó khăn, gian khổ. Với họ, những trở ngại trên con đường chiến đấu là không đáng kể.
Vì thế mà: “Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Phạm Tiến Duật đã đưa vào câu thơ chất hiện thực ngồn ngộn, tựa như một câu chuyện của đời sống, tự nó đã mang trong mình chất thơ và người nghệ sĩ chỉ làm công việc của người chấp bút. Chính nhà thơ Phạm Tiến Duật đã từng tâm sự : “lúc đó, việc sáng tác thơ không còn theo vần điệu, cú pháp cổ điển nữa mà lấy vần nhịp của cuộc sống thay cho vần nhịp chữ nghĩa”. Nhịp chiến đấu sôi động của những người lính đã phổ nhạc vào câu chữ, làm nên khúc ca hào hùng về chính cuộc sống của họ. Đó là một cuộc đời bi tráng, đậm chất lính. Không chỉ có gió bụi chiến trường, những người lính còn phải trải qua những cơn mưa rừng dữ dội:
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Ta nhận ra ở đây sự lặp lại cấu trúc của câu thơ đầu khổ thơ thứ hai. Đó là sự lặp lại có tính chất liệt kê những gian khổ, qua đó thể hiện tinh thần không nao núng trước những khó khăn của người lính. Họ thản nhiên coi việc mưa giội vào xe là điều tất yếu. Tác giả lại sử dụng một loạt những động từ mạnh để chỉ sự dữ dội của mưa “tuôn”, “xối”, càng nhấn mạnh thêm những gian khổ mà người lính phải trải qua. Nhưng họ chấp nhận một cách ngang tàng, lạc quan:
Không cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Đó là thái độ của những người lính mang trong mình tâm thế bất khuất, coi thường gian khổ, hi sinh, luôn sẵn sàng tiến về phía trước để chi viện cho chiến trường miền Nam. Tinh thần ấy được tính bằng con số cụ thể : “trăm cây số“. Cụ thể nhưng lại mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là biểu tượng cho quãng đường mưa bom bão đạn, hi sinh, mất mát. Đọc những câu thơ này ta càng thêm thấm thìa rằng con đường Trường Sơn huyền thoại đã thấm bao mồ hôi, xương máu của chiến sĩ ta.
Thơ Phạm Tiến Duật được dệt nên từ chất liệu của cuộc đời chiến đấu vừa khốc liệt, vừa lãng mạn mà chính ông đã từng trải nghiệm. Vì thế, nó gần gũi lắm, thân thiết lắm. Nó khiến ta có thể cảm nhận được hơi thở của chiến trường, nhịp sống của những người lính. Những con người tràn đẩy tinh thần lạc quan ấy đã biến khó khăn thành cơ hội để thể hiện tình đồng đội sâu sắc:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Đây là cái bắt tay thân tình của những con người cùng chung chí hướng, cái bắt tay truyền lửa – ngọn lửa soi sáng những chặng đường khốc liệt được thắp lên từ triệu trái tim chiến sĩ tràn đầy nhiệt tình cách mạng. Những con người vốn “xa lạ”, gặp nhau nơi chiến trường, đồng điệu nhau ở tình yêu Tổ quốc và trở thành đồng đội, “đồng chí‘. Họ kề vai, sát cánh bên nhau không chỉ trong những giờ phút khốc liệt băng qua mưa bom bão đạn, đối mặt với kẻ thù, cận kề cái chết mà cả trong những phút giây ấm áp, thân tình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Một định nghĩa về gia đình thật mới mẻ, giản dị và thiết thân biết bao. Những lần nghỉ ngơi vội vã, những bữa cơm đạm bạc chan chứa tình thân đã mang lại không khí gia đình đầm ấm, giúp người lính vơi đi nỗi nhớ quê hương, người thân. Nó như một nguồn sức mạnh nâng bước các chiến sĩ:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Lắng nghe những vần thơ này ta mới càng thấm thìa hơn nhận định : Phạm Tiến Duật là nhà thơ của Trường Sơn. Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm”, “võng mắc chông chênh” là hiện thực của cuộc sống chiến trường được đưa vào thơ tự nhiên như hơi thở núi rừng. Hồn thơ cứ tự nó được khởi nguồn từ chính những hiện thực bình dị ấy. Nhưng nhịp điệu thơ lại được tạo nên bởi nhịp võng đưa, bởi nhịp bánh xe quay đểu. Từ láy “chông chênh” không chỉ mang lại vần điệu cho câu thơ mà còn có ý nghĩa gợi hình sâu sắc.
Đó là hình ảnh thực của con đường xe chạy hay là những khó khăn trở ngại, những hiểm nguy mà người lính phải đối mặt trong chiến tranh? Nhưng khí phách, ý chí chiến đấu của những người lính ấy vẫn luôn vững vàng, kiên định. Ngọn lửa trái tim và tình đồng chí – tình cảm của những con người trong cùng “gia đình” đã nâng những bước chân lạc quan, phơi phới, ngân lên thành câu hát, băng qua “bom giật bom rung” để “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” lặp lại hai lần vừa thể hiện nhịp sống, chiến đấu của tiểu đội xe không kính vừa khẳng định tinh thần, ý chí cách mạng kiên định vững vàng không sức mạnh bạo tàn nào có thể ngăn nổi của những người lính. Dường như chính những bước chân ấy đã nhuộm lên màu xanh của bầu trời – màu xanh chứa chan hi vọng gợi lên tâm hồn lạc quan, sức trẻ, khát vọng và niềm tin chiến thắng của người lính Trường Sơn.
Trong khổ thơ cuối cùng, một lần nữa tác giả lại nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến trường đồng thời khẳng định ý chí chiến đấu bất khuất của những người lính. Phạm Tiến Duật tâm sự rằng ông đã “gắn bó với những nẻo đường bom đạn bằng máu”. Những trải nghiệm ấy giúp ông hiểu hơn ai hết sự hi sinh của những người lính, và cũng hơn bất cứ người nào, nhà thơ biết rõ sức mạnh của họ bắt nguồn từ chính nhiệt huyết cách mạng tràn đầy. Nhiệt tâm ấy là ánh sáng dẫn lối chỉ đường cho những chiến sĩ thẳng bước trên đường Trường Sơn trập trùng, gian khó:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một từ “vẫn” giản dị mà có sức nặng khẳng định mạnh mẽ. Nó như lời hứa đinh ninh của những chiến sĩ lái xe sẵn sàng vượt lên trên mọi gian lao, thử thách, tiến về miền Nam. Họ đạp bằng tất cả, “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Từ “chỉ cần” đảo lên đầu câu vừa nhấn mạnh thái độ hiên ngang, vừa khẳng định sức mạnh của “trái tim”. “Trái tim” là hình ảnh hoán dụ chỉ những người chiến sĩ trẻ, tràn đầy lòng yêu nước và ý chí kiên cường. Đó là trái tim sục sôi tình yêu Tổ quốc và lòng căm thù quân xâm lược.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng dấu ấn về những cái “không có” : “Không có kính không phải vì xe không có kính”. Nhưng khép lại bài thơ lại là : “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Cái không có là những cơ sở vật chất. Cái có là trái tim, là nhiệt huyết của tuổi thanh xuân dâng hiến cho Tổ quốc. Cái không có đó làm nổi bật cho cái có.
Nhà thơ Vũ Quần Phương từng nhận xét : “Chỗ đặc sắc của thơ Phạm Tiến Duật là lấy cuộc sống để nói tình cảm. Cái sâu sắc của tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa”. Quả thật, chất thơ trong thơ Phạm Tiến Duật nói chung, trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính nói riêng toát lên từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui sống của thời đại, từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà nhà thơ đã trải nghiệm. Những vần thơ ấy một thời đã là nguồn sống tiếp sức cho những người lính trên khắp các mặt trận. Cho đến nay, nó vẫn chứng tỏ sức sống của mình.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh dũng của dân tộc, biết bao chiến sĩ đã hoà thân thể cùng núi rừng xanh thẳm. Phạm Tiến Duật sáng tác thơ như một sự hối thúc của con tim, như một nén tâm nhang gửi tới những đồng đội thân yêu. Khi thơ là tiếng nói và điệu hồn dân tộc thì nó sẽ tìm được bến neo đậu vĩnh hằng trong lòng độc giả. Thơ Phạm Tiến Duật chính là những vần thơ như thế. Tiếng nói của một thế hệ thanh niên thời chống Mĩ đã được nhà thơ tài hoa phổ thành thơ, trở thành khúc tráng ca về những con người giản dị mà kiêu hùng, bất khuất. Hình ảnh những người lính của “tiểu đội xe không kính” ấy sẽ còn sáng mãi trong tâm trí nhiều thế hệ bạn đọc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 11
Phạm Tiến Duật là gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ trẻ trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong các tác phẩm của ông là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Với bài thơ này, nhà thơ đã khắc họa hình tượng những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kháng chiến chống Mỹ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm nơi chiến trường.
Hình ảnh của người lính lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Mà trước hết, hình ảnh người lính hiện lên với tư thế hiên ngang của họ khi đối mặt với hiểm nguy. Câu thơ mở đầu: “Không có kính không phải vì xe không có kính” – điệp ngữ “không có… không… không có…” như muốn nhấn mạnh hình ảnh những chiếc xe không kính. Các động từ mạnh “giật”, “rung” kết hợp với hình ảnh “bom” khắc họa sự khốc liệt nơi chiến trường. Từ đó giải thích nguồn gốc của những chiếc xe không kính. Vốn là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, nhưng lại bị bom đạn của kẻ thù bắn phá nên kính xe vỡ đi trở thành những chiếc xe không kính. Trước hoàn cảnh đó, người lính lái xe vẫn: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Hình ảnh trên cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Trong mưa bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía trước. Với những chiếc xe không kính, khó khăn của những chặng đường dường như tăng lên gấp bội. Đó là “gió vào xoa mắt đắng” – những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường bay vào mắt, với từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác. Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ. Tất cả đã trở thành người bạn đồng hành của các chiến sĩ lái xe. Nhưng dù khó khăn là vậy người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.
Không chỉ vậy, họ còn giữ được tinh thần lạc quan trước hoàn cảnh nguy hiểm đó. Giọng điệu đầy thản nhiên, mà còn có chút hài hước, tinh nghịch:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp ngữ “không có… ừ thì…” cho thấy thái độ thản nhiên đối mặt với khó khăn mà những chiếc xe không kính mang đến. Chiếc xe không kính khiến họ phải đối mặt với bụi đường, với mưa gió nhưng họ vẫn sẵn sàng chấp nhận những điều đó như một điều bình thường. Thậm chí họ coi đó như một điều đem đến những niềm vui thú vị. Những hình ảnh “bụi phun tóc trắng như người già”, “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi” cho thấy sự ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời.
Giữa những gian khổ, người lính lái xe vẫn sáng ngời một tình đồng đội:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội” gợi ra những chiếc xe từ trong mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là những đồng đội cùng chung một lý tưởng. Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – chi tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước. Và cuộc chiến tranh khốc liệt khiến người lính phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi nên một cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả. Để rồi họ gắn bó giống như những người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột thịt. Giọng thơ ở đây thật hồn nhiên, yêu đời biết bao. Trên hành trình ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng. Giấc ngủ chập chờn không yên. Nhưng vẫn lạc quan bước đến “lại đi, lại đi trời xanh thêm”, điệp ngữ “lại đi” giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân. Còn hình ảnh “trời xanh thêm” gợi ra tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía trước – tương lai của độc lập, tự do.
Khổ thơ cuối cùng đã thể hiện một lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt đã giúp những người lính lái xe có thêm quyết tâm chiến đấu về miền Nam ruột thịt:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước… Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính khi “xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước”, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống nhất. Bởi vì trong xe luôn có một trái tim, đó là hình ảnh hoán dụ để chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Như vậy, qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã khắc họa được hình ảnh người lính lái xe với những nét đẹp tiêu biểu cho người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 12
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt.
Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật. Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sĩ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc, độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .
Cách lý giải đơn giản, ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc. Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung” giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên. Nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin, người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến, dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ. Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời.
Điệp từ “ừ thì”, “chưa cần”, hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”, giọng “cười haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái. Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh. Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết nỗi gian nan của người cầm lái. Đường Trường Sơn gập ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước, mùa khô xe chạy bụi mù trời. Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi. Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt của nhà thơ, sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau, bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng những phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị :
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính không chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình. Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra: “không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”. Như vậy cả “không có” và “có ”đều là tổn thất, đều là hư hại. Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường. Kì lạ thay:
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung, sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra. Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe. Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ. Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương. Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái.
Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 13
Hình ảnh những người lính chiến đấu từ lâu đã đi vào văn thơ kháng chiến và là nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các thi sĩ . Ta không thể nào quên được hình ảnh người lính đầy bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng. Tình đồng chí thắm thiết, bền chặt, cùng sẻ chia khó khăn gian khổ trong Đồng Chí của Chính Hữu hay hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong đầy nhiệt thành nhưng cũng không kém phần mơ mộng của tuổi trẻ trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. Tất cả đã khắc họa nên vẻ đẹp trong bức tranh chân dung của những người lính ra đi vì độc lập của Tổ quốc thật đẹp đẽ biết bao. Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng là một mảng màu trong bức tranh ấy, bài thơ đã khắc họa chân dung những người lính lái xe đầy hiên ngang và lạc quan trên con đường hành quân gian khổ.
Bài thơ được Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, đó những năm tháng kháng chiến chống Mĩ oanh liệt. Khi mà đạn bom địch xối xả trút xuống bao con đường, bao cánh rừng mà chiến sĩ đi qua:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Bao nhiêu bom đạn địch nhả xuống khiến ta thiệt hại nặng nề, những chiếc xe hành quân vốn lành lặn đã bị chúng phá hủy – những chiếc xe không kính. Thật khó khăn biết bao, tưởng chừng như bom đạn gần kề trước mắt, vậy mà người lính vẫn ung dung tay lái, tập trung vào công việc chẳng quản hiểm nguy. Giữa trời đất bao la, đôi mắt ấy vẫn dõi theo, hướng tới Tổ quốc, hướng về nhiệm vụ.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Giữa khoảng không mênh mông của chiến trận, mưa bom và gió đạn, người lính vẫn giữ trong tâm hồn sự tự tin và đầy kiêu hãnh. Cảm nhận thấy những khó khăn và thách thức, những đợt gió bụi lùa đắng mắt, những con đường đầy hiểm nguy trước mắt . Nhưng con đường không chỉ là huyết mạch giao thông mà là con đường của niềm tin của nghị lưc phi thường. Những vì sao đêm trên bầu trời, những cánh chim đột ngột ùa xuống buồng lái đều là những hình ảnh rất chân thực. Chiến trường đâu chỉ có hiểm nguy bởi súng đạn giặc thôi đâu mà còn có cả những khắc nghiệt khó khăn của thời tiết.
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Bụi đường không làm mất đi lòng lạc quan, tin yêu nơi người lính. “Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. “Mưa ngừng, gió lùa màu khô thôi”….. Một tinh thần vượt lên tất thảy những thách thức, bao hiểm nguy bủa vậy vẫn giữ trong mình tiếng cười sôi nổi, tiếng cười của tự do, của niềm tin. Nếu tình đồng chí trong Đồng Chí của Chính Hứu là những người lính chân chất, mộc mạc ra đi từ những vùng đất nghèo với lí tưởng cách mạng cao cả. Thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng chứa chan tình đồng đội, tình anh em nơi chiến trường gian khó. Họ là những người lính trẻ ra đi nhận nhiệm vụ với mục đích chung, họ rất đỗi lạc quan,tình anh em thân thiết gắn bó keo sơn được thể hiện qua những hình ảnh rất mực giản dị mà thân thương.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Đó là những sự yêu thương, sẽ chia đắng cay, ngọt bùi cùng nhau, một tinh thần dũng cảm, hiên ngang, một tình đồng chí đầy trẻ trung, sôi nổi. Đó là những cái bắt tay vội vàng, là những bữa cơm chung giữa bầu trời bom đạn. là tình thân gắn kết cùng nhau trên chặng đường gian khó, vẫn hướng về bầu trời xanh, nơi đó có hoà bình, có tự do cho Tổ quốc thân yêu.
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
“Chỉ cần trong xe có một trái tim” là hình ảnh đẹp, đó là trái tim hướng về miền Nam ruột thịt, là trái tim hướng về ngày đất nước thống nhất khi mà miền Nam được giải phóng. Là một trái tim của hàng triệu trái tim chung nhịp đập, là trái tim chứa đựng một tinh thần thép, một niềm lạc quan và niềm tin vào ngày mai. Là trái tim của tình đồng đội gắn kết và sẻ chia. Là trái tim của ý chí, quyết tâm phi thường.
Những câu thơ đậm chất hiện thực, vạch rõ tội ác của kẻ thù và giàu sắc thái trữ tình đã tạo nên nét đặc sắc, nổi bật, giọng điệu thơ tinh nghịch, trẻ trung như một bài ca thúc giục, động viên, ca ngợi những người lính trẻ Trường Sơn. Qua đó, em thêm biết ơn và tự hào về những người chiến sĩ đã ngã xuống vì lòng yêu Tổ quốc. Học được bài học về tinh thần lạc quan trước những khó khăn của cuộc sống, giữa vững niềm tin và hy vọng tương lai, thêm yêu quê hương, đất nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 14
Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội và xung phong vào tuyến lửa khu Bốn. Từng là lính lái xe nên ông có những bài thơ viết rất hay về binh chủng này. “ Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ.
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng là cả một tiểu đội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ. Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Nguyên nhân xe không kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác giả không thể hư cấu.
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp. Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả. Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tô đậm cái nhìn của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca bin không kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với người lái xe:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện cái thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm Tiến Duật trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt.
Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên.
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý thức được mà còn rất quen với những gian khổ đó.
Chính vì thế:
Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc sống của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng sao đáng yêu thế?. Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người sao mà rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận tải trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình tượng thơ “xe không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là tiểu đội xe không đèn, không mui xe,… Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách: “Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ là miến Nam thân yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim quả cảm trái tim người lính Bác Hồ.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh người chiến sĩ đã được thể hiện rất rõ ràng và chân thật. Qua các hình ảnh ấy, ta thấy rõ được sự khó khăn và gian khổ của những người lính oai hùng và thêm yêu mến, thêm biết ơn đối với các vị anh hùng dân tộc đã ra đi để đất nước được vẹn tròn.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 15
Có thể nói, trong các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phạm Tiến Duật là nhà thơ có tâm hồn trẻ trung, tinh nghịch nhất. Ông sinh ở Phú Thọ, học trường đại học sư phạm Hà Nội nên sớm mang trong mình cái vẻ hào hoa sôi nổi và lạc quan của lớp thanh niên yêu nước. Bởi thế, thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch”, hồn nhiên nhưng cũng rất tinh tế, sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính khắc họa đậm nét hình tượng người lính lái xe, thể hiện rõ nét phong cách thơ ấy.
Xuất thân là một nhà giáo, Phạm Tiến Duật đến với thơ hơi muộn so với các nhà thơ khác. Đóng góp lớn nhất của nhà thơ Phạm Tiến Duật đó là mảng thơ viết về người lính. Năm 1970, ông xuất hiện cùng với tập thơ Vầng trăng vầng lửa và lập tức gây chú ý với tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Lần đầu tiên trong văn học, người ta thấy một hình tượng người lính trẻ trung, yêu đời, lạc quan và giàu lòng yêu nước đến thế.
Với tập thơ này, ông được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”. Đây quả thật là một đánh giá đầy ý nghĩa đối với một nhà thơ đã sống và chiến đấu hết mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
Thực tế, Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài thơ được tác giả đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970). Với giọng thơ hóm hỉnh, vui tươi, bài thơ khắc họa đậm nét hình tượng những chiếc xe không kính và hình tượng người lính lái xe dũng cảm, kiên cường trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa.
Ấn tượng đầu tiên thú vị và sâu sắc nhất có lẽ là hình tượng những chiếc xe không kính. Bình thường, xe thì phải có kính. Kính để chắn bụi, chắn gió, chắn mưa tạt, gió lùa. Thế nhưng ở đây, những chiếc xe đã không còn kính nữa. Tác giả lí giải điều “bất thường” ấy một cách đơn giản đến bất ngờ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Nhưng tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt bài thơ. Cái nguyên nhân khiến cho xe không có kính đó chính là do bom đạn của kẻ thù. kẻ thù muốn ngăn chặn bánh xe lăn. Chúng tuôn xuống biết bao bom đạn để hòng tiêu diệt cuộc tiếp vận của quân dân miền Bắc. Tội ác ấy khắc sâu trên những chiếc xe, trên những quãng đường đầy hầm hố và mảnh vỡ.
Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này có tác dụng gây ấn tượng mạnh. Những chiếc xe không kính như chứng tích lịch sử tố cáo sự tàn bạo và man rợ của kẻ thù. Nó gợi lên những nguy hiểm cận kề người lính. Sự hi sinh, mất mát; hiểm nguy và cái chết đã ở đâu đó, rất gần rất gần. Đây cũng là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm giành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.
Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó khăn gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng. Điệp ngữ “không có kính” ở đâu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ, nguy hiểm sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính Trường Sơn vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam: dù thiếu thốn, khó khăn vẫn kiên cường chiến đấu.
Bom đạn của kẻ thù đâu chỉ làm vỡ kính xe. Nó còn tàn phá chiếc xe một cách kinh khủng. Chiếc xe vẫn đêm đêm băng trên các nẻo đường dù “không có đèn”. Chiếc xe vẫn chuyên chở những chuyến hàng ra mặt trận dù “không có mui xe”. “Thùng xe có xước”, vết đạn còn nguyên nhưng không hề gì. Cụm từ “xe vẫn chạy” gây cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh mẽ. Dù có bị tổn thương đến thế nào thì xe vẫn chạy tới, bất chấp tất cả.
Qua hình tượng chiếc xe không kính, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội. Đồng thời làm nổi bậc cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh. Song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
Bên cạnh hình tượng chiếc xe, hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn cũng được khắc họa đậm nét. Họ vốn là những chàng trai đô thành xung phong đi chiến đấu. Nhiệm vụ của họ là đưa những chuyến hàng từ bắc vào nam, kịp thời phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của cả dân tộc.
Những chàng trai mang trong mình lý tưởng yêu nước và lòng nhiệt huyết sôi sục. Họ bất chấp hiểm nguy, vượt qua khó khăn trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Họ sẵn sàng hi sinh vì đất nước mà không hề hối tiếc. Bởi cuộc chiến đấu đối với họ đâu chỉ là thử thách lòng kiên trung. Cuộc chiến đấu đối với họ là một sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Sống và chiến đấu hết mình là trách nhiệm của mọi công dân trong thời kì chiến tranh cứu nước.
Mỗi bước đi mỗi bước hiểm nguy. Thế nhưng, người lính không hề run sợ. Họ vẫn vững tâm cho xe đi tới. Hình ảnh ấy được thể hiện ngay ở đầu bài thơ:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái, linh hoạt điều khiển cho xe vượt qua những đoạn đường đầy hiểm nguy. Xe không có kính, dường như cả thiên nhiên vũ trụ hiện ra trước mắt họ. Họ nhìn mặt đất để xe khỏi lắc lư. Họ nhìn bầu trời để quan sát kẻ địch. Họ nhìn thẳng về phía trước như đang nhìn về miền Nam ruột thịt mà nhắc mình đi cho mau chóng.
Trong bom đạn, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước. Họ khắc cốt ghi khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Miền nam yêu thương trở thành động lực lớn lao giúp anh kiên cường vững tay lái.
Bởi xe không có kính che chắn nên chỗ người lái xe ngồi chẳng khác gì ngoài trời. Tất cả cứ xối, cứ ùa vào, gây nên biết bao khó khăn. Hết “gió vào xoa mắt đắng”, rồi thêm “bụi phun tóc trắng như người già”. Lại đến “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”.
Đó thực sự là những trở ngại lớn lao. Thậm chí có thể gây nguy hiểm cho người lính. Công việc căng thẳng mà còn đối mặt với những thay đổi bất thường. Điều ấy ấy dễ khiến người lính khó chịu. Thế mà, thật bất ngờ, người lính xem đó là chuyện thường. Họ còn thấy đẹp, thấy dễ chịu, thấy thật lãng mạng:
“Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Họ thấy thiên nhiên và cuộc sống đang ở rất gần. Thiên nhiên đang đồng hành cùng họ trên mỗi chặng đường. Họ thấy những trở ngại của thiên nhiên làm tăng thêm niềm vui của họ.
Lúc bụi bám đầy mặt, họ vẫn vui cười:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Lúc bị cơn mưa dội ướt, họ vẫn thản nhiên đi tới:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
Dường như có một sức mạnh siêu nhiên nào đó đang ngự trị ở trong họ. Hay là Phạm Tiến Duật đã nói quá lên ở điểm này. Những trở ngại ấy có thể làm cạn kiệt sinh lực của người lính chứ đâu phải chuyện đùa. Có lẽ, nhà thơ đã gạn lọc những điều ấy, để làm cho hình tượng người lính sáng ngời vẻ đẹp của lý tưởng, của tấm lòng kiên trung, quyết chiến quyết thắng kẻ thù.
Trên những quãng đường xe chạy, họ gặp những đồng đội của mình. Những người đồng đội vừa hoàn thành nhiệm vụ trở về. Họ vừa vượt qua cái chết để về đây và kể cho nhau nghe hành trình “phiêu lưu” ấy:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”.
Những chiếc xe của đồng đội anh cũng gánh chịu bom đạn của kẻ thù. Không chiếc nào được lành lặn. Và hầu như chiếc xe nào cũng “không có kính”. Bởi thế, họ có thể thoải mái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Những lần nghỉ ngơi là những lần tụ họp. Đối với người lính, những người đồng đội đều thân thiết, thâm tình, gắn bó. Dù họ ở nhiều miền quê, thuộc nhiều đơn vị khác nhau nhưng họ có cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng. Bởi thế, cuộc chung vui ngắn ngủi trên tuyến đường Trường Sơn không khác gì là cuộc hội vui của những người anh em, bạn hữu thân tình, khăng khít:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Rồi sau đó họ lại lên đường. Những chiếc xe lại lăn bánh. Cuộc chiến chưa kết thúc, đất nước chưa được giải phóng, họ cũng chưa thể nghỉ ngơi. Cụm từ “lại đi, lại đi” khẳng định mạnh mẽ ý chí kiên cường bất khuất của người lính. Nhịp thơ khỏe khoắn tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ý thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
Còn gì đẹp hơn khi tâm hồn họ đã dành cả cho dân tộc, cho đất nước. Họ chính là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Họ đích thực là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
Không chỉ khắc họa thành công hình tượng những chiếc xe không kính và người lính lái xe, bài thơ còn rất thành công trong nghệ thuật biểu hiện. Nghệ thuật tự sự hòa quyện trong bút pháp trữ tình tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ của bài thơ. Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui tươi, câu thơ khỏe khoắn thể hiện niềm lạc quan yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng.
Ngay cái tiêu đề cũng gây sự chú ý đối với người đọc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính vốn có nhiều từ dư thừa. Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi thêm hai chữ “Bài thơ” . Nhìn qua, cách ghi như thế có vẻ hơi thừa. Với lại, nói đến thơ là nói đến cái đẹp, cái rung cảm. Còn những chiếc xe không kính thì có gì đẹp đâu. Ấy vậy mà, cái tiêu đề ấy nó cứ thu hút, cứ làm cho ta thấy thú vị vô cùng.
Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả. Không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Phạm Tiến Duật chủ yếu muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy. Đó là chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ,khắc nghiệt của chiến tranh.
Đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất. Thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
Viết về người lính Phạm Tiến Duật đã có những phát hiện đầy mới mẻ. Ông không những nhìn thấy được hiện thực khốc liệt mà còn nhìn thẳm sâu vào linh hồn con người. Ông phát hiện ra nguồn sức mạnh vĩnh cửu đang cuộn chảy trong con người. Ông nhìn thấy được sức mạnh của truyền thống nghìn năm hội tụ trong cuộc chiến này. Bởi thế, bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính,nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 16
Nói đến Phạm Tiến Duật là nói đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Từng chiến đấu trong đội ngũ những người chiến sĩ vận tải dọc đường Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ hậu phương ra tiền tuyến. Thơ ông có giọng điệu khỏe khoắn tràn trề sức sống, tinh nghịch vui tươi mà giàu chất suy tưởng. Thật vậy, Bài thơ về Tiểu đội xe không kính – một bài thơ tiêu biểu của Phạm Tiến Duật đã nêu lên hình tượng những người chiến sĩ lái xe vui vẻ tếu táo mà đĩnh đạc hiên ngang can đảm, thắm tình đồng đội bạn bè bền vững ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.
Bài thơ có nhan đề thật độc đáo ấy biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Đó chính là những con người dũng cảm đến ngang tàng mà giản dị, yêu đời và lạc quan rất mực. Hình ảnh các anh gắn liền với hình những chiếc xe không kính. Đây là hình ảnh có thực. Bom đạn của chiến tranh ác liệt thời đó đã khiến cho những chiếc xe không chỉ không có kính mà còn trần trụi hơn nữa không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Nhà thơ miêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên đó. Tuy công việc đầy hiểm nguy gian khổ, nhưng những anh chiến sĩ trẻ này dưới bom đạn triền miên vẫn luôn giữ một tư thế ung dung lạc quan và tươi trẻ. Phạm Tiến Duật trong bài thơ này đã miêu tả những cảm xúc rất cụ thể của họ khi ngồi trên chiếc xe không có kính.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ có nhịp điệu nhanh gấp mà vẫn nhịp nhàng đều đặn này gợi đến nhịp tiếng bánh xe bon bon chạy trên đường dài. Có thực sự ung dung nhìn đất, nhìn trời không chút lo âu hốt hoảng trước bom đạn cận kề thì anh chiến sĩ trẻ của chúng ta mới có thể nhìn và thấy đến đủ đầy như thế. Anh từ nhìn thấy gió, nhìn thấy con đường đến nhìn thấy cả sao trời và cánh chim… từ buồng lái đã vỡ hết kính chắn gió, gió vào xoa mắt đắng. Làn gió đã ùa vào như thể làm giảm đi vị đắng nơi khoé mắt. Mắt đắng vì mắt đã thức nhiều đêm để lái xe liên tục từ đêm này sang đêm khác. Tất cả thế giới bên ngoài ấy đã ùa vào buồng lái của anh với tốc độ làm chóng mặt. Con đường cũng vì thế như chạy ngược về phía người lái và trở thành Con đường chạy thẳng vào tim. Trong tư thế hiên ngang chủ động đó, người chiến sĩ lái xe đã bình thản coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm và gian khổ. Giọng điệu của anh thật ngang tàng, tếu táo:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Các anh còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn và lạc quan thể hiện qua cái nhìn Bụi phun tóc trắng như người già và đặc biệt là tiếng cười sảng khoái đầy trẻ trung hồn nhiên và yêu đời: Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Dẫu là sinh hoạt từ cái ăn, cái ngủ bình thường của các anh đều có tính tạm bợ, nhiều gian khổ:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Trời xanh thêm phải chăng bởi vì lòng người đã phơi phới thêm, say mê thêm trước những chặng đường đã đi, những chặng đường đang đến. Cái gì đã làm nên sức mạnh ấy? Đấy chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ Việt Nam thời đánh Mĩ:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tuy bị bom đạn Mĩ làm cho biến dạng: không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước nhưng chiếc xe ấy vẫn chạy vì miền Nam phía trước, nghĩa là vẫn băng băng ra tiền tuyến. Tác giả đã lí giải về điều ấy thật bất ngờ mà cũng chí lí: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Đó là trái tim nồng nàn yêu nước, sôi nổi yêu đời, một trái tim dũng cảm.
Tóm lại, Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc hoạ hình tượng những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn đầy gay go thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã thành công hơn ba mươi năm qua nhưng hình tượng tiêu biểu của một thế hệ trẻ lạc quan yêu đời, hồn nhiên, coi thường thiếu thốn gian khổ, sôi nổi, đầy quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt ngày nào vẫn chưa mờ phai trong lòng mỗi người Việt Nam chúng ta…
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 17
Phạm Tiến Duật là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhà thơ đã từng cầm súng chiến đấu và công tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải chở vũ khí ra tiền tuyến:
Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ như cuộc sống chói chang chiếu sáng tâm hồn của người chiến sĩ, thi sĩ khiến thơ ông có giọng điệu khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề sức sống, rất tinh nghịch vui tươi đầy chất lính. Điều này đã được Phạm Tiến Duật thể hiện và nâng cao hơn trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính . Bài thơ đã ca ngợi những người chiến sĩ lái xe có tư thế hiên ngang dũng cảm, bất chấp gian khổ, sống lạc quan yêu đời, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam yêu thương.
Trước hết đọc tác phẩm điều mà mỗi chúng ta cảm thấy khâm phục, tự hào và cũng là nét bao trùm nổi bật của người chiến sĩ lái xe trong bài là sự ung dung, thanh thản tuyệt vời trong một tư thế hiên ngang, bất khuất, bất chấp mọi khó khăn, thử thách. Mặc dù:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi…
…Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe thùng xe có xước…
Những người lính lái xe phải lái những chiếc xe trần trụi, xấu xí là vì bom đạn của đế quốc Mĩ đã làm cho những chiếc xe biến dạng, làm cho đồng chí đồng đội của các anh ngã xuống. Chiến tranh quả là khốc liệt thế nhưng các anh vẫn lái những chiếc xe ấy băng ra ngoài mặt trận, chở vũ khí, lương thực từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn bởi các anh có những trái tim yêu nước cháy bỏng. Đế quốc Mĩ đã gây bao tội ác cho đồng bào miền Nam, bắt đoàn xe phải ngừng hoạt động, gây biết bao khó khăn cho kháng chiến. Song những người lính vẫn vững vàng tay lái bất chấp bom đạn của kẻ thù với tâm hồn lạc quan như niềm tin chắc chắn vào chiến thắng:
Ung dung buồng lái ta ngồi…
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng…
Đoạn thơ hay cả về âm điệu, hình ảnh, cách nói. Những câu thơ nhanh, gấp mà vẫn nhịp nhàng như bánh xe đang lăn đều đặn trên đường. Những câu thơ như bật ra từ trái tim người lái xe đang ngồi sau tay lái. Hiện thực đầy ắp chính xác đến từng chi tiết, nhưng đằng sau hiện thực ấy là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến sĩ. Xe không có kính mà họ vẫn ung dung, thanh thản, vẫn tập trung cao độ, vẫn bình tĩnh tự tin để đưa hàng xe ra tiền tuyến với một cái nhìn đầy ngạo mạn của lòng dũng cảm. Có lẽ, tác giả phải là người trong cuộc mới sáng tác được những câu thơ hay và chính xác như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái xe thật lãng mạn, nhờ không có kính mà nhìn thấy sao trời, cánh chim sa, gió cứ ùa vào buồng lái và trở thành người bạn đường của họ. Thiên nhiên con người như hòa vào làm một câu thơ rất thực lại mang chút nghệ sĩ đáng yêu của người lính. Cả đoạn thơ như ào ra từ cuộc sống thực để nói lên tinh thần cao đẹp của người chiến sĩ đường ra trận mùa này đẹp lắm. Đây phải chăng là con đường cách mạng, con đường hàng vạn, hàng triệu con người Việt Nam đang xây đắp chờ ngày “khai trương”. Bằng lời thơ giản dị mà chân thành tác giả lại viết tiếp:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Những câu thơ ngồn ngộn chất sống hiện thực ở chiến trường, tác giả như nhìn thấy bụi trắng, bộ mặt lấm lem của người lính và nghe rõ tiếng cười sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những dòng buông đùa đáng yêu này cũng là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy. Điều đó càng làm cho chúng ta thấm thía hơn sự đối lập giữa người già ở câu trên với tiếng cười ha hả hồn nhiên, yêu đời và trẻ trung đến lạ lùng ở câu dưới. Điệp từ ừ thì như một sự chấp nhận những khó khăn đã được nhà thơ miêu tả khá rõ nét. Mặc dù bụi đường phun tóc trắng nhưng người lính vẫn không hề nao núng, vẫn bình tĩnh coi thường khó khăn, gian khổ. Mặc dù Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời song người lính vẫn chưa cần. Vậy đó,dù trong khó khăn các anh vẫn cười tươi để động viên nhau cố gắng.
Dường như khó khăn, thử thách không chỉ giúp con người ta tôi rèn ý chí mà còn giúp cho tình bạn thêm gắn bó keo sơn. Phạm Tiến Duật đã phát hiện và ghi lại điều đó về vẻ đẹp của những người lính lái xe và những hình ảnh thơ độc đáo:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Những cỗ xe đã chiến thắng với những vũ khí tối tân của Mĩ và hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, họ đã gặp nhau, động viên nhau bằng một cái bắt tay thân thiện, cái bắt tay ấy đâu chỉ là một cái bắt tay đơn thuần mà là cả một niềm tin vào chiến thắng. Nó giúp cho con người xích lại gần nhau, nó như một sợi dây nối liền tâm hồn tình cảm của những người lính. Phạm Tiến Duật đã dành cho tình đồng đội của người lính một khổ thơ chân thật và xúc động.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm
Đời người lính là đi, nhất là người lính lái xe. Nhưng trong cái giây phút dừng chân ngắn ngủi ấy, ta càng cảm thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội. Chỉ là bếp Hoàng Cầm , là võng mắc chông chênh mà chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy, câu thơ đẹp cả về tính cách, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Có khác gì câu thơ nói về tình đồng chí của Chính Hữu hơn hai mươi năm trước đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ và có phải tình đồng đội đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Dường như chính vì tình yêu thương đùm bọc mà người lính đã quyết chiến đấu với giặc. Phạm Tiến Duật đã kết thúc bài thơ bằng một sự nhận thức sâu sắc của người lính lái xe cho dù các anh có phải đối mặt với bao khó khăn của cuộc chiến đấu nhưng các anh vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Và đoàn xe của các anh đã chiến thắng, các anh đã ra tiền tuyến bằng một tình cảm thiêng liêng vì miền Nam thân yêu, vì chiến đấu giành lại độc lập tự do và thống nhất đất nước. Điều này đã được các anh thực hiện bằng trái tim của mình: chỉ cần trong xe có một trái tim. Đó là một hình ảnh tỏa sáng chói ngời đã đúc kết lại phong cách của người lính gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh chứa chan tình yêu thương với đồng đội, đất nước. Chính lí do này đã khích lệ người lính vượt qua mọi thử thách. Dường như quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người – con người mang trái tim, nồng nàn yêu thương, ý chí, lòng dũng cảm và có niềm tin vững chắc.
Bài thơ mang chất lính rất đượm, là tiếng nói hồn nhiên thường ngày của người lính đã đi vào trong thơ ca. Nhưng đấy là tính cách lính trẻ của thời kháng chiến chống Mĩ, họ có học thức, có bản lĩnh chiến đấu, có cuộc sống nội tâm hết sức phong phú. Qua bài thơ ta càng khâm phục và học tập ở các anh nét hồn nhiên và tình yêu đời, yêu đất nước tha thiết.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 18
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước, hình ảnh những chiến sĩ lái xe vận tải đã “để thương để nhớ” cho tâm tưởng nhà thơ tài hoa Phạm Tiến Duật. Bởi vậy nên dẫu chẳng một ngày làm lính lái xe nhưng những trang thơ Phạm Tiến Duật luôn ầm ì tiếng động cơ chạy máy và giòn tan tiếng cười nói của những chàng lính lái xe “trẻ măng tơ” Người đọc khó có thể quên những chàng trai ngang tàng, tinh nghịch nhưng đầy lí tưởng ấy trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Bài thơ ra đời năm 1969, khi mà cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang bước vào những năm tháng khốc liệt nhất. Con đường Trường Sơn đã được khai phá để từng dòng người, dòng xe ngày đêm chi viện cho miền Nam ruột thịt. Trên những dặm đường loang lổ hố bom, trên những đèo cao trập trùng, hiểm trở,… dù ở đâu trên con đường huyền thoại ấy cũng hiện lên hình ảnh những anh lính lái xe vững vàng tay lái. Họ đến với chiến trường từ những giảng đường đại học, từ những mái trường phổ thông còn vương những cánh phượng rơi. Tâm hồn họ phơi phới tuổi xuân và những lí tưởng đẹp đẽ của tuổi trẻ. Trở thành những anh lính lái xe, họ đã làm vui, làm đẹp, làm vững chắc hơn cho con đường huyết mạch của cuộc kháng chiến. Các anh tự giới thiệu về những người bạn đường thủy chung gắn bó của mình:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”…
Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: Những chiếc xe không kính. Mặt khác, lời giải thích của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe đã bị phá huỷ bởi “bom giật, bom rung” – những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu đầy ấn tượng cho bài thơ. Càng lạ lùng hơn nữa là hình ảnh chủ nhân những chiếc xe kì lạ ấy:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”…
Với các anh, sự lạ đối với mọi người lại trở thành sự thường trong đời sống. “Bom giật, bom rung” để lại thương tích loang lổ trên xe nhưng lại chẳng mảy may nhìn thấy dấu hiệu của tàn phá trên dáng hình người chiến sĩ. Họ “ung dung” ngồi, “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Sự khốc liệt của chiến tranh không khiến con người bị đui chột về tâm hồn và ý chí. Là những con người như lời đề trên bức tường kỉ niệm chiến thắng phát xít Đức của Hồng quân Liên Xô: “Nơi đây mọi sắt thép đều tan chảy chỉ con người là vững vàng đi qua”. Câu thơ ngắn, nhanh, điệp từ “nhìn” lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động. Rồi trên con đường thần thánh ấy, các anh còn “nhìn thấy” bao điều khác nữa:
“Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”…
Bởi xe “không có kính” nên có quá nhiều bất tiện: “gió xoa vào mắt đắng” nhưng cũng bởi không có kính nên nhiều khi ngồi trong ca bin người lính được đón nhận những cảm giác thật lạ lùng: “Thấy con đường chạy thẳng vào tim /Thấy sao trời và đột ngột cánh chim / Như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh thơ rất táo bạo và khỏe khoắn thể hiện tâm hồn trẻ trung, mạnh mẽ nhưng không kém phần mơ mộng của những chàng lính lái xe. Khi chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì “không có kính”
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Và:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời.
Thế nhưng, “không có kính” thì tác giả lại “có bụi” rồi có “mưa tuôn, mưa xối”. Cấu trúc thơ lặp đi lặp lại – “ừ thì” – đã làm toát lên thái độ bất chấp, không hề run sợ, coi thường mọi khó khăn. Câu thơ như vang lên tiếng cười vui vẻ, các anh cười để lạc quan yêu đời, để phớt lờ mọi khó khăn, cười để động viên mình, và động viên đồng đội. Và niềm lạc quan ấy còn được thể hiện bằng hành động.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Và :
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ vậy, họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn, khăng khít:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Bạn bè gặp nhau suốt đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết! Vậy mà giờ đây, trong gian khổ, họ thân thiết gắn bó, chào nhau như những người bạn đã quen. Và rồi, kỉ niệm như ùa về trong tâm trí nhà thơ. Có lẽ vì ông cũng là một người lính nên ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
“Gia đình” – hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết thống. Họ, những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng – dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Tuy chiếc xe có bị phá huỷ, nát tan đến mức nào, dù gian khổ khó khăn bao nhiêu, nhưng “chỉ cần trong xe có một trái tim” – Đúng vậy! Chính tình yêu Tổ quốc đã cầm lái, đã là động lực thúc đẩy, giúp những người lính có thêm sức mạnh trước mỗi khó khăn. Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch, gọn ghẽ. Câu thơ kết của bài thơ có lẽ là câu thơ hay nhất, vừa kết lại sức mạnh của con người chính là ở tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào và tình yêu hoá thành ý chí – kiên cường và vững bền. Nhưng đồng thời, nó cũng mở ra, gợi ra cánh cửa ánh sáng: Miền Nam, nơi mà đồng bào đang trông ngóng cách mạng trong từng khoảnh khắc.
Bài thơ có giọng điệu phóng khoáng, ngang tàng như tâm hồn chàng trai tuổi đôi mươi. Phạm Tiến Duật đã không phải dụng công gọt giũa ngôn từ, nhiều câu thơ trong bài thơ như lời nói hàng ngày nhưng chính sự giản dị, chân thành của cảm xúc đã làm nên những câu thơ lôi cuốn người đọc. Ngoài ra còn phải kể đến nhiều hình ảnh thơ táo bạo, giàu sức gợi tả cùng các điệp từ, điệp ngữ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hình ảnh ấy tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Chiến trường ác liệt, hiểm nguy mà tâm hồn các anh, các chị vẫn ngời ngời sự lạc quan, trẻ trung, yêu đời. Nhưng trên hết vẫn là tấm lòng yêu mến, thiết tha với đồng đội, với đất nước, vẻ đẹp tâm hồn cao quý gieo vào lòng người đọc niềm tin yêu, sự trân trọng, cảm phục và lời nguyện cầu tiếp bước. Khi xưa các anh các chị “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thì hôm nay thế hệ trẻ sẽ “chuẩn bị hành trang” đầy đủ để đưa đất nước tiến “vào thế kỉ mới” phát triển, sôi động và đầy thách thức.
*****
Trên đây là 18 bài mẫu Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật lớp 9 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.
Đăng bởi: THCS Bình Chánh
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)