Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 12 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí
Dàn ý Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí chi tiết
1. Mở bài
Bạn đang xem: Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất (12 bài mẫu)
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, trích đoạn hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.
2. Thân bài
– Quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế:
+ Vua Nguyễn Huệ hành động mạnh mẽ, quyết đoán
+ Nghe tin giặc chiếm Thăng Long không hề nao núng mà đích thân chinh cầm quân đi đánh.
+ Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén làm được nhiều việc lớn chỉ trong một tháng.
– Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung:
+ Hoàng đế Quang Trung lẫm liệt khi ra trận, dụng binh như thần.
+ Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng, tổng chỉ huy chiến dịch thực sự.
– Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống:
+ Quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì sợ mất mật, quân lâm trận thì xin hàng hoặc bỏ chạy.
+ Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành đặt vận mệnh đất nước và kẻ thù xâm lược, chịu số phận bi thảm của kẻ vong quốc.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận về hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và sự thảm bại quân Thanh cũng như số phận bi đát của Lê Chiêu Thống.
12 bài mẫu Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 1
Cuối năm Mậu Thân (1788), nhân dân Thăng Long và Bắc Hà phải chịu đựng những ngày tháng đau thương, tủi nhục vì nạn ngoại xâm. Lợi dụng sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, 290 nghìn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràn vào chiếm đóng kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Quân đồn trú Tây Sơn do tướng Ngô Văn Sở chỉ huy, đã theo kế sách mưu trí của tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, lui về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn.
Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm đóng quân ở Thăng Long để nghỉ ngơi ăn tết và chuẩn bị mọi mặt thật chu đáo rồi sau tết sẽ “tiến vào tận sào huyệt của giặc, bắt sống Nguyễn Huệ” (Hoàng Lê nhất thống chí), Hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị và bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng Long, nhất là hướng đường thiên lý và đường thượng đạo mà quân Tây Sơn có thể bất ngờ tiến công. Trên hai hướng phòng ngự này, đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa giữ vị trí then chốt.
Những ngày giáp tết năm đó, nhân dân kinh thành đã chứng kiến biết bao tội ác của quân giặc: ”kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức, cướp bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả”; và sự phản bội hèn mạt của bọn bán nước: ”nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến nay, chưa bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế” (Hoàng Lê nhất thống chí).
Nhưng cũng trong thời gian đó, tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 Mậu Thân (21/12/1788) Quang Trung nhận được tin cấp báo và ngày hôm sau làm lễ xuất quân. Với những phán đoán tình hình và công việc chuẩn bị được trù liệu trước, chỉ trong vòng 35 ngày từ 25/11 đến 30/12 Mậu Thân (22/12/1788 – 25/1/1789), trên đường hành quân và tập kết đại quân ở Tam Điệp, Quang Trung đã hoàn tất mọi việc chuẩn bị cho chiến dịch đại phá quân Thanh. Đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu, cách Thăng Long gần 90 km, mở đầu cuộc đại phá quân Thanh. Sau 5 ngày đêm tiến quân thần tốc, đạo quân chủ lực của Quang Trung đã phá tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng đường thiên lý tiến về Thăng Long. Mờ sáng mùng 5 tết (30/1/1789), đạo quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đạo quân đô đốc Bảo công phá và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Ngọc Hồi – Đầm Mực.
Cùng lúc đó, đạo quân do đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ diệt đồn Đống Đa rồi đánh thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long.
Sự phối hợp hai trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa làm cho Tôn Sĩ Nghị hết sức bất ngờ, choáng váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực, sụp đổ. Với cả một lực lượng dự bị khá lớn ở tổng hành dinh, những viên chủ soái quân Thanh đành phải tháo chạy trong cảnh hoảng loạn và tan rã. Trên đường tháo chạy, chúng lại bị một cánh quân Tây Sơn khác chặn đánh ở vùng Yên Thế, Phượng Nhãn, Lạng Giang và bị bồi thêm những đòn tổn thất nặng nề. 35 ngày chuẩn bị trên đường hành quân dài khoảng hơn 500 km từ Phú Xuân đến Tam Điệp và 5 ngày đêm tiến công tiêu diệt trên một tuyến phòng ngự dài khoảng 90 km từ Gián Khẩu đến Thăng Long, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã đạt mức kỷ lục về tính thần tốc trong hành quân chuẩn bị và tiến công tiêu diệt địch.
Đại thắng Thăng Long xuân Kỷ Dậu 1789 là một trong những vũ công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Đó là chiến thắng tiêu biểu cho đỉnh cao của sự phát triển và thắng lợi của phong trào Tây Sơn, được tạo nên bằng sức mạnh quật khởi của nông dân kết hợp với sức mạnh yêu nước và đoàn kết của cả dân tộc. Trong hàng ngũ quân đội Tây Sơn lập nên vũ công mùa xuân đó có những người đã tham gia dấy nghĩa từ đất Tây Sơn, có những con các em dân tộc Tây Nguyên chuộng tự do phóng khoáng, có những người dân khắp mọi miền của đất nước đã tự nguyện đứng dưới lá cờ nghĩa Tây Sơn, có những trí thức yêu nước như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp… những võ quan cũ của chính quyền Lê – Trịnh như Đặng Tiến Đông, những tướng soái Tây Sơn đã đày dạn chiến trận như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết.
Đó là chiến thắng của quân đội Tây Sơn với quyết tâm và ý chí đánh cho nó ”chích luân bất phản”, đánh cho nó ”phiến giáp bất hoàn”, đánh cho ”sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. ý chí đó lại được nhân dân hết lòng giúp đỡ. Và như chúng ta đã biết, trên đường hành quân chiến đấu của quân Tây Sơn, nhân dân đã cho con em mình gia nhập nghĩa quân, đã tiếp tế lương thực, giúp các phương tiện vượt sông…
Nhân dân các làng xã quanh Thăng Long đã giúp quân Tây Sơn bí mật giấu quân ém sát đồn giặc, góp ván gỗ làm mộc công phá đền Ngọc Hồi, đã phối hợp làm trận rồng lửa trong trận diệt đồn Đống Đa…
Bằng lối đánh thần tốc và một thế trận lợi hại kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu bất ngờ và những mũi vu hồi sau lưng, Quang Trung với số quân chỉ hơn 10 vạn, nhưng đã đặt Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh vào thế hoàn toàn bị động, bất ngờ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải chấp nhận sự thảm hại, tháo chạy trong hoảng loạn. Đại thắng Xuân Kỷ Dậu (1789) biểu thị tập trung thiên tài quân sự của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Cũng ngay sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích dùng mọi biện pháp ngoại giao mềm mỏng và tích cực để nhanh chóng lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh. Chỉ trong vòng nửa năm, hai bên đã thông sứ bộ và sau đó, quan hệ bang giao và buôn bán giữa hai nước đã được khôi phục.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 2
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đó là những lần đánh tan quân Nguyên – Mông xâm lược của vua tôi nhà Trần, là chiến thắng Bạch Đằng lẫy lừng của Ngô Quyền. Và đặc biệt là chiến công thần tốc của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ. Em đã được đọc trận chiến này trong hồi thứ 14 của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”
Quân Thanh viện cớ sang trợ giúp triều đình nhà Lê, dẫn quân xâm lược, chiếm đóng nước ta. Quân Thanh sau khi chiếm đóng lập tức trở nên ngạo mạn, gây ra rất nhiều tội ác. Vì được vua Lê nhượng bộ nên chúng ra sức vơ vét của cải nhân dân ta, ăn chơi, hưởng thụ. Do đó, đất nước ta đã phải rơi vào ách đô hộ, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, khổ cực. Quả thật đáng thương xiết bao!
Bọn quân tướng nhà Thanh do chiếm đóng quá dễ dàng nên chúng không hề phòng thủ. Lợi dụng điều đó, Nguyễn Huệ vừa mới nhận tin, lập tức quyết định thực hiện 1 cuộc chiến thần tốc quét sạch quân Thanh ra bờ cõi nước Nam. Nguyễn Huệ tế cáo trời đất rồi lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung. Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh cả đường thủy lẫn đường bộ, ngày đêm không nghỉ. Ngày 28 đến Nghệ An, ông tìm gặp La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp xin ý kiến. Nghe xong, vua Quang Trung mừng lắm, lập tức mở cuộc chiêu binh, tuyển thêm lính, cứ ba suất đinh lấy một suất lính. Hành động ấy cho thấy ông là 1 vị vua quyết đoán, nhanh nhạy, biết trọng người tài. Vua còn khích lệ tinh thần các chiến sĩ. Hôm sau, khi hội quân ở Tam Điệp, ông đã thưởng phạt các binh lính một cách hợp lí. Ông đã dùng tội biến thành cơ hội để sửa chữa, Đúng là một con người anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng, biết dùng người! Vua Quang Trung đề ra chiến lược, vạch ra kế hoạch cụ thể, chia quân ra thành 5 đạo: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ông phân quân cũ cho các tướng còn tự mình chỉ huy số quân mới tuyển để những người lính mới yên tâm chiến đấu, cho binh lính, cho tướng sĩ ăn Tết sớm và xuất quân vào ngày 30 Tết.
Quân Tây Sơn tiến đến sông Gianh, đánh tan tác quân Thanh. Đội quân thần tốc tiến lên bắt gọn đám quân Thanh do thám. Do đạo quân Tây Sơn hành quân nhanh và các đám quân do thám bị bắt, quân Thanh từ Hà Hồi tới Thăng Long không biết gì về cử động của quân Tây Sơn. Nửa đêm mồng 3, quân Tây Sơn tiến đến làng Hà Hồi. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung, quân vây kín làng rồi sai bắc loa kêu gọi quân Thanh đầu hàng. Quân Thanh bị bất ngờ, sợ mất vía trước sự áp sát quá nhanh của quân Tây Sơn, không kịp kháng cự, vội vàng ra hàng và để mất hết lương thực, khí giới vào tay quân Tây Sơn. Càng về sau, vua Quang Trung càng chứng tỏ được tài dụng binh như thần, cách đánh giặc đầy mưu trí, khéo léo, vừa không làm tổn thất lực lượng, vừa giành được thắng lợi nhanh chóng. Vua Quang Trung truyền lấy 60 tấm ván ghép vào nhau, cứ ba tấm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín.
Sau đó, cứ 10 người thì cầm 1 bức, lưng giắt dao ngắn, 20 người khác cầm binh khí theo sau, dàn trận thành hình chữ “nhất”. Đội quân trông rất hùng hậu, chỉ cần nhìn thôi cũng đủ khiếp sợ. Vua Quang Trung oai phong, lẫm liệt đích thân đốc thúc đại quân, tiến sát đến đồn Ngọc Hồi vào mờ sáng mồng 5 Tết. Quân Thanh chống trả kịch liệt, nổ súng bắn ra, lợi dụng hướng gió Bắc, tung khói lửa về hướng quân Tây Sơn. Nào ngờ, trời đột ngột đổi gió khiến quân Thanh tự làm hại mình. Quả thật, sự chính nghĩa của quân Tây Sơn đã khiến trời cũng phải động lòng giúp đỡ. Chống trả không nổi, chúng bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Thái thú Sầm Nghi Đống vì nhục mà thắt cổ chết. Với khí thế như vũ bảo, quân Tây Sơn truy kích quân Thanh đến cùng, lùa voi giày đạp chết đến hàng vạn người.
Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành. Tôn Sĩ Nghị và bọn vua tôi nhà Lê không hay biết gì, vẫn cứ vui chơi, yến tiệc linh đình. Đến mồng 4, chúng mới nhận được tin cấp báo từ đồn Ngọc Hồi. Khi quân Tây Sơn tràn vào, sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, vội vã bỏ trốn. Mất đi người cầm đầu, quân Thanh không tránh khỏi sự hoảng loạn, mạnh ai người nấy chạy, tan tác như ong vỡ tổ. Vua quan nhà Lê cũng chịu chung số phận bi thảm, phải rời bỏ đất nước, chạy trốn sang Trung Quốc. Như vậy, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi, quân Tây Sơn đã giành thắng lợi to lớn, quét sạch bọn xâm lăng, giữ yên bờ cõi, đem lại độc lập cho nước nhà.
Chiến công thần tốc đại phá quân Thanh đã ghi một dấu ấn vẻ vang, đã viết thêm một trang vàng chói lọi cho lịch sử nước nhà. Qua đó, ta thấy được sức mạnh đại đoàn kết của quân nhân ta và hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Ông cha ta đã có công giữ nước chống giặc ngoại xâm, thế hệ chúng ta ngày nay phải gìn giữ và xây dựng đất nước ngày càng phát triển hơn.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 3
Nhà Tây Sơn gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kì đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, những năm cuối thế kỉ XVIII, Lê Chiêu Thông rất lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Quang Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quận Thanh xâm lược nước ta. Nghe được tin cấp báo, Bắc Bình Vương quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.
Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại. Theo ý mọi người thì ông nên ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau cất quân ta đánh dẹp cõi Bắc vẫn chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngài khoác lên mình chiếc áo long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu ngài đội mũ miện, cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang. Cuốn sách Các triều đại Việt Nam có viết: “Ngài là người có dung mạo đặc biệt. Tóc quán, da sẫm, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối”. Toát lên trên gương mặt ngài là vẻ cương nghị, oai phong lẫm liệt và dữ tướng. “Không ai dám nhìn thẳng vào mặt ngài”.
Lễ xong, ngài hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp, một người có tài tiên đoán, vào hỏi về mưu đánh và giữ, cơ được hay thua. Nguyễn Thiếp trả lời: “Chuyến này ra đi không quá mười ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan”. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng là Hám Hổ Hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, ai cũng có thân hình vạm vỡ, bắp tay cuồn cuộn. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn quân binh tinh nhuệ, hàng ngũ thẳng tắp, cờ trông rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu. Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn và chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu là số quân ở Thuận Hóa, Quảng Nam, còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại vỗ về quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết thắng của đội quân chính nghĩa.
Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Đêm 30 tháng chạp, vua cho mở tiệc khao quân linh đình, chia quân làm ba đạo và bảo với các tướng đêm 30 lập tức lên đường hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Trong bữa tiệc ai cũng vui mừng, vui chơi thỏa thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra Bắc. Để giữ sức chiến đấu cho binh lính, vua cho dùng cáng làm võng, cứ hai người khiêng một người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài ai cũng phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu.
Thấy quân Tây Sơn kéo đến, nghĩa binh của giặc trấn thủ sông Gián chạy nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy. Vua cho binh lính vây bắt được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai chạy về báo tin. Việc tiến quân của quân Tây Sơn hoàn toàn bí mật. Nửa đêm ngày mồng ba tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn tới đồn ở làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc và lặng lẽ vây kín làng. Vua dùng loa truyền gọi: Quân. Tiếng quân lính luân phiên nhau: Dạ, dạ, ran khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy ai nấy run lẩy bẩy, rụng rời, sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết.
Vua lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm là một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức, rồi kén hạng lính khỏe mạnh cứ mười người khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. Mờ sáng ngày mồng 5, quân Tây Sơn tiến sát đồn Ngọc Hồi, quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng không có hiệu quả. Tiện có gió Bắc, chúng dùng súng phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì cả. Không ngờ trời bỗng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai cầm dao ngắn thì đâm quân giặc, người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Uyên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông, đến lúc ấy quân Thanh đều hết hồn vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô, quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành. Lại nói, không nghe thấy tin cấp báo nên trong ngày Tết quân Thanh chỉ chăm chú yến tiệc. Nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dặn lính chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ nghe tin hoảng loạn, tan tác bỏ chạy, giành nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống sông chết rất nhiều. Lát sau cầu bị đứt, quấn linh rơi xuống nước đến nỗi sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.
Quân Tây Sơn ăn mừng chiến thắng. Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước Việt Nam là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Chiến thắng này đã khắc họa sâu sắc hình tượng người anh hùng mặc áo vải Nguyễn Huệ với tài mưu lược, ý chí kiên cường đấu tranh. Hàng năm dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh thần tốc.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 4
Hôm nay trăng sáng quá, mấy đứa cháu vẫn chưa chịu đi ngủ, chúng còn đang mải chơi đánh trận giả ngoài sân. Tiếng reo hò, cổ vũ của chúng như đánh thức trong tôi những kí ức đẹp của một thời theo đội quân Tây Sơn bách chiến bách thắng, nhất là chiến công đại phá quân Thanh do chính Quang Trung chỉ huy.
Thời trai trẻ, tôi sống ở huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn. Mùa xuân 1771, đất Tây Sơn sôi động với sự phất cờ khởi nghĩa, lật đổ Trương Phúc Loan, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tôi cũng đầu quân vào nghĩa quân Tây Sơn. Có thể nói chiến công của quân Tây Sơn là do Nguyễn Huệ -một vị tướng tài ba, dáng cao lớn, tóc xoăn, mắt như chớp sáng, giọng nói sang sảng như tiếng chuông. Khi vua Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Trung Quốc, Nguyễn Nhạc xưng đế , còn Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương. tôi được phân công vào đội lính hầu cận bảo vệ ngài và chứng kiến được tài năng của bậc anh hùng trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.
Ngày 24 tháng mười một năm Mậu Thân, nhận được tin cấp báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ giận lắm họp các tướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng những người đến họp đã đều nói ngài nên chính vị hiệu để yên lòng dân rồi cất quân ra Bắc. Nên ngày 25 tháng Chạp, Bắc Bình đã lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi hạ lệnh xuất quân.
Ngày 29 tháng Chạp, Quang Trung đến Nghệ An, bàn việc quân với Nguyễn Thiếp. Nghe Nguyễn Thiếp nói không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan, vua mừng lắm, bèn cho tuyển lính, duyệt binh,rồi ra lời phủ dụ động viên tướng sĩ. Tất cả mọi người trong đó có tôi đều lấy làm xúc động, tinh thần thêm hăng hái tự tin trước cuộc chiến sắp đến dù quân địch lên đến hai mươi vạn.
Ngày 30 tháng Chạp, Quang Trung đến Tam Điệp, tha tội chết cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về tội chưa đánh trận nào đã rút quân bởi họ chỉ hạng võ biền. Quang Trung biết đó là kế sách của Ngô Thì Nhậm nhằm bảo toàn lực lượng, trấn giữ nơi hiểm yếu, làm giặc kiêu ngạo, chủ quan tạo điều kiện cho quân Tây Sơn giành thế chủ động tấn công bất ngờ. Ngài còn dự tính sau chiến thắng sẽ cử Ngô Thì Nhậm sang thương thuyết với nhà Thanh để nuôi dưỡng lực lượng, xây dựng đất nước vững mạnh. Rồi vua mở tiệc khao quân. Tối 30, cả năm đạo quân lên đường tiến ra Bắc.Sau đó ông chia ra làm năm đạo quân. Đạo chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, thẳng hướng Thăng Long. Đạo thứ hai và thứ ba đánh vào tây Thăng Long và yểm trợ cho đạo chủ lực. Đạo thứ tư tiến ra phía Hải Dương. Đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang – Bắc Giang, chặn đường rút lui của quân địch. Khi tiến thẳng đến thành Thăng Long, để giữ sức cho quân lính chiến đấu, ông sai dùng cáng làm võng. Hai người khiêng một người nằm ngủ và cứ thế luân phiên nhau đi suốt đêm.
Khi quân Tây Sơn đến sông Thanh Quyết, Quang Trung cho bắt hết quân do thám đang chạy trốn nên bọn giặc ở Hà Hồi, Ngọc Hồi không hề biết gì cả.
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỉ Dậu, vua Quang Trung cho vây kín làng Hà Hồi, bắc loa truyền gọi, quân lính dạ ran để hưởng ứng như có vạn người. Quân giặc trong đồn sợ hãi, xin hàng.Quân Tây Sơn thu hết lương thực, khí giới.
Ở trận đánh đồn Ngọc Hồi, tôi thấy Nguyễn Huệ rất cẩn trọng. Tối mùng bốn, tôi cùng nhóm trực gác bảo vệ vua, tôi thấy ngài vẫn thao thức cả đêm. Đồn lũy Ngọc Hồi được xây dựng kiên cố, xung quanh đều được cắm chông sắt và chôn địa lôi. Để chuẩn bị đánh đồn Ngọc Hồi, vua Quang Trung truyền lấy sáu mươi tấm ván, cứ ba tấm ghép thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, được hai mươi bức. Rồi kén lính khỏe mạnh, cứ mười người khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, dàn trận thành chữ “nhất”. Vua Quang Trung cưỡi voi đi thúc,, đội chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ vua mà giờ đây cũng trở thành những người lính xông vào trận đánh theo hiệu lệnh của ngài.Mờ sáng mùng năm tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn, chẳng trúng ai. Nhân có gió bắc, chúng dùng ống phun khói lửa nhằm làm quân Tây Sơn rối loạn. Nhưng trời bỗng trở gió nam, làm cho quân Thanh rối loạn hàng ngũ. Quang Trung liền chỉ huy đội khiêng ván vừa che vừa xông lên. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống, ai nấy dùng dao ngắn chém bừa, những người cầm gươm giáo theo sau đều nhất tề xông lên hiệp lực. Cùng lúc đó, đạo quân thứ hai và thứ ba tấn công đồn Đống Đa, Sầm Nghi Đống thắt cổ chết. Quân Thanh đại bại, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối.
Trận tấn công thành Thăng Long, Quang Trung bày thế gọng kìm, cho đạo quân thứ tư bày thế nghi binh ở hướng đông. Quân Thanh sợ hãi tìm đường tắt thì gặp đạo quân thứ năm. Chúng vội lùi về đầm Mực, làng Quỳnh Đô thì bị quân Tây Sơn cho voi giày chết. Giữa trưa mùng năm tết, Quang Trung kéo quân vào Thăng Long. Nói về Tôn Sĩ khi nghe tin Quang Trung đánh đồn Ngọc Hồi, hắn sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp dẫn bọn lính kị mã bỏ chạy về hướng bắc. Quân Thanh nghe tin, bỏ chạy, tranh nhau qua cầu. Cầu đứt, quân Thanh rơi xuống nước đến nỗi nước sông Nhị Hà tắc nghẽn. Vua Lê Chiêu Thống và bọn tùy tùng bỏ chạy trốn sang Trung Quốc.
Chiến công đại phá quân Thanh của Quang Trung là niềm tự hào dân tộc. Dù cho quân Thanh có hai mươi vạn nhưng với tài cầm quân lỗi lạc của Nguyễn Huệ, với lòng yêu nước thiết tha và sự đoàn kết của các tướng sĩ, đội quân Tây Sơn đã làm nên kì tích. Lúc vua mất, Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn, những người lính như tôi sau một thời gian bị bắt được thả về quê Dù thời gian có trôi qua, nhưng âm hưởng chiến thắng vẫn vang vọng mãi trong tôi, hình ảnh vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sống mãi với non sông,đất nước và nhất là trong lòng các tướng sĩ từng cùng ngài xông pha trận mạc.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 5
Hoàng Lê Nhất Thống Chí là ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê, đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử theo lối chương hồi, gồm 17 hồi nhưng hồi thứ 14 là hồi tái hiện lại chân thật, sinh động của vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
Nguyễn Huệ là một con người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán. Nghe tin quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ “định thân cầm quân đi ngay”. Các tướng sĩ đều khuyên ông hãy vì “chính vị hiệu” lên ngôi hoàng đế trước đã. Ông lấy làm phải, lên ngôi hoàng đế hiệu là Quang Trung. Lễ xong, ông hạ lệnh xuất quân đến Nghệ An huyện La Sơn, ông hỏi ý kiến của Nguyễn Thiếp về việc đem quân ra đánh, Thiếp trả lời rằng ông đi ra chuyến này, không quá mười ngày quân Thanh sẽ bị đánh tan. Vua Quang Trung vui mừng lắm và sai đại tướng Hám Hổ Hầu kén lính, trong thời gian ngắn, ông đã được hơn vạn quân tinh nhuệ. Rồi sau đó vua mở cuộc duyệt binh, phủ dụ quân lính, lời phủ dụ khẳng định chủ quyền dân tộc: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy”, tố cáo tội ác của quân xâm lược phương Bắc “cướp bóc, giết hại, vơ vét”, kêu gọi sự “đồng tâm hiệp lực” giết giặc của tướng sĩ. Lời phủ dụ ngắn gọn nhưng ý tứ phong phú có tác động sâu sắc đến truyền thống yêu nước và ý chí quật cường. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều xin chịu tội vì Quang Trung đánh mà bỏ chạy. Quang Trung “quân thua chém tướng” nhưng ông không luận tội vì biết sở trường của tướng sĩ mình. Lời phủ quân lính cũng như việc không luận tội Sở, Lân cho thấy Quang Trung là người sáng suốt phân tích tình hình thời cuộc cho thấy trí tuệ sáng suốt, nhạy bén.
Mới khởi binh đánh giặc nhưng vua Quang Trung “phương lược tiến đánh đã có sẵn”. Ông còn lập kế hoạch ngoại giao nhà Thanh sau chiến chứng tỏ ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng của một vị chủ soái tài trí phi thường.
Đêm 30 Tết chị Dậu – 1789, sau tiệc khao quân, ông hẹn với tướng sĩ mồng 7 Tết sẽ vào thành. Khi đem quân đến sông Thanh Quyết, bắt giết hết quân Thanh do thám nên tin tức ông ra Bắc không bị lộ.
Nửa đêm mồng 3 Tết, vua Quang Trung dùng mưu trí để chiếm gọn làng Hà Hồi chỉ trong chốc lát.
Thừa thắng xông lên, Quang Trung tiến sát đồn Ngọc Hồi tổ chức dàn trận hình chữ “nhất”. Bị đánh bất ngờ, quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, còn Thái thú Sầm Nghi Đống tự thắt cổ mà chết. Giữa trưa mồng 5, trong chiếc áo bào đỏ sạm đen khói súng, vua Quang Trung kéo quân vào thành Thăng Long. Lúc bấy giờ ở Thăng Long vua Lê và Tôn Sĩ Nghị chỉ biết yến tiệc, “nào hay, cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi”. Tôn Sĩ Nghị và vua tôi Lê Chiêu Thống phải gấp rút chạy sang bờ bắc thoát thân.
Không chỉ ghi lại sự kiện lịch sử, các tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn chú ý miêu tả từng hành động, lời nói của nhân vật. Qua đó, hình ảnh Nguyễn Huệ – Quang Trung được khắc hoạ thật lẫm liệt trong chiến trận tài dụng binh như thần.
Với lối kể chuyện sinh kết hợp miêu tả ấn tượng về tài năng trí tuệ của người anh hùng Nguyễn Huệ, hồi thứ 14 của tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí như những trang giấy vàng ghi những hiểm hách của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 6
Vào năm Kỉ Dậu 1789, vừa nghe tin quân Thanh tiến vào Thăng Long, ta tức giận lắm. Lúc ấy ta đã định đưa quân ra Bắc đánh đuổi chúng ngay. Nhưng do long dân chưa yên, nên đành chờ lên ngôi hoàng đế rồi mới hạ lệnh xuất quân đánh giặc cũng chưa muộn.
Ngay sau khi lên ngôi, ta liền tự mình “đốc suất đại binh”, cả thủy bộ cùng lên đường. Tới Nghệ An, một vạn quân tinh nhuệ được triệu tập để phục vụ cho mục đích nước nhà. Đến Thuận Hóa, Quảng Nam, ta cho mở cuộc duyệt binh, động viên, khuyến khích quân lính, dặn quân lính ăn tết sớm, chuẩn bị hành quân vào 30 Tết, mùng 7 tháng Giêng sẽ vào Thăng Long ăn mừng, cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh rồi tiếp tục lên đường. Quân ta đến sống Gián, nghĩa binh trấn thủ tan rã chạy trước. Đến sông Thanh Quyết, thấy quân ta hung mạnh, quân Thanh “cong đuôi” bỏ chạy, ta liền cho quân đuổi theo, không để ai chạy thoát nhằm tránh để những toán quân Thanh ở Hà Hồi và Ngọc Hồi hay biết.
Nửa đêm mồng 3 tháng Giêng năm Kỉ Dậu, quân ta bí mật bao vây làng Hà Hồi, dùng loa truyền gọi, quân lính hò hét gây âm thanh rất lớn, như có hơn vài vạn người. quân Thanh trong làng sợ hãi, liền xin ra hàng. Mồng 5, Quân ta tiến sát đồn Ngọc Hồi trong đêm tối mù mịt, cứ mười lính khiêng một miếng ván phòng thủ, lưng dắt dao ngắn, dàn trận xong xuôi chuẩn bị chiến đấu. Quân Thanh nổ súng bắn ra, chả trúng được ai, thử hết mọi cách nhưng không thành công, đành bất lực nhìn quân ta dần tiến vào đồn.
Ngay khi chạm phải giặc, quân ta liền vứt ván, rút hết vũ khí chém bừa. Quân Thanh thất thủ bỏ chạy toán loạn cả, giẫm đạp lên nhau mà chết, xác quân Thanh la liệt khắp nơi, Sầm Nghi Đống chạy không kịp liền thắt cổ tự tử. Quân Thanh chạy thoát theo đường Vịnh Kiều, ta cho quân xuống đầm mực, cho voi chiến giẫm đạp chết đến hàng vạn. Thừa thắng xông lên, quân Tây Sơn ta tiến quân áp sát thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị đang dự tiệc, nghe tin sợ mất mật, không kịp mặc áo giáp, liền lên ngựa phóng thẳng về nước. Quân lính bỏ chạy giẫm đạp lên nhau chết, lúc qua cầu, cầu chịu không mà sập, quân lính ngã xuống mà chết sạch, nước sông Nhị Hà năm đó tắc nghẽn không chảy được. Quân Thanh đại bại.
Chỉ trong năm ngày đêm, ta đã trả được thù cho nước nhà, đánh đuổi hoàn toàn quân xâm lược. Là một vị vua, ta đã hoàn thành nghĩa vụ của mình khi đem lại hòa bình độc lập cho đất nước sau hơn 45 năm nội chiến. Ta vô cùng vui mừng.
Khi viết những dòng hồi kí này tôi lại hồi tưởng về những kí ức hồi tôi đi làm người lính Tây Sơn cùng nhau sống chết để đẩy lùi quân Thanh về bờ cõi của chúng. Giờ đây, đất nước bình ổn, hưng thịnh tôi cũng có mặt để gặp liệt tổ liệt tông lưu hương khói cho đời sau.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 7
Ngay khi nghe tin quân Thanh chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, họp các tướng sĩ định thân chinh đi ngay nhưng được các quần thần khuyên nên để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người sau đó mới đem quân ra dẹp loạn ngoài Bắc. Bắc Bình Vương nghe phải liền cho đắp đàn ở núi Bân, tế cáo trời đất rồi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong thì hạ lệnh xuất quân, đúng ngày 25-12-1788 (âm lịch). Trong vòng một tháng xuất quân ra Bắc, trên đường đi Nguyễn Huệ đã làm được nhiều việc lớn như: đốc suất đại binh, tuyển mộ quân lính, mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, hoạch định kế hoạch đánh giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Lời phủ dụ của vua với quân lính ở Nghệ An:
– Quân Thanh kéo sang đánh chiếm, mưu đồ lấy nước Nam đạt làm quận huyện. Để phá vỡ âm mưu thâm độc của chúng, các ngươi hãy cùng ta đồng tâm hiệp lực để làm nên sự nghiệp lớn.
Sau đó đêm 30 tháng chạp đã tiến quân ra Thăng Long, vua Quang Trung tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc và xông pha, bày mưu tính kế. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung, đội quân đã đánh thắng áp đảo kẻ thù, bắt sống quân do thám của địch ở Phú Xuyên, vây kín làng Hà Hồi, công phá đồn Ngọc Hồi, khí thế của quân ta khiến cho kẻ địch khiếp sợ. Tướng thì sợ mất mật tìm đường tháo chạy, lính thì xin hàng rồi giày xéo lên nhau mà chét, quân sĩ các doanh nghe tin đều hoảng hồn tan tác bỏ chạy. Vua Lê Chiêu Thống và lũ quan bán nước phải chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua sông chịu đói khát suốt cả mấy ngày mới trốn chạy được.
Cuối cùng quân Tây Sơn giành thắng lợi, vừa đánh đuổi quân Thanh lại dẹp yên lũ vua quan phản nước hại dân. Chiến công lẫy lừng của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 8
Tác phẩm chữ Hán Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái tổng cộng có đến 17 hồi. Những hồi này không chỉ nói về sự thống nhất của vương triều nhà Lê mà còn tái hiện giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ 18 và mấy năm đầu thế kỉ 19. Tiêu biểu nhất là hồi thứ 14 với sự kiện vua Quang Trung đại phá quân thanh.
Ngay sau khi quân Thanh chiếm đóng thành Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế và quyết định thân chinh cầm quân ra Bắc đánh giặc. Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã tức tốc chuẩn bị kỹ càng mọi thứ cho cuộc khởi nghĩa. Sau lễ tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã tìm gặp người cống sĩ ở huyện La Sơn để hỏi ý kiến. Nhận được lời tán thành của người cống sĩ, Nguyễn Huệ bắt đầu tuyển mộ quân lính và bắt đầu duyệt binh chuẩn bị tấn công. Nguyễn Huệ vô cùng sáng suốt và nhạy bén trong phân tích thời cuộc, trong lời dụ binh, vừa khẳng định chủ quyền dân tộc lại vừa nêu bật dã tâm của giặc, nhắc lại truyền thống của cha ông ta để kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực. Với các tướng sĩ ở Tam Điệp, vua hiểu rõ sở trường, sở đoản của tướng sĩ mà khen chê đúng người đúng việc. Vua mở tiệc khao quân chia quân sĩ làm năm đạo, đêm tối 30 Tết năm 1788 lên đường, vua nói với các binh lính:
– Chiến sự cấp bách, nay ta cùng các ngươi lên đường ra Bắc, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới, sau khi vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc khao binh.
Quân Tây Sơn lên đường ra Bắc, đi đến sống Gián thì binh trấn thủ tan vỡ chạy trước, bắt hết quân Thanh do thám ở Phú Xuyên. Nửa đêm ngày mồng 3 năm 1789 quân tới làng Hà Hồi, trong đồn ai nấy đều rụng rời sợ hãi liền xin ra hàng. Nguyễn Huệ cho đóng ván lấp rơm dấp nước, làm thành 20 bức khiên to, cứ 10 người khiêng một bức dàn trận chữ “nhất” mà tiến vào đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bên trong nổ súng bắn nhưng chẳng trúng người nào, phun khói lửa ra thì lại gặp gió Nam, tự mình hại mình. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, tên Thái thú thì thắt cổ tự sát, thây nằm đầy đồng quân Thanh đại bại. Sau đó vua Quang Trung tiến quân vào Thăng Long, Tôn Nghị Sĩ mải mê yến tiệc nghe tin sợ mất mật, cứ nhằm hướng Bắc mà chạy. Quân sĩ các doanh đều hoảng hồn tan tác, vua Lê và tùy tòng chạy suốt mất ngày không ăn không nghỉ.
Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ quả thực là người anh hùng lẫm liệt, như tướng trên trời rơi xuống, quân ta cũng vô cùng kiên cường, quyết tâm. Cả quân và dân đã giành chiến thắng, chiến thắng vang dội lẫy lừng, tự hào mãi muôn đời sau.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 9
Ngày 24 tháng chạp 1788, nghe tin quân Thanh đóng chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ cho đắp đàn ở núi Bân, tế cáo trời đất, sông núi lên ngôi hoàng đế, lễ xong liền hạ lệnh xuất quân. Ngày 25 đốc suất đại binh cả thủy lẫn bộ cùng đi, ngày 29 đến Nghệ An. Tại đây Nguyễn Huệ gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, biết được chuyến này ắt thắng vua mừng lắm, liền tổ chức kén lính. Chưa mấy lúc đã được hơn vạn binh tinh nhuệ, sau đó lại duyệt binh lớn chia quân thành bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, trung. Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh dụ binh rằng:
– Nay quân Thanh mang quân đánh chiếm Thăng Long với mưu đồ biến nước ta thành quận huyện của chúng. Các ngươi hãy cùng ta ra Bắc để đánh đuổi chúng.
Hôm sau vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân, đến núi Tam Điệp, các tướng sĩ mang gươm ra chịu tội nhưng vua khen chê rõ ràng, công tội rành mạch, phải nói tài dùng binh như thần của người hiếm có. Sau đó vua sai mở tiệc khao quân, tối 30 Tết năm Mậu Thân lập tức lên đường, hẹn ngày mồng 7 năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Quân đi đến đâu quân giặc đều tán loạn chạy đến đó, kể cả quân do thám nhà Thanh cũng bị bắt sống hết. Trong khi quân Thanh ở đồn Hà Hồi và Ngọc Hồi không hay tin gì thì đêm mùng 3 quân ta đã tới làng Hà Hồi, quân lính trong đồn sợ hãi xin hàng, ta lấy được lương thực khí giới. Vua sai làm những bức ván to bên ngoài lấp rơm dấp nước, cứ 20 người khiêng một bức, dàn trận chữ Nhất rồi mờ sáng mồng 5 đã tới đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng không được, phát khói không lại đành chịu thua, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Quân Thanh đại bại, chạy đâu cũng bị quân ta lùa voi đuổi theo. Khi quân ta kéo vào thành, Tôn Nghị Sĩ thì sợ mất mật, chạy không kịp mặc áo giáp, vua Lê trong điện cũng vội vã chạy theo cướp cả thuyền dân để sang bờ bắc. Còn đâu tư cách của bậc quân vương khi đã là kẻ vong quốc, phải chịu số phận bi thảm không khác gì quân Thanh.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 10
Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.
Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, “ định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh’’ ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc.
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa dành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “ phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.
Tài dùng binh như thần: cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân( Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500 km. vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế. Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏ mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)
Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 11
Nguyễn Huệ – người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho lũ bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói hồi thứ mười bốn trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà Hoàng Thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn” nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân: Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn…”. Trong khi nói những lời ấy, chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc” thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống”, phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn.
Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác. Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bởi vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ: Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa? …
Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người.
Tiêu biểu là việc cử Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn”, “bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng”. Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu hoạ: “Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”. Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ” để “dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm.
Qua cách nghĩ của vua Quang Trung, ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: ”Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cử ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả. Đó là cái giỏi, cũng là cái tâm của người cầm quân.
Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí- Mẫu 12
Quang Trung là người anh hùng mạnh mẽ, quyết đoán, có tầm nhìn xa trông rộng : Khi ông nhận được tin toàn bộ đất từ biên ải đến thành Thăng Long đều rơi vào tay giặc, đó là một biến cố lớn của đất nước. Vậy mà ông không hề nao núng mà định thân chinh cầm quân đi ngay, nhưng ông cũng rất sẵn lòng nghe lời nói phải của bề tôi, nên ông đã dừng lại, hoàn thành cả núi việc trong vòng 1 tháng: trước hết ban lệnh ân xá khắp trong ngoài; chính bị hiệu lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung; đồng thời chuẩn bị xong phương lược tiến đánh và có cả kế hoạch cho 10 năm tới trong hòa bình.
Qua những trang viết chân thực, ta còn cảm nhận được Quang Trung là người có trí tuệ sáng suốt, thiên tư nhạy bén: Điều đó được thể hiện qua việc ông xét xử bề tôi. Ông phân tích thấu đáo, chỉ rõ tội trạng của Sở và Lân rồi tha tội chết cho họ, ban thưởng cao cho Ngô Thì Nhậm.
Đặc biệt trí tuệ và tài năng của ông còn được thể hiện trong lời dụ lệnh quân sĩ trước khi lên đường. Đọc lời dụ lệnh của Quang Trung ta như nghe thấy niềm tự tôn dân tộc trong bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt. Có cả lời thúc giục, động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng vang dội núi sông trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Và cả âm hưởng hùng tráng đến muôn đời trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
Vua Quang Trung còn là một người chỉ huy có tài cầm quân. Chúng ta hãy cùng theo dõi từng bước tiến hành quân của nghĩa quân Tây Sơn: Ngày 25/12 hạ lệnh xuất quân, vậy mà ngày 29 đã đến Nghệ An. Ngày 30 mở tiệc khao quân, tối 30 tiếp tục lên đường. 3/1 chiếm đồn Hà Hồi. 5/1 chiếm đền Ngọc Hồi và đến thành Thăng Long trước 2 ngày so với dự định. Bước tiến không tính bằng năm bằng tháng, mà tính bằng ngày bằng giờ, cả đoàn quân lớn như vậy dưới sự chỉ huy của người anh hùng như triều dâng sóng dậy và cho đến nay chúng ta vẫn phải kinh ngạc.
Nhưng có lẽ đẹp nhất trong trái tim người đọc đó là hình ảnh người anh hùng Quang Trung trong chiến trận. Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, có nhiều ông vua đã từng thân chinh cầm quân. Nhưng nắm quyền tổng chỉ huy và trực tiếp xông pha trận mạc thì chỉ có Quang Trung. Hồi thứ 14 đã ghi lại vẻ đẹp tuyệt vời đó:
Trong ánh sáng tờ mờ, khói toả, vua Quang Trung mặc áo bào đỏ lẫm liệt trên lưng voi chỉ huy trên chiến trận. Với chiến thuật linh hoạt, khi thì xuất quỷ nhập thần, khi thì phô trương thanh thế, ra lệnh dần đội quân thành hình chữ nhật, tất cả tiến lên giáp lá cà cầm dao ngắn chém bừa, thật là một hình tượng chiến trận hào hùng, gợi cho ta nhớ tới khí thế của nghĩa sĩ trong bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu:
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược
Làm cho mã tà, ma lí kinh hồn”
Với sức mạnh đạp cửa xông vào liều mình như chẳng có, tướng từ trên trời rơi xuống, tướng từ dưới đất chui lên khiến cho quân Thanh cuống cuồng như chảo nóng, dẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn, còn Tôn Sĩ Nghị người không thèm mặc áo giáp, ngựa không thèm gióng lên cứ nhằm hướng Bắc mà chạy.
Trên đây là nội dung bài học Kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất (12 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)