Học TậpLớp 9

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa (17 mẫu)

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 17 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa
Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa

Dàn ý Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa chi tiết

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa (17 mẫu)

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
  • Giới thiệu khổ 1 – khổ thơ đầu của bài, bộc lộ những khắc khoải của tác giả về miền kí ức xưa.

2. Thân bài

a) Nội dung

Ngay từ khổ thơ đầu tiên hình ảnh chiếc bếp lửa hiện lên vừa xa, vừa gần, vừa thực vừa hư. “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm” Nó như là sự khắc khoải của tác giả về một miền ký ức dù đã bị thời gian vùi lấp, nhưng chưa bao giờ lãng quên mà chỉ chờ cơ hội để quay trở về đánh thức nỗi nhớ trong lòng tác giả.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

b) Đặc sắc nghệ thuật

  • Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận.
  • Thể thơ tám chữ kết hợp với 7 chữ, 9 chữ phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và suy ngẫm về bà.
  • Giọng điệu tâm tình, thiết tha, tự nhiên, chân thành.
  • Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.

3. Kết bài

Đoạn thơ thể hiện tình cảm bà cháu rất thiêng liêng, sâu đậm. Từ đó, cho ta những bài học thật ý nghĩa: kỉ niệm tuổi thơ luôn tỏa sáng và nâng đỡ con người trên mọi hành trình của cuộc sống và tình cảm gia đình là cơ sở, là cội nguồn cho tình yêu quê hương, đất nước.

17 mẫu Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa hay nhất

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 1

Tuổi thơ mỗi con người gắn với muôn vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên cạnh đó là những cảm xúc, những tình cảm dành cho nhau để rồi khi mai sau lớn lên dùng tình cảm kỉ niệm ấy tiếp tục hành trang cuộc đời. Rất nhiều tác phẩm văn học thơ, truyện ngắn được các tác giả lấy cảm hứng từ tình cảm thiêng liêng ấy, tình cảm vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình yêu quê hương đất nước,…

Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ Bếp Lửa với tình cảm và niềm nhung nhớ dành cho người bà của mình khi đang du học tại Liên Xô vào năm 1963. Hình ảnh đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực nhưng tràn ngập tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, chở che trong những ngày bố mẹ đi làm xa và niềm hạnh phúc bên bếp lửa ấm áp tình thương.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

……….

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Hình ảnh bếp lửa được khắc họa lên từ ba câu thơ đầu qua điệp ngữ “một bếp lửa” và từ láy “chờn vờn” khiến ta có thể hình dung ra được một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng ấm áp, đầy ấp tình cảm. Ngọn lửa từ bếp ấp ôm bao niềm nhung nhớ về bà, chứa đựng biết bao kỉ niệm của người cháu nhỏ và bà. Người bà ân cần nhóm nhen ngọn lửa tình cảm ấy, cũng giống như đôi tay bà chăm sóc cho cháu nhẹ nhàng quan tâm, hình ảnh người bà như làn khói từ bếp vào mỗi buổi sớm mai, hình ảnh khổ cực chăm nuôi của bà dãi dầu mưa nắng càng thắp lên trong lòng người cháu rõ rệt vết hằn nỗi nhớ. Từ hai câu đầu qua hình ảnh bếp lửa mỗi sáng đã được tác giả khắc họa lên một bếp lửa chan chứa kỉ niệm, một bếp lửa đầy ấp tình yêu, một bếp lửa sáng rực lên hình ảnh bà. Đến câu tiếp theo bao nhiêu nỗi niềm như phút chốc vỡ òa “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, tác giả đau lòng, xót xa trước nỗi nhớ về hình ảnh bà dù mưa dù nắng nhưng vẫn lo cho cháu đầy đủ từng cái ăn cái mặc, gian truân cuộc đời bà vì cháu mà trải qua không một lời nói, bà âm thầm vì cháu mà làm mọi việc, đều là những hy sinh thầm lặng từ người bà kính yêu.

Từ đây ta thấy rằng trong trái tim tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết là bao, có cả một vùng trời thương nhớ về người bà, một câu “cháu thương bà” cũng sẽ đọng lại trong ta một ý nghĩa sâu sắc.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 2

Cùng với Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật,… Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Và có lẽ, cảm nhận hết những khó khăn của đất nước, vẻ đẹp của những con người bình dị trong thời kỳ Tổ quốc đau thương mà những vần thơ được viết lên thật chân thành, tình cảm gia đình và lòng yêu nước được hòa làm một. Bài thơ Bếp lửa được Việt Bằng viết năm 1963, khi tác giả đang là một sinh viên học Luật tại Liên Xô. Nỗi nhớ nhà, cùng nỗi lòng của người con xa xứ được thể hiện đầy xúc động. Đặc biệt, được bộc lộ rõ trong đoạn đầu của tác phẩm.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

Những năm tháng tuổi thơ có những điều khiến ta không thể nào quên được, cũng có những người mãi mãi là ký ức tuyệt vời theo ta trong suốt hành trình của cuộc đời. Nỗi nhớ bà của đứa cháu xa quê đã gợi lại trong hình ảnh bếp lửa đầy gần gũi thân thương. Là bếp lửa ” chờn vờn sương sớm”, là bếp lửa gắn tình tình thương, sự tần tảo, hi sinh của bà. Bếp lửa ấy được nhen nhóm bằng cả niềm tin, cả những giọt mồ hôi và nước mắt của người bà. Mà khi nghĩ về bếp lửa, bao nỗi nhớ nhung, bao niềm yêu thương lại dâng trào lên trong lòng cháu. Đó còn là những tháng ngày bà vất vả, “biết mấy nắng mưa”, nhọc nhằn.

Bao nhiêu kỉ niệm tuổi thơ bỗng ùa về trong tâm khảm đứa cháu. Những năm tháng chiến trận vất vả, những năm mà đất nước đang trong cảnh ” ngàn cân treo sợi tóc”, chìm ngập trong nạn đói tàn khốc. Cháu cũng không nằm ngoài hoàn cảnh bi thương ấy, năm lên bốn mùi khói với cháu là một hương vị thân thuộc, hình ảnh nghèo khổ hiện lên quá đỗi tội nghiệp và đáng thương. Những hồi ức hiện về trong cháu, đã khắc họa nên hình ảnh đầy chất hiện thực .

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Bố đánh xe khô gầy thân xơ xác, bà cùng cháu ở nhà ngày ngày bên bếp lửa vẫn nhen nhóm sự sống, nhen nhóm niềm hy vọng vào tương lai. Dù đã đi xa, dù đã trải qua nhiều thứ mới mẻ, nhưng trong cháu vẫn không thể nào quên được mùi cay của khói bếp hay mùi cay của những dòng nước mắt. Đó là những kỉ niệm thật khó lòng có thể quên được, bởi người ta có thể dễ dàng quên đi niềm vui còn nỗi buồn thì mãi mãi tồn tại trong lòng một khoảng mà thỉnh thoảng khi nghĩ về chúng lòng lại bồi hồi, xúc động đến khó tả.

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”

Không như bao đứa trẻ bây giờ có một tuổi thơ thật êm đẹp và bình yên. Tám năm tuổi nhỏ của cháu gắn liền với bếp lửa thân thương, gắn liền với những tháng năm đầy đói khổ và đau thương của chiến trận. Nhưng vượt lên tất thảy, vẫn là những ký ức tuyệt vời bên người bà yêu quý. Lời thơ như một dòng nhật ký đầy thương yêu của cháu dành cho người bà đầy thiết tha:

“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”

Tiếng tu hú thân thuộc quá, tiếng tu hú gọi về trên những đồng lúa mênh mông bát ngát. Tiếng tu hú gọi về mang theo hy vọng của một mùa màng bội thu, của sự ấm no cho đời sống. Tiếng tu hú cùng bà và cháu bên những câu chuyện của ngày ở Huế. Chiến tranh buộc cháu phải chấp nhận cảnh xa cha mẹ. Mỗi người một nơi ở chiến trường hiểm trở. Bà thay thế cha mẹ, chăm sóc cháu. Suốt tuổi thơ cháu lớn lên trong vòng tay bảo ban che chở của bà, trong sự chăm sóc, nuôi dưỡng ấy. Tình thương bao la vô hạn của bà thật lớn lao và cao đẹp: “Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”

Bà lo cho cháu, quan tâm cháu, bà hi sinh cuộc đời mình mong cháu nên người. “Tuổi già như chuối chín cây”, đáng lẽ bà phải được sống trong tình yêu thương, sự chăm sóc của cháu con nhưng vì đất nước kêu gọi, vì độc lập mà mẹ cha phải lên đường ra chiến trận. Bà thay ba mẹ nuôi nấng cháu, dạy cháu thành một người công dân tốt.

“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Bằng lời thơ đầy cảm xúc, giản dị, mà chân thành, hình ảnh mang tính biểu tượng cao và qua dòng hồi tưởng của đứa cháu, đoạn thơ đã gợi lại những kỉ niệm sâu sắc theo cháu suốt những ngày còn thơ dại. Đồng thời thể hiện được tình cảm bà cháu sâu nặng, ân tình và sự biết ơn, trọng của người cháu dành cho người bà thân yêu.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 3

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình… Bài thơ “Bếp lửa” là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ. Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị, sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng.

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí, trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 4

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 5

Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy. Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu.

Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp ấy, mạch hồi tưởng của bài thơ bắt đầu:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Khổ thơ chỉ vỏn vẹn ba câu mà đã hai lần lặp lại điệp từ “một bếp lửa”. “Bếp lửa” ấy là hình ảnh vô cùng gần gũi và thân quen với mỗi gia đình Việt Nam từ bao giờ. Từ láy “chờn vờn” vừa tả ánh sáng lập lòe và từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm, vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chờn trên in trên vách. Kết hợp với sự mờ ảo của “sương sớm”, những mảnh ký ức ấy như ẩn hiện trong làn sương vương vấn mùi khói, không hề thiếu đi sự nồng ấm. “Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm hưởng của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu thương, vừa gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự “nồng đượm” kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy. Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn sương sớm” – “ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa phối âm thanh làm cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên : “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, thật giản dị mà vẫn trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.

Hồ Cẩm Sa từng thốt lên những câu thơ đồng cảm với Bằng Việt :

“Cuộc đời tuy chất vật
Nhưng tâm hồn thảnh thơi
Bởi bóng bà luôn tỏa
Che đời cháu, bà ơi!”

Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình nói riêng luôn gắn với những gì gần gũi, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì, là nơi bình yên cuối cùng để ta trở về sau những thăng trầm của cuộc đời. Trong dáng hình bình khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, để họ trở thành hiện thân của gia đình, quê hương, đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những câu thơ như hát ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa của bà càng gợi nhắc để người đọc thấm thía điều đó. Niềm kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.

Nguyễn Đức Quyền đã từng nhận xét rằng : “Thơ của cái thuở ban đầu thường là nồng, nồng đến vụng dại. Ấy thế mà “Bếp lửa” của Bằng Việt lại đạm, đạm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên dễ thương lạ.” Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà thơ, khó có thể tránh khỏi thiếu sót. Nhưng với giọng thơ tâm tình, trầm lắng giàu chất suy tưởng, hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ như một sợi chỉ đỏ nối liền dòng hồi tưởng, bài thơ đã làm say lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Nếu như hình tượng con cò trong bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã đi từ những câu hát ru vào cuộc đời người con với:

“Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn”

thì Bằng Việt đã kế thừa ngọn lửa của yêu thương, của niềm tin nơi bà, những vần thơ của ông như một “ngọn lửa thần” mà Chế Lan viên từng nhắc tới.

Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 6

Khi lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể là kỉ niệm với người mẹ thân yêu, với người cha tôn kính, có thể là với người bà trân trọng. Với Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của mình là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện cùng bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả nhớ về bà và viết về bà qua bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Ba tiếng “một bếp lửa” đã trở thành điệp khúc, gợi lại một hình ảnh thân thuộc trong mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh “bếp lửa” thật ấm áp giữa cải giá lạnh của sương sớm. Đó không chỉ là cái chờn vờn của ngọn lửa mới được nhóm lên trong sương mà còn là cái chờn vờn trong tâm trí của người chầu nơi phương xa. Hình ảnh bếp lửa thân quen với biết bao tình cảm ấp iu nồng đượm. Nó đã gợi lại sự săn sóc, lo lắng, chăm chút, che chở cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu lại nhớ thương khi nghĩ về bà:

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Đọng lại trong câu thơ là chữ “thương”, thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, làm sao tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời còn bé!

Như vậy, mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa chờn vờn trong sương mai, nó như vừa mới đây cũng vừa như trong kí ức xa xôi mà tác giả chợt nghĩ đến hay khắc khoải trong phút giây chợt nhớ về. Bếp lửa ấy được nhen nhóm từ đôi bàn tay gầy, được nâng niu trọn vẹn nhất, vị nồng đượm của khói bay trên bếp vẫn còn đó, trong miền kí ức của cháu thơ.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 7

Trong cuộc đời mỗi người, kỉ niệm của những năm tháng tuổi thơ luôn là hồi ức đẹp đẽ, sâu đậm nhất. Và những kỉ niệm ấy sẽ thật đặc biệt khi có những người mà chúng ta thương yêu. Với Bằng Việt cũng thế, kỉ niệm bên người bà tần tảo sớm hôm trong suốt những năm tháng tuổi thơ đã để lại trong lòng tác giả những ấn tượng khó quên. Để rồi, khi lớn lên, nỗi nhớ lại ùa về trong tâm khảm. Chính những kí ức bên bà một thuở ấu thơ đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả viết nên bài thơ “Bếp lửa”- một trong những thi phẩm hay viết về bà. Khổ đầu bài thơ gợi lên dòng cảm xúc nhớ thương mãnh liệt qua hình ảnh gần gũi: bếp lửa.

Tác phẩm “Bếp lửa” được in trong tập “Hương cây, bếp lửa”, ra đời năm 1963, những năm tháng mà tác giả học tập ở Liên Xô. Xa nhà, nỗi nhớ nhà da diết, nhớ mùi khói, mùi bếp, đặc biệt là người bà tần tảo sớm khuya.

Hình ảnh bếp lửa trong khổ đầu bài thơ đã làm sống dậy những kỉ niệm, gợi biết bao cảm xúc trong lòng đứa cháu xa quê:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Điệp ngữ “một bếp lửa” được tác giả đặt đầu câu gợi ra hình ảnh quen thuộc, thân thương gắn liền với những ngày tháng tuổi thơ của tác giả. Có thể nói, hình ảnh bếp lửa là một hình ảnh thân thuộc, ta có thể bắt gặp nó trong bất kì ngôi nhà nào ở chốn làng quê Việt. Ở đây, hình ảnh bếp lửa đã gắn với những năm tháng tuổi thơ của tác giả, trở thành một phần kí ức bên bà, cùng bà sớm hôm.Vì vậy, việc lặp đi lặp lại hình ảnh bếp lửa như một cách mà tác giả thể hiện tình cảm của mình dành cho người bà thân thương.

Hình ảnh tả thực, bếp lửa “chờn vờn sương sớm” gợi lên nét đẹp bình yên của làng quê Việt. Một bếp lửa ẩn hiện, chờn vờn trong làn sương buổi sớm mai tạo nên một khung cảnh thật nên thơ. Trong làn khói sương, lửa bập bùng cháy, những đốm than hồng đỏ rực nơi bếp lửa nồng đượm cả hơi ấm, xua tan cái lạnh của buổi sớm. Bếp lửa còn được nhen nhóm bởi bàn tay gầy guộc mà dịu dàng, chăm chút của người bà, bởi vậy mà nó càng thêm ấm áp. Đồng thời bếp lửa chờn vờn trong sương còn là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi nhớ bà của Bằng Việt, bếp lửa ấy cũng luôn “chờn vờn” trong tâm trí nhà thơ, hóa trong nỗi nhớ bà, nhớ tuổi thơ, nhớ quê hương mà bấy lâu tác giả luôn ấp iu, gìn giữ và trân trọng.

“Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Bếp lửa ấy được nhóm lên bởi tình yêu thương với bao tình cảm ấp iu nồng đượm của bà. Câu thơ đã gợi lên một trời kí ức, những ắn sóc, chăm chút, lắng lo mà bà dành cho đứa cháu nhỏ. Động từ “ấp iu” kết hợp với tính từ “nồng đượm” được tác giả sử dụng đầy khéo léo trong câu thơ đã góp phần thể hiện vẻ đẹp phẩm chất , tình thương yêu của người bà. Từ đó, bếp lửa đã đánh thức trong lòng cháu nỗi nhớ thương bà, thương người nhóm lửa mỗi buổi sớm mai:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Tác giả đã vận dụng sáng tạo thành ngữ “năm nắng mười mưa” qua việc sử dụng cụm từ “biết mấy nắng mưa” để ẩn dụ cho những vất vả, nhọc nhằn mà bà phải trải qua. Vì thương, vì lắng lo cho cháu, bà nào quản ngại nắng mưa, nào chùn bước trước những khắc nghiệt của thời tiết, khó khăn của cuộc sống, vẫn miệt mài, cần mẫn. Thật là một người bà nhân hậu và giàu đức hi sinh biết bao. Thấu hiểu được những nhọc nhằn của bà, cháu càng thương bà nhiều hơn. Chữ “thương” cất lên trong lời thơ gói trọn vẹn tất cả tình yêu, niềm biết ơn sâu sắc và lòng kính trọng và nỗi nhớ nhung khôn nguôi của người cháu dành cho bà nơi phương xa. Câu thơ cuối đoạn vang lên trong nỗi nhớ của những kí ức tuổi thơ tươi đẹp bên bà đã gửi gắm sâu sắc tình cảm thiết tha, chân thành của Bằng Việt.

Qua khổ thơ đầu, thông qua hình ảnh bếp lửa cùng với việc sử dụng những từ ngữ bộc lộ cảm xúc trực tiếp, Bằng Việt đã thể hiện nỗi nhớ da diết và tình cảm thương quý dành cho người bà thân yêu của mình. Đoạn thơ chính là khúc dạo đầu trong một bài tình ca viết về tình cảm gia đình gắn với tình yêu quê hương đất nước, là tiền đề cho cảm xúc của toàn bài thơ.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 8

“Bếp lửa” của Bằng Việt là một trong những tác phẩm thành công nhất viết về đề tài gia đình. Ở đây, tác giả đã khai thác chủ đề này ở góc độ khác. Mượn hình ảnh bếp lửa quen thuộc, ông bày tỏ tình yêu thương cùng nỗi nhớ nhung sâu nặng dành cho người bà kính mến. Và điều này cũng đã được thể hiện rất rõ qua khổ thơ đầu tiên của bài:

Ngay khi mới bước vào tìm hiểu tác phẩm, người đọc đã được thấy chiếc bếp lửa thân quen, giản dị:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Chính hình ảnh ấy đã gợi lên biết bao xúc cảm của nhân vật cháu. Đây vốn là một công cụ để đun nấu của con người. Nó đặc biệt thân thuộc với những gia đình nông thôn khi xưa. Người ta dùng củi để nhóm bếp, từ đó đun nước, nấu cơm, thậm chí dùng nó để sưởi ấm trong những đêm đông giá lạnh. Với nhân vật trữ tình, hình ảnh ấy lại càng thân thương, gần gũi biết bao. Điệp ngữ “Một bếp lửa” được lặp lại hai lần liên tiếp, lại ở vị trí đầu câu, thể hiện sự nhớ nhung, hoài niệm khôn nguôi của người cháu. Nỗi nhớ đó gợi lên kỉ niệm về bà, về những ngày tháng tuổi thơ được bà che chở, yêu thương.

Những cụm từ “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” đã góp phần đưa hình ảnh bếp lửa đến gần hơn với độc giả. Chúng đem đến ấn tượng về cái bình dị, yên ắng của làng quê Việt Nam. Mỗi sớm ban mai, nhà nhà lại nhóm lửa để chuẩn bị nấu nướng. Ánh lửa “chờn vờn”, lúc ẩn lúc hiện trong làn sương sớm tạo nên một khung cảnh vô cùng nên thơ. Hình ảnh đầy lãng mạn này còn là ẩn dụ cho nỗi nhớ bà cứ “chờn vờn” trong lòng cháu. Nhân vật trữ tình không thể ngừng nghĩ về người bà kính yêu. Đôi bàn tay bà “ấp iu”, chăm chút cho ngọn lửa, cũng là chăm chút chính đứa cháu bé bỏng khi xưa. Nhờ sự ân cần, dịu dàng đó, bếp lửa lại càng thêm “nồng đượm”.

Trong dòng hồi tưởng ấy, nhân vật trữ tình không kìm được mà trực tiếp bày tỏ nỗi nhớ, tình yêu thương của mình đến bà:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Cả cuộc đời bà tần tảo, chăm lo cho đứa cháu nhỏ. Hình ảnh “nắng mưa” tượng trưng cho những vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống mà người bà đáng kính đã phải trải qua. Nhưng chúng đâu đủ sức để cản bước chân bà. Tình yêu thương vô bờ bến đã biến thành sức mạnh, thành động lực để bà tiếp tục cần mẫn, chăm chỉ, miệt mài. Chính nhờ sự chăm sóc đó, đứa cháu năm nào giờ đã lớn khôn, trưởng thành, dang rộng đôi cánh của mình để bay đến những chân trời xa. Nhân vật trữ tình không ngần ngại mà bày tỏ lòng mình, gửi chữ “thương” đến người bà tần tảo, giàu đức hi sinh. Chỉ một chữ thôi cũng đủ cô đọng, gói trọn sự biết ơn, kính trọng và nỗi nhớ da diết của một người cháu với bà.

Khổ thơ đầu tiên với ba câu ngắn gọn đã thành công giới thiệu đến người đọc chủ đề của cả tác phẩm. Đó chính là tình yêu, sự nhớ nhung gửi đến người bà thân thương cùng hình ảnh bếp lửa quen thuộc, giản dị. Bằng ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, Bằng Việt đã tạo nên một khúc dạo đầu mùi mẫn, dẫn dắt độc giả đến gần hơn với những thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình và tình yêu quê hương đất nước.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 9

Với khổ thơ đầu trong bài “Bếp lửa”, Bằng Việt đã thành công giúp người đọc khái quát được tư tưởng, chủ đề của toàn bộ tác phẩm. Đó chính là tình yêu thương và nỗi nhớ nhung da diết của người cháu dành cho bà, thể hiện qua hình tượng bếp lửa. Hình ảnh ấy vô cùng quen thuộc đối với mọi gia đình ở nông thôn Việt Nam, là công cụ để con người đun nước, nấu cơm và sưởi ấm. Ngọn lửa bập bùng cháy, “chờn vờn” ẩn hiện trong làn “sương sớm” khiến khung cảnh làng quê càng thêm thơ mộng. Dòng hồi tưởng ấy dẫn dắt nhân vật trữ tình đến với nỗi nhớ về người bà thân yêu. Đôi bàn tay bà đã nhóm lên bếp lửa, chăm sóc và nuôi dưỡng đứa cháu thơ ngây. Từ láy “ấp iu” đã diễn tả được sự ân cần, chu đáo của bà. Chính nhờ tình yêu thương của bà mà ngọn lửa “nồng đượm” hơn, sưởi ấm trái tim bé bỏng của cháu. Điệp ngữ “Một bếp lửa” lặp lại đến hai lần như khắc sâu thêm nỗi nhớ da diết nhân vật trữ tình dành cho bà. Để rồi, đứa cháu ấy không kìm được cảm xúc mà thốt lên: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Chữ “thương” như gói gọn tất cả nỗi nhớ, sự kính yêu cùng lòng biết ơn dành cho người bà kính yêu. Bà không ngại “nắng mưa”, tần tảo nuôi nấng cháu nên người. Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn, Bằng Việt đã mang đến cho độc giả bao xúc cảm. Qua đó, thêm trân trọng tình cảm gia đình thiêng liêng, gắn bó.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 10

Trong cuộc đời của mỗi người, những kỉ niệm tuổi thơ luôn là những điều đẹp và sâu sắc nhất. Những kỉ niệm này càng trở nên đặc biệt hơn khi chúng được chia sẻ cùng với những người mà chúng ta yêu quý. Với tác giả Bằng Việt, những kỉ niệm bên người bà đã để lại trong lòng anh những ấn tượng khó quên trong suốt những năm tháng tuổi thơ. Khi anh trưởng thành, ký ức về bà trỗi dậy trong anh và đem lại những cảm xúc sâu sắc. Chính những kỉ niệm đó đã truyền cảm hứng cho tác giả viết nên bài thơ “Bếp lửa” – một trong những tác phẩm hay nhất của anh viết về bà. Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh gần gũi của bếp lửa, gợi lên những cảm xúc nhớ thương mãnh liệt. Đây là những hình ảnh quen thuộc của tuổi thơ anh, khi bà đã dành nhiều thời gian cho anh và bếp lửa luôn là nơi để bà thể hiện tình yêu thương đối với anh. Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ thơ mộng, tình cảm và sâu sắc, chứa đựng những ký ức đẹp về bà.

Tác phẩm “Bếp lửa” được in trong tập “Hương cây, bếp lửa”, sáng tác năm 1963, những năm tháng mà tác giả học tập ở Liên Xô. Khi ấy, nhà thơ phải xa nhà, nỗi nhớ nhà da diết, nhớ mùi khói, mùi bếp, đặc biệt là người bà tần tảo sớm khuya.

Hình ảnh bếp lửa trong khổ đầu bài thơ đã làm sống dậy những kỉ niệm, gợi biết bao cảm xúc trong lòng đứa cháu xa quê ấy:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Hình ảnh “một bếp lửa” được tác giả đặt ở đầu câu để gợi lên những ký ức quen thuộc, thân thương trong những ngày tháng tuổi thơ của anh. Bếp lửa là một hình ảnh rất đỗi quen thuộc, mà ta có thể thấy nó trong bất kì ngôi nhà nào ở vùng quê Việt Nam. Trong bài thơ này, hình ảnh của bếp lửa đã trở thành một phần kỷ niệm bên người bà của tác giả, khi bà và anh đã chia sẻ những khoảnh khắc đáng nhớ bên nồi cơm nóng hổi. Do đó, việc lặp lại hình ảnh bếp lửa trong bài thơ là cách tác giả muốn thể hiện tình cảm sâu sắc mà anh dành cho người bà thân thương của mình.

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” tạo nên một không gian yên bình, thơ mộng của làng quê Việt. Bếp lửa ẩn hiện trong làn sương, đốt lên lửa và những than hồng rực, tạo ra một sức nóng ấm áp và cảm giác thân thuộc. Bàn tay tinh tế của người bà vẫn còn đọng lại trên bếp lửa, đánh thức nỗi nhớ và tình cảm trong tâm trí tác giả. Hình ảnh bếp lửa trong sương còn trở thành biểu tượng cho ký ức đẹp của tuổi thơ, nơi Bằng Việt đã trải qua những ngày tháng ngọt ngào bên người bà thân yêu. Nó không chỉ là một hình ảnh đơn thuần mà còn là một biểu tượng tuyệt vời cho sự quan tâm và tình cảm của tác giả đối với người bà của mình.

“Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Bếp lửa ấy được nhóm lên bởi tình yêu thương bao, nồng đượm của bà. Câu thơ đã gợi lên một mảng trời kí ức, những ắn sóc, chăm chút, lắng lo mà bà dành cho đứa cháu nhỏ. Động từ “ấp iu” kết hợp với tính từ “nồng đượm” được tác giả sử dụng đầy khéo léo trong câu thơ đã góp phần thể hiện vẻ đẹp phẩm chất, tình thương yêu của bà dành cho cậu, để từ đó, bếp lửa đã đánh thức trong lòng cháu nỗi nhớ thương bà, thương người nhóm lửa mỗi buổi sớm mai:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Tác giả sử dụng thành ngữ “năm nắng mười mưa” bằng cách vận dụng cụm từ “biết mấy nắng mưa”, để tả lại những vất vả và khó khăn mà người bà đã trải qua. Bà không ngại đối mặt với thời tiết khắc nghiệt hay những khó khăn của cuộc sống, mà luôn cần mẫn và miệt mài để chăm sóc cho cháu. Tình yêu thương của bà dành cho cháu được thể hiện rõ qua từ “thương” trong câu thơ, gợi lên sự biết ơn, lòng kính trọng và nỗi nhớ nhung không nguôi của người cháu dành cho bà. Câu thơ cuối đoạn vang lên như một kỷ niệm tươi đẹp về những ngày thơ ấm áp bên người bà, thể hiện sự thiết tha và chân thành của tác giả.

Qua khổ thơ đầu, bằng nhũng hình ảnh bếp lửa cùng với việc sử dụng những từ ngữ bộc lộ cảm xúc trực tiếp, nhà thơ Bằng Việt đã thể hiện nỗi nhớ da diết và tình cảm thương quý dành cho người bà thân yêu của mình. Đoạn thơ chính là khúc dạo đầu trong một bài tình ca viết về tình cảm gia đình gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, là tiền đề, bản lề cảm xúc cho toàn bài thơ.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 11

Bằng Việt là một nhà thơ đã xuất hiện vào những năm 60 của thế kỉ XX, thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tác phẩm thơ của ông rất mượt mà, trong sáng và đằm thắm, đặc biệt khi viết về những kỉ niệm của tuổi thơ, tuổi học trò và tình cảm gia đình. Trong đó, bài thơ “Bếp lửa” là một trong những tác phẩm hay nhất và tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông.

“Bếp lửa” được sáng tác vào năm 1963, khi Bằng Việt vẫn là sinh viên ngành luật ở Liên Xô. Đây là tập thơ đầu tiên của ông, sau đó được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ. Từ bài thơ này, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm bình dị, sâu sắc và thiêng liêng giữa bà và cháu, một tình cảm đáng trân trọng.

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng trong quá khứ đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà tần tảo, chịu thương, chịu khó. Từ đó mà người cháu đã bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời nhà thơ thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết, hình ảnh “bếp lửa” quen thuộc – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, nỗi lòng nhà thơ luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” thật sự sống động, tận dụng những từ ngữ tinh tế để mô tả một cảnh tượng quen thuộc, gần gũi nhưng không kém phần đặc biệt. Bếp lửa đang phát ra những tia nắng ấm áp, những cơn khói bốc lên tạo thành những hình ảnh đẹp mắt, như thể đang nói lên tình cảm bao la của người bà dành cho cháu. Bếp lửa cũng như một tâm hồn ấm áp, đang chờ đón mỗi buổi sáng đến để nhà thơ có thể ngắm nhìn và gợi lên những kỉ niệm tuổi thơ tươi đẹp bên người bà yêu quý. Cảnh tượng này đem lại cảm giác vô cùng thân thuộc và sâu lắng trong lòng người đọc, gợi lên những cảm xúc tình cảm, sự trân trọng và lòng biết ơn đối với người bà – người đã dành cho cháu một tình yêu và sự quan tâm mãnh liệt:

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, sự kiên trì, và lòng hy sinh đáng kính của người bà. Sự “thương” ở đây là tình cảm chân thành và sâu sắc, chảy đầy từ trái tim giàu yêu thương và chia sẻ. Nó chứa đựng sự kính trọng, lòng biết ơn, và kỷ niệm không thể phai nhòa của người cháu dành cho người bà của mình.

Như vậy, với khúc dạo mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc mở đầu viết về nỗi nhớ, để định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ là những lời tâm tư, thì thầm về nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 12

Bếp lửa” của Bằng Việt là những kỉ niệm về tuổi thơ gian khó, nhọc nhằn nhưng cũng đầy ấm áp bên người bà tần tảo, giàu yêu thương của tác giả. Ngay trong phần đầu của bài thơ, nhà thơ Bằng Việt đã gợi mở ra hình ảnh bếp lửa và cũng là khởi nguồn cho những tình cảm dạt dào, tha thiết của người cháu dành cho bà.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” gợi ra trong tâm trí nhà thơ những gì gần gũi, ấp áp, thân thuộc nhất về tuổi thơ, về những ngày tháng bên bà. Điệp ngữ “Một bếp lửa” không chỉ gợi ra hình ảnh sống động của bếp lửa mà nó còn thể hiện được những cảm xúc tha thiết, trào dâng trong lòng tác giả. Ngọn lửa gọi về những kí ức thân thuộc, sưởi ấm tâm hồn nhà thơ bằng hơi ấm bình dị mà ấm áp bởi nó gắn với tình thương của bà. Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” được thắp lên bởi sự ân cần, kiên nhẫn và bằng tình yêu của bà. Tình thương ấy đã giúp cháu lớn khôn, trưởng thành và giờ đây, ở một nơi xa xôi, người cháu nhớ về bà bằng tất cả sự biết ơn, kính trọng ‘Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Trong những tháng ngày tuổi thơ gian khó, bà đã luôn ở bên, lo cho cháu từng bữa ăn giấc ngủ, bà không quản ngại nắng mưa, gian khó để nuôi cháu lớn khôn. Tình cảm của nhà thơ Bằng Việt dành cho bà cũng đã khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc gần gũi, thân thương mà trên hết đó chính là tình thương dành cho bà

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 13

Tình yêu thương, lòng biết ơn và ký ức tuổi thơ luôn là hành trang quý giá nâng bước chân ta vào đời. Ai cũng có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc trong vòng tay che chở của mẹ, sự ấm áp của tình cha. Nhưng, cuộc sống của chúng ta sẽ trọn vẹn và giàu ý nghĩa hơn nếu tuổi thơ chúng ta có một người bà để yêu quý bà và được bà yêu quý.

Bắt nguồn từ cảm xúc ấy, bài thơ Bếp lửa được sáng tác, khi nhà thơ Bằng Việt còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô. Bài thơ là nỗi nhớ nhung về người bà yêu quý với những kỷ niệm trong sáng của tuổi thơ.

Qua ý thơ mở đầu tác phẩm, có lẽ vào một buổi sáng tinh mơ se lạnh nơi xứ lạ, người cháu chợt nhìn thấy đâu đó bếp lửa nhà ai hửng lên trong làn sương sớm, hay đây là một hình ảnh thức dậy trong tâm trí nhà thơ:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Hai câu thơ, hình ảnh bếp lửa lặp đi lặp lại 2 lần, giọng thơ thiết tha, sâu lắng! Hình ảnh đó chắc quen thuộc lắm, cháu từng gắn bó với nó lắm, nhưng đã xa, lâu rồi không nhìn thấy nên bây giờ gặp lại mới bâng khuâng, xúc động đến thế !

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Thì ra bếp lửa gợi lên hình ảnh thân thương. Cuộc đời bà gắn liền với bếp lửa thân quen. Đây là cách nói hoán dụ: Nói đến bếp lửa là liên tưởng đến bà, và ngược lại. Vậy là trong tuổi thơ của cháu, hình ảnh bà hằng ngày cặm cụi nhóm bếp thổi cơm đã khắc sâu trong tâm trí. Hình ảnh bếp lửa còn mang sắc thái ẩn dụ. Từ láy chờn vờn tả thực ngọn lửa nhỏ, run rẩy trong gió sớm, gợi nhớ vóc dáng gầy guộc, mong manh của bà.

Những tính từ ấp iu, nồng đượm khiến người đọc có thể hình dung sắc đỏ nồng nàn của ngọn lửa nhưng không gợi cảm giác thiêu đốt mà đem đến cảm giác dịu dàng, thư thái như sưởi ấm giữa mùa đông. Có phải đó là tấm lòng yêu thương của bà luôn ấp ủ, chắt chiu cho con cháu?

Cụm từ biết mấy nắng mưa đã gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà. Chỉ với 3 câu thơ, ta thấy trong nỗi nhớ nhung hiện lên chân dung một người bà bình dị và nhân hậu biết bao!

Bài thơ sáng tác khi tác giả đang học ở Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện. Nhưng người cháu không quên bếp lửa quê nhà. Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà. Nhớ đến bà là nhớ đến quê hương, nguồn cội. Nhớ quê hương nơi xứ lạ, đó chính là tình yêu Tổ Quốc! Có thể nói, trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, bà là Tổ Quốc, bà là Quê hương! Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu thương, gắn bó với gia đình, quê hương. Cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước, con người.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 14

Những kỉ niệm tuổi ấu thơ ai mà chẳng có. Tế Hanh có “con sông xanh biếc” với những người bạn bè bơi lội, vui đùa. Giang Nam có “thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”. Nguyễn Duy có một sân “chơi đáo, chơi vòng” của bạn bè cùng lứa, có tuổi thơ thả hồn với đồng ruộng. Bằng Việt cũng có một tuổi thơ da diết vọng về với hình ảnh người bà thân yêu. Chính tình cảm bà cháu thân thương, ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.

Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình… Những dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình ảnh thân thương về bếp lửa:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Từ láy tượng hình “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

“Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu.

Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

“Tác phẩm là kết tinh tâm hồn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 15

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp ưu nồng đượm”

Không biết vì lẽ gì hai câu thơ đó cứ theo tôi mãi trong suốt năm tháng xa nhà của mình. Mỗi lần nhớ về bà, nhớ về nhà tôi lại nhớ đến nó – nhớ đến “Bếp lửa” của Bằng Việt.

Cùng với Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật,… Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Và có lẽ, cảm nhận hết những khó khăn của đất nước, vẻ đẹp của những con người bình dị trong thời kỳ Tổ quốc đau thương mà những vần thơ được viết lên thật chân thành, tình cảm gia đình và lòng yêu nước được hòa làm một.

Bài thơ Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay, “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến những suy ngẫm sâu xa. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi về những hồi tưởng trong quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, biết suy ngẫm hơn, thấu hiểu bà hơn để rồi gửi nỗi nhớ mong được gặp bà trong tình cảnh xa cách.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc của làng quê Việt Nam để từ đó gợi nhắc người cháu nhớ về bà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà cũng gắn liền với nó. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ.

Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc của nhà thơ về bà của mình. Từ láy “chờn vờn” ở câu thơ trước đi liền với “ấp iu” ở câu sau vừa gợi cảm giác về một ngọn lửa bập bùng, ẩn hiện trong làm sương sớm vừa gợi đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa.

Bếp lửa đã thắp lên trong cháu những kỷ niệm về bà, thổi bùng lên tình yêu thương và nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi. Khổ thơ đầu ngắn ngủi kết thúc bằng tình cảm của người cháu. Chữ “thương” ấy đã lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.

Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 16

Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy. Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu.

Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp ấy, mạch hồi tưởng của bài thơ bắt đầu:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Khổ thơ chỉ vỏn vẹn ba câu mà đã hai lần lặp lại điệp từ “một bếp lửa”. “Bếp lửa” ấy là hình ảnh vô cùng gần gũi và thân quen với mỗi gia đình Việt Nam từ bao giờ. Từ láy “chờn vờn” vừa tả ánh sáng lập lòe và từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm, vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chờn trên in trên vách. Kết hợp với sự mờ ảo của “sương sớm”, những mảnh ký ức ấy như ẩn hiện trong làn sương vương vấn mùi khói, không hề thiếu đi sự nồng ấm.

“Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm hưởng của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu thương, vừa gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự “nồng đượm” kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy.

Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn sương sớm” – “ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa phối âm thanh làm cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên : “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, thật giản dị mà vẫn trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.

Hồ Cẩm Sa từng thốt lên những câu thơ đồng cảm với Bằng Việt :

“Cuộc đời tuy chất vật
Nhưng tâm hồn thảnh thơi
Bởi bóng bà luôn tỏa
Che đời cháu, bà ơi!”

Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình nói riêng luôn gắn với những gì gần gũi, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì, là nơi bình yên cuối cùng để ta trở về sau những thăng trầm của cuộc đời. Trong dáng hình bình khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, để họ trở thành hiện thân của gia đình, quê hương, đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những câu thơ như hát ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa của bà càng gợi nhắc để người đọc thấm thía điều đó.

Niềm kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.

Nguyễn Đức Quyền đã từng nhận xét rằng : “Thơ của cái thuở ban đầu thường là nồng, nồng đến vụng dại. Ấy thế mà “Bếp lửa” của Bằng Việt lại đạm, đạm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên dễ thương lạ.” Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà thơ, khó có thể tránh khỏi thiếu sót.

Nhưng với giọng thơ tâm tình, trầm lắng giàu chất suy tưởng, hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ như một sợi chỉ đỏ nối liền dòng hồi tưởng, bài thơ đã làm say lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Nếu như hình tượng con cò trong bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã đi từ những câu hát ru vào cuộc đời người con với:

“Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn”

thì Bằng Việt đã kế thừa ngọn lửa của yêu thương, của niềm tin nơi bà, những vần thơ của ông như một “ngọn lửa thần” mà Chế Lan viên từng nhắc tới.

Với “Bếp lửa” nói chung và khổ thơ mở đầu tác phẩm nói riêng, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương.

Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…

Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa- Mẫu 17

Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Đối với nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách biển nửa ngày sông”; với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì “Quê hương là chùm khế ngọt”, “là con diều biếc”… Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông gợi về bằng một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc – Bếp lửa. Ra đời năm 1963, bài thơ “Bếp lửa” còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác giả.

Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau,tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Vì sao trong dòng hồi tưởng và suy nghĩ của nhà thơ, hai hình ảnh ấy lại luôn gắn bó, song hành, đồng hiện? Vì bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Bên bếp lửa là bóng hình bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ: từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên.

Bếp lửa còn là biểu tượng giàu ý nghĩa: nó là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc, và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng. Bếp lửa là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống, niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.

Trong khổ thơ thứ nhất, hình ảnh đầu tiên được tác giả tái hiện là hình ảnh một bếp lửa ở làng quê Việt Nam thời thơ ấu:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà. Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh“bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. “Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai.

Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”,thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.

Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.

Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn ám đầy mùi khói :

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người sống thì “dật dờ như những bóng ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”.

Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong cái khốn khó chung của những người lao động. “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác,tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế!

Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện.Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thể chất và tâm hồn cháu.

Trong 2 khổ thơ đầu, Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hánh trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa (17 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (3 bình chọn)



Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button