Học TậpLớp 9

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (15 mẫu)

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Dàn ý Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính chi tiết

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (15 mẫu)

Giới thiệu về Bài thơ về tiểu đội xe không kính và khái quát nội dung khổ 6 của bài thơ.

2. Thân bài

– Khổ thơ đã thể hiện chất thơ, chất lính đậm nét trong tâm hồn của những người lính lái xe.

– Sau những giây phút làm nhiệm vụ đầy căng thẳng, mệt mỏi, những người lính đã dừng chân giữa rừng để nghỉ ngơi, ăn uống lấy lại sức cho hành trình sắp tới.

  • “Bếp Hoàng Cầm” là loại bếp dã chiến được dùng phổ biến trong chiến tranh.
  • Ngọn lửa ấm áp đã thắt chặt hơn tình cảm đồng đội, đồng chí của những người chiến sĩ
    “Chung bát đũa” à Gia đình
  • Từ “chung” gợi ra được không khí “gia đình” hài hòa, tình đồng đội gắn bó giữa hiện thực dữ dội của cuộc chiến tranh.

– Những chiếc võng được mắc tạm trên đường hành quân, “chông chênh” gợi ra tư thế không cân bằng, chắc chắn.

=> Hiện thực về cuộc sống gian khổ của những người lính giữa rừng Trường Sơn hiểm trở: mỗi bữa ăn, giấc ngủ của họ đều rất ngắn ngủi, tạm bợ.

– “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”

  • Hình ảnh những đoàn xe nối đuôi nhau vượt qua mưa bom bão đạn để chi viện cho chiến trường.
  • Tinh thần lạc quan và quyết tâm chiến đấu vì miền Nam của những người lính.
  • “Trời xanh” không chỉ là hình ảnh tả thực mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình và cả những hi vọng về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp

3. Kết bài

Khái quát về giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

15 mẫu Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 1

Thời kháng chiến chống Mĩ thấy thế mà cam go lắm, ác liệt lắm. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại là nhà thơ trẻ tài cao trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung hồn nhiên tinh nghịch và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1969 là bài thơ hay độc đáo về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn hiên ngang tinh thần lạc quan về một ngày mai tươi sáng.

Mỗi đề tài đều mang một nét hay một nét độc đáo. Người viết đề tài nào cũng phải dành tình yêu và sự hiểu biết của mình vào thì mới thành công. Phạm Tiến Duật nhà thơ trẻ tuổi tài cao chọn đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Mĩ. Có thể nói đó là mảng đề tài hay và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ có cách viết mới mẻ độc đáo rất cuốn hút người đọc, người nghe. Đó là hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.

Con đường phía trước còn dài còn khó khăn chồng chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các anh thật mạnh mẽ. Các anh vẫn tếu táo, vẫn hồn nhiên:
Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây hợp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Sau những ngày tháng lái xe gian khổ giữa rừng Trường Sơn phải chịu mưa, gió, bụi, bom đạn,… Hôm nay họ đã có thể gặp lại đồng đội. Những cái “bắt tay” vội vàng nhưng ấm nồng tình đồng chí đồng đội. Cái “bắt tay” như tiếp thêm sức mạnh luôn tiến về phía trước dù có khó khăn và thử thách. Thời chiến tranh luôn luôn gian khó, họ là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên trung bất khuất. Con đường giữa rừng núi ấy gặp lại anh em, cùng dựng nồi nấu bếp ăn một chén cơm mà ấm tình đồng đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi lại đi trời xanh thêm.

“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế ấy nhưng tinh thần họ vẫn rất vui vẻ, lạc quan. Vẫn “dùng chung bát đũa” và xem nhau là đại gia đình lớn, là anh em ruột thịt. Với hình ảnh ẩn dụ “ xanh thêm” và nghệ thuật điệp từ “lại đi” như một lời cỗ vũ, một lời động viên các anh hãy luôn mạnh mẽ kiên cường tiến về phía trước. Rồi cũng sẽ có ngày tìm thấy màu xanh hi vọng màu xanh hòa bình và độc lập!

Hai câu thơ cuối bài là hai câu thơ đắt giá mà Phạm Tiến Duật viết nên một niềm hi vọng cháy bỏng dành cho các anh lái xe trên tuyến đường Trường Sơn anh dũng, lạc quan:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim

“Trái tim” ấy chính là hình ảnh hoán dụ đầy yêu thương. Trái tim nhỏ của từng chiến sĩ tích góp thành một trái tim lớn hướng trọn về Miền Nam thân yêu ruột thịt. Nhưng trái tim ấy cũng chất chứa bao nỗi căm hờn, phẫn uất? Họ căm ghét chiến tranh tàn khốc đã gây ra bao nỗi khốn cùng cho nhân dân, cho những người lính không ngại khó khăn vất vả. Đó chính là trái tim có tình yêu và cả lòng căm hận rất sâu sắc. Với ngòi bút tinh tế sâu sắc và cách dùng từ độc đáo đã góp phần làm hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải càng rõ nét hơn trong lòng độc giả.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ,… đã giúp hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn càng hiên ngang dũng cảm. Họ là những con người kiên cường, bất khuất dù khó khăn gian khổ. Bài thơ đã tái hiện lại một cách đầy sống động về thời kháng chiến chống Mĩ oanh liệt trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử và những con người dũng cảm, lạc quan mãi mãi đi vào lịch sử thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ!

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 2

Đoàn giải phóng quân một lần ra đi. Nào có sá chi đâu ngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi. Ra đi ra đi thà chết chớ lui.

Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn bó tình yêu đất nước thiết tha… Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.

Bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Hình ảnh những chiếc xe không kính, xấu xí, trần trụi xếp hàng tập trung thành tiểu đội. Một hình ảnh mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng gai góc. Những chiếc xe “họp” mặt chính là hình ảnh của những anh lính lái xe cùng quây quần bên nhau để trò chuyện, chia sẻ những chuyện vui buồn của đời lính. Chỉ cần nhìn thấy “bạn bè dọc đường đi tới” là niềm vui, hạnh phúc dâng trào trong tâm hồn họ. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái “bắt tay” thật đặc biệt “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Đây là cái bắt tay thân tình của những con người cùng chung chí hướng, cái bắt tay truyền lửa – ngọn lửa soi sáng những chặng đường khốc liệt được thắp lên từ triệu trái tim chiến sĩ tràn đầy nhiệt tình cách mạng. Những con người vốn “xa lạ”, gặp nhau nơi chiến trường, đồng điệu nhau ở tình yêu Tổ quốc và trở thành đồng đội, “đồng chí‘. Họ kề vai, sát cánh bên nhau không chỉ trong những giờ phút khốc liệt băng qua mưa bom bão đạn, đối mặt với kẻ thù, cận kề cái chết mà cả trong những phút giây ấm áp, thân tình. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi lại đi trời xanh thêm.”

Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường. Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu. Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm”, “võng mắc chông chênh” là hiện thực của cuộc sống chiến trường được đưa vào thơ tự nhiên như hơi thở núi rừng. Hồn thơ cứ tự nó được khởi nguồn từ chính những hiện thực bình dị ấy. Nhưng nhịp điệu thơ lại được tạo nên bởi nhịp võng đưa, bởi nhịp bánh xe quay đểu. Từ láy “chông chênh” không chỉ mang lại vần điệu cho câu thơ mà còn có ý nghĩa gợi hình sâu sắc. Đó là hình ảnh thực của con đường xe chạy hay là những khó khăn trở ngại, những hiểm nguy mà người lính phải đối mặt trong chiến tranh? Nhưng khí phách, ý chí chiến đấu của những người lính ấy vẫn luôn vững vàng, kiên định. Ngọn lửa trái tim và tình đồng chí – tình cảm của những con người trong cùng “gia đình” đã nâng những bước chân lạc quan, phơi phới, ngân lên thành câu hát, băng qua “bom giật bom rung” để “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” lặp lại hai lần vừa thể hiện nhịp sống, chiến đấu của tiểu đội xe không kính vừa khẳng định tinh thần, ý chí cách mạng kiên định vững vàng không sức mạnh bạo tàn nào có thể ngăn nổi của những người lính. Dường như chính những bước chân ấy đã nhuộm lên màu xanh của bầu trời – màu xanh chứa chan hi vọng gợi lên tâm hồn lạc quan, sức trẻ, khát vọng và niềm tin chiến thắng của người lính Trường Sơn. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).

Qua bài thơ, tác giả đã xây dựng hình tượng người lính lái xe trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là những con người anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ, biết hi sinh bản thân mình vì nghĩa lớn, vì nhân dân, vì đất nước:

Cái vết thương xoàng mà đưa viện Hàng còn chờ đó tiếng xe reo Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.

Người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ, hào hùng.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 3

Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đòan lái xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.

Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội.”

Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đoàn kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trận chiến ác liệt, căng thẳng:

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hoàn thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hẳn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ cười hoàn toàn “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương. Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, thân ái. Từ “họp, gặp” diễn tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.

Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con đường thân yêu ấy làm nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Họ dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau những giờ phút căng thẳng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

(Tố Hữu)

Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh làm sao!

“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành khi “chung bát đũa”. Nhưng chỉ trong một thoáng chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục hành quân:

“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống.

Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:

“Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm rõ những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là kính, la đèn, là mui xe, còn cái “có” lại là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn?

Tất cả là bởi một mục đích, một lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Thì ra “ trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở câu cuối đã lí giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tưởng sâu sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.

Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:

“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi Mưa bom bão đạn lòng thanh thản Nhạt muối vơi cơm miệng vẫn cười.”

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 4

Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt, những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn. Phạm Tiến Duật – một nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho ra đời “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào tháng 5.1969. Thời gian này là cột mốc đánh dấu cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang trong thời khốc liệt nhất. Anh giải phóng quân bước vào chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ ra đi khi vai còn vươn cánh phượng hồng, lòng còn phơi phới tuổi thanh xuân. Những anh hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy chẳng màng đến tương lai đang rộng mở đón chào, đôi chân họ bị níu chặt nơi mặt trận vì hai từ “yêu nước”, với tinh thần lạc quan, ý chí quyết thắng giải phóng miền Nam cùng tình đồng đội đồng chí thắm thiết:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính” đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông; chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá “xế dọc Trường Sơn di cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Ở đây, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng. Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính lái xe cũng như tinh thần đồng đội, đồng chí đáng quý, thiêng liêng ở họ.
Cuộc sống của những người lính cũng vô cùng đơn giản, tự nhiên không hề câu lệ, hình thức. Không cần rửa tay, tranh thủ những giờ giải lao họ cùng nhau phì phèo châm điếu thuốc rồi nhìn nhau cười đầy vui vẻ về những mái đầu trắng xóa. Cuộc sống của những người lính gian khổ đấy nhưng chưa lúc nào thiếu đi tiếng cười, thiếu đi hơi ấm của tình đồng đội.

“Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”

Nhịp thơ lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người yêu nước nồng nàn đã họp lại thành những tiểu đội, san sẻ cho nhau tình đồng chí, đồng đội gắn bó. Vẫn giọng thơ thật tự nhiên, gần với văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ tình cảm cao đẹp của người lính, của tuổi trẻ sôi nổi, nhiệt tình lãng mạn. Nét duyên dáng của bài thơ là ở chỗ xe không có kính gặp nhiều khó khăn song đôi khi lại trở nên tiện lợi. Gặp bè bạn trên đường chiến đấu chỉ cần đưa tay qua cửa kính là có thể nắm được tay của đồng đội.Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! “Từ trong bom rơi”, từ trong ác liệt mà có thể nắm được tay của đồng đội – điều đó quả thật đầy ý nghĩa. Chính những ô cửa kính vỡ ấy đã khiến cho họ thấy gần nhau hơn, khiến cái bắt tay ấy càng thêm chặt hơn và khi ấy tình đồng đội lại càng thắm thiết hơn. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như sự chia sẻ, như trao nhau niềm tin chiến thắng của những người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng. Phạm Tiến Duật đã xây dựng một tứ thơ thật độc đáo.

Chiếc kính vỡ là tượng trưng cho cuộc chiến tranh khốc liệt, là gian khó, thử thách. Thế nhưng vượt qua những khó khăn đó, cái bắt tay siết chặt như trao nhau niềm tin tất thắng. Đó là một vẻ đẹp đầy chất lãng mạn của chủ nghĩa anh hùng ca cách mạng. Nếu như trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã từng viết: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” để nói về sự cảm thông, san sẻ của những người cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung mục đích, lý tưởng thì ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã xây dựng một cái bắt tay với tất cả lòng nhiệt huyết của những người lính thời chống Mỹ – những người đã giác ngộ lý tưởng cộng sản. Với tuổi trẻ ngang tàng, sôi nổi, đầy nhiệt tình mà không kém phần kiêu hùng, họ đã trao cho nhau tất cả niềm tin… rằng một ngày mai bình minh sẽ ló dạng ở miền Nam, rằng một ngày mai nước nhà sẽ Bắc Nam sum họp… Những người chiến sĩ lái xe dũng cảm vẫn làm tròn nhiệm vụ của mình với tinh thần vì miền Nam ruột thịt. Giọng thơ trẻ trung pha lẫn chút ngang tàng của người lính. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Mưa bom bão đạn, lòng thanh thản Nhạt muối với cơm, miệng vẫn cười.”

Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Bếp Hoàng Cầm là loại bếp dã chiến, khi nấu khói lan trên mặt đất nên kẻ thù không thể phát hiện ra được. Hình ảnh “dựng giữa trời” như một sự thách thức đầy trí tuệ. Trong chiến tranh giặc Mỹ đã dùng đủ mọi phương tiện hiện đại để tiêu diệt sự sống của bộ đội. Có thể chỉ từ một đám lửa nhỏ, một vệt khói cũng đủ để giặc oanh kích dữ dội. Nhưng chiếc bếp Hoàng Cầm vẫn dựng lên hiên ngang giữa trời. Đó là sự hiên ngang, kiêu hãnh về trí tuệ của bộ đội ta với bọn giặc xâm lược. Vẫn nét bút tinh nghịch, tươi trẻ, hồn nhiên, những người lính cùng chung bát đũa để thắt thêm tình đồng chí gắn bó khăng khít. Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương. Phạm Tiến Duật đã phát hiện được độ sâu sắc trong tình đồng đội. Trong quân ngũ, tình đồng đội là tình cảm gia đình, ruột thịt, là tình cảm thật đặc biệt, là sự hòa quyện của tình đồng chí, tình người và tình thương yêu giai cấp. Ta lại nhớ đến truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê cũng kể về tình đồng đội mà thắm thiết hơn cả tình chị em của ba cô thanh niên xung phong và những cảm xúc rất riêng của họ. Ta lại nhớ đến các cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ như thể chị em sinh ra từ một người mẹ. Sống cùng và chết cũng không lìa xa. Có thể nói trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã có sự phát hiện thật mới mẻ về tình cảm của người lính, của một thế hệ người Việt Nam, với đời sống tình cảm biết bao mới lạ và sâu sắc.
Bài thơ vẫn tiếp tục tô đậm vẻ đẹp của tâm hồn biết yêu thương, mộng mơ, tâm hồn qua thử thách vẫn tươi xanh non mướt qua hai câu thơ:

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi lại đi trời xanh thêm.

Họ nghỉ ngơi trong chốc lát trên chiếc võng mắc chông chênh. Từ láy “chông chênh” gợi hình gợi cả tính cách trẻ trung, ngang tàng của người lính. Chữ “chông chênh” vừa nói cái không chắc của thế mắc võng, vừa toát lên cái thi vị, tinh nghịch pha chút mạo hiểm rất quen thuộc của kẻ đưa võng. Sinh hoạt của người lính với cái ăn, cái ngủ được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả qua hai hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” thật độc đáo. Phải sống trong hiện thực cuộc chiến đấu đó, Phạm Tiến Duật mới có thể viết được những vần thơ đẹp đến thế. Thật khó khăn, gian khổ nhưng những người lính nghĩ về nó thật cảm động: “nghĩa là gia đình đấy”. Một khái niệm mới, dù xa nhà đi vào cuộc chiến đấu tử sinh, nhưng người lính vẫn ấm áp mái ấm gia đình, đó là tình đồng đội. Giọng điệu thơ dung dị, thanh thản mà mạnh mẽ như tính cách ngang tàng, ngạo nghễ bất chấp hiểm nguy của chiến tranh. Ngồi bên nhau trong phút chốc, họ lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của quê hương, của miền Nam thân yêu:

“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

Trời xanh thêm vì lòng người đang xanh màu xanh hi vọng về bốn chữ “độc lập, tự do”. Điệp ngữ “lại đi” vừa tạo nhạc điệu cho câu thơ vừa nhấn mạnh mệnh lệnh thôi thúc với nhiệm vụ đang chờ phía trước. Nhịp thơ 2/2/3 kết hợp điệp ngữ“lại đi” tựa như nhịp bước hành quân của người chiến sĩ, khó khăn không nản, hi sinh không sờn, những chiếc xe vẫn cứ chạy bon bon ra tiền tuyến. Câu thơ tạo âm điệu câu thơ như tiếng kèn xung trận vì miền Nam thân yêu. Câu thơ gợi ra sự liên tưởng trong lòng người đọc, ta có cảm giác rằng mỗi đoạn đường xe đi qua như mở thêm một khoảng trời hạnh phúc, bình yên. Và mơ ước nữa chứ! Rất nhiều lần trời xanh hiện ra trong mưa bom ở bài thơ này. Tâm hồn người lính sao mà tươi xanh đến thế! Với nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” nói về ngày chiến thắng đã gần kề thôi thúc mọi người tiếp bước lên đường. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng ra chiến trường và đằng sau tay lái là hình ảnh người chiến sĩ lái xe ung dung, bất chấp, lạc quan.

Có thể nhận ra được rõ nét tình cảm gắn bó của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn – con đường huyền thoại trong lịch sử dân tộc- chính là ở lối viết dễ hiểu, linh hoạt trong việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Hình ảnh của họ vẫn luôn sống mãi cùng thời gian và khát vọng xây dựng bảo vệ Tổ quốc của bao thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Bài thơ đã khép nhưng đâu đây bên tai ta vẫn tiếng xe chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười “ha ha” của những người lính lái xe can trường. Đơn sơ thế thôi nhưng là những trang hào hùng, là hình ảnh lí tưởng có sức vẫy gọi. Thế hệ nào cũng có những trách nhiệm, những sứ mệnh, những vinh quang và thách thức của mình. Bước chân sang thế kỉ XXI, trận đánh của mỗi người trẻ tuổi chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng những gì hào hùng, thật hấp dẫn ở người lính lái xe, ở thế hệ cha ông vẫn luôn là sự khích lệ, là sự nêu gương để chúng ta gắng sức.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 5

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ. Thơ ông tập trung thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969, nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Bài thơ mà điển hình là khổ thơ năm và sáu đã khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh nhưng qua đó làm nổi bật lên hình tượng người lính với bao phẩm chất cao đẹp.

Sau những chặng đường dây mưa bom bão đạn đầy gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có giây phút bình yên:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi nên qua thử cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, những chiếc xe lại được quây quần bên nhau thành “tiểu đội” – đơn vị nhỏ nhất trong quân ngũ (gồm 12 người). Tiểu đội xe không kính là mười hai chiếc xe và cứ như thế có biết bao nhiêu tiểu đội trên đường ra trận, kể sao cho hết? Suốt dọc đường vào Nam, tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù chỉ trong giây phút nhưng đều là bè bạn “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Mặt khác con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn bè.

Bên cạnh đó, giây phút gặp nhau ấy thật thú vị qua cái “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – một cử chỉ thật thân thiện, cảm động. Có biết bao nhiêu điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường hiểm nguy gian khó. Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về đến đích. Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sẻ cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau giữa những người đồng chí, đồng đội chung một chiến hào, chưng một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất.

Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt. Chúng ta hãy nghe Phạm Tiến Duật kể về những cái chung ấy:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là tín hiệu của sự sum vầy, hội ngộ sau chặng đường hành quân vất vả. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là một gia đình ấm cúng, chan chứa yêu thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung một con đường hành quân, một chiến hào, một nhiệm vụ. Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật bình thường nhưng cũng thật cao đẹp thiêng liêng. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tình đồng chí đã trở thành sức mạnh vô giá, giúp người lính trụ vững nơi chiến trường bom đạn, giành chiến thắng trước quân thù.
Sau một bữa cơm sum họp thân mật, một vài câu chuyện thân tình, những người lính trẻ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi , lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó không chỉ biểu tượng cho sự sống mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình, chứa chan hi vọng chiến công lớn đang chờ. Người chiến sĩ lái xe chính là tự do của nhân loại. Họ chiến đấu để giành lại trời xanh. Chính vì thế dù gian khó hiểm nguy đến đâu, họ cũng vẫn quyết tâm lái xe bon bon về phía trước. Đây không phải là một mệnh lệnh khô khan, là nhiệm vụ đơn thuần mà là tinh thần, là ý chí, là tình cảm của người lính luôn hướng trái tim về miền Nam ruột thịt.

Với một chất liệu hiện thực độc đáo, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp điệu biến hóa linh hoạt: khi thì như lời hội thoại, khi thì như khúc văn xuôi phù hợp với nhịp hành quân của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa. Qua đây, có thể khẳng định rằng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những thi phẩm tiêu biểu viết về thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Các anh đã dệt nên những bản tình ca bất hủ cho đất nước.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 6

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những tác phẩm thể hiện rõ tình cảnh sinh hoạt vật chất và tinh thần người lính thời đánh Mỹ, rất độc đáo mà ta ít gặp trong thơ thời ấy, đặc biệt là trong đoạn thơ. Đó chính là cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng chí, tình đồng đội. Chỉ bằng ba chi tiết nhưng rất điển hình: “bếp Hoàng Cầm “, “chung bát đũa “, “võng mắc chông chênh”. Đời lính vốn giản dị, bình dị mà lại rất sang trọng.Giữa chiến trường đầy bom đạn mà họ vẫn đàng hoàng “Bếp Hoàng Cầm ta dùng giữa trời”. Giữa trời là giữa thánh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có một bát canh rau rừng, có lương khô… thế mà rất đậm đà. Với Phạm Tiến Duật nói riêng cũng như tất cả những người lính thì tình đồng đội cũng là tình anh em ruột thịt, vô cùng thân thiết.Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương. Chỉ qua hai chữ “nghĩa là”, ta đã thấy nhà thơ trẻ rất xứng đáng với các thi sĩ đàn anh. Cảnh đoàn viên tri kỷ: “võng mắc chông chênh đường xe chạy”. Sau một bữa cơm thân mật, một vài câu chuyện thân tình lúc nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường. Tiền phương vẫy gọi

Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường, những chặng đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chứa chan hy vọng. Là hy vọng, là chiến công đang đón chờ.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời.Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là tín hiệu của sự sum vầy, hội ngộ sau chặng đường hành quân vất vả. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là một gia đình ấm cúng, chan chứa yêu thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung một con đường hành quân, một chiến hào, một nhiệm vụ. Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật bình thường nhưng cũng thật cao đẹp thiêng liêng. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tình đồng chí đã trở thành sức mạnh vô giá, giúp người lính trụ vững nơi chiến trường bom đạn, giành chiến thắng trước quân thù.

Sau một bữa cơm sum họp thân mật, một vài câu chuyện thân tình, những người lính trẻ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi , lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó không chỉ biểu tượng cho sự sống mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình, chứa chan hi vọng chiến công lớn đang chờ. Người chiến sĩ lái xe chính là tự do của nhân loại. Họ chiến đấu để giành lại trời xanh. Chính vì thế dù gian khó hiểm nguy đến đâu, họ cũng vẫn quyết tâm lái xe bon bon về phía trước. Đây không phải là một mệnh lệnh khô khan, là nhiệm vụ đơn thuần mà là tinh thần, là ý chí, là tình cảm của người lính luôn hướng trái tim về miền Nam ruột thịt.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.

Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 7

Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đòan lái xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội.”

Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đoàn kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trận chiến ác liệt, căng thẳng:

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hoàn thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hẳn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ cười hoàn toàn “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương. Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, thân ái. Từ “họp, gặp” diễn tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến.Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con đường thân yêu ấy làm nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Họ dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau những giờ phút căng thẳng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống.Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Khổ thơ vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm rõ những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là kính, la đèn, là mui xe, còn cái “có” lại là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn?Tất cả là bởi một mục đích, một lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:

“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Thì ra “ trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở câu cuối đã lí giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tưởng sâu sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 8

Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt, những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn. Phạm Tiến Duật – một nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho ra đời “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào tháng 5.1969. Thời gian này là cột mốc đánh dấu cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang trong thời khốc liệt nhất. Anh giải phóng quân bước vào chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ ra đi khi vai còn vươn cánh phượng hồng, lòng còn phơi phới tuổi thanh xuân. Những anh hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy chẳng màng đến tương lai đang rộng mở đón chào, đôi chân họ bị níu chặt nơi mặt trận vì hai từ “yêu nước”, với tinh thần lạc quan, ý chí quyết thắng giải phóng miền Nam cùng tình đồng đội đồng chí thắm thiết:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính” đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông; chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá “xế dọc Trường Sơn di cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Ở đây, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng. Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính lái xe cũng như tinh thần đồng đội, đồng chí đáng quý, thiêng liêng ở họ:Cuộc sống của những người lính cũng vô cùng đơn giản, tự nhiên không hề câu lệ, hình thức. Không cần rửa tay, tranh thủ những giờ giải lao họ cùng nhau phì phèo châm điếu thuốc rồi nhìn nhau cười đầy vui vẻ về những mái đầu trắng xóa. Cuộc sống của những người lính gian khổ đấy nhưng chưa lúc nào thiếu đi tiếng cười, thiếu đi hơi ấm của tình đồng đội.

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Nhịp thơ lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người yêu nước nồng nàn đã họp lại thành những tiểu đội, san sẻ cho nhau tình đồng chí, đồng đội gắn bó. Vẫn giọng thơ thật tự nhiên, gần với văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ tình cảm cao đẹp của người lính, của tuổi trẻ sôi nổi, nhiệt tình lãng mạn. Nét duyên dáng của bài thơ là ở chỗ xe không có kính gặp nhiều khó khăn song đôi khi lại trở nên tiện lợi. Gặp bè bạn trên đường chiến đấu chỉ cần đưa tay qua cửa kính là có thể nắm được tay của đồng đội.Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! “Từ trong bom rơi”, từ trong ác liệt mà có thể nắm được tay của đồng đội – điều đó quả thật đầy ý nghĩa. Chính những ô cửa kính vỡ ấy đã khiến cho họ thấy gần nhau hơn, khiến cái bắt tay ấy càng thêm chặt hơn và khi ấy tình đồng đội lại càng thắm thiết hơn. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như sự chia sẻ, như trao nhau niềm tin chiến thắng của những người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng. Phạm Tiến Duật đã xây dựng một tứ thơ thật độc đáo. Chiếc kính vỡ là tượng trưng cho cuộc chiến tranh khốc liệt, là gian khó, thử thách. Thế nhưng vượt qua những khó khăn đó, cái bắt tay siết chặt như trao nhau niềm tin tất thắng. Đó là một vẻ đẹp đầy chất lãng mạn của chủ nghĩa anh hùng ca cách mạng. Nếu như trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã từng viết: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” để nói về sự cảm thông, san sẻ của những người cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung mục đích, lý tưởng thì ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã xây dựng một cái bắt tay với tất cả lòng nhiệt huyết của những người lính thời chống Mỹ – những người đã giác ngộ lý tưởng cộng sản. Với tuổi trẻ ngang tàng, sôi nổi, đầy nhiệt tình mà không kém phần kiêu hùng, họ đã trao cho nhau tất cả niềm tin… rằng một ngày mai bình minh sẽ ló dạng ở miền Nam, rằng một ngày mai nước nhà sẽ Bắc Nam sum họp… Những người chiến sĩ lái xe dũng cảm vẫn làm tròn nhiệm vụ của mình với tinh thần vì miền Nam ruột thịt. Giọng thơ trẻ trung pha lẫn chút ngang tàng của người lính. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Mưa bom bão đạn, lòng thanh thản

Nhạt muối với cơm, miệng vẫn cười.”

Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ. Có thể chỉ từ một đám lửa nhỏ, một vệt khói cũng đủ để giặc oanh kích dữ dội. Nhưng chiếc bếp Hoàng Cầm vẫn dựng lên hiên ngang giữa trời. Đó là sự hiên ngang, kiêu hãnh về trí tuệ của bộ đội ta với bọn giặc xâm lược. Vẫn nét bút tinh nghịch, tươi trẻ, hồn nhiên, những người lính cùng chung bát đũa để thắt thêm tình đồng chí gắn bó khăng khít. Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương. Phạm Tiến Duật đã phát hiện được độ sâu sắc trong tình đồng đội. Trong quân ngũ, tình đồng đội là tình cảm gia đình, ruột thịt, là tình cảm thật đặc biệt, là sự hòa quyện của tình đồng chí, tình người và tình thương yêu giai cấp. Ta lại nhớ đến truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê cũng kể về tình đồng đội mà thắm thiết hơn cả tình chị em của ba cô thanh niên xung phong và những cảm xúc rất riêng của họ. Ta lại nhớ đến các cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ như thể chị em sinh ra từ một người mẹ. Sống cùng và chết cũng không lìa xa. Có thể nói trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã có sự phát hiện thật mới mẻ về tình cảm của người lính, của một thế hệ người Việt Nam, với đời sống tình cảm biết bao mới lạ và sâu sắc.Bài thơ vẫn tiếp tục tô đậm vẻ đẹp của tâm hồn biết yêu thương, mộng mơ, tâm hồn qua thử thách vẫn tươi xanh non mướt qua hai câu thơ:

Họ nghỉ ngơi trong chốc lát trên chiếc võng mắc chông chênh. Từ láy “chông chênh” gợi hình gợi cả tính cách trẻ trung, ngang tàng của người lính. Chữ “chông chênh” vừa nói cái không chắc của thế mắc võng, vừa toát lên cái thi vị, tinh nghịch pha chút mạo hiểm rất quen thuộc của kẻ đưa võng. Sinh hoạt của người lính với cái ăn, cái ngủ được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả qua hai hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” thật độc đáo. Phải sống trong hiện thực cuộc chiến đấu đó, Phạm Tiến Duật mới có thể viết được những vần thơ đẹp đến thế. Thật khó khăn, gian khổ nhưng những người lính nghĩ về nó thật cảm động: “nghĩa là gia đình đấy”. Một khái niệm mới, dù xa nhà đi vào cuộc chiến đấu tử sinh, nhưng người lính vẫn ấm áp mái ấm gia đình, đó là tình đồng đội. Giọng điệu thơ dung dị, thanh thản mà mạnh mẽ như tính cách ngang tàng, ngạo nghễ bất chấp hiểm nguy của chiến tranh. Ngồi bên nhau trong phút chốc, họ lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của quê hương, của miền Nam thân yêu:Trời xanh thêm vì lòng người đang xanh màu xanh hi vọng về bốn chữ “độc lập, tự do”. Điệp ngữ “lại đi” vừa tạo nhạc điệu cho câu thơ vừa nhấn mạnh mệnh lệnh thôi thúc với nhiệm vụ đang chờ phía trước. Nhịp thơ 2/2/3 kết hợp điệp ngữ“lại đi” tựa như nhịp bước hành quân của người chiến sĩ, khó khăn không nản, hi sinh không sờn, những chiếc xe vẫn cứ chạy bon bon ra tiền tuyến. Câu thơ tạo âm điệu câu thơ như tiếng kèn xung trận vì miền Nam thân yêu. Câu thơ gợi ra sự liên tưởng trong lòng người đọc, ta có cảm giác rằng mỗi đoạn đường xe đi qua như mở thêm một khoảng trời hạnh phúc, bình yên. Và mơ ước nữa chứ! Rất nhiều lần trời xanh hiện ra trong mưa bom ở bài thơ này. Tâm hồn người lính sao mà tươi xanh đến thế! Với nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” nói về ngày chiến thắng đã gần kề thôi thúc mọi người tiếp bước lên đường. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng ra chiến trường và đằng sau tay lái là hình ảnh người chiến sĩ lái xe ung dung, bất chấp, lạc quan.Có thể nhận ra được rõ nét tình cảm gắn bó của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn – con đường huyền thoại trong lịch sử dân tộc- chính là ở lối viết dễ hiểu, linh hoạt trong việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Hình ảnh của họ vẫn luôn sống mãi cùng thời gian và khát vọng xây dựng bảo vệ Tổ quốc của bao thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Bài thơ đã khép nhưng đâu đây bên tai ta vẫn tiếng xe chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười “ha ha” của những người lính lái xe can trường. Đơn sơ thế thôi nhưng là những trang hào hùng, là hình ảnh lí tưởng có sức vẫy gọi. Thế hệ nào cũng có những trách nhiệm, những sứ mệnh, những vinh quang và thách thức của mình. Bước chân sang thế kỉ XXI, trận đánh của mỗi người trẻ tuổi chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng những gì hào hùng, thật hấp dẫn ở người lính lái xe, ở thế hệ cha ông vẫn luôn là sự khích lệ, là sự nêu gương để chúng ta gắng sức.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 9

Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt, những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn. Phạm Tiến Duật – một nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho ra đời “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào tháng 5.1969. Thời gian này là cột mốc đánh dấu cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang trong thời khốc liệt nhất. Anh giải phóng quân bước vào chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ ra đi khi vai còn vươn cánh phượng hồng, lòng còn phơi phới tuổi thanh xuân. Những anh hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy chẳng màng đến tương lai đang rộng mở đón chào, đôi chân họ bị níu chặt nơi mặt trận vì hai từ “yêu nước”, với tinh thần lạc quan, ý chí quyết thắng giải phóng miền Nam cùng tình đồng đội đồng chí thắm thiết:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính” đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông; chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá “xế dọc Trường Sơn di cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Ở đây, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng. Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính lái xe cũng như tinh thần đồng đội, đồng chí đáng quý, thiêng liêng ở họ:Cuộc sống của những người lính cũng vô cùng đơn giản, tự nhiên không hề câu lệ, hình thức. Không cần rửa tay, tranh thủ những giờ giải lao họ cùng nhau phì phèo châm điếu thuốc rồi nhìn nhau cười đầy vui vẻ về những mái đầu trắng xóa. Cuộc sống của những người lính gian khổ đấy nhưng chưa lúc nào thiếu đi tiếng cười, thiếu đi hơi ấm của tình đồng đội.

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Nhịp thơ lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người yêu nước nồng nàn đã họp lại thành những tiểu đội, san sẻ cho nhau tình đồng chí, đồng đội gắn bó. Vẫn giọng thơ thật tự nhiên, gần với văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ tình cảm cao đẹp của người lính, của tuổi trẻ sôi nổi, nhiệt tình lãng mạn. Nét duyên dáng của bài thơ là ở chỗ xe không có kính gặp nhiều khó khăn song đôi khi lại trở nên tiện lợi. Gặp bè bạn trên đường chiến đấu chỉ cần đưa tay qua cửa kính là có thể nắm được tay của đồng đội.Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! “Từ trong bom rơi”, từ trong ác liệt mà có thể nắm được tay của đồng đội – điều đó quả thật đầy ý nghĩa. Chính những ô cửa kính vỡ ấy đã khiến cho họ thấy gần nhau hơn, khiến cái bắt tay ấy càng thêm chặt hơn và khi ấy tình đồng đội lại càng thắm thiết hơn. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như sự chia sẻ, như trao nhau niềm tin chiến thắng của những người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng. Phạm Tiến Duật đã xây dựng một tứ thơ thật độc đáo. Chiếc kính vỡ là tượng trưng cho cuộc chiến tranh khốc liệt, là gian khó, thử thách. Thế nhưng vượt qua những khó khăn đó, cái bắt tay siết chặt như trao nhau niềm tin tất thắng. Đó là một vẻ đẹp đầy chất lãng mạn của chủ nghĩa anh hùng ca cách mạng. Nếu như trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã từng viết: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” để nói về sự cảm thông, san sẻ của những người cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung mục đích, lý tưởng thì ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã xây dựng một cái bắt tay với tất cả lòng nhiệt huyết của những người lính thời chống Mỹ – những người đã giác ngộ lý tưởng cộng sản. Với tuổi trẻ ngang tàng, sôi nổi, đầy nhiệt tình mà không kém phần kiêu hùng, họ đã trao cho nhau tất cả niềm tin… rằng một ngày mai bình minh sẽ ló dạng ở miền Nam, rằng một ngày mai nước nhà sẽ Bắc Nam sum họp… Những người chiến sĩ lái xe dũng cảm vẫn làm tròn nhiệm vụ của mình với tinh thần vì miền Nam ruột thịt. Giọng thơ trẻ trung pha lẫn chút ngang tàng của người lính. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Mưa bom bão đạn, lòng thanh thản

Nhạt muối với cơm, miệng vẫn cười.”

Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ. Có thể chỉ từ một đám lửa nhỏ, một vệt khói cũng đủ để giặc oanh kích dữ dội. Nhưng chiếc bếp Hoàng Cầm vẫn dựng lên hiên ngang giữa trời. Đó là sự hiên ngang, kiêu hãnh về trí tuệ của bộ đội ta với bọn giặc xâm lược. Vẫn nét bút tinh nghịch, tươi trẻ, hồn nhiên, những người lính cùng chung bát đũa để thắt thêm tình đồng chí gắn bó khăng khít. Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương. Phạm Tiến Duật đã phát hiện được độ sâu sắc trong tình đồng đội. Trong quân ngũ, tình đồng đội là tình cảm gia đình, ruột thịt, là tình cảm thật đặc biệt, là sự hòa quyện của tình đồng chí, tình người và tình thương yêu giai cấp. Ta lại nhớ đến truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê cũng kể về tình đồng đội mà thắm thiết hơn cả tình chị em của ba cô thanh niên xung phong và những cảm xúc rất riêng của họ. Ta lại nhớ đến các cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ như thể chị em sinh ra từ một người mẹ. Sống cùng và chết cũng không lìa xa. Có thể nói trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã có sự phát hiện thật mới mẻ về tình cảm của người lính, của một thế hệ người Việt Nam, với đời sống tình cảm biết bao mới lạ và sâu sắc.Bài thơ vẫn tiếp tục tô đậm vẻ đẹp của tâm hồn biết yêu thương, mộng mơ, tâm hồn qua thử thách vẫn tươi xanh non mướt qua hai câu thơ:

Họ nghỉ ngơi trong chốc lát trên chiếc võng mắc chông chênh. Từ láy “chông chênh” gợi hình gợi cả tính cách trẻ trung, ngang tàng của người lính. Chữ “chông chênh” vừa nói cái không chắc của thế mắc võng, vừa toát lên cái thi vị, tinh nghịch pha chút mạo hiểm rất quen thuộc của kẻ đưa võng. Sinh hoạt của người lính với cái ăn, cái ngủ được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả qua hai hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” thật độc đáo. Phải sống trong hiện thực cuộc chiến đấu đó, Phạm Tiến Duật mới có thể viết được những vần thơ đẹp đến thế. Thật khó khăn, gian khổ nhưng những người lính nghĩ về nó thật cảm động: “nghĩa là gia đình đấy”. Một khái niệm mới, dù xa nhà đi vào cuộc chiến đấu tử sinh, nhưng người lính vẫn ấm áp mái ấm gia đình, đó là tình đồng đội. Giọng điệu thơ dung dị, thanh thản mà mạnh mẽ như tính cách ngang tàng, ngạo nghễ bất chấp hiểm nguy của chiến tranh. Ngồi bên nhau trong phút chốc, họ lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của quê hương, của miền Nam thân yêu:Trời xanh thêm vì lòng người đang xanh màu xanh hi vọng về bốn chữ “độc lập, tự do”. Điệp ngữ “lại đi” vừa tạo nhạc điệu cho câu thơ vừa nhấn mạnh mệnh lệnh thôi thúc với nhiệm vụ đang chờ phía trước. Nhịp thơ 2/2/3 kết hợp điệp ngữ“lại đi” tựa như nhịp bước hành quân của người chiến sĩ, khó khăn không nản, hi sinh không sờn, những chiếc xe vẫn cứ chạy bon bon ra tiền tuyến. Câu thơ tạo âm điệu câu thơ như tiếng kèn xung trận vì miền Nam thân yêu. Câu thơ gợi ra sự liên tưởng trong lòng người đọc, ta có cảm giác rằng mỗi đoạn đường xe đi qua như mở thêm một khoảng trời hạnh phúc, bình yên. Và mơ ước nữa chứ! Rất nhiều lần trời xanh hiện ra trong mưa bom ở bài thơ này. Tâm hồn người lính sao mà tươi xanh đến thế! Với nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” nói về ngày chiến thắng đã gần kề thôi thúc mọi người tiếp bước lên đường. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng ra chiến trường và đằng sau tay lái là hình ảnh người chiến sĩ lái xe ung dung, bất chấp, lạc quan.Có thể nhận ra được rõ nét tình cảm gắn bó của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn – con đường huyền thoại trong lịch sử dân tộc- chính là ở lối viết dễ hiểu, linh hoạt trong việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Hình ảnh của họ vẫn luôn sống mãi cùng thời gian và khát vọng xây dựng bảo vệ Tổ quốc của bao thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Bài thơ đã khép nhưng đâu đây bên tai ta vẫn tiếng xe chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười “ha ha” của những người lính lái xe can trường. Đơn sơ thế thôi nhưng là những trang hào hùng, là hình ảnh lí tưởng có sức vẫy gọi. Thế hệ nào cũng có những trách nhiệm, những sứ mệnh, những vinh quang và thách thức của mình. Bước chân sang thế kỉ XXI, trận đánh của mỗi người trẻ tuổi chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng những gì hào hùng, thật hấp dẫn ở người lính lái xe, ở thế hệ cha ông vẫn luôn là sự khích lệ, là sự nêu gương để chúng ta gắng sức.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 10

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ. Thơ ông tập trung thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969, nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Bài thơ mà điển hình là khổ thơ năm và sáu đã khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh nhưng qua đó làm nổi bật lên hình tượng người lính với bao phẩm chất cao đẹp.Sau những chặng đường dây mưa bom bão đạn đầy gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có giây phút bình yên:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”

Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi nên qua thử cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, những chiếc xe lại được quây quần bên nhau thành “tiểu đội” – đơn vị nhỏ nhất trong quân ngũ (gồm 12 người). Tiểu đội xe không kính là mười hai chiếc xe và cứ như thế có biết bao nhiêu tiểu đội trên đường ra trận, kể sao cho hết? Suốt dọc đường vào Nam, tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù chỉ trong giây phút nhưng đều là bè bạn “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Mặt khác con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn bè.Bên cạnh đó, giây phút gặp nhau ấy thật thú vị qua cái “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – một cử chỉ thật thân thiện, cảm động. Có biết bao nhiêu điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường hiểm nguy gian khó. Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về đến đích. Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sẻ cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau giữa những người đồng chí, đồng đội chung một chiến hào, chưng một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất.Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt. Chúng ta hãy nghe Phạm Tiến Duật kể về những cái chung ấy:Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là tín hiệu của sự sum vầy, hội ngộ sau chặng đường hành quân vất vả. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là một gia đình ấm cúng, chan chứa yêu thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung một con đường hành quân, một chiến hào, một nhiệm vụ. Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật bình thường nhưng cũng thật cao đẹp thiêng liêng. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tình đồng chí đã trở thành sức mạnh vô giá, giúp người lính trụ vững nơi chiến trường bom đạn, giành chiến thắng trước quân thù.

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Sau một bữa cơm sum họp thân mật, một vài câu chuyện thân tình, những người lính trẻ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi , lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó không chỉ biểu tượng cho sự sống mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình, chứa chan hi vọng chiến công lớn đang chờ. Người chiến sĩ lái xe chính là tự do của nhân loại. Họ chiến đấu để giành lại trời xanh. Chính vì thế dù gian khó hiểm nguy đến đâu, họ cũng vẫn quyết tâm lái xe bon bon về phía trước. Đây không phải là một mệnh lệnh khô khan, là nhiệm vụ đơn thuần mà là tinh thần, là ý chí, là tình cảm của người lính luôn hướng trái tim về miền Nam ruột thịt.Với một chất liệu hiện thực độc đáo, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp điệu biến hóa linh hoạt: khi thì như lời hội thoại, khi thì như khúc văn xuôi phù hợp với nhịp hành quân của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa. Qua đây, có thể khẳng định rằng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những thi phẩm tiêu biểu viết về thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Các anh đã dệt nên những bản tình ca bất hủ cho đất nước.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 11

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ. Thơ ông tập trung thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969, nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Bài thơ mà điển hình là khổ thơ năm và sáu đã khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh nhưng qua đó làm nổi bật lên hình tượng người lính với bao phẩm chất cao đẹp.Sau những chặng đường dây mưa bom bão đạn đầy gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có giây phút bình yên:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”

Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi nên qua thử cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, những chiếc xe lại được quây quần bên nhau thành “tiểu đội” – đơn vị nhỏ nhất trong quân ngũ (gồm 12 người). Tiểu đội xe không kính là mười hai chiếc xe và cứ như thế có biết bao nhiêu tiểu đội trên đường ra trận, kể sao cho hết? Suốt dọc đường vào Nam, tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù chỉ trong giây phút nhưng đều là bè bạn “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Mặt khác con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn bè.Bên cạnh đó, giây phút gặp nhau ấy thật thú vị qua cái “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – một cử chỉ thật thân thiện, cảm động. Có biết bao nhiêu điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường hiểm nguy gian khó. Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về đến đích. Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sẻ cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau giữa những người đồng chí, đồng đội chung một chiến hào, chưng một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất.Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt. Chúng ta hãy nghe Phạm Tiến Duật kể về những cái chung ấy:Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là tín hiệu của sự sum vầy, hội ngộ sau chặng đường hành quân vất vả. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là một gia đình ấm cúng, chan chứa yêu thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung một con đường hành quân, một chiến hào, một nhiệm vụ. Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật bình thường nhưng cũng thật cao đẹp thiêng liêng. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tình đồng chí đã trở thành sức mạnh vô giá, giúp người lính trụ vững nơi chiến trường bom đạn, giành chiến thắng trước quân thù.

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Sau một bữa cơm sum họp thân mật, một vài câu chuyện thân tình, những người lính trẻ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi , lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó không chỉ biểu tượng cho sự sống mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình, chứa chan hi vọng chiến công lớn đang chờ. Người chiến sĩ lái xe chính là tự do của nhân loại. Họ chiến đấu để giành lại trời xanh. Chính vì thế dù gian khó hiểm nguy đến đâu, họ cũng vẫn quyết tâm lái xe bon bon về phía trước. Đây không phải là một mệnh lệnh khô khan, là nhiệm vụ đơn thuần mà là tinh thần, là ý chí, là tình cảm của người lính luôn hướng trái tim về miền Nam ruột thịt.Với một chất liệu hiện thực độc đáo, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp điệu biến hóa linh hoạt: khi thì như lời hội thoại, khi thì như khúc văn xuôi phù hợp với nhịp hành quân của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa. Qua đây, có thể khẳng định rằng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những thi phẩm tiêu biểu viết về thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Các anh đã dệt nên những bản tình ca bất hủ cho đất nước.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 12

Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đòan lái xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội.”

Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đoàn kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trận chiến ác liệt, căng thẳng:

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hoàn thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hẳn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ cười hoàn toàn “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương. Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, thân ái. Từ “họp, gặp” diễn tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến.Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con đường thân yêu ấy làm nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Họ dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau những giờ phút căng thẳng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống.Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:

“Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Khổ thơ vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm rõ những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là kính, la đèn, là mui xe, còn cái “có” lại là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn?Tất cả là bởi một mục đích, một lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:

“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Thì ra “ trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở câu cuối đã lí giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tưởng sâu sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 13

Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt, những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn. Phạm Tiến Duật – một nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho ra đời “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào tháng 5.1969. Thời gian này là cột mốc đánh dấu cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang trong thời khốc liệt nhất. Anh giải phóng quân bước vào chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ ra đi khi vai còn vươn cánh phượng hồng, lòng còn phơi phới tuổi thanh xuân. Những anh hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy chẳng màng đến tương lai đang rộng mở đón chào, đôi chân họ bị níu chặt nơi mặt trận vì hai từ “yêu nước”, với tinh thần lạc quan, ý chí quyết thắng giải phóng miền Nam cùng tình đồng đội đồng chí thắm thiết:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính” đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông; chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá “xế dọc Trường Sơn di cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Ở đây, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng. Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính lái xe cũng như tinh thần đồng đội, đồng chí đáng quý, thiêng liêng ở họ:Cuộc sống của những người lính cũng vô cùng đơn giản, tự nhiên không hề câu lệ, hình thức. Không cần rửa tay, tranh thủ những giờ giải lao họ cùng nhau phì phèo châm điếu thuốc rồi nhìn nhau cười đầy vui vẻ về những mái đầu trắng xóa. Cuộc sống của những người lính gian khổ đấy nhưng chưa lúc nào thiếu đi tiếng cười, thiếu đi hơi ấm của tình đồng đội.

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Nhịp thơ lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người yêu nước nồng nàn đã họp lại thành những tiểu đội, san sẻ cho nhau tình đồng chí, đồng đội gắn bó. Vẫn giọng thơ thật tự nhiên, gần với văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ tình cảm cao đẹp của người lính, của tuổi trẻ sôi nổi, nhiệt tình lãng mạn. Nét duyên dáng của bài thơ là ở chỗ xe không có kính gặp nhiều khó khăn song đôi khi lại trở nên tiện lợi. Gặp bè bạn trên đường chiến đấu chỉ cần đưa tay qua cửa kính là có thể nắm được tay của đồng đội.Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! “Từ trong bom rơi”, từ trong ác liệt mà có thể nắm được tay của đồng đội – điều đó quả thật đầy ý nghĩa. Chính những ô cửa kính vỡ ấy đã khiến cho họ thấy gần nhau hơn, khiến cái bắt tay ấy càng thêm chặt hơn và khi ấy tình đồng đội lại càng thắm thiết hơn. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như sự chia sẻ, như trao nhau niềm tin chiến thắng của những người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng. Phạm Tiến Duật đã xây dựng một tứ thơ thật độc đáo. Chiếc kính vỡ là tượng trưng cho cuộc chiến tranh khốc liệt, là gian khó, thử thách. Thế nhưng vượt qua những khó khăn đó, cái bắt tay siết chặt như trao nhau niềm tin tất thắng. Đó là một vẻ đẹp đầy chất lãng mạn của chủ nghĩa anh hùng ca cách mạng. Nếu như trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã từng viết: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” để nói về sự cảm thông, san sẻ của những người cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung mục đích, lý tưởng thì ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã xây dựng một cái bắt tay với tất cả lòng nhiệt huyết của những người lính thời chống Mỹ – những người đã giác ngộ lý tưởng cộng sản. Với tuổi trẻ ngang tàng, sôi nổi, đầy nhiệt tình mà không kém phần kiêu hùng, họ đã trao cho nhau tất cả niềm tin… rằng một ngày mai bình minh sẽ ló dạng ở miền Nam, rằng một ngày mai nước nhà sẽ Bắc Nam sum họp… Những người chiến sĩ lái xe dũng cảm vẫn làm tròn nhiệm vụ của mình với tinh thần vì miền Nam ruột thịt. Giọng thơ trẻ trung pha lẫn chút ngang tàng của người lính. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Mưa bom bão đạn, lòng thanh thản

Nhạt muối với cơm, miệng vẫn cười.”

Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ. Có thể chỉ từ một đám lửa nhỏ, một vệt khói cũng đủ để giặc oanh kích dữ dội. Nhưng chiếc bếp Hoàng Cầm vẫn dựng lên hiên ngang giữa trời. Đó là sự hiên ngang, kiêu hãnh về trí tuệ của bộ đội ta với bọn giặc xâm lược. Vẫn nét bút tinh nghịch, tươi trẻ, hồn nhiên, những người lính cùng chung bát đũa để thắt thêm tình đồng chí gắn bó khăng khít. Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương. Phạm Tiến Duật đã phát hiện được độ sâu sắc trong tình đồng đội. Trong quân ngũ, tình đồng đội là tình cảm gia đình, ruột thịt, là tình cảm thật đặc biệt, là sự hòa quyện của tình đồng chí, tình người và tình thương yêu giai cấp. Ta lại nhớ đến truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê cũng kể về tình đồng đội mà thắm thiết hơn cả tình chị em của ba cô thanh niên xung phong và những cảm xúc rất riêng của họ. Ta lại nhớ đến các cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ như thể chị em sinh ra từ một người mẹ. Sống cùng và chết cũng không lìa xa. Có thể nói trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã có sự phát hiện thật mới mẻ về tình cảm của người lính, của một thế hệ người Việt Nam, với đời sống tình cảm biết bao mới lạ và sâu sắc.Bài thơ vẫn tiếp tục tô đậm vẻ đẹp của tâm hồn biết yêu thương, mộng mơ, tâm hồn qua thử thách vẫn tươi xanh non mướt qua hai câu thơ:

Họ nghỉ ngơi trong chốc lát trên chiếc võng mắc chông chênh. Từ láy “chông chênh” gợi hình gợi cả tính cách trẻ trung, ngang tàng của người lính. Chữ “chông chênh” vừa nói cái không chắc của thế mắc võng, vừa toát lên cái thi vị, tinh nghịch pha chút mạo hiểm rất quen thuộc của kẻ đưa võng. Sinh hoạt của người lính với cái ăn, cái ngủ được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả qua hai hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” thật độc đáo. Phải sống trong hiện thực cuộc chiến đấu đó, Phạm Tiến Duật mới có thể viết được những vần thơ đẹp đến thế. Thật khó khăn, gian khổ nhưng những người lính nghĩ về nó thật cảm động: “nghĩa là gia đình đấy”. Một khái niệm mới, dù xa nhà đi vào cuộc chiến đấu tử sinh, nhưng người lính vẫn ấm áp mái ấm gia đình, đó là tình đồng đội. Giọng điệu thơ dung dị, thanh thản mà mạnh mẽ như tính cách ngang tàng, ngạo nghễ bất chấp hiểm nguy của chiến tranh. Ngồi bên nhau trong phút chốc, họ lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của quê hương, của miền Nam thân yêu:Trời xanh thêm vì lòng người đang xanh màu xanh hi vọng về bốn chữ “độc lập, tự do”. Điệp ngữ “lại đi” vừa tạo nhạc điệu cho câu thơ vừa nhấn mạnh mệnh lệnh thôi thúc với nhiệm vụ đang chờ phía trước. Nhịp thơ 2/2/3 kết hợp điệp ngữ“lại đi” tựa như nhịp bước hành quân của người chiến sĩ, khó khăn không nản, hi sinh không sờn, những chiếc xe vẫn cứ chạy bon bon ra tiền tuyến. Câu thơ tạo âm điệu câu thơ như tiếng kèn xung trận vì miền Nam thân yêu. Câu thơ gợi ra sự liên tưởng trong lòng người đọc, ta có cảm giác rằng mỗi đoạn đường xe đi qua như mở thêm một khoảng trời hạnh phúc, bình yên. Và mơ ước nữa chứ! Rất nhiều lần trời xanh hiện ra trong mưa bom ở bài thơ này. Tâm hồn người lính sao mà tươi xanh đến thế! Với nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” nói về ngày chiến thắng đã gần kề thôi thúc mọi người tiếp bước lên đường. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng ra chiến trường và đằng sau tay lái là hình ảnh người chiến sĩ lái xe ung dung, bất chấp, lạc quan.Có thể nhận ra được rõ nét tình cảm gắn bó của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn – con đường huyền thoại trong lịch sử dân tộc- chính là ở lối viết dễ hiểu, linh hoạt trong việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Hình ảnh của họ vẫn luôn sống mãi cùng thời gian và khát vọng xây dựng bảo vệ Tổ quốc của bao thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Bài thơ đã khép nhưng đâu đây bên tai ta vẫn tiếng xe chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười “ha ha” của những người lính lái xe can trường. Đơn sơ thế thôi nhưng là những trang hào hùng, là hình ảnh lí tưởng có sức vẫy gọi. Thế hệ nào cũng có những trách nhiệm, những sứ mệnh, những vinh quang và thách thức của mình. Bước chân sang thế kỉ XXI, trận đánh của mỗi người trẻ tuổi chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng những gì hào hùng, thật hấp dẫn ở người lính lái xe, ở thế hệ cha ông vẫn luôn là sự khích lệ, là sự nêu gương để chúng ta gắng sức.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 14

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những tác phẩm thể hiện rõ tình cảnh sinh hoạt vật chất và tinh thần người lính thời đánh Mỹ, rất độc đáo mà ta ít gặp trong thơ thời ấy, đặc biệt là trong đoạn thơ:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Đó chính là cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng chí, tình đồng đội. Chỉ bằng ba chi tiết nhưng rất điển hình: “bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa” , “võng mắc chông chênh”. Đời lính vốn giản dị, bình dị mà lại rất sang trọng.

Giữa chiến trường đầy bom đạn mà họ vẫn đàng hoàng “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”. Giữa trời là giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có một bát canh rau rừng, có lương khô… thế mà rất đậm đà. Với Phạm Tiến Duật nói riêng cũng như tất cả những người lính thì tình đồng đội cũng là tình anh em ruột thịt, vô cùng thân thiết:

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.

Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương. Chỉ qua hai chữ “nghĩa là”, ta đã thấy nhà thơ trẻ rất xứng đáng với các thi sĩ đàn anh. Cảnh đoàn viên tri kỷ: “võng mắc chông chênh đường xe chạy”. Sau một bữa cơm thân mật, một vài câu chuyện thân tình lúc nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường. Tiền phương vẫy gọi:

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường, những chặng đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chứa chan hy vọng. Là hy vọng, là chiến công đang đón chờ.

Vậy đó, đời sống sinh hoạt của người lính mặc dù thiếu thốn, đối mặt với cái đói, cái rét và cả tính mạng của mình mọi lúc mọi nơi, nhưng có tình đồng chí như tình cảm gia đình ruột thịt vậy, họ sẽ không bao giờ cô đơn.

Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 15

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những bài thơ hay nhất viết về chủ đề chiến tranh- người lính trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Lần đầu tiên hình ảnh “trần trụi”, méo mó của những chiếc xe không kính xuất hiện trên những trang thơ, không những thế nó còn vút lên thành thơ và làm nổi bật được vẻ đẹp của những người lính lái xe. Không chỉ tập trung khắc họa “diện mạo” những chiếc xe bị tàn phá bởi bom đạn chiến tranh, nhà thơ Phạm Tiến Duật còn hướng ngòi bút của mình đến đời sống tâm hồn phong phú và tình cảm gắn kết thiêng liêng giữa những người lính. Điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ 6 của bài thơ.

Khổ thơ đã thể hiện chất thơ, chất lính đậm nét trong tâm hồn của những người lính lái xe, đó cũng chính là trong phong cách sáng tác nổi bật của nhà thơ Phạm Tiến Duật khi viết về chiến tranh và những người lính:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”

Sau những giây phút làm nhiệm vụ đầy căng thẳng, mệt mỏi, những người lính đã dừng chân giữa rừng để nghỉ ngơi, ăn uống lấy lại sức cho hành trình sắp tới. “Bếp Hoàng Cầm” là loại bếp dã chiến được dùng phổ biến trong chiến tranh, công dụng của bếp là làm chín thức ăn mà không xuất hiện khói, tránh bị máy bay địch phát hiện từ trên cao. “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”, câu thơ thể hiện được không khí thoải mái, tự do và tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất “lính” của những người lính lái xe. Cái hiểm nguy thường trực nơi chiến trường cùng cảm giác mỏi mệt, căng thẳng khi làm nhiệm vụ như được xua đi bởi hơi ấm của bếp lửa. Ngọn lửa ấm áp đã thắt chặt hơn tình cảm đồng đội, đồng chí của những người chiến sĩ. Trong giây phút này đây họ tựa như những người thân thiết trong một gia đình, bữa cơm vội giữa rừng sâu cũng ấm áp, chan chứa yêu thương như bữa cơm sum họp

“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Cách định nghĩa về gia đình thật đơn giản nhưng cũng thực gần gũi, xúc động. Những người lính không chỉ chung nhau lí tưởng chiến đấu, cùng đối diện với những gian khó, hiểm nguy của cuộc chiến tranh mà họ còn chia sẻ với nhau mọi “cay đắng ngọt bùi” của cuộc sống. Từ “chung” mà nhà thơ Phạm Tiến Duật sử dụng trong câu thơ rất “đắt” vì nó gợi ra được không khí “gia đình” hài hòa, tình đồng đội gắn bó giữa hiện thực dữ dội của cuộc chiến tranh.

Sau bữa cơm gần gũi, thân mật, những người lính tranh thủ mắc võng nghỉ ngơi, tâm tình trước khi tiếp tục hành trình chi viện cho miền Nam:

“Võng mắc chông chênh đường xe chạy”

Những chiếc võng được mắc tạm trên đường hành quân, “chông chênh” gợi ra tư thế không cân bằng, chắc chắn. Câu thơ đã gợi ra hiện thực về cuộc sống gian khổ của những người lính giữa rừng Trường Sơn hiểm trở. Trong cuộc kháng chiến gian khổ, hiểm nguy mỗi bữa ăn, giấc ngủ của họ đều rất ngắn ngủi, tạm bợ để nghỉ ngơi, lấy lại sức lực cho hành trình dài phía trước.

“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”

Câu thơ kết thúc khổ 6 thật đẹp, thật ý nghĩa, nó gợi ra hình ảnh những đoàn xe nối đuôi nhau vượt qua mưa bom bão đạn để chi viện cho chiến trường, mặt khác cũng thể hiện được tinh thần lạc quan và quyết tâm chiến đấu vì miền Nam của những người lính. “Trời xanh” không chỉ là hình ảnh tả thực mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình và cả những hi vọng về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp. Những người lính lái xe mang theo lí tưởng cứu nước cao đẹp và một quyết tâm mạnh mẽ để tiến về miền Nam, đấu tranh giành lại độc lập, thống nhất đất nước.

Bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi cùng giọng điệu vui tươi, hóm hỉnh, nhà thơ Phạm Tiến Duật không chỉ mở ra không gian hiện thực còn nhiều gian khó, thiếu thốn, hiểm nguy mà còn mang đến những cảm nhận thật đặc biệt về tình đồng đội, đồng chí. Những người lính gắn bó với nhau như những người thân trong gia đình, họ lên đường mang theo hành trang là sự lạc quan, quyết tâm chiến đấu và một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước, dân tộc.

Trên đây là nội dung bài học Phân tích khổ 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (15 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (10 bình chọn)


Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button