Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 21 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Dàn ý Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá chi tiết
1. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
Giới thiệu tác giả Huy Cận, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và khổ thơ cuối.
2. Thân bài
a. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá quay trở về:
- Thời gian: Sáng sớm
- Không gian: Biển cả mênh mông
- Đoàn thuyền đánh cá trở về trong niềm vui hân hoan khi thu được những mẻ cá bội thu.
- Khoang nặng đầy cá nhưng thuyền vẫn lướt đi phơi phới như đang chạy đua với mặt trời “Đoàn thuyền chạy đua với mặt trời”.
- “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”: tiếng hát hân hoan, rộn rã đưa con thuyền trở về.
=> Câu hát là sức mạnh cùng với ngọn gió làm căng buồm cho thuyền lướt nhanh trở về như đang thi với thiên nhiên.
b. Cảnh bình minh huy hoàng
– Bình minh lên “mặt trời đội biển” nhô lên trong một ngày mới tạo nên vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ kỳ vĩ, tráng lệ.
– Nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh cũng là thời gian của chuyến ra khơi rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá.
Thành quả lao động:
- “Mắt cá huy hoàng”: thể hiện thành quả lao động suốt hành trình muôn dặm ngoài biển khơi.
- Niềm tự hào, vui say trong lao động với hy vọng một cuộc sống tươi đẹp huy hoàng trước mắt.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của khổ thơ, bài thơ.
21 mẫu Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 1
Nếu như bài thơ “Tiểu đội đội xe không kính” là bài ca về lòng dũng cảm, ý chí, trái tim thiết tha đối với Miền Nam, của những lái xe không kính thì “đoàn thuyền đánh cá” lại là khúc tráng ca về công cuộc lao động của con người trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong những năm đầu sau giải phóng.
Nếu các khổ thơ đầu nói về chuyến hành trình đánh cá gian lao và vất vả trong không khí tươi vui của đất nước, hân hoan tưng bừng cùng nhau thi đua với khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ thì khổ thơ cuối tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Huy Cận sử dụng biện pháp đầu cuối tương ứng. Câu đầu khổ cuối lặp lại với câu cuối khổ đầu như là điệp khúc của thơ ca. Như vậy câu hát đã theo hành trình của người dân chài lưới với niềm lạc quan, tin tưởng và vui sướng. Điều này nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu quê hương đất nước của người dân chài.
Đoàn thuyền trở về trong câu hát hân hoan, phấn khởi với những khoang thuyền đầy ắp cá với tư thế hào hùng khẩn trương “chạy đua cùng mặt trời” giành lấy thời gian, tranh thủ thời gian để lao động.Đoàn thuyền ở đây sánh ngang cùng vũ trụ, là hình ảnh hoán dụ để chỉ người dân trong tư thế sóng ngang cùng vũ trụ. Trong cuộc chạy đua này con người đã dành được chiến thắng. Khi “Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
“Mặt trời đội biển nhô màu mới” là hình ảnh nhân hóa vẻ đẹp ngày mới như một huyền thoại rực rỡ. Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác không phải mặt trời của thiên nhiên mà là mặt trời của muôn loài mắt cá long lanh trong buổi bình minh. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, bản hùng ca lao động.
Câu kết đã diễn tả ánh mặt trời đã điểm tô cho những thành quả lao động thêm rực rỡ, muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa sáng huy hoàng, góp phần làm đẹp thêm trời biển quê hương. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa tôm cá, niềm vinh quang bình dị của người lao động.
Qua khổ thơ ta thấy thuyền và người luôn nổi bật giữa vũ trụ và niềm vui chiến thắng cũng mang lại tầm vóc lớn lao. Văn chương Việt Nam sau năm 1945 không chỉ khắc họa hình ảnh các anh bộ đội cứu nước mà còn vẽ lên chân dung của những người lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài thơ nói về những con người đang ngày đêm cống hiến sức lực của mình cho đất nước.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã viết trong bình giảng các tác phẩm văn học lớp 9 rằng: “câu hát căng thuyền đưa buồm đi nay đưa thuyền về. Nhưng nó về với một tư thế mới: chạy đua cùng mặt trời và trong cuộc đua này, còn người đã về đích trước và giành chiến thắng. Khi mặt trời vừa đội biển mà lên đèn màu đỏ sáng cho đất nước thì thuyền đã về bến từ lâu. Ánh sáng ban mai làm cho thành quả lao động trở nên rực rỡ, huy hoàng”.
Tác giả miêu tả đoàn thuyền đánh cá theo vòng tuần hoàn của thời gian, từ đêm hôm trước tới sáng ngày hôm sau. Và theo mạch cảm xúc của bài thơ đó là khúc hát vang vọng, ca ngợi tinh thần lao động hăng say để xây dựng quê hương đất nước, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam ruột thịt.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 2
Cảnh tượng đặc sắc, ngạo ở khổ đầu còn được tiếp tục lặp lại ở khổ thứ ba, miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi nay đã trở về thắng lợi.
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Hình ảnh “câu hát căng buồm với gió khơi” lặp lại ở khổ thơ đầu, khúc hát hào hùng từ khi bắt đầu cuộc đi biển tới khi đoàn thuyền trở về, câu hát vui vẻ, phấn chấn tiếp thêm sức mạnh cho những người dân chài đối diện với gian khó. m hưởng ngân vang của bài ca thắng lợi, khi đi là những câu hát mang niềm kỳ vọng, khát khao về một buổi ra khơi thành công, khi về là khúc hát, là lời reo hò mừng vui khôn xiết cho những thành quả lao động đã gặt hái được. Và một lần nữa, hình ảnh mặt trời lại xuất hiện trong câu thơ, nhưng thay vì là “mặt trời xuống biển” thì ở đây là “mặt trời đội biển”, mặt trời lên, một ngày mới, một sức sống mãnh liệt mới. Sau một đêm lao động vất vả, lênh đênh ngoài biển khơi, giờ đây, những người dân chài được đền đáp không chỉ bằng lưới cá đầy khoang mà còn là ánh bình minh rực rỡ, ánh sáng mang lại sự sung túc ấm no. “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”, biểu tượng của sự no đủ. Cá được mùa, mặt trời ấm áp, báo hiệu một cuộc sống không phải chật vật cơm áo gạo tiền. Có lẽ, đối với người lao động chân tay thuần túy, không có gì quý giá hơn sóng yên biển lặng, tay lưới trĩu nặng vì cá tôm. Người dân chài giống như những tráng sĩ trở về với chiến công hiển hách, vang dội, nhấn mạnh nét đẹp lao động, nét đẹp của những cơ bắp dạn dày gió sương và những đôi tay khéo léo làm việc không quản gian nan.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ phải kể đến câu thơ “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Được ví như nhãn tự của tác phẩm, Huy Cận nâng tầm con người lên với tầm của vũ trụ. Quả cầu lửa của nhân loại, mặt trời lộng lẫy chói chang, giờ đây, đoàn thuyền với những người lao động cũng có thể sánh ngang với mặt trời. Trải dài từ đầu đến cuối bài thơ là giọng điệu tự hào, trân trọng những con người cống hiến, làm việc và sinh sống giữa thiên nhiên xoay vần, biến chuyển không ngừng nhưng không hề xuất hiện sự bé nhỏ, sợ hãi. Tư thế của những người dân vạn chài luôn hướng về cuộc sống mới, nơi có ánh sáng rạng rỡ, “chạy đua cùng mặt trời”. Sau một đêm lao động vất vả, họ vẫn dồi dào năng lượng, cũng giống như đất nước và con người Việt Nam, chìm trong chiến tranh, đạn bom loạn lạc, nhưng khi tổ quốc bước vào thời kì xây dựng, người dân vẫn luôn sẵn sàng tiên phong, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc.
Với lời thơ dứt khoát, mạnh mẽ cùng âm hưởng bản anh hùng ca, hình ảnh thơ lặp lại, tương xứng ở khổ đầu và khổ cuối, tác giả đã mang đến một nức họa với những khối màu vừa hài hòa, giao thoa vừa đối lập, tương phản. Đặc sắc nghệ thuật của hai khổ thơ chính là ở chỗ, dùng những hình ảnh cũ nhưng nội dung lại nói về cái mới, tạo nên sự hô ứng giữa không gian và thời gian. Không gian tuần hoàn, thời gian ngày đêm lặp vòng cũng giống như những người lao động luôn làm việc hăng say, hết mình cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 3
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai – Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”. Bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ đầu và cuối của bài.
Bài thơ ra đời trong thời điểm miền Bắc nước ta đang trong giai đoạn đầu dựng chủ nghĩa xã hội. Xuyên suốt toàn bài thơ là âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan thể hiện rõ dấu ấn của sự chuyển mình trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. Cũng vẫn là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, nếu như trước cách mạng, thiên nhiên vũ trụ đi vào thơ ông thường gợi cảm giác về sự rợn ngợp trước cái mênh mông, vô cùng vô tận khiến con người trở nên nhỏ bé, cô độc thì ở bài này, thiên nhiên vũ trụ trở nên tươi sáng, khoáng đạt gần gũi với con người, mạnh mẽ và đầy tự tin trong tư thế của một vị chủ nhân của biển cả.
Sau một đêm đánh cá vất vả đoàn thuyền lại trở về vào lúc bình minh:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Câu thơ “câu hát căng buồm” với gió khơi, gần như nguyên vẹn câu thơ trong khổ đầu tiên. Đây là lần thứ ba tiếng hát vang lên. Tiếng hát biểu hiện cho niềm vui của những người đánh cá khi được hưởng thành quả rực rỡ sau một đêm lao động vất vả. Tiếng hát ấy vang lên hùng tráng khi đoàn thuyền đang rẽ sóng trở về. Nhà thơ nhân hóa “đoàn thuyền” đang “chạy đua cùng mặt trời, chạy đua cùng thời gian. Hai tiếng “chạy đua” cho ta thấy những người đan chài mặc dù suốt đêm làm việc không mệt mỏi nhưng sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế của họ vẫn mạnh mẽ. Huy Cận đã nâng cao người lên tầm vóc vũ trụ rộng lớn. Con người thật xứng đáng với tầm vóc chủ nhân biển cả, vẫn muốn giành thời gian để lao động, để cống hiến.
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi“.
Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa “mặt trời đội biển” gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên và cái “màu biển” là màu hồng bình minh, là lời chào đón của thiên nhiên với những người lao động cần cù. Đặc biệt câu thơ cuối cùng gợi ra hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào trên khoang cũng đầy ắp cá. Ánh mặt trời chiếu vào mắt cá khiến cho mỗi mắt cá như một mặt trời nhỏ, lấp lánh. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng” vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp đang mở ra trước mắt. Đó là một hình ảnh đầy sáng tạo và lãng mạn.
Bài thơ có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ.
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận thực sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng, sắc màu và sức sống mãnh liệt. Bài thơ là khúc ca ca ngợi biển cả giàu đẹp và ca ngợi những người dân chài trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa do đảng và Bác Hồ chỉ đường dẫn lối.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 4
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn của tác phẩm, khổ cuối của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang “chạy đua cùng mặt trời”. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng:
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng cùng bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng. Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 5
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá khắc họa đậm nét cuộc sống lao động hăng say, tràn đầy khí thế và niềm tin của người dân làng chài. nhưng có lẽ, bài ca lao động ngân vang hào hùng nhất, hay nhất ở khổ thơ cuối cùng: diễn tả cảnh đoàn thuyền thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Bốn câu thơ cuối đã dựng lên quang cảnh kỳ vĩ về cuộc chạy đua của con người (đoàn thuyền) với mặt trời. Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân;
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.
Như vậy, câu hát đã theo suốt cuộc hành trình của người dân chài. Câu hát mở đầu lúc họ bắt đầu lên đường ra khơi, và khi trở về lại những câu hát ấy. Cấu trúc lặp: như một điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương. Có lẽ câu hát lúc ra đi là câu hát lạc quan tin tưởng khi trở về con thuyền sẽ đầy ắp cá tươi, còn câu hát lúc trở về là câu hát vui sướng trước thành quả lao động sau một đêm vất vả.
Không chỉ có hình ảnh câu hát được lặp lại ở khổ cuối, ta còn thấy hình ảnh mặt trời cũng xuất hiện. Nếu khổ đầu là mặt trời của hoàng hồn thì đây là mặt trời của bình minh. Bình minh báo hiệu một ngày mới, báo hiệu một sự sống sinh sổi nảy nở, là sự khởi đầu của những niềm vui, niềm hạnh phúc mà người dân chài có được sau một chuyến hành trình rất vất vả và cực nhọc.
Đặc biệt ở khổ thơ cuối có một hình ảnh rất hay, rất hoành tráng và lãng mạn: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với hình ảnh mặt trời kì vĩ. Huy Cận đã lấy một sự vật bé nhỏ, bình dị để ngầm so sánh với hình ảnh vĩ đại của thiên nhiên: “mặt trời”. Hình ảnh nhân hoá, nói quá làm tăng thêm sức dồi dào, vẫn hăng say mạnh mẽ sau một đêm lao động vất vả của người dân chài. Nói như vậy là tác giả đã làm nổi bật tư thế của những con người lao động, bởi nói đoàn thuyền nhưng thực chất là nói đến người dân chài. Đoàn thuyền ở đây là một hoán dụ để chỉ người ngư dân. Họ trở về trong một tư thế lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm với vũ trụ, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đã chiến thắng. Chính những con người lao động ấy đã chiến thắng thiên nhiên và làm chủ thiên nhiên.
Khi mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền về bến:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Ta lại bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác, không phải của thiên nhiên mà của muôn ngàn mắt cá lấp lánh trong buổi bình minh. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca, bản anh hùng ca lao động. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đong đầy khi được mùa cá, niềm vinh quang của người lao động rất bình dị, nhỏ bé. Nó làm nổi bật tư thế làm chủ vũ trụ, làm chủ cuộc sống của những con người lao động. Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…
Với kết cấu đầu cuối tương ứng, khổ cuối bài thơ khép lại một hành trình gian nan mà hào hùng của người lao động trên biển. Họ ra khơi với niềm tin tưởng và trở về với thắng lợi. Đó cũng là hình ảnh của người lao động trong thời đại mới, đang vươn mình cai quản thiên nhiên, làm chủ đất nước.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 6
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là khúc ca lao động đầy hào hùng của những người ngư dân khi hòa mình vào không khí lao động mới của đất nước. Bài thơ đã tái hiện sống động công việc lao động của người ngư dân trên biển, trong đó hai khổ thơ đầu diễn tả cảnh lên đường, những khổ tiếp theo là hoạt động của đoàn thuyền giữa biển trời đêm, cho đến khổ cuối ta được thấy cảnh đoàn thuyền bội thu trở về trong buổi bình minh lên.
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua với mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Giống như một bài ca lao động, đã trải qua những khúc dạo đầu, đoạn điệp khúc và giờ là khúc cuối ngân nga, vang vọng. Mở đầu bài thơ là câu hát của người dân lao động – ngư dân làng chài, đến khi kết thúc bài thơ vẫn là câu hát ngân vang, tha thiết ấy. Khi đoàn thuyền đánh cá trở về, câu hát một lần nữa cất lên thể hiện cho niềm vui phơi phới, hạnh phúc dâng trào vì chuyến ra khơi trải qua một đêm vất vả trên biển đã được an toàn, bội thu trở về. Mặc cho khoang thuyền đã nặng đầy cá nhưng thuyền vẫn lướt đi lướt nhanh trên mặt biển như “chạy đua cùng mặt trời”. Những câu hát của ngư dân cùng với ngọn gió làm căng buồm cho thuyền lướt nhanh trở về như đang chạy đua với thiên nhiên. Hình ảnh con người lao động trong tư thế làm chủ, dưới khung cảnh hùng vĩ, bao la của biển cả trở nên thật đẹp đẽ, huy hoàng.
Hình ảnh “mặt trời đội biển nhô màu mới” một lần nữa được xuất hiện tạo ra sự hô ứng thú vị với hình ảnh “mặt trời xuống biển” ở phần đầu bài thơ. Nếu như khổ đầu là hình ảnh mặt trời của buổi chiều hoàng hôn, tia nắng đã sắp tàn chỉ còn lại hòn than rực hồng, thì tới khổ thơ cuối, mặt trời ấy là của buổi sớm bình minh ngày hôm sau. Bình minh lên, mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới tạo nên vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ kỳ vĩ, tráng lệ. Mặt trời đã có màu mới, tượng trưng cho ánh sáng mới, cuộc sống mới tươi đẹp, rực rỡ và tráng lệ. Nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh cũng là thời gian của chuyến ra khơi rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng” thể hiện cho thành quả lao động suốt hành trình muôn dặm ngoài biển khơi, cũng là thể hiện sự tự hào trước những thành quả trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Mắt của những con cá được ánh mặt trời chiếu rọi vào, lóe lên rực rỡ điểm tô cho thành quả lao động cực nhọc, dường như mỗi mắt cá lại là một mặt trời, là mặt trời huy hoàng của cuộc sống, của tương lai đất nước. Ta thấy rõ niềm tự hào, vui say trong lao động với hy vọng một cuộc sống tươi đẹp huy hoàng trước mắt của người dân làng chài trên đoàn thuyền đánh cá.
Bằng những hình ảnh đẹp, mới mẻ và nhiều màu sắc, khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận giống như lời ca ngợi ngân vang và bay bổng, từng câu thơ, từng hình ảnh đã gói gọn cả một hành trình lao động sản xuất yêu nước của người dân làng chài. Chỉ là một đoàn thuyền đánh cá nhưng đã góp phần vào công cuộc phát triển và xây dựng đất nước, mỗi ngư dân đều đang đóng góp sức mình làm cho ngày mai của đất nước ngày càng tươi sáng hơn.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 7
Hồn thơ Huy Cận được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn trước 1945, thơ của ông mang màu sắc u buồn, ảm đạm. Nhưng từ sau cách mạng tháng Tám, thơ ông mang âm hưởng tươi vui hơn. Tiêu biểu cho phong cách sáng tác sau cách mạng phải kể đến tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là lời ngợi ca của tác giả về công cuộc lao động sản xuất của con người. Đặc biệt ở khổ cuối, tác giả đã làm nổi bật cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về sau ngày dài ra khơi.
Hình ảnh con thuyền trở về được Huy Cận khắc họa rõ nét qua
“Câu hát căng buồm với gió khơi”
Một lần nữa câu hát căng buồm lại vang lên giống với khổ thơ thứ nhất. Nếu câu hát ở khổ thơ thứ nhất thể hiện niềm mong ước cho chuyến ra khơi thuận lợi thì câu hát ở khổ này lại mang ý nghĩa khác. Đó là lời ca thể hiện niềm vui, niềm hứng khởi của ngư dân sau một buổi lao động vất vả, tôm cá chất đầy khoang thuyền. Câu hát ngân vang như một điệp khúc trong bài ca dao lao động. Từ niềm vui đó, họ hân hoan tận hưởng cảnh bình minh trên biển:
“Đoàn thuyền chạy đua với mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Hình ảnh mặt trời lặp lại nhưng vào hai thời điểm khác nhau. Ở đoạn đầu của bài thơ, tác giả nhắc đến mặt trời trong buổi hoàng hôn. Thế nhưng trong khổ thơ này, mặt trời lại đại diện cho buổi bình minh, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Hình ảnh con thuyền nhỏ bé được so sánh với mặt trời của thiên nhiên. Dường như đoàn thuyền đang cố gắng chạy đua với mặt trời để khi những tia nắng đầu tiên chiếu xuống mặt đất thì thuyền cũng về tới đất liền. Hay nói cách khác hình ảnh đoàn thuyền trở về với một tư thế khỏe khoắn, hiên ngang vì người dân đã làm chủ được thiên nhiên, làm chủ thành quả lao động. Trong cuộc chạy đua với mặt trời, con người đã giành chiến thắng. “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là ý thơ giúp ta cảm nhận được muôn vàn mắt cá sáng lên lấp lánh trong buổi bình minh. Không chỉ vậy qua đó, nhà thơ còn muốn gửi gắm một niềm tin, niềm tự hào về quê hương đất nước đang trên con đường thay đổi.
Đoàn thuyền đánh cá là một bức tranh thơ lung linh những sắc màu lộng lẫy, vừa có vẻ đẹp của cuộc sống con người, vừa có vẻ đẹp của thiên nhiên kì vĩ, lớn lao. Bằng việc sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, nhà thơ Huy Cận đã diễn tả thật cụ thể hình ảnh đoàn thuyền ra khơi khi trở về đất liền. Từ đó, ông muốn ca ngợi hành trình lao động của con người trên khắp mọi miền đất nước.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 8
Huy Cận là một nhà thơ thuộc phong trào thơ Mới. Ông có một giọng điệu riêng phản ánh sự vĩnh hằng và nhân ái của vũ trụ rộng lớn, sự bao dung trong thế giới đầy bí ẩn và diệu kỳ. Con người là thực thể bao trùm và là nét nhấn mạnh trong thơ của ông, kết nối với sự xoay vần vũ trụ và khát khao đẹp đẽ của con người. Vì vậy, thơ của ông có sức hấp dẫn đặc biệt khiến người đọc đi qua thế giới của mây trời sông nước và cảm nhận được nét tài hoa của người thợ chạm khắc ngôn ngữ để thiên nhiên sống dậy. Trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” khổ thơ cuối cùng là ấn tượng nhất:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh “mặt trời xuống biển” và kết thúc bằng “mặt trời đội biển”, miêu tả một đêm lao động đầy đủ của ngư dân trên biển. Khổ thơ đầu tiên trong bài diễn tả cảnh thuyền ra khơi và đánh cá. Khổ thơ cuối cùng thể hiện một đêm lao động trôi qua nhanh chóng và đoàn thuyền trở về sau khi kéo lưới, tạo nên một khung cảnh đẹp và khỏe khoắn. Bốn câu thơ cuối cùng thể hiện một cuộc chạy đua đầy hào hứng giữa con người (đoàn thuyền) và mặt trời. Câu đầu tiên của khổ thơ được lặp lại gần như nguyên vẹn từ câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay đổi một từ “với” tạo nên một sự cân đối và hài hòa. Cấu trúc lặp lại đó trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui làm giàu và làm đẹp cho quê hương, cùng với niềm vui phấn khởi của người ngư dân:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Bài thơ bắt đầu bằng lời ca ngợi của người lao động – ngư dân làng chài, và kết thúc bằng lời ca vang, tha thiết đó. Khi đoàn thuyền đánh cá trở về, lời hát lại vang lên, thể hiện niềm vui phấn khởi, hạnh phúc tràn đầy khi chuyến ra khơi qua một đêm vất vả đã được hoàn thành an toàn và bội thu trở về. Mặc dù khoang thuyền đã đầy cá, nhưng thuyền vẫn nhanh chóng lướt trên mặt biển như “đua cùng mặt trời”. Những câu hát của ngư dân và gió giúp thuyền lướt nhanh trở về, như thể đang đua với thiên nhiên. Hình ảnh con người lao động trong tư thế chủ động, trên khung cảnh hùng vĩ, rộng lớn của biển cả trở nên vô cùng đẹp đẽ và huy hoàng. Nhà thơ đã đưa màu sắc của thiên nhiên kỳ diệu làm nên màu sắc của cuộc sống ấm no. Cảnh đánh cá của người dân chài đã cho ta thấy được không khí lao động vừa lãng mạn vừa hăng say, lao động thực sự trở thành niềm vui của cuộc đời, những con người mới trong xã hội mới đã biết trân trọng những giá trị của lao động. Người dân trong bài thơ là hiện thực của cuộc sống cần lao với hình ảnh người dân chài mang bao phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Vị mặn mà của biển cả mang đến hương vị nồng ấm của cuộc sống. Một đêm qua đi khi ánh bình minh ló dạng cũng là lúc một ngày mới bắt đầu. Và lúc đó là khung cảnh trở về của đoàn thuyền. Đoàn thuyền trở về đem theo trong khoang đầy ắp cá tôm, đó cũng là lúc người dân chài cất cao tiếng hát lần thứ ba.
Những câu hát của ngư dân cùng với ngọn gió làm căng buồm cho thuyền lướt nhanh trở về như đang chạy đua với thiên nhiên. Hình ảnh con người lao động trong tư thế làm chủ, dưới khung cảnh hùng vĩ, bao la của biển cả trở nên thật đẹp đẽ, huy hoàng. Tiếng hát trong khổ thơ cuối mang niềm sung sướng hạnh phúc sau một đêm lao động vất vả. Con thuyền và mặt trời với nghệ thuật nhân hóa, cấu trúc song hành đã tạo nên không khí khẩn trương hối hả. Hình ảnh mặt trời đội biển tỏa ánh sáng bao trùm đại dương bao la, con thuyền phóng như bay về bến cướp lấy thời gian làm nên sự hối hả hào hứng chẳng khác lúc ra khơi. Tiếng hát mừng chiến thắng lan tỏa ra khắp không gian mênh mông hòa theo âm vang sóng vỗ tạo nên một khúc ca tuyệt đẹp về cuộc đời. Niềm hạnh phúc dâng trào trong lòng những người lao động chân chính. Bằng mồ hôi xương máu bằng trí tuệ và nhiệt tình người dân miền biển đã góp cho khúc nhạc quê hương một bài ca cuộc sống. Sự hào hứng hay chính là niềm hạnh phúc của thành quả lao động đem đến sức sống vĩnh viễn đối với người lao động Việt Nam.
Khổ thơ cuối có một hình ảnh rất hay, rất hoành tráng và lãng mạn: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với hình ảnh mặt trời kì vĩ. Huy Cận đã lấy một sự vật bé nhỏ, bình dị để ngầm so sánh với hình ảnh vĩ đại của thiên nhiên: “mặt trời”. Hình ảnh nhân hóa, nói quá làm tăng thêm sức dồi dào, vẫn hăng say mạnh mẽ sau một đêm lao động vất vả của người dân chài. Nói như vậy là tác giả đã làm nổi bật tư thế của những con người lao động, bởi nói đoàn thuyền nhưng thực chất là nói đến người dân chài. Đoàn thuyền ở đây là một hoán dụ để chỉ người ngư dân. Họ trở về trong một tư thế lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm với vũ trụ, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đã chiến thắng. Chính những con người lao động ấy đã chiến thắng thiên nhiên và làm chủ thiên nhiên. Khi mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền về bến:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Một hình ảnh khác của mặt trời lại xuất hiện, không phải là của thiên nhiên mà là của hàng ngàn mắt cá rực rỡ trong bình minh. Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sống động bằng biện pháp nhân hóa “mặt trời đội biển” gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời mạnh mẽ có sức mạnh lớn lao như đang đội lên biển tạo nên “màu biển” của bình minh hồng đón chào những người lao động cần cù. Câu thơ cuối cùng gợi ra hình ảnh đoàn thuyền trở về, đầy ắp cá và ánh mặt trời chiếu sáng lấp lánh từng mắt cá. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng” thể hiện thành quả lao động, niềm vui, niềm tự hào của người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp mở ra trước mắt. Đó là một hình ảnh lãng mạn và sáng tạo, phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca của người lao động. Nó thể hiện niềm vui chiến thắng, niềm vui đong đầy khi được mùa cá và vinh quang của người lao động thật bình dị. Hình ảnh này làm nổi bật tư thế làm chủ cuộc sống của những người lao động làm chủ vũ trụ.
Bài thơ có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận thực sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng, sắc màu và sức sống mãnh liệt. Bài thơ là khúc ca ca ngợi biển cả giàu đẹp và ca ngợi những người dân chài trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa do đảng và Bác Hồ chỉ đường dẫn lối.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 9
Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận,… được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương.
Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn-đêm trăng-và bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa. Khổ thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát – tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương:
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Cảnh rạng đông với hình ảnh “mặt trời đội biển… “nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa, một “màu mới” bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong việc tả “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi ” đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc đời.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn “vạn cổ sầu ” vào vũ trụ và lòng người thì những bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài Đoàn thuyền đánh cá mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời.
Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi dào hải sản.
Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó.
Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.
Thật vậy, Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát… cho thấy một hồn thơ đẹp.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 10
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới.
Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng.
Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước.
Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người.
Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ mang âm hưởng hùng tráng và lãng mạn. Với hình ảnh đẹp, kỳ vỹ, giọng văn tinh tế mà lôi cuốn, khổ thơ cuối khép lại bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhà thơ đưa ta từ những hình ảnh này đến những hình ảnh khác vừa đẹp mà lại phong phú và hấp dẫn. Không khí lao động hang say cùng với cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời mang lại một nguồn sống mới cho con người trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa. Bài thơ là động lực giúp cho người lao đọng vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 11
Không khí xây dựng cuộc sống mới, đã khiến toàn bộ sáng tác của Huy Cận thay da đổi thịt. Ta không còn thấy cái buồn rớt của một trí thức tiểu tư sản trước cách mạng, mà thay vào đó là hồn thơ say đắm, tha thiết yêu cuộc sống mới, con người mới. Những vần thơ ca ngợi là vần thơ chủ yếu trong giai đoạn sáng tác này của ông, trong đó nổi bật hơn cả là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong chuyến đi thực tế dài ngày ở Quảng Ninh của ông. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại, dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).
Trong bài thơ, cảnh tượng đặc sắc, ngạo nghễ ở khổ đầu còn được tiếp tục lặp lại ở khổ cuối, miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi nay đã trở về thắng lợi.
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Hình ảnh “câu hát căng buồm với gió khơi” lặp lại ở khổ thơ đầu, khúc hát hào hùng từ khi bắt đầu cuộc đi biển tới khi đoàn thuyền trở về, câu hát vui vẻ, phấn chấn tiếp thêm sức mạnh cho những người dân chài đối diện với gian khó. m hưởng ngân vang của bài ca thắng lợi, khi đi là những câu hát mang niềm kỳ vọng, khát khao về một buổi ra khơi thành công, khi về là khúc hát, là lời reo hò mừng vui khôn xiết cho những thành quả lao động đã gặt hái được.
Và một lần nữa, hình ảnh mặt trời lại xuất hiện trong câu thơ, nhưng thay vì là “mặt trời xuống biển” thì ở đây là “mặt trời đội biển”, mặt trời lên, một ngày mới, một sức sống mãnh liệt mới. Sau một đêm lao động vất vả, lênh đênh ngoài biển khơi, giờ đây, những người dân chài được đền đáp không chỉ bằng lưới cá đầy khoang mà còn là ánh bình minh rực rỡ, ánh sáng mang lại sự sung túc ấm no. “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”, biểu tượng của sự no đủ.
Cá được mùa, mặt trời ấm áp, báo hiệu một cuộc sống không phải chật vật cơm áo gạo tiền. Có lẽ, đối với người lao động chân tay thuần túy, không có gì quý giá hơn sóng yên biển lặng, tay lưới trĩu nặng vì cá tôm. Người dân chài giống như những tráng sĩ trở về với chiến công hiển hách, vang dội, nhấn mạnh nét đẹp lao động, nét đẹp của những cơ bắp dạn dày gió sương và những đôi tay khéo léo làm việc không quản gian nan.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ phải kể đến câu thơ “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Được ví như nhãn tự của tác phẩm, Huy Cận nâng tầm con người lên với tầm của vũ trụ. Quả cầu lửa của nhân loại, mặt trời lộng lẫy chói chang, giờ đây, đoàn thuyền với những người lao động cũng có thể sánh ngang với mặt trời. Trải dài từ đầu đến cuối bài thơ là giọng điệu tự hào, trân trọng những con người cống hiến, làm việc và sinh sống giữa thiên nhiên xoay vần, biến chuyển không ngừng nhưng không hề xuất hiện sự bé nhỏ, sợ hãi.
Tư thế của những người dân vạn chài luôn hướng về cuộc sống mới, nơi có ánh sáng rạng rỡ, “chạy đua cùng mặt trời”. Sau một đêm lao động vất vả, họ vẫn dồi dào năng lượng, cũng giống như đất nước và con người Việt Nam, chìm trong chiến tranh, đạn bom loạn lạc, nhưng khi tổ quốc bước vào thời kì xây dựng, người dân vẫn luôn sẵn sàng tiên phong, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc.
Với lời thơ dứt khoát, mạnh mẽ cùng âm hưởng bản anh hùng ca, hình ảnh thơ lặp lại, tương xứng ở khổ đầu và khổ cuối, tác giả đã mang đến một nức họa với những khối màu vừa hài hòa, giao thoa vừa đối lập, tương phản. Đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ cuối chính là ở chỗ, dùng những hình ảnh cũ nhưng nội dung lại nói về cái mới, tạo nên sự hô ứng giữa không gian và thời gian. Không gian tuần hoàn, thời gian ngày đêm lặp vòng cũng giống như những người lao động luôn làm việc hăng say, hết mình cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 12
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với khổ thơ cuối của tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn của tác phẩm, khổ cuối của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang “chạy đua cùng mặt trời”.
Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng:
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng cùng bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước. Bình minh rạng rỡ chào đón họ trở về. Đoạn thơ cuối mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của những con người làm chủ thiên nhiên đất trời.
Với đoạn thơ cuối khép lại tác phẩm, nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã thực sự cuốn hút người đọc.
Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc – một Huy Cận trữ tình cách mạng.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 13
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai – Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”. Bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ đầu và cuối của bài.
Bài thơ ra đời trong thời điểm miền Bắc nước ta đang trong giai đoạn đầu dựng chủ nghĩa xã hội. Xuyên suốt toàn bài thơ là âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan thể hiện rõ dấu ấn của sự chuyển mình trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận.
Cũng vẫn là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, nếu như trước cách mạng, thiên nhiên vũ trụ đi vào thơ ông thường gợi cảm giác về sự rợn ngợp trước cái mênh mông, vô cùng vô tận khiến con người trở nên nhỏ bé, cô độc thì ở bài này, thiên nhiên vũ trụ trở nên tươi sáng, khoáng đạt gần gũi với con người, mạnh mẽ và đầy tự tin trong tư thế của một vị chủ nhân của biển cả.
Ở khổ thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp hình ảnh người dân chài cá ra khơi vào lúc hoàng hôn.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết “Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào” với “hòn lửa”. Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển xanh, cả không gian vũ trụ như nhuốm một màu đỏ rực rỡ và huy hoàng. Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945.
Trước đó bao nhiêu sóng nước tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi nhân: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Độc đáo hơn, nhà thơ đã tả “mặt trời xuống biển” (trong khi biển nước ta là biển đông – một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ nhưng có thể lý giải được bởi phải chăng Huy Cận đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt trời lặn “xuống biển”?
Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt, màn đêm từ từ buông xuống: “Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Nghệ thuật nhân hóa đã đem lại cho người đọc cảm giác thiên nhiên vũ trụ trong màn đêm như một ngôi nhà lớn, gần gũi, thân thuộc với con người, nó không huyền bí, xa lạ với con người, đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà như đang đi trong chính ngôi nhà thân thuộc của mình.
Như vậy, nhờ sự khéo léo tài tình biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong hai câu thơ mở đầu, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa được vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên lúc hoàng hôn và mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên vũ trụ với con người đang khao khát chinh phục làm chủ biển khơi.
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Chuyến ra khơi này là cả một đoàn thuyền với khí thế căng tràn, khí thế lao động tập thể, chứ không phải là chuyến ra khơi của những con thuyền lẻ tẻ ở ven bờ. Hơn hết, tuy công việc đánh cá ở ngoài khơi nặng nhọc và đầy bất trắc nhưng đoàn quân vẫn xông trận cất cao tiếng hát. Đây là một hình ảnh bay bổng thể hiện sự tưởng tượng liên tưởng độc đáo của tác giả. Bên cạnh đó, tiếng hát đã bộc lộ niềm lạc quan, phấn khởi, nhiệt tình của lao động của những con người làm chủ quê hương giàu đẹp.
Sau một đêm đánh cá vất vả đoàn thuyền lại trở về vào lúc bình minh:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Câu thơ “câu hát căng buồm” với gió khơi, gần như nguyên vẹn câu thơ trong khổ đầu tiên. Đây là lần thứ ba tiếng hát vang lên. Tiếng hát biểu hiện cho niềm vui của những người đánh cá khi được hưởng thành quả rực rỡ sau một đêm lao động vất vả. Tiếng hát ấy vang lên hùng tráng khi đoàn thuyền đang rẽ sóng trở về.
Nhà thơ nhân hóa “đoàn thuyền” đang “chạy đua cùng mặt trời, chạy đua cùng thời gian. Hai tiếng “chạy đua” cho ta thấy những người đan chài mặc dù suốt đêm làm việc không mệt mỏi nhưng sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế của họ vẫn mạnh mẽ. Huy Cận đã nâng cao người lên tầm vóc vũ trụ rộng lớn. Con người thật xứng đáng với tầm vóc chủ nhân biển cả, vẫn muốn dành thời gian để lao động, để cống hiến.
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa “mặt trời đội biển” gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên và cái “màu biển” là màu hồng bình minh, là lời chào đón của thiên nhiên với những người lao động cần cù.
Đặc biệt câu thơ cuối cùng gợi ra hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào trên khoang cũng đầy ắp cá. Ánh mặt trời chiếu vào mắt cá khiến cho mỗi mắt cá như một mặt trời nhỏ, lấp lánh. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng” vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp đang mở ra trước mắt. Đó là một hình ảnh đầy sáng tạo và lãng mạn.
Bài thơ có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận thực sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng, sắc màu và sức sống mãnh liệt. Bài thơ là khúc ca ca ngợi biển cả giàu đẹp và ca ngợi những người dân chài trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa do đảng và Bác Hồ chỉ đường dẫn lối.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 14
Huy cận là một trong số những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ Mới với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá ” sáng tác 1958 khi miền Bắc đi lên xây dựng cách mạng xã hội với khí thế làm ăn tập thể sôi nổi hào hứng và cũng chính lúc ấy hồn thơ Huy Cận nảy nở trở lại tràn đầy niềm tin yêu cuộc sống với người dân và đất nước. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của con người lao động mới trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với hồn thơ tinh tế, trí tưởng tượng phong phú và nhạy cảm. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động trên biển với sự hăng say và vẻ đẹp hùng tráng. Những người ngư dân ra khơi trong hoàn cảnh đặc biệt hoàng hôn xuống, vũ trụ đi vào nghỉ ngơi thì họ lại bắt tay vào công việc lao động đánh cá trên biển.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hình ảnh thơ đẹp tráng lệ các biện pháp tu từ so sánh nhân hóa. Cảnh hoàng hôn trên biển đẹp, kỳ vĩ, tráng lệ. Vũ trụ đã đến giờ nghỉ ngơi yên tĩnh những đợt sóng dừng ngang trên mặt biển như những chiếc then cài còn cánh cửa là màn đêm sập xuống.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Đây không phải là chiếc thuyền bé tiểu tiêu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng không phải là chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã trong thơ tế hành mà là cả một đoàn thuyền hùng dũng ra khơi. Người ngư dân bắt đầu một công việc lao động mới trên biển công việc chinh phục biển khơi đó là khí thế lao động tập thể đầy tự tin, phấn khởi của người dân miền Bắc trong những năm tháng ấy.
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hình ảnh ẩn dụ cho thấy chỉ có gió mới làm căn phòng cánh buồm phải chăng nhà thơ như muốn nói những người dân chài hào hứng hân hoan ra khơi trong niềm vui câu hát.
Hình ảnh người lao động trong thời điểm đoàn thuyền đánh cá trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Câu hát căng buồm được lập lại ở khổ cuối làm cho bài thơ có cấu trúc trọn vẹn hơn đó là niềm vui bội thu. Khi bình minh lên mặt chơi lóe sáng cũng là lúc hoàn tất công việc trở về với những khoang cá nặng đầy mà vẫn phơi phới chạy đua cùng mặt trời tầm vóc lớn lao phi thường của người lao động vừa thực vừa hào hứng. Hình ảnh thơ phản ánh một thói quen lâu đời của người dân là đưa cá về bến trước lúc trời sáng. Hoàng hôn xuống biển thuyền đi thâu đêm đánh cá trở về khi bình minh.
Với hình ảnh nhân hóa ẩn dụ đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời, mặt trời đội biển nói lên vẻ đẹp của người chinh phục thiên nhiên đã hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế làm chủ. Họ lao động bằng niềm tin niềm lạc quan của mình. Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Là sự liên tưởng về tương lai tươi sáng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc đang đón chờ người dân.
Hai khổ thơ đầu và cuối tác phẩm với thể thơ tự do, giọng thơ bay bổng trí tưởng tượng phong phú. Tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa liệt kê và liên tưởng tưởng tượng. Vì thế bài thơ được coi là khúc tráng ca của người lao động vì sự giàu đẹp của quê hương, đất nước.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 15
Huy Cận là một trong những cây bút có sức sáng tạo dồi dào trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam. Thơ ông có sự vận động, thay đổi qua từng chặng đường, nếu trước cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận chất chứa một nỗi sầu bi khôn xiết mà theo nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh thì đó là “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này”.
Sau Cách mạng, thơ Huy Cận có sự thay đổi lớn cả về tư tưởng và tình cảm, ông hướng ngòi bút khám phá cuộc sống lao động mới qua những vần thơ tươi vui, chứa đựng những niềm tin mãnh liệt về tương lai tươi sáng.
Tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Huy Cận sau cách mạng là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Viết về cuộc sống lao động trên biển của những người ngư dân, đặc biệt trong ba khổ thơ cuối của bài, nhà thơ đã tập trung khắc họa cảnh đánh bắt cá trên biển và vẻ đẹp hài hòa của con người lao động trong không gian hùng vĩ, mênh mông của biển cả.
Nếu trong những khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận đã mở ra trước mắt người đọc khung cảnh ra khơi đầy hứng khởi, tươi vui khi hoàng hôn buông xuống thì ba khổ thơ cuối lại là khúc hát gọi cá đầy mê say của người dân chài lưới khi thu hoạch cá và khung cảnh huy hoàng, tráng lệ của đoàn thuyền khi trở về đất liền.
Công việc lao động trên biển vốn mệt nhọc lại tiềm ẩn những hiểm nguy thế nhưng đọc những câu thơ của Huy Cận, ấn tượng đọng lại trong tâm trí người đọc không phải những căng thẳng, mệt nhọc mà lại là khung cảnh lao động hài hòa, tươi vui:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Trong đêm tối, tiếng hát gọi cá của những người ngư dân đã xua tan hết những mỏi mệt của công việc, gợi mở ra không khí say mê, lãng mạn trong chính công việc lao động. Tiếng hát ngân vang cùng tiếng gõ thuyền cùng hòa âm để tạo nên một bản nhạc du dương đầy sức cuốn hút, gọi mời. Những người ngư dân tựa người nghệ sĩ trên biển cả: say mê, nhiệt huyết và tràn đầy sức sống. Công việc đánh bắt vất vả dưới ngòi bút tài hoa và cảm hứng lãng mạn của Huy Cận trở nên thơ mộng, đẹp đẽ hơn bao giờ hết.
Trong nhận thức và thế giới tình cảm của những người ngư dân, biển cả không chỉ là đối tượng chinh phục mà vĩ đại tựa lòng mẹ khi mang đến nguồn sống cho con người:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Biển cả rộng lớn, mênh mông nhưng chan chứa nghĩa tình, biển mang đến cá tôm, ban tặng những mẻ cá bội thu, nuôi sống con người bao thế hệ “Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Phép so sánh cùng sự liên tưởng độc đáo đã thể hiện được lòng biết ơn, sự trân trọng của những người ngư dân với tấm lòng rộng lượng, bao la của biển cả. Bằng giọng điệu thiết tha, chân thành kết hợp với ngôn ngữ bình dị nhưng giàu cảm xúc, nhà thơ Huy Cận đã gợi ra mối quan hệ gắn bó, hòa hợp, tôn trọng của con người và thiên nhiên.
Sau một đêm đánh bắt trên biển, những người ngư dân hồ hởi thu hoạch những mẻ cá đầy, không khí khẩn trương, rộn rã:
“Kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Khi đêm sắp tàn, ngày mới chuẩn bị đến là khi người ngư dân thu hoạch thành quả suốt một đêm lao động mệt nhọc để trở về đất liền. Mọi hành động đều được thực hiện thành thục, khẩn trương “Kéo lưới kịp trời sáng”. Kéo “xoăn tay” vừa gợi ra sự khỏe khoắn, mạnh mẽ của động tác kéo lưới vừa cho thấy thành quả đánh bắt đáng tự hào với “chùm cá nặng”. Cảnh thu lưới được nhìn dưới con mắt lãng mạn, bay bổng của thi sĩ nên những công việc lao động lam lũ, bình dị cũng trở nên đậm chất thơ.
Động từ “lóe” gợi nhiều liên tưởng thú vị, nó không chỉ gợi ra vẻ đẹp đầy duyên dáng của những con cá “vảy bạc đuôi vàng” mà còn mở ra không gian của một ngày mới, khi những ánh nắng đầu tiên bắt đầu xuất hiện. Công việc hoàn thành, tấm lưới được xếp gọn, cánh buồm được căng mình đón gió để đưa đoàn thuyền trở về trong ánh “nắng hồng” ấm áp, rực rỡ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Khung cảnh thật huy hoàng, tráng lệ làm sao!
Trong bài thơ có 3 lần tiếng hát được cất lên, đó là tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển khi đoàn thuyền ra khơi (khổ 2), tiếng hát gọi cá trong đêm tối (khổ 5) và tiếng hát lại một lần nữa vang lên khi đoàn thuyền trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Tiếng hát như hòa trong tiếng gió để làm căng cánh buồm, đưa đoàn thuyền trở về. Hình ảnh đoàn thuyền “chạy đua cùng mặt trời” quá đỗi thi vị, lãng mạn. Cách liên tưởng độc đáo đã gợi ra không khí khẩn trương, nhịp di chuyển nhanh, mạnh mẽ của đoàn thuyền trên không gian mênh mông, rộng lớn của biển cả. Khi mặt trời vừa “đội biển nhô màu mới” thì cũng là khi đoàn thuyền vượt qua hành trình dài trên biển để trở về bến.
Bức tranh lao động mang cảm quan vũ trụ khi có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Hình ảnh con người tự tin, làm chủ cuộc sống trở nên đẹp đẽ hơn trong không gian bao la của thiên nhiên. “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện được niềm vui, sự tự hào của những người ngư dân sau một đêm lao động trên biển cả, đó là cảnh tượng huy hoàng , tráng lệ khép lại bức tranh thơ.
Qua việc sử dụng những từ ngữ giàu sức gợi kết hợp với những thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa và cảm quan lãng mạn, nhà thơ Huy Cận đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực về khung cảnh lao động trên biển, về vẻ đẹp của con người lao động trong công việc bình dị nhưng đầy ý nghĩa.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 16
Huy Cận viết bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh. Bài thơ ra đời trong một thời kỳ sôi nổi trên miền Bắc nước ta, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá. Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài lao động khi nhân dân làm chủ cuộc đời.
Bài thơ gồm bảy khổ thơ ghi lại hành trình của một đoàn thuyền đánh cá: ra khơi lúc hoàng hôn, đánh cá một đêm trăng trên Hạ Long, trở về bến lúc rạng đông. Đây là hai khổ thơ thứ 6 và 7 nói lên cảnh kéo lưới lúc mờ sáng và cảnh đoàn thuyền buồm căng gió lộng trở về:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng…
…
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Cảnh kéo lưới diễn ra lúc “sao mờ” – lúc trời gần sáng. Chữ “kịp” trong câu thơ “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng” thể hiện tinh thần khẩn trương, hối hả của ngư dân lúc kéo lưới. Bao hồi hộp và hy vọng đón chờ. Cá mắc vào lưới thành những “chùm cá nặng” như chùm trái cây treo lủng lẳng. Phải là nhiều cá lắm mới mắc vào lưới, phải là những bạn chài trẻ tráng có đôi cánh tay rắn chắc, có sức khỏe dẻo dai mới có thể “kéo xoăn tay”.
Câu thơ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” là một câu thơ hay và đẹp: hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo ca ngợi vẻ đẹp khỏe mạnh trẻ tráng trong lao động. Huy Cận hay sử dụng từ “chùm ” để tả thế giới sinh vật, như gà, cá tạo nên hình tượng thơ ngộ nghĩnh, đầy ấn tượng:
“… Như cây sai mẹ đứng giữa chùm con
Chiều chiều thu vàng rực tâm hồn… “
(Chiều thu quê hương)
Nếu khổ thơ thứ tư , tác giả tả đàn cá biển đẹp như một bức tranh sơn mài lộng lẫy trong đó có những con cá song “lấp lánh đuốc đen hồng – cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe “, thì ở khổ thơ thứ sáu này, những con cá biển tươi ngon mắc vào lưới cũng vô cùng rực rỡ: “Vảy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông”. Có thể nói ở những câu thơ tả cá là những câu thơ đẹp nhất, sáng tạo nhất ở cách phối sắc, ở cách sử dụng hình ảnh hoán dụ (vảy cá, đuôi cá, mắt cá…).
Dưới ánh rạng đông “lóe” lên, cá nằm đầy khoang thuyền được phản chiếu càng ánh lên màu “vàng”, màu “bạc” thể hiện một niềm vui tươi trong lao động của các bạn chài. Câu thơ “lưới xếp / buồm lên / đón nắng hồng” với cách ngắt nhịp 2/2/3, với cách sử dụng liên tiếp ba động từ (xếp, lên, đón) diễn tả mọi công việc trên biển diễn ra tuần tự mà khẩn trương để trở về.
Khổ cuối tả đoàn thuyền đánh cá trở về bến. Gió biến thổi căng cánh buồm đưa câu hát của ngư dân vang xa trên biển cả. Đây là lần thứ ba, nhà thơ nhắc lại câu hát lần thứ nhất là tiếng hát ra khơi, tiếng hát phấn chấn, hồ hởi lên đường: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Lần thứ hai là tiếng hát lúc đánh cá, tiếng hát say mê lao động và ngợi ca biển với bao ân tình sâu nặng, thiết tha:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào “
Lần thứ ba là tiếng hát mừng vui thắng lợi. Niềm vui của người dân chài hoà nhập với thiên nhiên- một rạng đông đẹp tươi, một ngày vui mới bắt đầu. Con thuyền thì chạy đua… “, mặt trời thì “đội biển. Đoàn thuyền lướt sóng như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian, để nhanh chóng trở về bến. cảnh tượng tráng lệ, nhịp điệu cuộc sống khẩn trương vô cùng:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới…“
Câu thơ “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi ” là một câu thơ hay cho thấy biện pháp lãng mạn của Huy Cận trong bài thơ này. Hình ảnh “mắt cá ” (hoán dụ), sóng biển và cát lấp lánh cùng với muôn triệu mắt cá như trải dài, trải rộng trên “muôn dặm phơi”. Câu thơ vừa tả cảnh biển tráng lệ lúc rạng đông, vừa tả cảnh được mùa cá (thậm xưng) đẹp.
Nói rằng lao động là niềm-vui sáng tạo. Nói rằng biển quê ta giàu đẹp. Nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, Huy Cận đã nói được rất hay trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ,đặc biệt trong hai khổ này. Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá và thậm xưng. Một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người vì “đất nở hoa và “biển đang hát”.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 17
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Thơ ông dồi dào cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ, và con người lao động. “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận, khi bằng bút pháp lãng mạn bay bổng, thi phẩm đã tái hiện sự hài hòa của vẻ đẹp thiên nhiên và con người lao động, qua đó bộc lộ niềm tự hào, niềm vui của tác giả trước cuộc sống mới. “Đoàn thuyền đánh cá” quả thực đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
“Đoàn thuyền đánh cá” ra đời vào năm 1958 in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”, khi đó miền Bắc đang bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước và con người lao động, niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ có bảy khổ thơ, được triển khai theo hành trình một chuyến ra khơi. Đó là cảnh đoàn thuyền ra khơi, tiếp nối là cảnh đánh cá trên biển và cảnh đoàn thuyền trở về. Trong khổ thơ thứ 4, người lao động vừa hăng say làm việc vừa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của biển cả với bao loài cá:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Nghệ thuật liệt kê “cá chim, cá nhụ, cá đé, cá song” đã phát huy triệt để tác dụng để ngợi ca sự giàu có, thật nhiều tài nguyên của biển khơi đất nước. Biển cả không chỉ giàu mà còn rất đẹp, với ngọn “đuốc đen hồng” cá song đang lao đi trong biển cả dưới ánh trăng lấp lánh. Tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra chấm tròn đen, hồng trên thân cá song tựa như những ngọn đuốc rực rỡ. Tô thêm vẻ đẹp nơi biển cả, chính là ánh trăng vàng chóe, ánh trăng như dát vàng trên mặt nước để cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra.
Trí tưởng tượng của Huy Cận là vô hạn với tiếp một hình ảnh nhân hóa, “đêm thở”, “sao lùa”. Sao trên trời in hình xuống dòng nước, những con sóng đánh lên, mà tưởng như sao đang lùa dưới đáy đại dương như một sinh vật đang di chuyển, tiếng rì rào của sóng biển chính là tiếng thở của đêm.
Sau khi thả lưới và đợi chờ, người ngư dân bắt đầu gõ thuyền, dồn cá vào lưới trong tiếng hát ngân vang:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
Đó là tiếng hát khỏe khoắn, vang xa đầy sự lạc quan, niềm vui phấn khởi đã tạo động lực cho người dân chài gọi cá đến mắc lưới. Thiên nhiên dường như cũng thức dậy góp phần sức lực trợ giúp con người. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in mình trên mặt nước, sóng xô bóng trăng vào mạn thuyền khiến nhà thơ tưởng tượng mặt trăng đang giữ nhịp cho tiếng gõ thuyền đều đặn. Hòa với khúc ca lao động, người dân chài cũng cất khúc ca biết ơn, tri ân với biển cả:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Biển được nhân hóa như lòng mẹ ân nghĩa, thủy chung bao la. Biển cho con người cá, đem đến cuộc sống ấm no bao đời nay, lời hát đã thể hiện tình cảm biết ơn chân thành, sâu sắc của người ngư dân với biển cả quê hương.. Khi sao mờ dần, màn đêm dần dần nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới thì cũng là lúc người ngư dân bắt đầu kéo lưới, thu hoạch thành quả:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Chi tiết đặc tả “ta kéo xoăn tay” đã khắc họa trực tiếp vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động miền biển. Con người như đang khẩn trương chạy đua với thời gian, những động tác kéo lưới rất căng, rất khỏe, kéo thật mạnh, thật đều tay để thu hoạch được những thành quả tốt nhất. Thành quả ấy chính là “chùm cá nặng”, một hình ảnh tượng trưng cho mùa cá bội thu, một thành quả vô cùng xứng đáng với công sức của những người ngư dân.
Cùng lúc ấy, từ phía chân trời bắt đầu bừng sáng, những con cá quẫy dưới ánh sáng rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rực rỡ, huy hoàng. Phải chăng biển bạc, biển vàng đang ban tặng cho tinh thần lao động miệt mài, hăng say, không biết mệt mỏi của người dân làng chài?
Bài thơ kết thúc bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến, sau một ngày lao động. trên biển tràn ngập âm thanh tiếng hát của những người ngư dân:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Câu hát vang lên như một điệp khúc suốt từ đầu tới cuối bài thơ, suốt hành trình của người ngư dân. Âm hưởng lời thơ trở nên mạnh mẽ hơn, khỏe khoắn hơn, vút cao bay bổng trong niềm hứng khởi khi tác giả thay chữ “cùng” thành chữ “với”. Tác giả sử dụng bút pháp nhân hóa kết hợp phóng đại khi đặt “đoàn thuyền” sánh ngang, tham gia vào “cuộc đua” với mặt trời. Trong cuộc đua ấy, hình ảnh con người được nâng cao, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ.
Đây cũng chính là nét thay đổi trong phong cách sáng tác Huy Cận từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kỳ miền Bắc đã giành hòa bình, đang xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi con người về bến, mặt trời cũng bắt đầu một ngày mới. Những tia nắng hồng ban mai khiến mắt cá lấp lánh như những mặt trời nhỏ trải dài bờ biển đến muôn dặm. Bằng lao động, người dân làng chài đã viết nên bài ca chiến thắng, bài ca cuộc đời mới tươi đẹp.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ đặc sắc thể hiện rõ phong cách của Huy Cận. Trong 4 khổ thơ cuối, bằng bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, bay bổng, liên tưởng phong phú, sáng tạo, nhà thơ đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa với vẻ đẹp con người lao động, tạo nên khúc tráng ca hùng tráng, mĩ lệ. Qua đó, Huy Cận đã thể hiện tấm lòng ca ngợi, niềm tự hào về con người mới, cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 18
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ.
Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. 5 khổ thơ cuối của tác phẩm đã làm hoàn chỉnh bức tranh hài hoà giữa thiên nhiên và cuộc sống lao động.
Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơ là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh : mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “ Lái gió” “ buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt.
Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trời mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”
Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả.
Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao: “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi: “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.
Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “cho ta cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.
Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng đáng:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hăng hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lớn “chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.
Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “ đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.
Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thỏa mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động.
Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khỏe mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 20
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một tác phẩm ca ngợi tinh thần lao động kiên cường của người ngư dân, khi họ đồng hành cùng sự phát triển của đất nước. Bài thơ không chỉ miêu tả chân thực công việc của người ngư dân trên biển, mà còn tái hiện hình ảnh đẹp của họ trong những khung cảnh khác nhau. Hai khổ đầu tiên mô tả cảnh đường đi, còn các khổ tiếp theo tả hoạt động của đoàn thuyền trên biển trong đêm tối, cho đến khi đoàn trở về vào bình minh trong khung cảnh rực rỡ.
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua với mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Giống như một bản tình ca lao động, bài thơ đã trải qua những giai điệu đầu tiên, nhịp điệu trung hòa và đang vang lên trong giai điệu cuối cùng. Bài thơ bắt đầu bằng giọng ca của người lao động – những ngư dân trong làng chài, và kết thúc với âm điệu đầy cảm xúc đó. Khi đoàn thuyền đánh cá trở về, âm nhạc cất lên một lần nữa, thể hiện niềm vui phơi phới, hạnh phúc dâng trào vì cuộc hành trình trải qua một đêm khó khăn trên biển đã được hoàn thành an toàn, và đoàn trở về với bội thu. Mặc dù khoang thuyền đã đầy cá nhưng chiếc thuyền vẫn lướt đi nhanh trên mặt biển như đang “đua chạy cùng mặt trời”. Những câu hát của ngư dân cùng với gió thổi căng buồm cho thuyền, khiến nó trở nên nhanh như đang đua với tự nhiên. Hình ảnh của những con người lao động trong tư thế làm chủ, dưới bầu trời hùng vĩ, bao la của biển cả, trở nên cực kỳ đẹp đẽ và huy hoàng.
Hình ảnh “mặt trời nhô lên từ biển một màu mới” tái hiện tạo nên sự cộng hưởng thú vị với hình ảnh “mặt trời xuống biển” ở đầu bài thơ. Nếu khổ thơ đầu miêu tả mặt trời chiều sắp tàn, chỉ còn lại một vệt than hồng đỏ rực, thì mặt trời ở khổ thơ cuối là của buổi sáng ngày hôm sau. Bình minh đưa mặt trời mọc trên biển tạo nên vẻ đẹp huy hoàng, hùng vĩ của vũ trụ. Mặt trời có màu mới, tượng trưng cho ánh sáng mới, sự sống mới rực rỡ và tráng lệ. Vòng quay của vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh cũng là lúc những đoàn thuyền đánh cá lên đường và trở về. Hình ảnh “mắt cá rực rỡ” tượng trưng cho thành quả lao động trong suốt hành trình dài trên biển, cũng như niềm tự hào về những thành quả đạt được trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Ánh nắng chiếu vào mắt đàn cá khiến chúng lung linh rực rỡ, tô điểm cho thành quả lao động gian khổ. Dường như mỗi mắt cá là một mặt trời, mặt trời huy hoàng của sự sống và tương lai của đất nước. Ta thấy rõ niềm tự hào, hân hoan trong lao động, với niềm hi vọng về một cuộc sống tươi sáng, tráng lệ của người dân làng chài trên thuyền đánh cá.
Với những hình ảnh tươi sáng, độc đáo và phong phú, khúc cuối của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một lời ca ngợi bay bổng, ngân vang cả hành trình sản xuất, lao động và yêu nước của người dân làng chài. Dù chỉ là một đoàn thuyền đánh cá nhỏ, nhưng nó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và xây dựng đất nước, và mỗi ngư dân đều đóng góp sức mình để làm cho ngày mai của đất nước thêm tươi sáng.
Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 21
Bài thơ “Đoàn thuyền danh ca” miêu tả sinh động cuộc sống lao động cần mẫn, đảm đang của những người dân làng chài. Tuy nhiên, có lẽ bài ca lao động hào hùng và đẹp đẽ nhất là ở khổ thơ cuối, khắc họa cảnh đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong ánh bình minh huy hoàng và tráng lệ:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Bốn dòng cuối bài thơ tạo nên một khung cảnh tráng lệ giữa con người (đoàn thuyền đánh cá) và thiên nhiên (mặt trời) đua nhau đua sắc. Dòng đầu của khổ thơ cuối lặp lại gần giống với dòng cuối của khổ thơ đầu, chỉ thêm một chữ (“với”) để tạo nên một cấu trúc tương ứng, tạo nên sự cân đối hài hòa. Cách kết cấu lặp đi lặp lại này trở thành một điệp khúc vang dội, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu cho quê hương tươi đẹp và khắc họa sinh động vẻ đẹp cường tráng, niềm vui phấn khởi của người dân chài.
Cuộc hành trình của người dân chài được theo dõi bằng câu hát lặp đi lặp lại từ đầu đến cuối. Câu hát ban đầu họ hát khi chuẩn bị lên đường ra khơi, và lại hát khi trở về đầy vui sướng. Cấu trúc lặp này giống như một điệp khúc ngân nga, tôn vinh niềm vui và sự cống hiến của người lao động trong việc làm giàu đẹp quê hương. Có thể câu hát khi ra đi là biểu tượng cho niềm tin, hy vọng, trong khi câu hát khi trở về thể hiện niềm vui sướng trước thành quả sau một đêm vất vả.
Ngoài câu hát, hình ảnh của mặt trời cũng xuất hiện trong bài thơ. Nếu ở khổ đầu, mặt trời là biểu tượng cho hoàng hôn, thì ở khổ cuối, đó là mặt trời của bình minh. Bình minh là sự khởi đầu của một ngày mới, tạo ra sự sống và niềm vui cho con người. Nó tượng trưng cho niềm hy vọng và niềm hạnh phúc mà người dân chài có được sau một chuyến hành trình vất vả trên biển.
Đặc biệt, trong khổ thơ cuối, tác giả đã tạo ra một hình ảnh hoành tráng và lãng mạn: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Hình ảnh của đoàn thuyền đã được so sánh với mặt trời kỳ vĩ, tạo nên một sự tương phản đầy ấn tượng. Tác giả đã sử dụng hình ảnh nhân hoá để tăng cường sức mạnh và sự kiên trì của những người lao động chài lưới sau một đêm vất vả. Khi nói đến đoàn thuyền, tác giả cũng đang đề cập đến những người ngư dân. Họ trở về bến với tư thế vẻ vang, kỳ vĩ, sánh ngang với vũ trụ và đã chiến thắng cuộc đua với thiên nhiên. Những người lao động này đã trở thành chủ nhân của thiên nhiên khi mặt trời vừa ló rạng và một ngày mới bắt đầu.
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Ta tiếp tục bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác, không phải trong thiên nhiên mà trong hàng ngàn mắt cá lấp lánh ở bình minh. Bài thơ phảng phất không khí thần thoại, ca ngợi anh hùng lao động. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm hạnh phúc của mùa cá, niềm vinh quang của những người lao động bình dị, nhỏ bé. Điều đó làm nổi bật tư thế làm chủ của những con người lao động, chủ vũ trụ, chủ cuộc sống của mình. Câu thơ cuối bài vừa miêu tả thực tế, vừa khơi gợi tưởng tượng về một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Bắt đầu một ngày mới, thành quả lao động lan tỏa muôn nơi – một cuộc sống mới đang nảy nở, phát triển…
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận khắc họa đậm nét cuộc sống lao động hăng say, tràn đầy khí thế và niềm tin của người dân làng chài. Tuy nhiên, được xem là đỉnh cao của bài thơ, khổ thơ cuối cùng diễn tả cảnh đoàn thuyền trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ, đã dựng lên quang cảnh kỳ vĩ về cuộc chạy đua của con người với thiên nhiên.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Cảm nhận khổ 3, 4 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (4 mẫu)
- Cảm nhận của em về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá (7 mẫu)
- Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
- Phân tích 3 khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (14 mẫu)
- Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá (16 mẫu)
- Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá (20 mẫu)
- Phân tích khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (11 mẫu)
- Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (22 mẫu)
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)