Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 14 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh.
Dàn ý Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12
Dàn ý Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Số 1
1. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh ngắn gọn, hay nhất (14 Mẫu)
- Đề cập những nét chính về tác giả Xuân Quỳnh.
- Giới thiệu bài thơ Sóng, tóm tắt nội dung ý nghĩa của tác phẩm.
- Dẫn dắt vấn đề trong bài viết về khổ 3 4 bài Sóng.
2. Thân bài
- Hình tượng sóng cùng những trăn trở của em.
- Những băn khoăn và suy tư của nữ sĩ trước biển lớn.
- Những nỗi nhớ nhung đáng yêu trong tình yêu của em.
3. Kết bài
- Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ cũng như khổ 3 4
- Thể hiện những cảm nhận và suy nghĩ của bản thân khi tìm hiểu khổ 3 4.
Dàn ý Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Số 2
1. Mở bài:
– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ với hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính.
- Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.
– Khái quát nội dung khổ 3 và 4: hình tượng sóng đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.
2. Thân bài:
* Khái quát về hình tượng “sóng”
– Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng “sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình tượng sóng.
+ Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.
+ “Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.
-> Với hình tượng sóng, có thể nói Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện thật xác đáng tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu.
– Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).
-> Nhịp sóng đó cũng chính là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, trào dâng, miên man và chất chứa những khát khao, rạo rực.
* Đoạn thơ là một khám phá về sóng, mỗi khổ thơ sóng lại hiện ra một ý nghĩa khác
“Ôi con sóng… ngực trẻ”
– Đến khổ ba của bài thơ, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu. Đứng trước biển, người phụ nữ muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để tìm lời đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình.
“Sóng bắt đầu… ta yêu nhau”
-> Mọi nỗ lực để cắt nghĩa về tình yêu của Xuân Quỳnh cuối cùng trở nên bất lực. Nhà thơ “thú nhận” thành thực, hồn nhiên mà không kém ý nhị, sâu sắc: “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”.
3. Kết bài:
– Khái quát lại nội dung 2 khổ thơ.
– Cảm nhận của em: Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.
14 Bài mẫu Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 1
Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu cho phong trào thơ mới trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Bà nổi tiếng với những tác phẩm thơ tình vô cùng tươi mát, trẻ trung và đầy nữ tính. Cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, tác phẩm “Sóng” đã thể hiện hết những tài hoa của tâm hồn thơ trẻ này.
Ngay từ tiêu đề bài thơ, độc giả đã nhận ra, “sóng” là nhân vật chính, là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm. Sóng biển không phải chưa ai nhìn thấy. Tuy nhiên, chỉ có mỗi nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã khôn khéo mang nó vào thi ca một cách rất xuất sắc. Có lẽ chỉ có trái tim của một thiếu nữ trẻ đang yêu với một tâm hồn thơ ca nhạy bén mới có thể miêu tả và so sánh “sóng” với tình yêu, với tâm tình của người con gái như bà.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”.
Đọc khổ thơ đầu, ta thấy ngay “Sóng” là hình tượng ẩn dụ. Nó chính là sự hóa thân cái tôi đầy trữ tình của thi sĩ Xuân Quỳnh. Sóng chính là người con gái, và “em” cũng chính là sóng. Người con gái soi lòng mình vào sóng để lý giải những vấn vương, những mối tơ vò.
Dù không nhìn thấy sóng nhưng, nhưng hình tượng của nó đã gợi ra cho toàn tác phẩm âm hưởng nhịp nhàng, dạt dào. Lúc trào dâng sôi nổi, khi lại sâu lắng, dịu dàng miên man và vô tận. Qua phân tích Sóng khổ 3 4, độc giả sẽ càng thấy rõ, nhịp sóng ấy chính là nhịp lòng của nhà thơ Xuân Quỳnh. Đó là tâm trạng xốn xang, xao động chất chứa sự rạo rực, khát khao của những người đang yêu.
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Khổ thơ mở đầu bằng hình ảnh “Muôn trùng sóng bể”. Có thể ở đây có rất nhiều sóng. Cứ trùng trùng điệp. Một không gian thật bao la rộng lớn để sóng thỏa sức vẫy vùng. Và có lẽ, ở nơi mênh mông đó, sóng mới được là chính mình. Và em cũng được là chính mình. Lúc này đây, nhân vật “em” và “anh” đã xuất hiện. Không còn giấu mình trong sóng nữa. Nhìn thấy sóng, “em nghĩ về anh, em”. Sự lặp lại câu “em nghĩ về” đã càng nhấn mạnh nỗi suy tư của tác giả.
Đúng là một tâm hồn đang khao khát tình yêu đẹp đẽ. Bởi đứng trước sự bao la của thiên nhiên, sóng bể, tác giả không nghĩ tới bản thân, gia đình mà nghĩ ngay tới “anh”. Anh đã đi vào tâm thức. Cứ hiển hiện trong ý nghĩ của em đầu tiên như một điều tất lẽ dĩ ngẫu. Có thể hiểu, thứ tình cảm ấy đã sâu đậm đến nhường nào. Nỗi nhung nhớ ấy đã mãnh liệt, đã da diết đến ra sao. Và đến khi gặp sóng, nhìn thấy sóng dạt dào và dịu em, em thấy như lòng mình. “Em”, “anh” và “sóng” có một sợi dây liên kết. Bởi hình ảnh sóng là nỗi lòng của tác giả, là của nhân vật trữ tình em, cả người con gái đang yêu.
Phân tích Sóng khổ 3 4 đến đây, dù không bộc bạch rõ rệt nhưng độc giả vẫn cảm nhận được những điều mà “em” đang nghĩ. Đó là giữa biển lớn mênh mông kia, thì “từ nơi nào sóng lên?”. Câu hỏi tu từ không có lời đáp nhưng độc giả đều hiểu đó là sự chuyển đổi trong tâm trạng của tác giả. Một tâm trạng đang yêu nên hay nghĩ mông lung, đứt đoạn. Bao âu lo suy nghĩ về tình yêu của em và anh bỗng chuyển sang lý giải cho cội nguồn tình yêu ấy. Câu hỏi có vẻ mang tính khoa học nhưng không phải là nghiên cứu về sóng mà chính là tác giả muốn lý giải về quy luật của tình yêu.
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Tiếp nối khổ thơ ba, khổ thơ bốn bắt đầu bằng những câu hỏi về sự lý giải nguồn gốc của tình yêu. “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?”. Mới đầu, tác giả biết đấy. Nhận ra một phần sóng bắt đầu từ gió, cũng như tác giải nhận ra tình yêu của mình bắt đầu từ những sự thoảng qua như những cơn gió. Thế nhưng những cơn gió thoảng qua ấy lại bắt đầu từ đâu? Hay những rung động ấy của em lại bắt đầu từ đâu, thì bà lại bảo “Em cũng không biết nữa. Khi nào ta yêu nhau”.
Tới đây, độc giả có thể thấy mọi nỗ lực của tác giả để cắt nghĩa, để truy tìm cội nguồn, để lý giải cảm xúc trong tình yêu của mình đều không bất lực. Lúc này, tác giả không bảo “Sóng cũng không biết nữa” mà thay vào đó là “em”. Tác giả không xấu hổ khi để người khác biết rằng kiến thức về tình yêu của mình hạn hẹp. Tác giả cũng không ngại khi ai đó biết rằng, “em” không biết khi nào “ta yêu nhau”. Một sự chấp nhận thua cuộc nhưng mang tới cảm giác hạnh phúc, sự thẹn thùng trong niềm vui trọn vẹn.
Tình yêu là thế. Nó là sự bí ẩn của thế gian mà đến cả những vị thần cũng không bao giờ lí giải nổi. Chẳng thế mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đã từng phải thốt lên:
“Làm sao định nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Một lần nữa độc giả lại có thể thấy vẻ đẹp huyền bí của tình yêu. Khi tâm hồn con người đang yêu cũng sẽ nhuốm màu lên mọi cảnh vật. Bởi thế, “sóng” trong toàn bộ tác phẩm cũng như trong hai khổ 3 4 đều là hình tượng trữ tình của nhân vật “em” hay chính là tâm tưởng của tác giả.
Cả hai khổ thơ đều thể hiện những suy nghĩ mông lung về tình yêu của tác giả. Nhân vật em biết mình đang yêu, yêu say đắm anh khi lúc nào cũng nghĩ đến. Nhưng lại không biết vì sao, khi nào, do đâu? Tác giả tìm cách lý giải, cắt nghĩa để hiểu hơn xúc cảm, tâm trạng của mình nhưng cuối cùng đã thất bại. Tuy nhiên, đó lại là một sự thất bại hạnh phúc. Bởi người thất bại muốn được như thế, muốn được sống mãi trong tình yêu thủy chung, nhiều dữ dội xen lẫn sự dịu êm ấy.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 2
Tình yêu là một mảnh ghép không thể thiếu trong cuộc sống. Tình yêu đem đến cho con người sự thăng hoa, hạnh phúc và mãn nguyện. Khi đắm chìm trong “mật ngọt”, mỗi người luôn muốn đi sâu vào khám phá thế giới đầy “mộng mơ” ấy. Có lẽ, nhà thơ Xuân Quỳnh cũng là một người như vậy. Niềm mong ước, khát khao định nghĩa tình yêu được bà thể hiện một cách đầy da diết trong bài thơ “Sóng”, đặc biệt là ở hai khổ thơ ba và bốn.
Ở khổ ba, nhân vật “em” thông qua việc tìm hiểu nguồn gốc của sóng để bày tỏ suy nghĩ về tình yêu. Đứng trước biển rộng, nhân vật trữ tình trực tiếp bộc lộ tâm tư:
“Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn”
Biện pháp điệp cấu trúc “Em nghĩ về” gắn với hai đối tượng “anh, em” và “biển lớn” cùng câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?” đã bộc lộ nỗi băn khoăn về nơi bắt đầu những con sóng của chủ thể trữ tình. Lúc này, “em” không còn ẩn mình trong sóng mà trực tiếp bày tỏ suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
Đến với khổ thơ thứ tư, Xuân Quỳnh thể hiện nỗi trăn trở khi lí giải về tình yêu bằng cách dẫn dắt khéo léo và liên tưởng đầy ý nhị “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?”. Tình yêu cũng như từng lớp sóng vừa bất ngờ, vừa bí ẩn. Bởi tình yêu là chuyện của con tim, là sự đồng điệu giữa hai tâm hồn:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu”
Dù đã cố gắng tìm hiểu, giải thích nhưng cuối cùng “em” vẫn rơi vào bế tắc và phải thừa nhận “Em cũng không biết nữa”. Chính bởi vậy, thật khó để có thể xác định chính xác thời điểm bắt đầu chuyện lứa đôi “Khi nào ta yêu nhau”. Ta nhận thấy đằng sau câu thơ là cái lắc đầu đầy nhẹ nhàng, bối rối ở người con gái. Chẳng ai có thể biết rõ điểm đầu, điểm cuối của tình yêu. Tình yêu muôn đời vẫn là một con số bí ẩn đối với con người. Có khi, tình yêu chỉ như cơn gió thoảng nhưng lại làm người ta say đắm, thổn thức một đời.
Để thể hiện khát vọng cắt nghĩa tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh đã sử dụng ngôn từ đầy tinh tế, biện pháp điệp cấu trúc “Em nghĩ về…”, câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu”. Chắc chắn, “tình yêu luôn có quy luật riêng mà lí trí không thể nào hiểu nổi”. Tình yêu cũng như biển lớn, luôn bí ẩn. Bằng những rung động tinh tế của mình, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những vần thơ dạt dào cảm xúc.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 3
“Sóng” là bài thơ tình tuyệt bút của Xuân Quỳnh (1942-1988). Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn thiên trường gồm có 38 câu thơ. Qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.
Bốn khổ thơ dưới đây trích trong phần đầu bài thơ. Hình tượng “sóng” trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình “em” đã đem đến cho tâm hồn ta bao gợi cảm phong phú bất ngờ:
“Ôi con sóng ngày xưa
…
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Sóng là hiện tượng muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, đất trời thì còn có đại dương; đại dương còn thì còn “muôn trùng sóng bể”. Sóng là sức sống vĩnh hằng, kì diệu của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian: “Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế Từ “ôi” cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của một nỗi niềm. Sóng của biển cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đôi, là “khát vọng” của trai gái xưa nay. Sóng reo, sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như “con sóng” tình yêu biến hóa vô cùng, lúc thì “dữ dội và dịu êm”, lúc thì “ồn ào và lặng lẽ” làm cho trái tim tuổi trẻ rung động, xao xuyến, “bồi hồi”:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.
Hình tượng “sóng” trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân vãn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng Hên hồi, vô tận, thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tổn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”. Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” và “anh”. Điệp ngữ: “Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm,cảm xúc bâng khuâng triền miên dào dạt dâng lên. Hình tượng “sóng” và sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thi vị:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên”.
Hỏi sóng rồi hỏi gió: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, tự hỏi lòng mình: “Khi nào ta yêu nhau”. Đó là tâm trạng của “em”, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Và phải là mối tình mới có câu hỏi ấy. Tinh yêu đã đến với “em” tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải “thắm lại” của hai tâm hồn “anh” và “em”, đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình Xuân Diệu đã viết: ” Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”… Tuy không trả lời được câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau?” nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:
“Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”
(Thế Lữ)
Sức gợi cảm của hình tượng “sóng” thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái “động”, trong mọi không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” tầng tầng lớp lớp “muôn trùng sóng bể”. Có sóng ngầm và nhấp nhô sóng biếc. Sóng được nhân hóa, sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian: “Sóng nhớ bờ”, trong mọi trạng thái: “Sóng không ngủ được”. Sóng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng “sóng” càng trở nên thơ mộng gợi cảm:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”.
Cấu trúc song hành, đối xứng: “dưới lòng sâu // trên mặt nước”, “ngày // đêm”, “nhớ bờ // không ngủ được” và điệp ngữ “con sóng” đã làm cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, âm điệu, nhạc điệu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, say đắm và ngọt ngào. Nhạc của thơ, vị ngọt tình yêu như được hòa quyện trong không gian, trong thời gian, và cả trong lòng người.
Xuân Quỳnh có lúc mượn “thuyền” và “biển” làm ẩn dụ để nói lên nỗi nhớ thương của lứa đôi:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ…”.
(Thuyền và biển)
Từ hiện tượng “sóng nhớ bờ”, nữ sĩ liên tưởng đến nỗi nhớ “em nhớ đến anh”, một nỗi nhớ da diết, triền miên, bồi hồi khôn xiết kể, cả trong cõi thực và cả trong cơn mơ, trong ý thức và cả trong tiềm thức:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Sóng là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng “sóng nhớ bờ” rồi liên hệ, đối sánh với “em”, với nỗi niềm “lòng em nhớ đến anh…” thật bất ngờ, thú vị. Ca dao nói nhiều về nỗi nhớ của trai gái làng quê. Có nỗi nhớ day dứt khôn nguôi: “Nhớ ai nhớ mãi thế này?- Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”. Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ- Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Có nỗi nhớ bồi hồi: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Qua đó, ta mới cảm thấy nỗi nhớ của “em”, nhân vật trữ tình trong bài thơ “Sóng”: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức” là sâu sắc, bất ngờ, mới mẻ.
Năm 1962, thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình “Biển” trong đó hình tượng “sóng” là ẩn dụ về chàng trai đa tình, yêu say đắm, nồng nhiệt:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”…
Bài thơ “Biển” là một thử thách lớn đối với Xuân Quỳnh. Năm năm sau, bài ra đời, ẩn dụ “sóng” nói về thiếu nữ trong mối tình đầu với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là sáng tạo, có thể nói là “bất ngờ”.
Người thiếu nữ trong bài thơ “Sóng” đã “tự hát” về nỗi khao khát được yêu thương, được sống thủy chung trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng “sóng” gợi lên bao cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, phong phú và bất ngờ. Sóng thật mãnh liệt. Em thật nồng nàn say mê bởi lẽ với em thì tình yêu là “khát vọng”.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 4
Đến với đề tài tình yêu, mỗi nhà thơ lại có một cách suy nghĩ, cảm nhận khác nhau. Ta biết tới “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu với những vần thơ da diết, mãnh liệt, nồng nàn, một Nguyễn Bính chân chất, mộc mạc chốn thôn quê. Còn đến với Xuân Quỳnh, ta lại thấy được hồn thơ đầy tinh tế, dung dị trong khát khao hạnh phúc đời thường. Điều này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Sóng” in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đặc biệt là ở hai khổ thơ ba và bốn.
Nếu như hai khổ thơ đầu tiên, Xuân Quỳnh đã khắc họa hành trình của sóng từ “sông” ra “bể” thì đến hai khổ tiếp theo, nhà thơ lại dùng sự bí ẩn trong cội nguồn của sóng để từ đó lí giải sự bí ẩn của tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Ở trong khổ này, nhân vật trữ tình bày tỏ suy nghĩ về sóng bể song hành với suy nghĩ về tình yêu. “Bể” trong thế giới thơ Xuân Quỳnh luôn đại diện cho cái mênh mông, rộng lớn:
“Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa… còn xa”
Đứng trước không gian bao la, vĩnh hằng ấy, nhân vật trữ tình nghĩ về chính mình và người yêu thương. Biện pháp điệp cấu trúc “Em nghĩ về” đã góp phần thể hiện và nhấn mạnh vào ước muốn định nghĩa tình yêu của “em”. Lúc này, “em” không còn ẩn mình vào sóng mà đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ, tình cảm của mình. Câu thơ “Từ nơi nào sóng lên” đã cho thấy nỗi băn khoăn của “em” về nguồn gốc của sóng.
Đến khổ thơ thứ tư, nhà thơ thể hiện cách lí giải về tình yêu đầy độc đáo thông qua câu hỏi tu từ vô cùng khéo léo, ý nhị:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?”
“Em” truy nguyên nguồn gốc của sóng để cắt nghĩa tình yêu. Tuy nhiên, mọi thứ chẳng hề dễ dàng bởi thật khó mà xác định chính xác. Lúc này đây, “em” như rơi vào bất lực “Em cũng không không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Ẩn sau câu thơ là cái lắc đầu nhè nhẹ, bối rối và đầy dịu dàng của người con gái. “Em” không thể xác định chính xác thời điểm bắt đầu một mối tình. Tình yêu cũng rộng dài, bí ẩn như thế giới tự nhiên. Vì thế, tình yêu đến lúc nào ta chẳng hề hay biết, chỉ biết rằng cảm xúc hạnh phúc khiến con người ta rơi vào trạng thái lâng lâng. Đây quả là một cách định nghĩa độc đáo bởi tình yêu đến rất đỗi tự nhiên, không có lí do bởi nó luôn ẩn chứa nhiều điều diệu kì.
Như vậy, với thể thơ năm chữ ngắn gọn cùng biện pháp điệp cấu trúc “Em nghĩ về”, câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên”, “Gió bắt đầu từ đâu?”, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã thể hiện mong ước lí giải tình yêu.
Nét dịu dàng, nữ tính trong hai khổ thơ ba, bốn nói riêng và bài thơ nói chung là tiếng nói mãnh liệt của một hồn thơ dạt dào cảm xúc. Những băn khoăn, trăn trở của nhân vật trữ tình cũng là suy nghĩ, cảm xúc của người con gái khi yêu.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 5
Hình tượng “sóng” trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân văn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng biển trải dài vô tận, thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”. Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” và “anh”. Nổi bật nhất là điệp ngữ: “Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?”.
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sức gợi cảm của hình tượng “sóng” thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái “động”, trong mọi không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” tầng tầng lớp lớp “muôn trùng sóng bể”. Có sóng ngầm và nhấp nhô sóng biếc. Sóng được nhân hóa, sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian: “Sóng nhớ bờ”, trong mọi trạng thái: “Sóng không ngủ được”. Sóng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng “sóng” càng trở nên thơ mộng gợi cảm:
Hỏi sóng rồi hỏi gió: “Gió bắt đầu từ đâu?” rồi lại “Khi nào ta yêu nhau”. Đó là tâm trạng của “em”, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Và phải là mối tình mới có câu hỏi ấy. Tình yêu đã đến với “em” tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải của hai tâm hồn “anh” và “em” ấy đâu dễ trả lời. Ở khổ 4 nhân vật trữ tình đã dùng lí trí “em nghĩ” đến 2 lần nhưng bất lực “em cũng không biết nữa”. Nó đã trở thành một lời thú nhận thành thật, đáng yêu: không biết nguồn gốc của sóng, nguồn gốc của tình yêu
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Xuân Quỳnh có lúc mượn “thuyền” và “biển” làm ẩn dụ để nói lên nỗi nhớ thương của lứa đôi:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ…”.
(Thuyền và biển)
Năm 1962, thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình “Biển” trong đó hình tượng “sóng” là ẩn dụ về chàng trai đa tình, yêu say đắm, nồng nhiệt:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”…
Song đến với bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã viết nên một giai điệu hoàn hảo cho tình yêu đôi lứa. Bài sóng sóng là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng “sóng nhớ bờ” rồi liên hệ, đối sánh với “em”, với nỗi niềm “lòng em nhớ đến anh…” thật bất ngờ, thú vị.
Trong kho tàng ca dao dân ca có rất nhiều câu nói về nỗi nhớ da diết của đôi trai gái. Có nỗi nhớ day dứt khôn nguôi: “Nhớ ai nhớ mãi thế này?- Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”. Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ – Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Có nỗi nhớ bồi hồi: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Qua đó, ta mới cảm thấy nỗi nhớ của “em”, nhân vật trữ tình trong bài thơ “Sóng”: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức” là sâu sắc, bất ngờ, mới mẻ.
Người thiếu nữ trong khổ 3 và 4 bài sóng đã “tự hát” về nỗi khao khát được yêu thương, được sống thủy chung trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng sóng gợi lên những rung động nồng nàn, còn “em” hiện lên thật say mê bởi lẽ với em, tình yêu là một nỗi khát vọng dường như kéo dài vô tận.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 6
Đóng góp vào kho tàng thơ ca đồ sộ, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những rung cảm sâu sắc về khát vọng hạnh phúc bình dị của người phụ nữ trong tình yêu thông qua bài thơ “Sóng”. Khổ ba, bốn là một trong những trích đoạn nổi bật thể hiện điều đó.
Nếu như hai khổ đầu làm nổi bật tính cách và hành trình nhận thức của “sóng” thì khổ ba, bốn lại thể hiện khát vọng lí giải, cắt nghĩa tình yêu của “em”. Trong khổ thơ thứ ba, nhân vật trữ tình bày tỏ suy nghĩ về sóng bể song hành cùng suy nghĩ về tình yêu. Đứng trước cái bao la, khoáng đạt, vĩnh hằng, nhân vật trữ tình “nghĩ về anh, em”, “nghĩ về biển lớn”. Biện pháp điệp cấu trúc “em nghĩ về” nhấn mạnh vào mong muốn định nghĩa tình yêu của “em”. “Em” dùng tính chất bí ẩn trong cội nguồn của sóng để từ đó nói về tình yêu. Em xuất hiện trực tiếp với những câu hỏi dồn dập. Điều đó cho thấy cảm xúc rất mãnh liệt, trào dâng. Câu thơ “Từ nơi nào sóng lên” cho thấy sự băn khoăn, trăn trở của “em” về nguồn gốc của sóng.
Đặc biệt, khi cắt nghĩa, lí giải về tình yêu, nhà thơ đã có cách dẫn dắt, liên tưởng đầy ý nhị, khéo léo thông qua câu hỏi tu từ: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?” ở khổ thơ thứ tư. Hai dòng thơ cho thấy sự bối rối của chủ thể trữ tình bởi mọi thứ thật khó mà truy nguyên cho chính xác. Những câu hỏi dồn dập như những con sóng miên man không dứt cho thấy sự bế tắc trong tâm tưởng. Những con sóng tự nhiên luôn ẩn chứa nhiều bí ẩn và tình yêu đối với em cũng khó hiểu như thế. Vì lẽ đó, “em” mới thổ lộ: “Em cũng không biết nữa”. Ta nhận thấy đằng sau câu thơ là cái lắc đầu nhẹ nhàng, bối rối đầy nữ tính. Yêu làm sao cái lắc đầu nhè nhẹ ấy bởi tình yêu là chuyện của con tim, không thể dùng lí trí để xác định thời điểm của mối tình.
Chính sự bất lực không có câu trả lời trong câu thơ đã góp phần kì ảo hóa tình yêu, làm cho tình yêu trở nên bí ẩn và màu nhiệm. Tình yêu luôn đến một cách bất ngờ, tự nhiên và ẩn chứa nhiều điều diệu kì. Bởi thế, “em” không thể xác định được thời điểm bắt đầu chuyện lứa đôi, biết rõ “Khi nào ta yêu nhau”. Qua đây, ta cảm nhận được hồn thơ Xuân Quỳnh luôn thành thực trong từng suy nghĩ.
Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, ngôn từ tinh tế cùng câu hỏi tu từ đặc sắc “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?” và biện pháp điệp cấu trúc “em nghĩ về”, nhà thơ Xuân Quỳnh đã bộc lộ khao khát lí giải, cắt nghĩa tình yêu.
Có thể nói, hai khổ thơ ba và bốn đã phần nào thể hiện được nét nữ tính, mềm mại trong hồn thơ Xuân Quỳnh. Ở đó, người đọc thấy được nét mới mẻ trong hành trình tìm kiếm, chinh phục tình yêu.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 7
Tình yêu vốn là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn đối với mỗi nhà thơ, nhà văn. Với một trái tim nhạy cảm và khát khao yêu thương, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để viết nên một trong những thi phẩm hay và đặc sắc nhất trong sự nghiệp viết thơ của bà: “Sóng”. Đứng trước muôn trùng biển lớn, nữ sĩ đã bộc lộ niềm trăn trở, băn khoăn về cội nguồn của tình yêu đôi lứa:
“Trước môn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên
Sóng bắt đầu từ gió
Gó bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Những câu thơ thốt ra khi sóng đã hoàn thành nhiệm vụ vươn ra biển lớn. “Giữa muôn trùng sóng bể” – con sóng ấy đã phá vỡ được giới hạn của mình để đi tới đích tìm kiếm tình yêu chân chính. Đứng trước một nơi mênh mông như biển cả, “em” có cơ hội được nhìn nhận về anh, về chính mình và về tình yêu:
“Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên”
Đáng lẽ, cuộc hành trình vươn ra biển lớn phải là của sóng nhưng ở đây, tác giả đã đồng nhất hình tượng sóng và em, để ngầm nói rằng thật ra đây cũng chính là hành trình em đi tìm cội nguồn của tình yêu lứa đôi thuần khiết. Điệp ngữ “Em nghĩ về” kết hợp với điệp cấu trúc câu thể hiện niềm khát khao tìm kiếm thật sự, ước ao cháy bỏng được lý giải cặn kẽ nơi khởi sinh của tình yêu. “Từ nơi nào sóng lên?” – câu hỏi như nói hộ nỗi tâm tư của bao chàng trai cô gái xưa nay. Ai cũng mong muốn có được câu trả lời: tình yêu ở đâu mà có, tình yêu từ đâu mà sinh ra? Nhưng tuyệt nhiên chưa ai có thể lý giải được. Cho nên không khó hiểu nếu như người con gái ấy còn trăn trở, băn khoăn nhiều đến như thế này:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?”
Càng yêu nhiều bao nhiêu người ta lại càng khao khát muốn thấu hiểu bấy nhiêu. Vì yêu mà con sóng ấy đã phải đi muôn trùng vạn dặm để tìm ra cội nguồn, cũng như vì yêu anh mà em đã trăn trở, băn khoăn nhiều lắm để tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu chân chính. Thế nhưng tình cảm vốn dĩ đã là một thế giới đầy bí ẩn, không ai có thể lý giải nổi và chính nữ sĩ cũng đã phải lắc đầu “Em cũng không biết nữa”. Sóng hay gió bắt nguồn từ nơi nào chẳng ai biết, cũng như tình yêu sinh ra vốn dĩ không có điểm đầu và điểm cuối, không có giới hạn và không dễ gì tìm kiếm câu trả lời. Vì vậy mà người con gái ấy dù khát khao, dù mãnh liệt thế nào cũng phải lắc đầu vì không thể lý giải nổi. Tình yêu được đặt cạnh biển cả, phải chăng nữ sĩ đã ngầm khẳng định tình cảm ấy bao la như biển cả và dạt dào như những con sóng cuộc xô? Trân trọng tình cảm đó cho nên người con gái cũng hoàn toàn bất lực trong nỗ lực tìm kiếm nơi khởi sinh của tình cảm. Tình yêu cũng rộng dài và bí ẩn như chính thế giới tự nhiên vậy, ta yêu lúc nào mà ta cũng chẳng hay biết, chỉ biết rằng có một thứ tình cảm giản dị mà tự nhiên đến, khiến lòng ta chợt chơi vơi:
“Có ai cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
(Xuân Diệu)
Tình yêu vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca nhưng Xuân Quỳnh đã dùng ngòi bút của mình để viết nên một bài thơ đầy tính nữ. Hành trình tìm kiếm tình yêu của người con gái tuy gian nan là thế nhưng cho thấy khát khao yêu thương, khát khao thấu hiểu mãnh liệt để tìm được cho mình một tình yêu chân chính. Có lẽ hiếm có tình cảm nào khiến con người bỗng trở nên táo bạo như vậy, cũng bởi vì yêu mà trở nên mạnh mẽ. Xuân Quỳnh – một trái tim luôn đong đầy những yêu thương đã thổi hồn vào những trang thơ như thế, để rồi bài thơ cứ lắng mãi vào lòng người đọc với xúc cảm thật ngọt ngào.
Ra đời trong hoàn cảnh khói bom những năm 1967, “Sóng” đã vượt thoát ra khỏi dòng thơ cách mạng vốn rất phổ biến lúc bấy giờ để mang đến cho người đọc cảm xúc thơ mới mẻ. Nó xứng đáng trở thành một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỉ XX.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 8
Thơ Xuân Quỳnh dẫu có lắng nghe bao lần, ta vẫn nhận ra trong đó những thoáng mong manh lo sợ cùng nét đẹp của một hồn thơ nhạy cảm, giàu trực cảm. Và đó, chính là nét nữ tính rất riêng làm nên bản sắc của Xuân Quỳnh, mà trong Sóng, tác giả đã hóa thân trọn vẹn nhất điệu hồn ấy vào hai khổ thơ 3 và 4.
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Đứng trước biển khơi rộng lớn bao la, tâm hồn nhạy cảm tinh tế của một trái tim yêu bỗng dưng trào lên những xúc cảm mãnh liệt về người mình thương nhớ. Đồng thời, trạng thái ấy cũng phần nào khẳng định trái tim yêu tha thiết mãnh liệt của Xuân Quỳnh, ở bất cứ không gian và thời gian nào, nỗi nhớ luôn hiện hình luôn trực trào lên. Từ câu hỏi về cội nguồn của cơn sóng – biểu tượng của sự sống, sự vĩnh cửu, bất tận, nhà thơ cất lên nỗi băn khoăn về nguồn gốc của tình yêu. Đi từ thiên nhiên rộng lớn đầy những bí ẩn để gắn kết nó với nỗi niềm khắc khoải trong lòng người, quả nhiên, cách diễn đạt của Xuân Quỳnh đã làm mềm đi rất nhiều tính chất nghi vấn trong lời gõ cửa của trái tim.
Đặc biệt, nếu để ý dấu phẩy ngăn cách ở câu thơ thứ hai chính là một cách làm “điệu thơ” rất có duyên của Xuân Quỳnh. Nó khiến câu thơ vốn đơn thuần mang tính chất tự sự, bỗng dưng được thổi hồn để mang chút ngập ngừng, âu lo vốn là nét đặc trưng của hồn thơ Xuân Quỳnh – một hồn thơ nhạy cảm, giàu trực cảm. Câu thơ đã đặt cả người được nhớ và người đang nhớ vào trong một mạch chảy, khiến cho cảm xúc thơ càng rạo rực, càng cho thấy tấm lòng của nhân vật trữ tình trong tình yêu.
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?”
Cắt nghĩa, lý giải về nguồn gốc của tình yêu đã từng có chàng thi sĩ Xuân Diệu với cặp mắt xanh non rờn biếc khẳng định: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu? Nhưng, nếu ngay khi vừa phủ định Xuân Diệu lại dí dỏm đưa ra câu trả lời của mình:
“Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Thì với Xuân Quỳnh chị không ham lí giải, phân tích dù trong lòng có bao bức xúc đòi tìm ra tận bể, để được thấu hiểu, để được đồng điệu. Điều mà nhà thơ muốn bộc bạch ở đây là sự thể hiện tự nhiên tựa như một lời giãi bày về mặt tình cảm hơn là thể hiện sự phân tích lý tính rạch ròi. Thậm chí, đó còn là lời thú nhận rất duyên dáng và đậm chất nữ tính của nhà thơ về sự bất lực khi không thể, cắt nghĩa, lý giải được bản chất của tình yêu nhiệm màu: em cũng không biết nữa. Cái lắc đầu rất nữ tính ấy hóa ra là ẩn dấu sau nó còn là sự thấu hiểu sâu sắc và nhận thức được rõ ràng tình yêu, tự nó là một cuốn từ điển riêng, là một chân trời mới lạ mà ở đó người ta chỉ có thể cảm nhận, không thể cắt nghĩa. Tình yêu là một địa hạt chứa đựng những triết lí của riêng nó, nó là câu chuyện của trái tim và đòi hỏi sự cảm nhận, lắng nghe, nó nằm ngoài sự xét đoán của lý trí. Tựa như trái tim yêu của Xuân Quỳnh đã dành tất cả sự chân thành tha thiết để mong thấu hiểu được những nội hàm huyền bí ở trong nó, nhưng nếu như tình cảm và cảm xúc có thể cân đo đong đếm và cắt nghĩa, người ta đã chẳng còn hứng thú bởi những điều mới mẻ, kì diệu mà tình yêu mang lại.
Chính Ta-go trong bài thơ tình số 28 cũng đã bày tỏ:
“Trái tim anh lại là tình yêu
Nào ai biết được chiều sâu và bến bờ của nó
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết trọn nó đâu”.
Nhưng, nếu thơ Ta-go là tiếng nói hướng nội truy tìm bản thể để hướng tới những suy tưởng triết lý sâu sắc thì thơ Xuân Quỳnh hướng ngoại để hướng nội, nên ở đây tính chất triết lý suy tưởng được giấu bên ngoài vẻ hồn nhiên trực cảm, do đó dễ khơi gợi sự đồng điệu cảm xúc bên ngoài và đánh thức những suy tưởng bên trong độc giả.
Chỉ với hai khổ thơ ngắn, nhưng cách diễn đạt nhỏ nhẹ cùng với những câu hỏi vừa như nghi vấn, vừa như giãi bày đã phần nào lột tả nét nữ tính, mềm mại trong hồn thơ Xuân Quỳnh. Đồng thời ở hai khổ thơ này, người đọc cũng thấy thêm một nét mới mẻ nữa của những trái tim yêu trong hành trình kiếm tìm, chinh phục, lí giải cội nguồn của tình yêu.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 9
Coi thơ là sự sống, là tình yêu, là tất thảy ý nghĩa cuộc đời mình, Xuân Quỳnh đã gửi trọn những tâm sự, cảm xúc dạt dào, mãnh liệt của mình vào những trang thơ. Bài thơ “Sóng” của nữ sĩ là một lời sẻ chia tâm trạng, cảm xúc được rất nhiều người đón nhận. Sau hai khổ thơ đầu nói về hình tượng sóng và quy luật của tình yêu, khổ thơ ba và bốn tiếp tục để lại trong lòng người đọc những suy nghĩ, ấn tượng đặc biệt.
Xuân Quỳnh tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, một nghệ sĩ tinh tế và tài hoa, người con của đất Hà Tây (nay là Hà Đông, Hà Nội). Đọc thơ Xuân Quỳnh, những cảm xúc, nghĩ suy nữ sĩ gửi vào đó làm bao người đọc trăn trở và mong muốn được sẻ chia cùng. Có những bài thơ tràn ngập hạnh phúc đắm say, có những câu thơ đượm nỗi suy tư, trăn trở. Sự đằm thắm, dịu dàng nhưng cũng đầy mạnh mẽ, táo bạo đã giúp cho những cảm xúc ấy đi vào thơ với dáng nét rất riêng, đậm chất Xuân Quỳnh. Với nhà thơ, văn chương nghệ thuật mà đặc biệt là thơ ca, có vai trò quan trọng, tựa như sự sống, tình yêu của cuộc đời mình: “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa/ Cuộc sống trở về bình yên/ Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm/ Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc…”. Bài thơ “Sóng” được nhà thơ viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến biển Diêm Điền, Thái Bình. Tác phẩm rút từ tập “Hoa dọc chiến hào” xuất bản năm 1968, được xem như một bông hoa lạ giữa vườn thơ chống Mỹ. Hai khổ thơ đầu nhà thơ đã xây dựng hình tượng sóng với những quy luật của tình yêu. Đến với hai khổ thơ tiếp theo là nói đến sóng và hành trình tìm kiếm nguồn cội của tình yêu.
Khổ ba, bốn trong bài là những dòng thơ nói về sóng và hành trình đi kiếm tìm nguồn cội của tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Nghĩ về “yêu”, nhà thơ Xuân Diệu có viết:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
…
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít”
Với Xuân Diệu, “yêu là chết ở trong lòng một ít”. Với Xuân Quỳnh, bà gửi nghĩ suy về tình yêu qua hình tượng những con sóng. Nữ sĩ đưa ra một loạt các câu hỏi tu từ để từ đó gửi gắm những nghĩ suy, trăn trở: “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?, “Khi nào ta yêu nhau”. Những câu hỏi tu từ này vừa tái hiện hình ảnh những con sóng ngoài đại dương mênh mông lúc lắng xuống lúc lại trào lên mạnh mẽ, đồng thời nhà thơ cũng thầm kín muốn nhắc đến những con sóng lòng nơi người con gái đang yêu. Từ hình ảnh những con sóng, nhà thơ bắt đầu đưa ta đến hành trình tìm kiếm nguồn cội của tình yêu và thử lý giải bản chất, ý nghĩa sâu xa của tình yêu. Xuân Diệu trong bài thơ “Vì sao” từng viết:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình Việt Nam còn cảm thấy bối rối trong việc khám phá và cắt nghĩa hai chữ “tình yêu”. Xuân Quỳnh cũng vậy, bà cũng gửi nỗi trăn trở ấy vào thơ, vào bài “Sóng” khi chân thành trả lời rằng: “Em cũng không biết nữa”. Thú nhận? Đúng, đó là một lời thú nhận về sự bất lực của con người trước hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu. Song, đó còn là một sự thức nhận. “Em”, hay có lẽ cũng chính là nhà thơ đã thức nhận ra một chân lý: tình yêu là một thứ gì đó vô cùng thiêng liêng, đẹp đẽ, con người chúng ta chỉ có thể lặng thầm ngắm nhìn, cảm nhận chứ chẳng thể cắt nghĩa được.
Bài thơ “Sóng”, và đặc biệt là hình tượng sóng đã phần nào thể hiện được ngổn ngang những trăn trở, bâng khuâng trong lòng nhà thơ Xuân Quỳnh. Nữ sĩ ngẫm về tình yêu – thứ tình cảm muôn đời đẹp đẽ, thiêng liêng. Đó có thể là thứ tình cảm mang trong mình nhiều đối lập. Và đọc khổ thơ ba, bốn ta hiểu được tình yêu trong cảm nghĩ Xuân Quỳnh còn là một tình yêu đẹp chỉ có thể được cảm nhận mà không thể tìm kiếm cội nguồn và cắt nghĩa, lý giải được nó. Từ chân lý đó, người yêu văn chương, yêu thơ Xuân Quỳnh càng ấn tượng hơn với bài thơ “Sóng” và yêu mến cái nhìn nghệ thuật đầy tinh tế cùng cách thể hiện sinh động, sáng tạo của nhà thơ.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 10
Tình yêu là món quà vô giá mà thượng đế đã ban tặng con người. Đó là tiếng lòng đồng điệu giữa những tâm hồn khát khao yêu thương, đồng cảm, gắn kết trái tim lại với nhau. Có lẽ chính vì vậy mà tình yêu luôn là chủ đề muôn thuở trong thơ ca. Nhắc đến thơ ca tình yêu, bên cạnh những tên tuổi lớn như Puskin, Tago trên thi đàn thế giới, thì ta cũng không quên nhắc đến những tên tuổi lớn của nền văn học Việt Nam như Xuân Diệu, Nguyễn Bính,… Và đại diện cho tình yêu nồng nàn đằm thắm của người phụ nữ, không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh. Nữ sĩ viết rất nhiều về tình yêu, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm phải kể đến bài thơ Sóng. Tác phẩm chính là tiếng lòng nhẹ nhàng nhưng cũng rất mạnh mẽ của người phụ nữ trong tình yêu, đặc biệt ở khổ 3 và 4 của bài thơ.
Xuân Quỳnh tên khai sinh là Nguyễn Phạm Xuân Quỳnh, sinh năm 1922 mất năm 1980. Xuân Quỳnh từ nhỏ sống chung và được bà nuôi lớn. Chính những ngày tháng sống bên cạnh bà đã hun đúc cho Xuân Quỳnh một hồn thơ nhẹ nhàng đầy nữ tính.
Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nghĩ ngay đến vai trò nhà thơ, nhưng ít ai biết được nấc thang đầu tiên Xuân Quỳnh đến với nghệ thuật là làm diễn viên múa. Xuân Quỳnh từng tham gia khóa học tại trường Bồi dưỡng những người trẻ viết văn (Khóa I) do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Sau đó bà hoạt động tại các tờ báo lớn như báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt Nam. Xuân quỳnh còn là ủy viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Bên cạnh sự nghiệp văn học, cuộc sống cá nhân của nhà thơ cũng đã có hạnh phúc. Tuy ở giai đoạn đầu, Xuân Quỳnh có một cuộc hôn nhân không trọn vẹn nhưng cuối cùng cô đã tìm thấy bên đỗ bình yên bên cạnh Lưu Quang Vũ. Thế nhưng trong một tai nạn định mệnh, đã cướp mất đi hai tài năng của văn học Việt Nam là Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ.
Nhắc đến sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh, bà đã để lại cho đời một hồn nhẹ nhàng đằm thắm. Sự nhẹ nhàng ấy thể hiện rõ ở cả hai phương diện sáng tác của Xuân Quỳnh là thơ viết về tình yêu và thơ viết về thiếu nhi. Trong bài thơ Sóng, ta vẫn thấy một Xuân Quỳnh nhẹ nhàng sâu lắng nhưng không kém phần dữ dội mãnh liệt. Mượn hình ảnh sóng nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo đan cài vào sự chuyển động của sóng là những trạng thái tình cảm, cảm xúc của người phụ nữ trong tình yêu.
Mở đầu khổ 3 là một không gian rộng lớn bao la:
“Trước muôn trùng sóng bể”
“Muôn trùng” ý chỉ số nhiều. Từ đó gợi mở không gian rộng lớn bao la. Biển vốn đã mênh mông nhưng giờ lại càng rộng lớn hơn gấp bội trong cách kết hợp “muôn trùng sóng bể”. Dường như chỉ có không gian rộng lớn mênh mông ấy, sóng mới có thể thỏa sức vẫy vùng. Trong không gian ấy, sóng mới có thể là chính mình sống thật với những suy nghĩ cảm xúc Và đó không chỉ là không gian hoạt động của sóng mà đó còn là không gian tâm tưởng của chính em.
Trong không gian rộng lớn ấy, con người thường thấy mình nhỏ bé. Bởi lẽ mặt biển nhìn có vẻ êm đềm là thế nhưng bên dưới là sự vận động không ngừng của nước. Thời gian cũng thế. Nó cứ diễn ra chậm chạp con người không cảm nhận được. Nhưng từ giây phút này đã khác giây phút qua. Mọi thứ luôn vận động không ngừng. Trong sự vận động của thời gian ấy con người không thể làm được gì, không thể can thiệp được chỉ đành phó mặc cho thời gian xô đẩy. Con người không thể làm gì để thoát khỏi quy luật ấy nên chỉ đành ngậm ngùi chấp nhận như một lẽ tất yếu của cuộc sống.
Dòng thời gian cũng như dòng nước cứ chảy mãi dường như vô thủy vô chung với cuộc đời này. Đó là vì sao đứng trước không gian rộng lớn bao la con người luôn ý thức được rõ ràng hơn bản thân mình. Xuân Quỳnh cũng vậy. Xuân Quỳnh cũng bắt đầu suy ngẫm về cuộc sống, suy ngẫm về tình yêu.
Nếu ở hai khổ thơ đầu,
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày nay vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
sự xuất hiện của nhân vật trữ tình “em” chỉ là sự xuất hiện gián tiếp, thì đến câu thơ này, nhân vật trữ tình đã trực tiếp xuất hiện
“Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn”
Điệp cấu “em nghĩ về…” càng nhấn mạnh nỗi niềm. Nỗi niềm ấy, suy tư ấy không phải của ai, không thay ai nói mà đó là nỗi niềm của riêng một mình Xuân Quỳnh, của chỉ riêng Xuân Quỳnh mà thôi.
Bài thơ mượn hình ảnh của sóng, đáng lẽ phải là “sóng nghĩ về” nhưng Xuân Quỳnh lại trực tiếp nói lên nỗi lòng mình. Dường như em và sóng đã hòa vào làm một. Nói về sóng nhưng thực chất là nói về tình cảm của em dành cho anh. Cảm xúc trào dâng không sao dừng lại được như những đợt sóng dâng cao vỡ òa trong cảm xúc, để rồi từ đó mà tan ra vô vàn tình cảm.
Đứng trước không gian rộng lớn ấy, đáng lẽ điều đầu tiên hoặc đối tượng đầu tiên phải nghĩ đến đó chính là bản thân. Nhưng với Xuân Quỳnh thì không. Điều đầu tiên hiển hiện trong tâm trí của em đó là anh. Chỉ có anh mà thôi. Anh luôn là điều đầu tiên em nghĩ đến, là ưu tiên hàng đầu và dường như đây đã đi sâu vào tiềm thức của em. Một khi đã đi vào tiềm thức thì ta cũng hiểu được tình cảm ấy phải sâu đậm đến dường nào. Nghĩ đến anh rồi mới nghĩ đến em. Vậy nghĩ gì về anh nghĩ gì về em nghĩ gì về chúng ta. Có lẽ câu trả lời đích xác chỉ có thể em mới có thể trả lời được mà thôi.
Tuy không nói nhưng dường như ta vẫn cảm nhận được điều mà nhân vật “em” đang nghĩ gì lúc này. Đó là xoay quanh chuyện tình yêu của anh và em. Chuyện tình mình liệu có thành? Liệu anh có yêu em thật lòng sâu đậm như cách em yêu anh không? Liệu tình mình có đi đến cái đích cuối cùng của hạnh phúc hay chỉ lại là một sự dở dang?… Biết bao nhiêu lo âu. Vì vậy mà không hề vô lý khi các tác giả dân gian thường khắc họa nỗi lòng của cô gái trong tình yêu với biết bao nhiêu bộn bề lo toan như:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
(Ca dao)
Hay những lời tâm sự:
“Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
Em thương anh không dám nói ra
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời
Anh với em cũng muốn kết đôi
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.”
(Ca dao)
Từ chuyện của em và anh đột nhiên lại chuyển sang chuyện của sóng nước:
“Từ nơi nào sóng lên”
Sự chuyển đổi này có vẻ vô lý nhưng xét về quy luật của tâm trạng thì nó lại không vô lý chút nào. Bỏ lửng những dòng suy nghĩ về chuyện tình của anh và em về đích đến của mối tình này, để từ đó hướng đến cội nguồn của tình yêu. Mạch cảm xúc cứ trào dâng, mãi không thôi. Câu hỏi có vẻ ngây ngô “từ nơi nào sóng lên” còn chứa đựng nhiều hơn thế. Đi tìm quy luật của sóng biển cũng chính là tìm kiếm quy luật của tình yêu.
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu”.
Câu hỏi “từ nơi nào sóng lên” đã được diễn giải thuật thuyết phục. Sóng được tạo thành nhờ sự chuyển động của gió trên mặt nước. Vậy khúc mắc đầu tiên đã được gỡ bỏ. Nhưng liệu trái tim có thôi băn khoăn không. Câu trả lời là không. Nối tiếp sự lí giải đó lại tiếp tục là một câu hỏi “gió bắt đầu từ đâu”. Câu hỏi như muốn đi sâu hơn vào cái gốc rễ cội nguồn của sóng hay của chính tình yêu mà lòng em đang thổn thức.
Nếu cứ kéo dài mãi liệu có thể đi đến tận cùng nguồn gốc không. Câu trả lời là không bởi lẽ cứ một vấn đề được giải đáp thì một vấn đề khác lại nảy sinh. Nên ta nhận lại được một cái lắc đầu mỉm cười duyên dáng trước lời tự hỏi đó.
“Em cũng không biết nữa”
Cái lắc đầu đầy đằm thắm. Thật ra nếu trên góc độ lý trí khoa học thì hoàn toàn có thể lý giải được nơi khởi phát của gió – đó là sự chuyển động của không khí. Nhưng em đã từ chối suy nghĩ từ chối trả lời. Bởi lý trí lúc này chẳng có ý nghĩa gì chẳng là gì cả so với trái tim đang lỗi nhịp vì tình yêu. Đó không chỉ là cái lắc đầu không biết gió xuất phát từ đâu mà còn là cái lắc đầu vì:
“Khi nào ta yêu nhau”
Câu hỏi này cũng là câu hỏi muôn thuở trong tình yêu. Tình yêu là gì? Vì sao anh yêu em? Khi nào thì ta yêu nhau. Những câu trả lời này nếu để trả lời một cách lý trí thì thật khó để tìm ra đáp án. Nhưng có lẽ rằng câu hỏi này chỉ có thể trả lời bằng trái tim, trái tim yêu thương sẽ chấp nhận mọi câu trả lời mà nó muốn nghe, từ những người mà nó muốn nghe…
Em không biết khi nào tình ta bắt đầu, không phải vì em không yêu anh, cũng chẳng phải vì tình yêu ta chưa đậm sâu. Mà vì trái tim em không cần bất kỳ lời giải thích nào, bởi lẽ em biết mình yêu anh thế là đủ rồi.Tình yêu là thế càng đi tìm câu trả lời thì càng bế tắc. Bởi lẽ tình yêu là chuyện của trái tim của cảm xúc như Xuân Diệu đã từng cắt nghĩa tình yêu như sau.
“Làm sao định nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
(Vì sao – Xuân Diệu)
Và em cũng chẳng biết tình mình bắt đầu khi nào, em chỉ biết mình đã yêu anh khi con tim rung động. Đó là giây phút tình yêu em dành cho anh chớm nở. Em cũng không cần quan tâm bởi lẽ điều em cần hiện tại là được sống trong tình yêu của anh, là hiện tại và tương lai của chúng ta sau này. Đi tìm về quy luật tình yêu để trân quý hiện tại hơn. Nhìn vào nó không phải để bới móc, oán trách mà nhìn vào để thêm yêu giây phút cạnh bên nhau.
Bằng việc sử dụng hình ảnh sóng, Xuân Quỳnh đã thật tinh tế trong việc đan cài vào đó tình cảm của trái tim. Thể thơ năm chữ gợi nhiều cảm xúc kết hợp với với các hình ảnh gợi tả dã tạo nên một nét nghĩa độc đáo cho bài thơ. Sự thành công ấy còn đến từ ngôn ngữ trần thuật có sự xen lẫn giữa giọng kể và giọng tâm tình. Người đọc đôi lúc có cảm tưởng sóng và em tuy hai mà một, cả hai đã hòa vào nhau.
Chỉ với hai khổ thơ ngắn gọn, cô đọng nhưng ta vẫn cảm nhận được nỗi niềm của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là một tình yêu đằm thắm thiết tha nhưng không kém phần nồng hậu da diết. Đây cũng chính là một hồn thơ đầy thiên tính nữ. Gieo vào lòng người những xúc cảm nhẹ nhàng về tình yêu nhưng cũng đủ lắng đọng để ta phải chiêm nghiệm.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 11
Cuộc đời là đóa hoa, tình yêu là mật ngọt”, đại văn hào V.Hugo đã từng phải thốt lên như vậy. Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho loài người. Đó cũng là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn nghệ sĩ. Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại, người đọc không thể không nhắc đến nữ hoàng tình yêu Xuân Quỳnh – người đã đem đến cho làng thơ Việt Nam một tình yêu nồng nhiệt, táo bạo mà thiết tha, dịu dàng, hồn nhiên, giàu tự cảm mà lắng sâu những trải nghiệm suy tư. “Sóng” là một trong áng tình ca hay nhất của Xuân Quỳnh. Đứng trước biển lớn , Xuân Quỳnh đã bộc lộ rõ nỗi trăn trở, băn khoăn của mình về cội nguồn cua tình yêu”
Trước môn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên
Sóng bắt đầu từ gió
Gó bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Dòng thơ “Trước muôn trùng sóng bể” cho thấy sóng đã ra tới bể, đã hoàn thành cuộc hành trình kì công. Đối diện trước biển lớn là đối diện trước cõi vô tận, vô cùng của một môi trường sống mới khác hẳn dòng sông nhỏ hẹp khi xưa nên niềm khát khao cũng nảy sinh một cách tự nhiên và tất yếu. Lẽ thường ở khổ thơ này, nhà thơ phải viết “sóng nghĩ về’ nhưng nhà thơ lại viết “em nghĩ về” nhằm tạo nên sự đồng nhất giữa sóng và em. Hành trình của sóng cũng là hành trình của em. Trong điệp khúc Em nghĩ về anh, em – Em nghĩ về biển lớn” ẩn giấu niềm khát khao của một phụ nữ về tình yêu, về bản thân, về môi trường sống mới.
Từ nơi nào sóng lên
Đó là câu hỏi từng khiến bao lứa đôi băn khoăn và cũng chẳng ai có thể trả lời được một các rõ ràng, rành mạch được. Càng say mê bao nhiêu, càng thấy tình yêu huyền bí bất nhiêu. Người ta thường thiêng liêng hóa tình yêu của kiếp này biết đâu lại là sự hẹn hò của kiếp sau. Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng không ngoại lệ, cũng băn khoăn, thắc mắc, chăn chở đi tìm lời giải đáp. Nhưng cuối cùng Xuân Quỳnh cũng phải thú nhận bằng cái gật đầu dễ thương:
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Điều thú vị là ẩn sau cái lắc đầu dễ thương rất con gái ấy, người đọc, khám phá ra những định nghĩa mơ hồ mà thú vị, tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Trước muôn trùng sóng bể, trước biển lớn, tại sao nữ sĩ lại nghĩ bề anh, em; tức là tình yêu của đôi mình? Có phải chăng tình yêu đôi ta cũng mênh mông, thăm thẳm như biển lớn, đại dương. Sóng, biển ,gió trời từ nơi nào mà có? “Em cũng không biết nữa” và tình yêu cũng vậy. Nào có ai biết điểm đầu, điểm cuối, nào ai biết nơi khởi phát và điểm kết thức của tình yêu. Tình yêu muôn đời vẫn khó hiểu như chính thế giới tự nhiên vậy. Tình yêu đến và đi có khi chỉ như một cơn gió thoảng như để lại rung động ngọt ngào trong trái tim để rồi thao thức nhớ, khe khẽ yêu.
“Tình yêu luôn có quy luật riêng mà lí trí thì không thể nào hiểu nổi”. Tình yêu đôi lứa mêng mang như đại dương, tự nhiên và bí ẩn. Đó là những chân lí xưa cũ mà ai cũng biết. Đóng góp của Xuân Quỳnh là tạo ra tiếng nói rât riêng đằm thắm nét duyên con gái về những điều xưa cũ ấy. Không nghiêng về tư duy logic như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, nữ sĩ Xuân Quỳnh nói bằng tiếng nói của cảm xuac trái tim. Không cắt nghĩa rõ ràng cụ thể, Xuân Quỳnh chỉ khơi gợi để người đọc tự chiêm nghiệm suy ngẫm. Chính điều đó tạo nên sức hấp dẫ của Xuân Quỳnh.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 12
Trong các nhà thơ nữ, Xuân Quỳnh được xem là nữ hoàng của tình yêu. Xuân Quỳnh viết nhiều đề tài về cuộc sống đời thường nhưng tình yêu có lẽ là đề tài thành công, gây được tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp văn học của bà. Trong tiếng thơ của Xuân Quỳnh luôn thổn thức nỗi lòng yêu thương chân thành, mãnh liệt nhưng chứa chan âu lo, dự cảm chẳng lành. Đến với Sóng, hồn thơ ấy lại được thể hiện đậm nét hơn qua bốn khổ thơ đầu của bài thơ. Khổ thơ 3, 4 chứa chan khát vọng tha thiết, nhiệt thành và cả những chông chênh của người phụ nữ trong tình yêu.
Trong bài thơ nổi bật lên là hai hình tượng sóng và em. Song hành với sóng là em. Em là cái tôi người phụ nữ trong tình yêu. Và để đối chiếu với em, soi chiếu rõ nét cho em, nhà thơ đã mượn hình ảnh của sóng. Dù là em hay là sóng quy tụ lại cũng chính là biểu trưng cho cái tôi của chính tác giả, cho tình yêu nồng nàn, mãnh liệt đắm say của bà.
Cái đam mê khao khát trong tình yêu đã được thể hiện một cách thật đẹp, thật tài tình và chân thành. Người phụ nữ trân trọng tình yêu và vì thế họ luôn muốn được tìm tòi những bí mật trong tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng biển
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Tự khi nào sóng lên?”
Hàng loạt các câu thơ được bắt đầu bằng cấu trúc: “Em nghĩ” gợi đến biết bao những trăn trở, nghĩ suy trong trái tim người phụ nữ. Trăn trở được kiếm tìm, được giải đáp bao âu lo suy tư trắc trở. Không còn ẩn mình trong hình tượng sóng nữa, hình ảnh em ở đây đã được nổi lên, đặt trước cái mênh mông đất trời. Đối diện với không gian rộng lớn, bao la, nhà thơ bất giác đối sánh chiếu với cái mênh mông, vô hạn của tình yêu. Nhưng đâu chỉ mênh mông đâu chỉ vô tận, đại dương đầy bão tố kia chứa đựng biết bao bí ẩn, khiến cho trong lòng người phụ nữ lúc này dâng lên bao trăn trở, băn khoăn, mong muốn kiếm tìm lời giải đáp. Có lẽ rằng chỉ khi yêu con người ta mới khao khát đến thế, khao khát được khám phá, được giải đáp và được thấu hiểu đến tận cùng cội nguồn của nó. Hình ảnh người phụ nữ ở đây hiện lên thật đẹp, nét đẹp đặc biệt, thật thân thiện và đáng trân trọng.
Nối tiếp những suy nghĩ đó là câu đáp:
“Sóng bắt đầu từ gió”
Câu trả lời chóng vánh nhưng những trăn trở nào đâu có dừng lại ở đó. Cũng giống như những cơn sóng miên man, dập dìu nỗi băn khoăn của người phụ nữ cũng vì thế mà nối tiếp đến vô tận:
“Gió bắt đầu từ đâu”
Sóng từ gió còn gió lại từ đâu? Sự vật nối tiếp như dồn dập để rồi đáp lại bằng sự bối rối nghẹn ngào:
“Em cũng không biết nữa”
Hình ảnh em lại xuất hiện thế nhưng xuất hiện với cái lắc đầu ngượng ngùng bất lực, cái lắc đầu nũng nịu nhưng đầy bối rối và hạnh phúc. Tuy thế lại vô cùng đặc biệt bởi cái lắc đầu được đặt chơi vơi giữa hai câu hỏi:
“Khi nào ta yêu nhau”
Không biết chơi vơi giữa gió và tình yêu. Không biết gió có từ đâu và càng không thể cắt nghĩa được hạnh phúc, không biết được khi nào ta yêu nhau? Vì sao ta yêu nhau? Đó cũng chính là những bí ẩn ngàn đời của tình yêu và chính những bí ẩn này đã làm nên những quyến rũ rất riêng của tình yêu. Cũng giống như ông hoàng Xuân Diệu từng nói: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Tình yêu là thế, dù rằng có không thể hiểu nhưng vẫn bất chấp thả mình, đắm say trong nó. Tình yêu khiến cho trực cảm luôn đi trước lý trí. Đây cũng chính là lúc con người sống thật nhất với cảm xúc của mình. Tình yêu vượt qua mọi lý trí, mọi logic mọi quy luật trần thế.
Trôi chảy theo mạch xúc cảm, bốn khổ thơ đầu đã vẽ nên nét đẹp rất Á Đông của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là khát khao được dâng hiến, đắm chìm trong tình yêu dạt dào, nồng nàn và vĩnh cửu. Bài thơ còn toát lên nét đẹp hiện đại, rất riêng tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh thời kỳ đầu. Sau này dù cho nhiều đắng cay nhưng khát khao đó vẫn cháy bỏng trong trái tim nhiệt thành của nhà thơ.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 13
Trong dàn đồng ca các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ đầy trẻ trung, tươi mát và nữ tính. Tình yêu trải qua ngòi bút của bà luôn in đậm dấu ấn cái tôi phụ nữ nồng nàn, táo bạo mà vô cùng tha thiết, chân thành. Tất cả điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, hồn nhiên như bản năng – “Sóng”, đặc biệt là khổ thơ ba và bốn.
Bài thơ là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Con người Việt Nam thời kì kháng chiến lại viết về tình yêu, tình cảm riêng tư và vĩnh hằng nhất của nhân loại. Vì thế, bài thơ được coi là “bông hoa lạ” nở “dọc chiến hào” những năm kháng chiến chống Mỹ. Sau hai khổ thơ đầu về những quy luật của tình yêu, “em” vẫn chưa thỏa mình mà muốn truy tìm căn nguyên, nguồn gốc của tình yêu.
Trước không gian mênh mông biển lớn, người già hay nghĩ về sự hư vô, nhỏ bé của kiếp người; kẻ tráng trí hùng tâm lại một lòng: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” (Phan Bội Châu); kẻ đa cảm lại thấy: “Vắng cánh buồm một chút cũng cô đơn” (Hữu Thỉnh). Còn Xuân Quỳnh, đứng trước biển lại là những suy nghĩ, cảm nhận chân thực và cụ thể nhất:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Trước sự mãnh liệt và kì diệu của tình yêu, con người luôn có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong nó, luôn muốn cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lý dễ giả thích bằng những lý lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời một cách chính xác về nguyên nhân, khởi nguồn của tình yêu, cũng như khi Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhẹ lơi như hơi thở, tưởng bâng quơ mà hóa ra bận bịu lòng người. Vẫn là ước muốn truy tìm đến tận cùng bản thể: “Con người từ đâu đến? Nó sẽ đi về đâu? Tinh yêu từ nơi nào mà lớn lên vậy?”
Khổ thơ tiếp theo lại là câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa con người tới những suy ngẫm vô tận:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Trả lời cho câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?”, lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lý trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lý giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Thú nhận về sự bất lực trên hành trình tìm kiếm nguồn cội tình yêu nhưng lại là sự thức nhận sâu sắc: tình yêu là điều huyền diệu, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm cội nguồn, cũng không thể cắt nghĩa rõ ràng, tách bạch. Chẳng phải thể mà Xuân Diệu cũng chia sẻ:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
Xuân Diệu hỏi để lý giải còn Xuân Quỳnh nghiêng về tiếng nói tình cảm. Hỏi chỉ để cảm nhận được sự hiện của tình yêu.
Như vậy, qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như cung bậc của người phụ nữ đang yêu. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế, vừa chủ động mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành, tha thiết. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng đã thể hiện xuất sắc âm hưởng dào dạt của sóng biển, sóng lòng. Câu hỏi tu từ, hình ảnh thơ vừa tự nhiên, trong sáng lại có sức gợi mở và suy tưởng đến không ngờ.
Một nhà phê bình Pháp từng khẳng định: “Thơ, tự truyện của khát vọng” có lẽ là dành cho Xuân Quỳnh. Thơ ca, với bà, là sự sống, là tình yêu, làm thơ là được sống với chính mình, sống đầy đủ và trọn vẹn mình. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta cũng cảm nhận được tình yêu và nghe được khát vọng trong mình. Đó là lý do, vượt qua sự băng hoại thời gian, thơ ca đã, vẫn và sẽ sống cùng ta đến ngày tận thế.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 14
Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là “Ông hoàng thơ tình” thì Xuân Quỳnh lại được biết đến là nữ hoàng của tình yêu. Viết về đề tài tình yêu, Xuân Quỳnh đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều thi phẩm xuất sắc. Nổi bật trong số đó không thể không nhắc tới bài thơ “Sóng”. Trong tác phẩm, Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu được yêu thương, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung. Vẻ đẹp này thể hiện đặc biệt rõ nét qua các khổ thơ số 3 và 4:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Sóng vốn là hiện tượng tự nhiên muôn thuở nơi đại dương mênh mông. Khi nào vũ trụ còn tồn tại thì khi ấy đại dương còn thì còn “muôn trùng sóng bể”, sóng vẫn sẽ còn vỗ. Bởi thế, nó là biểu tượng cho sức sống vĩnh hằng, kỳ diệu, biểu tượng cho sự trường tồn bất biến với thời gian. Xây dựng hình ảnh “sóng ngày xưa” và “ngày sau” cùng việc sử dụng tính từ cảm thán “ôi”, tình thái từ chỉ trạng thái “vẫn thế”, Xuân Quỳnh đã khéo léo diễn tả khát vọng vô cùng đẹp đẽ.
Sóng ở đây chính là sóng lòng, luôn dạt dào, cuộn trào trong trái tim nhiệt thành yêu thương. Sóng chính là “em”. Biển lại giống như lồng ngực bao la của trời đất. Sóng của biển vĩnh hằng cùng tự nhiên cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của đôi lứa, là “khát vọng” muôn thuở của trai gái từ xưa đến nay. Sự vĩnh hằng đó được thể hiện qua cả không gian lẫn thời gian. Bên cạnh “ngày xưa” – “ngày nay”, Xuân Quỳnh khéo léo đặt vào khổ thơ chữ “trẻ” ở cuối câu thơ, nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của tình yêu. Nó mang đến cho tuổi trẻ những nhịp đập rung động khác thường, sự tươi sáng vui tươi, lặng lẽ viết lên những trang nhật ký thanh xuân đẹp đẽ, xúc động. Không chỉ riêng thi sĩ mà tất cả mọi người đều khát khao có một tình yêu vĩnh cửu.
Người phụ nữ khát khao yêu thương và trân trọng tình yêu nên luôn muốn khám phá những bí mật của tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng biển
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ khi nào sóng lên?”
Những trăn trở, nghĩ suy trong tâm trí nữ thi sĩ được gợi ra qua hàng loạt câu thơ bắt đầu với cấu trúc “em nghĩ” đầy suy tư. Bà trăn trở được giải đáp những âu lo về tình yêu. “Em” đến đây đã không còn ẩn mình trong sóng nữa mà hiện lên giữa mênh mông đất trời. Đối diện với không gian bao la, vô tận, nhà thơ bỗng nhớ đến cái mênh mang, vô hạn của tình yêu. Nhưng tình yêu đâu chỉ mênh mang, vô tận, trong lòng đại dương của nó còn chứa đựng bao bão tố, phong ba, bao bí ẩn khiến lòng người trăn trở, băn khoăn, khát khao kiếm tìm đáp án. Có lẽ chỉ khi yêu con người ta mới khát khao được khám phá, được thấu hiểu tận cùng cội nguồn của tình yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?”
Đáp án của câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?” thật đơn giản, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng đáp án của câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” lại khiến người ta ngập ngừng, không chắc chắn “không biết nữa”. Những câu hỏi tu từ khi ẩn dưới chân sóng, khi lại trào dâng lên đầu ngọn sóng diễn tả tâm trạng nhà thơ. Nương theo con sóng đại dương, bà bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu, đồng thời lý giải bản chất của nó.
Cuối cùng đáp án nhận được là: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nó vừa giống như câu trả lời đầy nũng nịu, lại như lời thú nhận về kết quả khám phá cội nguồn tình yêu. Tình yêu vốn là tình cảm ẩn sâu trong trái tim con người, nó trừu tượng, huyền diệu chỉ có thể cảm nhận chứ không thể giải thích rõ nguồn cội, cũng chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng. Giống như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng nói:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
Có thể nói, chỉ 3 khổ thơ ngắn gọn nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng những biện pháp nghệ thuật cùng hình ảnh gợi cảm đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc cùng những câu hỏi tu từ dồn dập. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng tạo âm hưởng dào dạt. Nhịp thơ khi nhẹ nhàng, khi da diết. Để rồi qua việc tạo dựng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như khát vọng tình yêu thủy chung, tốt đẹp. Đồng thời khắc họa vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, nét truyền thống pha lẫn vẻ hiện đại của trái tim người phụ nữ với tình yêu chân thành, tha thiết.
Với những giá trị đó, 2 khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của “Sóng” và khẳng định hồn thơ Xuân Quỳnh. Đọc thơ bà, chúng ta dường như cũng cảm nhận được rung động tình yêu và lắng nghe được tiếng lòng mình. Vì vậy, vượt qua sự bào mòn của thời gian, thơ Xuân Quỳnh vẫn có một sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả.
*****
Trên đây là 14 bài mẫu Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)