Học TậpLớp 12

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành ngắn gọn, hay nhất (14 Mẫu)

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 14 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Dàn ý Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành lớp 12

Dàn ý Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Số 1

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành ngắn gọn, hay nhất (14 Mẫu)

Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với vùng đất Tây Nguyên giàu đẹp, bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.

2. Thân bài:

a.  Hình ảnh rừng xà nu:

– Một rừng cây luôn “nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”
– Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn

– Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào, không cây nào là không bị thương.

– Rừng xà nu vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình

– Hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng.

=> Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên.

b. Hình ảnh con người Tây Nguyên

– Cụ Mết:

Đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu

– Tnú

+ Mang trong mình những phẩm chất anh hùng.

+ Một lòng trung thành với cách mạng

+ Chịu nhiều đau thương vẫn hiên ngang, lập nhiều chiến công hiển hách

=> Đại diện tiêu biểu cho thế hệ trưởng thành, niềm tự hào của người dân Tây Nguyên.

– Dít, bé Heng: Thế hệ mai sau tiếp nối gương sáng cha anh

3. Kết bài

Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.

Dàn ý Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Số 2

I. Mở bài

– Nguyễn Trung thành là nhà văn có duyên với vùng đất Tây Nguyên, ông có nhiều tác phẩm viết về mảnh đất này (tiểu thuyết Đất nước đứng lên, truyện ngắn Rừng xà nu, …).

– Rừng xà nu – thiên sử thi Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu tranh giành tự do của con người Tây Nguyên anh dũng.

II. Thân bài

1. Hình tượng cây xà nu

– Là loài cây có sự gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên: gắn với sinh hoạt hằng ngày, gắn với sự kiện trọng đại của dân làng: lửa xà nu cháy trong bếp, đuốc xà nu cháy sáng để mài vũ khí, lửa xà nu soi rõ xác 10 thằng giặc, ….

– Loài cây chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu, cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Mượn nỗi đau của cây xà nu để nói về nỗi đau của dân làng Xô Man.

– Loài cây có sức sống mãnh liệt: sinh sôi nhanh chóng “bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây con mọc lên” (đầu tác phẩm), “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”. Đó là hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên.

– Loài cây ham ánh sáng, như những người dân Tây Nguyên yêu tự do, có khát vọng sống mãnh liệt.

2. Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên

a. Nhân vật cụ Mết

– Ngoại hình: quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm, khỏe mạnh với “đôi bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.

– Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”, mỗi câu nói như một chân lí “không có gì mạnh bằng cây xà nu…”, “cán bộ là Đảng, … nước này còn”, “chúng nó cầm súng … cầm giáo”.

– Tích cách, phẩm chất: quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, luôn yêu thương, che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên.

b. Nhân vật Tnú

– Từ nhỏ đã mang những nét tính cách phi thường: xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ nhỏ đã giác ngộ lí tưởng cách mạng, đi rừng rất tháo vát, nhanh nhẹn, bị giặc bắt mà không run sợ, chỉ tay và bụng “cộng sản đây này”.

– Khi trưởng thành, Tnú trở thành cán bộ cách mạng:

  • Có trái tim tràn đầy tình yêu thương: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt giết, Tnú lao ra cứu nhưng bị bọn giặc bắt.
  • Là người cộng sản kiên cường, dũng cảm: giặc đốt 10 đầu ngón tay anh không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục” dùng đôi bàn tay của mình để cầm súng giết giặc, …

– Nhận xét: Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương cá nhân vì lợi ích của cộng đồng.

c. Nhân vật Dít

– Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc, …

d. Nhân vật bé Heng

– Bé Heng dù nhỏ tuổi nhưng đã làm nhiệm vụ: thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng.

– “là lứa xà nu mới mọc nhưng đã nhọ hoắt như lưỡi lê”, hứa hẹn một sự vươn lên vững chắc.

– Nhận xét chung: họ là một tập thể anh hùng luôn nối tiếp những truyền thống tốt đẹp: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng. Qua ho có thể thấy được phẩm chất và con đường cách mạng của người dân Tây Nguyên.

III. Kết bài

– Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

– Rừng xà nu là một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

14 Bài mẫu Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 1

Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào giữa năm 1965, lúc cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam ở vào một bước ngoặt chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”; hang chục vạn quân viễn chinh Mĩ ồ ạt đổ vào miền Nam, lực lượng cách mạng phải đương đầu với những thách thức to lớn, nhưng vẫn kiên trì mục tiêu và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Nguyễn Trung thành lúc ấy đang hoạt động báo chí trong lực lượng quân giải phóng miền Trung Trung Bộ đã kịp thời viết bài tùy bút nổi tiếng Đường chúng ta đi, được xem như một bài hịch của thời đánh đế quốc Mĩ. Tiếp đó, theo yêu cầu của tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, bằng vốn hiểu biết và tình cảm sâu nặng với Tây Nguyên, nhà văn đã viết rất nhanh truyện Rừng xà nu cũng với tư tưởng cơ bản là khẳng định con đường duy nhất để giải phóng của nhân dân miền Nam là đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, dung bạo lực cách mạng để chống lại sự tàn bạo của kẻ thù.

Rừng xà nu là truyện về cuộc “đồng khởi” của làng Xô Man ở Tây Nguyên, cũng là câu chuyện bi tráng về cuộc đời của Tnú. Hai câu chuyện ấy lồng vào nhau mà chuyện về Tnú diễn ra trên nền cảnh lịch sử là cuộc “đồng khởi” của làng. Tư tưởng chủ đề của truyện đã được phát ngôn qua lời của cụ Mết.

Ở đoạn cao trào của xung đột giữa nhân dân làng Xô Man với kẻ thù, qua lời của một già làng; tư tưởng ấy được ghi khắc như một chân lí lịch sử: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !…”. Cố nhiên, giá trị tác phẩm không phải chỉ ở sự minh họa tư tưởng ấy, những tư tưởng ấy là điểm quy tụ mọi cảm hứng nghệ thuật của tác giả và soi chiếu lên mọi chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.

Truyện Rừng xù nu mang đậm chất sử thi. Chất sử thi toát lên từ chủ để, cốt truyện đến nhân vật và cả hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật và giọng điệu, ngôn ngữ của tác phẩm. Hãy chú ý đến cách trần thuật của truyện : Câu chuyện về lịch sử cuộc nổi dậy của một làng và cuộc đời của Tnú được kể lại trong một đêm, cái đêm anh về thăm làng, qua lời của cụ Mết.

Chuyện được kể qua lời của một già làng, bên bếp lửa bập bùng suốt đêm, cho cả dân làng nghe: giọng kể trang trọng như truyền cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử bi thương và anh hùng của cộng đồng: Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống… “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãỵ lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe !…”.

Cách trần thuật như vậy gợi nhớ tới cách kể khan (trường ca) của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của làng, các bài khan được kể như hát suốt nhiều đêm, những trường ca đầy chất sử thi kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh và khát vọng của cộng đồng (như các trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Bơ-ri,…).

Trong Rừng xà nu, câu chuyện cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại, nhưng đã được kể như là một câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng sử thi, với thái độ “chiêm ngưỡng” qua một “khoảng cách sử thi” những con người và sự kiện được kể lại.

Truyện ngắn này đã xây dựng cả một hộ thống nhân vật, thể hiện sự tiếp nối của các thế hệ cách mạng của làng Xô Man ở Tây Nguyên: Cụ Mết là gạch nối giữa lịch sử và hiện tại, là thế hệ chiến đấu từ thời chống thực dân Pháp; anh Quyết là cán bộ cách mạng, người đã “gieo mầm” cách mạng trong đồng bào Tây Nguyên ; rồi Tnú, Mai và tiếp đó là Dít, cả thằng bé Heng – các thế hệ nhân dân Tây Nguyên tiếp nối cuộc chiến đấu, càng sau càng trưởng thành mau lẹ. Nhân vật trung tâm – Tnú – được tác giả tập trung khắc hoạ cả tính cách và số phận.

Cuộc đời và số phận của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. Ở Tnú, nhiêu chi tiết được miêu tả nhằm làm nổi bạt những nét tính cách đẹp đẽ và được bộc lộ ngay từ lúc còn là một cậu bé: gan góc và táo bạo, dũng cảm và trung thực, gắn bó và trung thành với cách mạng, tình thương yêu vợ con và dân làng, quê hương,…

Câu chuyện tình của Tnú và Mai lúc còn nhỏ thì hồn nhiên và thơ mộng, ở tuổi trưởng thành thật đẹp và thắm thiết nghĩa tình, nhưng rồi thành vô cùng bi thương bởi sự tàn bạo tột cùng của kẻ thù, ngay giữa lúc hai người đang ngập tràn hạnh phúc. Nhưng có lẽ ở nhân vật Tnú, hình ảnh đôi bàn tay gây được ấn tượng sâu sắc và đậm nét hơn cả. Qua bàn tay mà hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật.

Bàn tay Tnú lúc còn lành lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa : bàn tay cầm phấn viết cái chữ do anh Quyết dạy cho, bàn tay dám cầm đá đập vào đầu mình “Cộng sản ở đây này !” khi giặc tra hỏi, khi Tnú thoát ngục Kông Tum trở về, gặp Mai ở đầu làng, Mai cầm đôi bàn tay ấy mà giàn giụa nước mắt.

Với đôi bàn tay không, Tnú xông ra giữa bọn giặc, quật ngã tên lính to béo đang nên những cây gậy sắt lên mẹ con Mai. Nhưng với hai bàn tay trắng, Tnú đã không cứu nổi vợ con anh. Hai bàn tay Tnú, mười ngón bị bọn giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi đốt. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Ngọn lửa từ mười đầu ngón tay – nơi thần kinh bén nhạy nhất – đã thiêu đốt cả gan ruột, cả hệ thần kinh của Tnú: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa.

Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Mười ngọn đuốc ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Xô Man : trong ánh đuốc lửa xà nu, cụ Mết cùng đám thanh niên với giáo mác trong tay xông ra giết sạch cả tiểu đội lính địch, khởi đầu cho cuộc chiến đấu vũ trang giải phóng của làng. Bàn tay Tnú đã được dập lửa, nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt.

Đốt ngón tay cháy cụt không thể mọc lại. Bàn tay mười ngón cháy cụt còn đó như chứng tích căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, nó nhắc nhở anh và cả làng Xô Man vể tội ác man rợ của kẻ thù. Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo, cầm súng được. Và Tnú đã lên đường, cầm súng đi tìm những thằng Dục để đòi trả món nợ máu… Đến cuối truyện, bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện trong một cảnh được miêu tả tỉ mỉ như quay cận cảnh của điện ảnh.

Nhưng lần này nó ở trong một tư thế, một tương quan hoàn toàn khác với kẻ thù. Bằng đôi bàn tay cụt mười đốt ngón tay ấy, Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó, trong ánh đèn pin soi vào mặt nó cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo đang siết vào cổ họng những thằng Dục (với Tnú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục).

Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngán này là hình tượng cây xà nu. Hình ảnh này không chỉ là khung cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn mang một ý nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu và kết thúc truyện đều là hình ảnh cánh rừng xà nu : “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” (câu này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm đọng lại trong tâm trí độc giả sau khi câu chuyện đã khép lại).

Nhưng xà nu không chỉ có mật trong đoạn mở đầu và đoạn kết, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu gắn bó với cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng: ngọn lửa xà nu cháy bập bùng trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp cả dân làng; khói xà nu đen nhẻm trên thân mình lũ trẻ; khói xà nu còn làm cho tấm bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Mai và Tnú học chữ,…

Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và cả dân làng đi rừng sâu lấy giáo, mác, dụ, rựa đà giấu kĩ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy; đêm đêm cả làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu ; rồi ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cả làng cái đêm nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính bị giết nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu lớn giữa sân nhà ưng của làng.

Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên. Chúng ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là Rừng xà nu. Tác giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ chức các chi tiết nghệ thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm.

Có thể nói hình tượng xà nu là một mô típ chủ đạo trong tác phẩm, không tìm được hình tượng này, tác giả cũng không thể viết được truyện ngắn Rừng xà nu. Nguyên Ngọc kể lại : “Bắt đầu như thế nào ? Không, quả thực bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hể tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.

Hồi tháng 5 – 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyền Thi. Nguyễn Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình, là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời.

Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó […], Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong khu rừng tuyệt vời ấy […] Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ra dưới ngòi bút tôi !

Vì nhớ Nguyễn Thi chăng ? Từ ngày vào chiến trường chúng tôi bặt tin nhau. Vì bấy giờ, bước vào cuộc giáp mặt trực tiếp với Mĩ rồi đây, cả cuộc đời mình – mà tôi đã cùng Nguyễn Thi ôn lại, điểm lại ngày nọ dưới rừng xà nu Tây Thừa Thiên – chợt sống dậy chăng ? Hay vì cái không khí “Hịch tướng sĩ” đánh đế quốc Mĩ hừng hực bấy giờ rất tráng ca, rất “xà nu” chăng ?,… Tôi không nhớ và biết rỏ.

Nhưng vậy đấy, rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, đã có không gian ba chiều. Và cũng lập tức đã nhập được vào không khí, và không gian ấy”. Chính vì xà nu mang ý nghĩa một biểu tượng nên sự miêu tả về loài cây ở đây luôn luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con người gợi ra những liên tưởng về đời sống và số phận cùng phẩm cách của con người – dân làng Xô Man.

Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man chịu nhiều đau thương bởi sự tàn phá hằng ngày của giặc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”.

Nhưng xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên, tiếp tục cuộc chiến đấu.

Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai ; Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình, thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội, rồi những bé Heng thế hệ tiếp theo của Dít, cũng đang lớn lên tiếp bước các lớp cha anh.

Thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên nhiên và con người cũng còn được thể hiện ngay khi miêu tả nước, tác giả thường dùng cách so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn”; vết thương trên lưng Tnú do dao giặc chém thì “ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu”.

Thủ pháp nghệ thuật “ứng chiếu” này trong miêu tả tạo nên một sự chuyển hoá, hoà nhập giữa hình tượng thiên nhiên và con người, một bản hợp ca đầy chất thơ hào hùng, tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất của nhân dân giành tự do.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 2

Đất nước ta có được hòa bình độc lập như ngày hôm nay là biết bao máu xương của thế hệ cha ông đi trước. Trên khắp mảnh đất hình chữ S, ta đã chứng kiến bao tấm gương hi sinh anh dũng và chiến đấu kiên cường vì độc lập. Các nhà thơ, nhà văn- những người nghệ sĩ, chiến sĩ đã giúp cho các thế hệ hiểu hơn về đau thương, mất mát của cha ông. Một trong số tác phẩm bạn đọc không thể bỏ qua khi đi tìm hiểu về văn chương kháng chiến là Rừng xà nu của Nguyên Ngọc.

Nguyên Ngọc được biết đến với tên khai sinh Nguyễn Trung Thành. Ông là nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Và đặc biệt gắn bó với mảnh đất, con người Tây Nguyên. Đó cũng là điều kiện tiền đề cho sự thành công của tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.

Rừng xà nu được viết năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu dồn quân ồ ạt vào miền Nam, các chiến dịch càn quét được tổ chức với quy mô rầm rộ hơn. Tác phẩm ra đời như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và dân tộc ta nói chung.

Trong đời thực, xà nu là một loài cây họ thông, mọc khỏe và có nhiều ở mảnh đất Tây Nguyên. Đến với xứ sở cao nguyên này là đến với những cánh rừng xà nu bạt ngàn. Và đối với người dân Tây Nguyên, đây là loài cây rất quen thuộc, gắn bó mật thiết với cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Nguyên.

Rừng xà nu đã trở thành không gian thực, bối cảnh thực của câu chuyện, được xuất hiện trở đi trở lại rất nhiều lần trong tác phẩm, tham gia vào sự phát triển của câu chuyện, trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với các nhân vật. Đó là hình ảnh những cánh rừng xà nu bao bọc quanh làng Xô man. Từ đồi xà nu- nơi bắt nguồn của con nước dẫn vào làng.. đến những công dụng của nó như củi xà nu cháy trong mỗi bếp, đuốc xà nu soi sáng rừng đêm, nhựa xà nu cháy rực trên mười đầu ngón tay Tnú. Rừng xà nu đã chứng kiến bao buồn vui của con người và trở thành những thành viên có mối quan hệ khăng khít với con người Xô man.

Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm không chỉ được hiện lên với những chi tiết miêu tả chân thực, sống động mà còn bằng những hình ảnh nhân hóa, những liên tưởng độc đáo, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi vật mà những cây xà nu và rừng xà nu được hiện lên như thực thể sống, có phẩm chất, số phận như con người thực sự.

Câu chuyện được mở đầu bằng nỗi đau thương của những cây xà nu trong cảnh ác liệt của chiến tranh: “Chúng nó bắn đã thành lệ,… hầu hết đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Rừng xà nu đã trở thành đối tượng hủy diệt tàn phá của quân xâm lược, phải hứng chịu bao đau thương, mất mát. Trước hết, đó là nỗi đau thương chung của một rừng cây: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Trong đó lại có những nỗi đau thương riêng của từng cá thể: “Có những cây bị chặt đứt ngang ngửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Rồi có những cây còn non “vừ lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi… năm mười hôm thì cây chết”.

Những trận mưa bom bão đạn của kẻ thù dội xuống những cánh rừng xà nu nhằm hủy diệt sự sống của thiên nhiên và con người nơi đây. Rừng xà nu phải hứng chịu bao tổn thương, mang trên mình đầy thương tích. Nhưng trong đau thương, trong chiến tranh bom đạn khắc nghiệt, cây xà nu, rừng xà nu vẫn hiện lên với bao vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng.

Đó là loài cây sinh sôi nảy nở rất khỏe. Cứ một cây ngã xuống là đã có bốn, năm cây con mọc lên. Đó là loài cây “ham ánh sáng mặt trời”, nhưng không phải là ánh sáng yếu ớt dưới tầng thấp mà đó là những luồng sáng lớn thẳng tắp rọi xuống từ bầu trời cao, rộng. Chính bản năng sinh tồn mạnh mẽ cùng với khát vọng ánh sáng của bầu trời tự do đã tạo cho cây xà nu ngay từ nhỏ một vóc dáng ngay thẳng, kiên cường, một sức mạnh bất tử mà không một trở lực nào có thể ngăn cản được: “ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng lên bầu trời.. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…” Cây xà nu còn có một sức chịu đựng phi thường, sức sống nội tại bất diệt. Bởi vậy mà “đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Đối mặt với bom đạn hủy diệt của kẻ thù, rừng xà nu vẫn hiện ra với tư thế hào hùng, hiên ngang, bất khuất như chàng dũng sĩ khổng lồ, ngày ngày “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.

Chiến tranh và năm tháng, kẻ thù đã dội xuống những cánh rừng xà nu biết bao nhiêu bom đạn, ra sức tàn phá hủy diệt sự sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Những đồi xà nu, rừng xà nu vẫn nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Với kết cấu theo kiểu vòng tròn, câu văn kết thúc và câu văn mở đầu được lặp lại gần như nguyên vẹn, chỉ thay thế từ “đồi” bằng từ “rừng”, chữ “hết” bằng chữ “hút”. Minh chứng cho sự trường tồn bất tử, sức sống bất diệt của thiên nhiên nơi đây mà không một sức mạnh tàn bạo nào có thể ngăn cản và hủy diệt được.

Khi xây dựng hình tượng rừng xà nu, Nguyên Ngọc không chỉ tái hiện một bức tranh thiên nhiên tráng lệ, hào hùng của mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ, mà rừng xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ cho con người nơi đây. Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhà văn đều gắn bó sâu nặng với mảnh đất Tây Nguyên. Nỗi đau thương của rừng xà nu cũng chính là nỗi đau thương của dân làng Xô man. Biết bao máu và nước mắt, biết bao nỗi đau khổ thể xác và tinh thần đau đớn nhưng cũng giống như cây xà nu, dân làng Xô man luôn nêu cao tinh thần bất khuất, quật cường với tư thế không bao giờ cúi đầu. Những lứa cây nối tiếp nhau trong rừng xà nu là biểu tượng cho các thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô man, luôn nêu cao truyền thống anh hùng, bất khuất từ quá khứ đến hiện tại.

Tnú là nhân vật trung tâm của truyện ngắn Rừng xà nu, là linh hồn của tác phẩm. Nhân vật được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút mang đậm chất sử thi. Tnú tiêu biểu cho số phận, phẩm chất của dân làng Xô man, của nhân dân Tây Nguyên. Thời đại lịch sử cùng với truyền thống đấu tranh anh dũng của dân làng đã góp phần hình thành nên một con người có đặc điểm chung của cộng đồng nhưng cũng có nét riêng về số phận và phẩm chất.

Trong nỗi đau thương của dân làng Xô man, cuộc đời Tnú đã phải gánh chịu nhiều đau thương, mất mát. Anh mồ côi cha mẹ từ bé, sống nhờ vào sự đùm bọc của dân làng. Khi làm liên lạc Cách mạng cho anh Quyết, Tnú đã bị giặc bắt, chịu tù đày và bị tra tấn dã man với những vết dao chém lằn ngang, lằn dọc ở lưng. Sau khi vượt ngục về làng, Tnú lấy vợ, sinh con nhưng đau thương vẫn tiếp tục ập đến với cuộc đời anh. Người vợ trẻ cùng đứa con thơ chưa đầy tháng đã bị giặc đánh đập đến chết bằng những trận mưa gậy sắt. Và đau đớn hơn, tận mắt Tnú phải chứng kiến cảnh vợ con mình bị đánh đập cho tới chết mà bất lực. Còn bản thân anh thì bị bắt, bọn giặc dùng nhựa xà nu đốt cụt mười đầu ngón tay. Có thể nói, cuộc đời Tnú đã phải chịu đựng nỗi đau đớn tận cùng cả về thể xác lẫn tinh thần.

Mồ côi cha mẹ từ bé, lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng Xô man, nên Tnú rất nặng tình với mảnh đất và con người Tây Nguyên. Xa quê hương, Tnú không ngừng nhớ về quê nhà với tiếng chày giã gạo của người phụ nữ Strá, của Mai… Anh đã vượt cả quãng đường dài trong cảnh khói lửa của chiến tranh chỉ đề trở lại thăm làng được có một đêm và anh chẳng còn người thân nào cả. Dù thời gian trôi qua đã ba năm nhưng anh vẫn nhớ rõ từng nét mặt, hình dáng, giọng nói của mỗi người và nhận ra cả sự thay đổi của họ. Nỗi xúc động dâng trào của Tnú cũng là niềm vui sướng và tình cảm của nồng hậu của bà con khi chào đón anh trở về đã thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó sâu nặng của Tnú với dân làng như máu thịt, ruột già.

Tình yêu thương mà Tnú dành cho vợ con cũng rất chân thành, cảm động. Ngày Mai sinh con, Tnú đã đi bộ cả ngày đường để kiếm vải về cho Mai địu con. Trong đêm giặc kéo đến vây làng, khi tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn, Tnú đau đớn và căm phẫn đến tột cùng: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Anh đã xông ra cứu vợ con trong sự liều lĩnh và tuyệt vọng, bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng mình.

Nhưng tình yêu thương gia đình rất đỗi đời thường ấy đã góp phần xây đắp lên một tình yêu lớn lao, cao cả hơn trong Tnú là tình yêu đất nước, yêu Đảng, yêu Cách mạng. Tnú lớn lên trong thời đại máu lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ý thức và khát vọng về độc lập tự do đã thấm nhuần trong tâm hồn của mỗi người, được lưu truyền qua các thế hệ của cộng đồng. Bởi vật mà ngay khi còn nhỏ, Tnú đã khắc ghi lời dạy của Cụ Mết: “Đảng còn, núi nước này còn”. Tnú đã một lòng theo Đảng, theo Cách mạng, cống hiến trọn đời mình vì độc lập, tự do của quê hương.

Không chỉ làm một con người có trái tim tha thiết yêu thương, Tnú còn mang những phẩm chất tinh thần vô cùng cao quý. Sinh ra và lớn lên giữa đại ngàn, trong hoàn cảnh của những cuộc chiến tranh ác liệt mà hào hùng. Tnú dường như được thừa hưởng toàn bộ sức mạnh của Tây Nguyên hoang dã và truyền thống quật cường của dân làng Xô man. Bởi vậy, bên trong thân hình cường tráng với hai cánh tay rộng như hai cánh lim chắc là dòng máu kiên trung bất và không bao giờ vơi cạn.

Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, trong những năm tháng đau thương, đen tối nhất của Cách mạng với sự tàn sát vô cùng man rợ nhưng Tnú cùng với Mai vẫn dũng cảm vào rừng nuôi giấu cán bộ. Hai người trở thành liên lạc viên cho anh Quyết. Cậu bé Tnú luôn bộc lộ sự gan dạ, thông minh. Đi rừng, Tnú không chọn lối đường mòn dễ đi mà tìm những lối tắt xé rừng mà đi. Khi vượt sông, vượt suối, Tnú không lựa chọn những chỗ nước êm mà chọn những quãng sông thác ghềnh chảy xiết. Bị giặc bắt và tra tấn dã man, Tnú vẫn cương quyết không khai nửa lời. Khi giặc hỏi cộng sản ở đâu, Tnú lấy tay chỉ vào bụng nói “Cộng sản ở đây”. Vượt ngục quay về làng với những vết thương bên mình, tuy đau đớn nhưng Tnú đã ngay lập tức cùng cụ Mết lãnh đạo thanh niên trai tráng trong lành vào rừng sâu mài giáo, mác để chuẩn bị cho ngày chiến đấu. Kẻ thù man rợ đã hành hạ đến chết vợ con anh, đốt cụt mười đầu ngón tay anh. Bao đau thương cả về thể xác lẫn tinh thần ập đến tưởng chừng làm Tnú gục ngã nhưng không, anh vẫn kiên cường vượt lên trên nỗi đau thương của số phận, tựa như một cây xà nu trưởng thành với sức sống bất diệt mà “đạn đại bác không thể giết nổi chúng”. Anh đã tham gia lực lượng quân giải phóng, chiến đấu anh dũng để trả thù nhà, đền nợ nước. Và trong một trận đấu giáp lá cà, anh đã giết chết tên giặc to béo như thằng Dực( tiểu đội trưởng lính ngụy năm xưa).

Khi xây dựng hình ảnh nhân vật Tnú, nhà văn đã rất nhiều lần nhắc đến hình ảnh đôi bàn tay của Tnú. Đôi bàn tay đó khi lành lặn là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình. Đôi bàn tay đó cầm phấn học chữ anh Quyết dạy, từng tiếp tế lương thực cho cán bộ trong rừng. Từng lấy đá đập vào đầu mình cho chảy máu để tự trừng phạt bản thân vì học chữ thua Mai. Khi Tnú bị giặc bắt, chúng đã tẩm nhựa xà nu để đốt cụt mười đầu ngón tay Tnú. Mười đầu ngón tay trở thành mười ngọn đuốc. Lúc này, anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi nhưng anh tuyệt không kêu rên, cắn răng quyết không kêu than.Mười đầu ngón tay bị cụt đốt là bằng chứng tố cáo tội ác man rợ của giặc. Đồng thời đã thổi bùng lên ngọn lửa của lòng căm hận với kẻ thù xâm lược. Đôi bàn tay Tnú tàn nhưng không phế. Anh vẫn tiếp tục cầm súng tham gia Cách mạng và lập công lao. Có thể nói, số phận và phẩm chất của người anh hùng Tnú được khắc họa qua hình ảnh đôi bàn tay bị cụt đốt là đôi bàn tay đau thương, bàn tay căm thù và bàn tay chiến thắng.

Nguyên Ngọc đã viết lên câu chuyện về những con người kháng chiến với tất cả trân trọng và tự hào. Tác giả rất linh hoạt trong những tình huống truyện để đẩy câu chuyện đến cao trào hoặc đưa ra những suy ngẫm trong độc giả. Từ việc xây dựng hình tượng nghệ thuật rừng xà nu, đến câu chuyện về cuộc đời Tnú, về dân làng Xô man. Tất cả đều thấm đẫm nỗi đau nhưng rất đáng tự hào, ngợi ca về con người anh hùng trong kháng chiến. Chính họ là những người làm nên chiến thắng.

Trong cuộc sống xô bồ, khi độc lập tự do đã ở ngay trước mắt thì mỗi lần đọc những trang viết về năm tháng chiến tranh khiến ta không khỏi bùi ngùi xúc động. Những tác phẩm văn học kháng chiến ra đời không chỉ là kết tinh của một tài năng nghệ thuật hay tái hiện con người và thời đại một cách đơn thuần. Những tác phẩm như Rừng xà nu đã và đang làm nhiệm vụ dựng xây, bồi đắp lòng yêu nước, lòng tự hào đến các thế hệ con cháu Việt Nam hôm nay.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 3

Mảnh đất Tây Nguyên cùng với những người con bất khuất đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nghệ sĩ trong đó có nhà văn Nguyễn Trung Thành. Ông nổi tiếng với truyện ngắn “Rừng xà nu”. Đây là truyện ngắn đã góp phần tạo nên sự thành công trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.

Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” năm 1965 và tác phẩm này được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Nhan đề của truyện đã gợi nên hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn và sức sống mãnh liệt của nó cũng như sức sống mãnh liệt của buôn làng Xô Man.

Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh những “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Xà nu là loại cây thuộc họ thông, mọc rất nhiều ở vùng Tây Nguyên. Nó thường mọc thành rừng rộng lớn và là đặc trưng riêng của mảnh đất anh dũng này. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu bao xung quanh, che chở cho buôn làng tránh những trận đại bác của quân địch. Sự khốc liệt của chiến tranh đã khiến “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”, “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.

Đây là loài cây gắn bó mật thiết như một người bạn đồng hành với dân làng. Cuộc sống của họ từ khi sinh ra, lớn lên và khi về với đất mẹ cũng đều gắn liền với cây xà nu. Dưới tán xà nu là những hoạt động sinh hoạt của cộng đồng, là những buổi hò hẹn của tình yêu đôi lứa.

Ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp, ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm nổi dậy chống kẻ thù của dân làng Xô Man và khói xà nu xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Tnú và Mai học bài đã chứng tỏ công dụng, vai trò to lớn của cây xà nu đối với người dân Tây Nguyên. Lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” để thể hiện sức mạnh, ý chí kiên cường cùng lòng dũng cảm của buôn làng Xô Man.

Không chỉ mang ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những con người Tây Nguyên. Rừng xà nu phải gánh chịu biết bao trận đại bác của địch khiến chúng “đổ ào ào như một trận bão” khi “bị chặt đứt ngang nửa thân mình”.

Những vết thương đó không lành được mà “cứ loét mãi ra” gợi cho chúng ta thấy được bao đau thương, mất mát mà nhân dân nơi đây phải gánh chịu. Nhưng đạn bom của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, nảy nở của cây xà nu: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng lớn rất nhanh, “đạn đại bác không giết nổi chúng”.

Vì thế mà “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh ấy là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt của những thế hệ người con Tây Nguyên. Thế hệ trước ngã xuống đã có thế hệ sau đứng lên tiếp nối. Đây còn là loài cây ham ánh sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Điều đó cũng giống như việc Tnú và dân làng Xô Man đi theo ánh sáng của cách mạng.

Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Ông đã sử dụng cái nhìn điện ảnh để tái hiện lại khung cảnh một cách sinh động. Có khi ông nhìn từ xa để thấy toàn bộ những cánh rừng xà nu, khi thì sát lại gần để thấy cận cảnh những cây xà nu con đang vươn lên một cách đầy kiêu hùng. Nó không phải là một loài cây bình thường mà là loài cây mang dáng dấp anh hùng của con người Tây Nguyên.

Đại diện tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ kiên cường, bất khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi giấu cán bộ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã cầm một hòn đá rồi tự đập vào đầu mình. Nhờ có anh Quyết khuyên nhủ: “Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi” nên Tnú quyết tâm học chữ.

Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn vì có giặc vây bắt, anh “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Sự nhanh trí của anh còn được thể hiện qua hành động “nuốt luôn cái thư” khi bị địch bắt. Anh thật hiên ngang trả lời câu hỏi cán bộ ở đâu của địch bằng cách để tay lên bụng và nói “Ở đây này”.

Lớn lên, Tnú cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Tin này đến tai thằng Dục, nó đã tìm cách để bắt Tnú. Nó bắt Mai và con trai Tnú nhằm mục đích: “Bắt được con cọp cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về”. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai vì trong tay anh không có vũ khí. Anh bị bọn thằng Dục bắt và tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay rồi đốt. Nỗi đau mất vợ và đứa con trai đầu lòng cùng nỗi đau về thể xác dường như quyện hòa vào nhau trở thành nỗi căm hờn, uất hận.

Nhưng Tnú “không kêu lên một tiếng nào” mà “trợn mắt nhìn thằng Dục”. Dường như, ý chí và tinh thần quật cường đã khiến: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà anh còn là con người sâu nặng nghĩa tình. Tnú là một người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con.

Phải chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị giặc tra tấn, anh “đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”, “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Anh lao ra cứu mẹ con Mai mà không sợ hiểm nguy. Anh đã quên đi cả sinh mạng của mình để cứu lấy vợ con, cứu lấy những người anh yêu thương nhất.

Tnú lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng nên anh yêu quê hương sâu nặng. Khi được nghỉ phép, anh đã về thăm làng, “xúc động để vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước”. Anh yêu tha thiết quê hương mình, yêu cả tiếng giã gạo của buôn làng thổn thức trong lòng anh bao nhiêu năm nay. Nếu không phải một người gắn bó sâu nặng với quê hương thì Tnú sẽ không có những cảm nhận tinh tế đến như vậy.

Bên cạnh nhân vật Tnú, nhà văn còn khắc họa các nhân vật anh Quyết, cụ Mết, Mai, Dít, Heng,…để làm nổi bật lên những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau đứng lên chống giặc. Anh Quyết là cán bộ cách mạng, là người đã dạy chữ cho Tnú và Mai. Đồng thời, anh cũng là người nhen nhóm tinh thần đấu tranh cho người dân Tây Nguyên. Anh giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ trẻ. Bằng những lời nói thủ thỉ, tâm tình, anh đã khơi dậy được lòng yêu nước, lòng quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng cách mạng của Tnú.

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng là người kể cho thanh niên trong làng nghe về cuộc đời của Tnú. Cụ Mết đã khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân phải đi: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là một chân lí đúng đắn để nhân dân ta tin tưởng và làm theo. Nhân dân ta không thể chịu áp bức mãi được, vì vậy phải cầm giáo đứng lên đấu tranh cho chính nghĩa.

Những thế hệ nối tiếp con dường của cụ Mết, Tnú là Dít và Heng. Dít lớn lên là chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ nhưng từ khi còn nhỏ, Dít đã là một cô bé gan dạ. Cứ sẩm tối, Dít lại “bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên”. Bị giặc bắt, chúng bắn từng viên một “sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít” khiến “nó khóc thét lên” nhưng “đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt” và nhìn bọn giặc “bình thản lạ lùng”. Tuy chỉ là một cô bé nhưng Dít đã có bản lĩnh, nghị lực phi thường, không run sợ trước súng đạn kẻ địch.

Ngay cả cậu bé Heng, ngày Tnú ra đi “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy” thì khi Tnú trở về thăm làng cậu bé ấy đã “mang một khẩu súng trường Mát” ra vẻ một người lính thực sự.

Heng dẫn Tnú đi qua các con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gẫy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Chú bé ấy dũng cảm ấy đã góp phần tạo nên một tập thể anh hùng trong những ngày chống đế quốc Mĩ ác liệt của dân làng Tây Nguyên.

Xuyên suốt câu chuyện là chất sử thi hùng tráng được thể hiện qua đề tài, chủ đề, nhân vật, giọng điệu của tác giả. “Rừng xà nu” đã tái hiện không khí hào hùng, sục sôi của cuộc đấu tranh chống đế quốc của dân làng Xô Man nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung.

Hệ thống nhân vật cũng được khắc họa là những con người anh hùng, bất khuất xuất hiện trên nền không gian rộng lớn. Ngoài ra, tác giả còn sáng tạo hình tượng cây xà nu mang đậm tính biểu tượng cho những con người Tây Nguyên. Giọng văn ngợi ca hào hùng, khí thế như không khí cuộc chiến đấu chống kẻ thù.

Nhà văn xây dựng nên hai tuyến nhân vật mang tính đối lập giữa bọn thằng Dục tàn ác và những thế hệ anh hùng để làm nổi bật lên tinh thần, ý chí đấu tranh của dân làng. Kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện đã mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Bên cạnh câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man còn là câu chuyện về cuộc đời người anh hùng Tnú. Tất cả những yếu tố đó đã làm thiên truyện sống mãi trong lòng độc giả. Nhớ đến Tây Nguyên là chúng ta nhớ đến những cánh rừng xà nu bạt ngàn và các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau chống giặc.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 4

Truyện ngắn “Rừng xà nu” được tác giả Nguyễn Trung Thành sáng tác vào năm 1965 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là ở chiến trường Tây Nguyên Mỹ đang đổ quân vào để khủng bố và giết chóc. Ra đời trong hoàn cảnh đó, tác phẩm mang ý nghĩa quan trọng như nguồn cổ vũ và động viên lớn lao dành cho con người Việt Nam, là động lực để quân và dân ta kiên cường trong chiến tranh gian khổ.

Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” tác giả đã xây dựng hai hình ảnh lớn mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc đó là hình ảnh cây xà nu và hình ảnh những con người anh hùng đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của người dân làng Xô Man. Hình ảnh cây xà nu được xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Cây xà nu là một loài cây đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt của người dân làng Xô Man: lửa xà nu trong mỗi bếp, trong đống lửa nhà ưng,… cây xà nu còn chứng kiến quá trình đấu tranh của dân làng Xô Man “đuốc xà nu được thắp lên trong những đêm người dân mài vũ khí” …. Dưới tầm bắn của đại bác rừng xà nu đã ưỡn tấm thân lớn của mình ra che chở cho làng, gánh chịu đau thương để rồi “cả rừng hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Cây xà nu còn là nhân chứng trong cuộc nổi dậy của dân làng trong đêm Tnú bị tra tấn, cây xà nu đã kề vai sát cánh cùng con người chiến đấu. Cây xà nu còn mang những vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, tâm hồn và ý chí của người dân Tây Nguyên nói chung và dân làng Xô Man nói riêng. Loài cây này có sức sinh sôi nảy nở rất khoẻ, lớn rất nhanh để thay thế những cây đã ngã, vẻ đẹp ấy tượng trưng cho sức sống bất diệt của người dân làng Xô Man, bên cạnh đó xà nu lại rất ham ánh sáng mặt trời nên thường vươn cao, thẳng tắp giống như tinh thần yêu cách mạng, quý tự do của người dân làng Xô Man, từ người già đến trẻ nhỏ đều một lòng tin vào lời dạy của cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Cây xà nu thường mọc thành rừng biểu tượng cho tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man, trong mọi hoàn cảnh gian khổ, đau thương và mất mát các thế hệ người dân làng Xô Man luôn kề vai sát cánh bên nhau, trên dưới đồng lòng và tuyệt đối trung thành với lời của cụ Mết.

Dưới tán rừng xà nu ấy là nơi có những con người anh hùng với những phẩm chất tốt đẹp, đại diện cho vẻ đẹp những con người dân làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Nổi bật nhất là hình tượng nhân vật Tnú, đời thường Tnú là một chàng trai chung thuỷ và có tình yêu sâu sắc với Mai, bên cạnh đó anh cũng yêu quê hương tha thiết, trước khi là một người anh hùng, Tnú là một người con ưu tú của làng Xô Man. Tnú nổi bật với tinh thần bất khuất gan góc, dũng cảm và trung thành với cách mạng. Khi còn nhỏ Tnú đã bộc lộ bản lĩnh cách mạng kiên cường, có đóng góp lớn cho sự nghiệp chung như tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng, quyết tâm học chữ để làm cán bộ giỏi, rồi làm liên lạc cho anh Quyết để đưa thư. Khi lớn lên Tnú cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu ở trong rừng, khi giặc khủng bố giết chóc Tnú tận mắt nhìn thấy vợ và con bị giết nhưng vẫn phải nén nỗi đau riêng, quyết không phản bội lại cách mạnh. Ngay cả khi bị giặc tra tấn “một ngón tay… răng anh đã cắn nát môi anh rồi”, bản lĩnh cách mạng giúp Tnú có sức chịu đựng phi thường.

Tnú chính là thế hệ tiếp bước con đường của cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man. Bên cạnh nhân vật Tnú, cụ Mết là người có vai trò quan trọng đối với dân làng Xô Man, là người già làng cụ luôn có tinh thần giáo dục truyền thống, dẫn dắt dân làng đi lên, cụ dạy dân làng “chúng nó có súng mình phải cầm giáo mác”, rồi cụ định hướng cho dân làng “đánh thằng Mỹ phải đánh dài”, cũng chính cụ thường xuyên kể chuyện về Tnú cho dân làng và các thế hệ con cháu nghe. Như vậy cụ Mết là người có vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của người dân làng Xô Man, cụ đã giáo dục, định hướng và dẫn dắt để dân làng đi lên, cụ Mết là biểu tượng cho sức chiến đấu kiên cường, bất khuất. Dít là người con gái đầy bản lĩnh, ngay từ nhỏ đã bộc lộ bản chất gan góc và tinh thần trung thành với cách mạng: lẻn vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi bị giặc bắt và khủng bố tinh thần Dít nhìn bọn giặc bằng ánh mắt bình thản, lạnh lùng. Khi lớn lên đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng Dít làm việc rất nghiêm túc, biết kìm nén tình cảm riêng và đặt nhiệm vụ chung lên trên hết. Dít và bé Heng giống như thế hệ cây xanh mới mọc và lớn rất nhanh, bé Heng trông nhỏ con nhưng thuộc hết những vị trí hầm chông, hố châm, biết tham gia và công cuộc chung của dân làng, tỏ ra mình là một người lính thực sự. Nhà văn đã xây dựng hệ thống nhân vật với ba thế hệ, tầng lớp cha anh (cụ Mết), tầng lớp thanh niên (Tnú), tầng lớp măng non (Dít và bé Heng), tất cả họ đều mang những phẩm chất đại diện cho phẩm chất của cộng đồng, là những con người mang tầm vóc lịch sử.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” với sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình tượng cây xà nu và những con người “anh hùng dân tộc” của làng Xô Man trong thời chiến tranh chống Mỹ. Tô đậm truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta đồng thời cổ vũ và ca ngợi thế hệ con em noi gương cha anh tiếp bước gìn giữ non sông.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 5

Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu.

Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.

Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.

Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn “nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”, bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên – ” Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.

Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên”.

Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man.

Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman.

Với cụ “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo” của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu.

Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tin yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.

Đó còn là những Dít, bé Heng,… thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.

Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.

Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 6

Có thể coi Rừng xà nu là kết tinh nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành khi tài năng của ông ở độ viên mãn, tròn đầy nhất. Bởi vậy, đây cũng có thể coi là một trong những tác phẩm thành công nhất trong sự nghiệp văn chương cả ông. Rừng xà nu là một bản anh hùng ca về con người và rừng núi Tây Nguyên – đó là tập thể anh hùng, tập thể đứng lên giành tự do, độc lập cho chính mình.

Truyện được mở đầu bằng một khung cảnh hết sức khốc liệt, nhưng lại được tác giả trần thuật bằng giọng điệu rất đỗi bình thản: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn.” Chỉ bằng một câu văn hết sức ngắn gọn nhưng tác giả đã khái quát được không khí chiến tranh vô cùng khốc liệt, sự sống luôn bị đe dọa hủy diệt bởi bom đạn và khói lửa chiến tranh. Để làm rõ sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh đối với thiên nhiên, Nguyễn Trung Thành đã rất kỳ công, dùng từng con chữ đậm chất tạo hình để tạo lên những hình khối đầy sức ám ảnh: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. “Rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạnh bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mơ màng” “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” . Nhưng dù bị tàn phá, hủy diệt như vậy, nhưng làng cũng như những cây xà nu không bao giờ bị hủy diệt, dù chúng có bị cắt làm đôi đi chẳng nữa. Cạnh những cây bị đốn đổ là “đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Sự vươn lên mạnh mẽ đó không chỉ đơn thuần là bản năng sinh tồn mà còn là khao khát mãnh liệt vươn lên ánh sáng, mà không có bất cứ thế lực nào có thể ngăn cản được.

Có thể thấy rằng trong đoạn văn miêu tả cây xà nu tác giả sử dụng chủ yếu biện pháp nhân hóa, để làm nổi bật vẻ đẹp và sức sống kiên cường của loài cây này. Nhưng đồng thời đằng sau hình ảnh những cây xa nu ta còn thấy được bóng dáng của những con người nơi đây, những con người đang ngày đêm sống dưới tầm đại bác của giặc, cũng mang trong mình đầy thương tích nhưng họ chưa bao giờ khuất phục hay chịu gục ngã.

Sau những trang văn miêu tả về rừng xà nu, theo dòng kể của cụ Mết, một trang lịch sử vô cùng hào hùng của dân làng Xô Man dần dần hiện lên. Những trang sử đấu tranh hào hùng của nhân dân Xô Man cũng như những cây xà nu kia không thể nào dập tắt. Trước có cụ Mết, anh Xút, bà Nhan. Tiếp nối có thế hệ của Tnú, Mai… Cứ thế các thế hệ nối tiếp nhau, kế tục truyền thống vẻ vang của buôn làng. Trong số những nhân vật đó, nổi bật nhất là nhân vật chính – Tnú.

Trước khi trở thành một chiến sĩ cách mạng, ngay từ nhỏ Tnú đã bộc lộ mình là một người kiên định, có lí tưởng cách mạng. Để trở thành một chiến sĩ cách mạng trung kiên, điềm tĩnh nào ai có biết rằng, Tnú đã phải trải qua biết bao thử thách. Trước khi trở thành một người đàn ông trưởng thành Tnu đã là một cậu bé hết sức nóng giận, không nhớ được mặt chữ cậu sẵn sàng đập vỡ bảng, lấy đá ghè đầu. Nhưng lại cũng rất cầu tiến, sáng hôm sau gọi Mai phía sau để hỏi về những bài đã học. Những hành động ấy cho thấy sự ngoan cường, bền bỉ ngay từ tấm bé của chàng trai này. Và giữa hai con người đó đã nảy sinh mối tình vô cùng đẹp đẽ, kết tinh tình yêu của họ chính là đứa bé bụ bẫm, khỏe mạnh. Những tưởng rằng cuộc sống của họ sẽ viên mãn hạnh phúc. Nhưng chính lúc ấy hàng loạt biến cố, khiến cuộc đời Tnú chuyển sang một hướng khác.

Trong một trận càn của giặc Tnú đã không bảo vệ được mẹ con Mai, tình yêu, tình mẫu tử chi trong một đêm đã hoàn toàn biến mất. Biến Tnú từ kẻ có tất cả trở thành trắng tay. Không chỉ vậy, chính bản thân Tnú cũng bị thương. Mười đầu ngón tay anh trở thành một ngọn đuốc lớn, rừng rực cháy sáng. Mai chết đi, đứa con dù được Mai cố gắng bảo vệ nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái chết. Lòng căm phẫn trào dâng, đến lúc này Tnú không thể cứ mãi nấp trong bóng tối, “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” anh xông vào kẻ thù bằng sức mạnh vô cùng lớn. “Anh không biết đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng giặc tháo chạy vào nhà ưng”. Nhưng kết cục cũng vẫn không cứu được Mai. Giọng cụ Mết đến đây trầm xuống, như càng khắc sâu thêm vào tâm khảm Tnú nỗi đau bị mất gia đình, để anh không bao giờ quên mối thù với lũ người tàn ác. Sau khi gia đình mất, Tnú tiếp tục đi lực lượng, trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên trinh và chính anh đã sử dụng bàn tay bị thương của mình để giết kẻ thù. Bởi vậy hình ảnh bàn tay là hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh trong tác phẩm. Bàn tay ấy là biểu hiện rõ ràng nhất cho tội ác của kẻ thù. Đôi bàn tay ấy còn thể hiện sự kiên định trách nhiệm của một người chiến sĩ cách mạng. Đôi bàn tay yêu thương, dựng xây gia đình cùng Mai, vì gia đình sẵn sàng xông vào chỗ chết. Hơn cả đôi bàn tay ấy còn tượng trưng cho ý chí nghị lực kiên cường, dù bị khuyết thiếu vẫn có thể tiêu diệt kẻ thù.

Tnú có thể coi là kết tinh sức mạnh và số phận của dân làng Xô Man cũng như của nhân dân Việt Nam. Anh vừa mang nỗi đau, mất mát , cũng như sự anh dũng chung của dân tộc. Nhưng đồng thời lại cũng có những nét hết sức khu biệt ở sự hôn hậu nồng thắm đậm chất Tây Nguyên. Những nét chung và riêng đó khiến cho tính chất biểu tượng của nhân vật càng được thể hiện rõ nét hơn.

Ngoài nhân vật Tnú, ta cũng không thể không nhắc đến tập thể anh hùng – dân làng Xô Man. Cụ Mết là người trực tiếp chỉ huy mọi người đấu tranh. Cụ là con chim đầu đàn là người giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ tương lai. Cụ chính là kho sử thi sống động, bồi đắp lòng yêu nước và lòng căm thù giặc cho những thế hệ tiếp bước. Hai nhân vật Dít và Heng tuy chỉ xuất hiện rất ít, nhưng đó chính là những cây xà nu non, sinh sôi mạnh mẽ , tiếp bước thế truyền thống vẻ vang của cha anh.

Bằng nghệ thuật xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc sắc, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên bức tranh người cảnh đẹp đẽ, anh dũng về nhân nhân Xô Man và núi rừng Tây Nguyên. Đây có thể coi là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 7

Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… ở mảng nào cũng có những tác phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng xà nu, một tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong cách của ông.

Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt câu chuyện này là hình tượng câu xà nu. Nhưng đồi xà nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông, vô tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây xà nu, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây xà nu cũng chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man.

Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay của anh, xà nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân Xô Man.

Nhưng cây xà nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Xô Man, từ chỗ không dám cầm vũ khí đến dám cầm vũ khí đứng lên chống lại quân giặc. Và trong đêm Tnú về thăm làng: đuốc xà nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.

Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận, phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc bắn đại bác hai lần, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa nu không cây nào không bị thương.

Có những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương nhựa ứa ra… bầm lại đen, quện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,… Hình ảnh cây xà nu bị thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát mà dân làng Xô Man phải gánh chịu. Dân làng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh, những vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng.

Và rừng xà nu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng Xô Man. Không có loài cây nào khao khát ánh sáng như xà nu, chúng có sức vươn lên mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên. Không chỉ vậy, chúng còn có sức sống bất diệt, không gì có thể tiêu diệt được. Xây dựng hình tượng cây xà nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của con người Tây Nguyên, đồng thời cũng hé mớ cảnh cửa bước vào thế giới và khám phá con người nơi đây.

Nổi bật nhất trong tác phẩm là nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Ngay từ bé, Tnú đã tỏ ra là một cậu bé hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi đường bằng phẳng mà tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không bắt được.

Khi trưởng thành, đã là một chiến sĩ cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn sàng xông vào cứu vợ con. Và dù bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, mà chịu đựng đau đớn cho đến cùng.

Không chỉ vậy, Tnú còn là một người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã có tình yêu và niềm tin với cách mạng, cậu nuôi giấu cán bộ và mang trong mình mong muốn được trở thành chiến sĩ cách mạng để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thể hiện rõ trong việc tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn.

Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, có tính kỉ luật cao như vậy là lại người có trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết là với buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như người thân của mình. Cũng chính vì vậy, dù thời gian nghỉ phép vô cùng ngắn ngủi Tnú vẫn háo hức trở về, xúc động khi được gặp lại mọi người và được ở trong vòng tay thân thương của những người cùng bản làng.

Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không thể xông vào cứu, Tnú đau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con vượt lên trên tất cả, tình cảm đã lấn át lí trí, Tnú đã lao vào cứu vợ con dù biết chắc mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.

Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên là với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn, mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn.

Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh – những người mà anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn dã man và chết, điều đó sẽ ám ảnh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn. Và cuối cùng là mối thù chung với dân làng, dân làng bị tàn sát dã man. Từ khối thù chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.

Hình tượng nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí thời đại: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” – chủ động đánh giặc, muốn dành được độc lập chỉ có con đường duy nhất là đấu tranh vũ trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng Xô Man. Mỗi người là một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng và lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi người lại có những nét đẹp riêng. Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ là hiện thân của vẻ đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên.

Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước ở thế hệ sau, truyền nhiết huyết và quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít và Heng có thể coi là thế hệ trẻ tiêu biểu của làng Xô Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ là thế hệ tiếp bước cha ông xuất sắc.

Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc sắc, mỗi nhân vật có số phận và tính cách riêng, nhưng ở họ đều ngời sáng lòng yêu nước và dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu chuyện lồng trong chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.

Tác phẩm là bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ và lối kể chuyện hấp dẫn đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 8

Tác phẩm “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 và được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Ngay ở nhan đề của truyện ngắn, ta có thể hình dung về những cảnh rừng xà nu xanh bạt ngàn và có sức sống mãnh liệt như những người dân của buôn làng Xô Man.

Hình ảnh rừng xà nu ở ngay phần đầu tác phẩm. Xà nu là loại cây họ thông, mọc nhiều ở khu vực Tây Nguyên. Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Cây mọc thành khu rừng rộng lớn và trở thành loài cây đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên anh dũng.

Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm, rừng xà nu được tác giả miêu tả là bao quanh và che chở cho buôn làng Xô Man tránh khỏi những trận đại bác của quân địch. Nhưng vì sự khốc liệt của chiến tranh, cả cánh rừng hàng vạn cây xà nu đều bị thương, thậm chí “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.

Người dân nơi đây yêu rừng xà nu vì đây là loài cây gắn bó với dân làng, là người bạn đồng hành từ khi họ sinh ra, lớn lên, già đi và đến khi về với đất mẹ. Dưới tán cây xà nu là những nét đẹp văn hóa của những buổi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào Tây Nguyên và còn là nơi hò hẹn của trai gái trong buôn làng.

Và hơn thế, xà nu còn là đồng đội của dân làng, khi ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm cùng dân làng nổi dậy chống kẻ thù. Khói xà nu thì xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dùng làm công cụ dạy Tnú và Mai học bài. Rồi lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” chứng minh cho sự kiên cường, anh dũng của buôn làng Xô Man.

Bên cạnh ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những người con Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu chịu bao trận đại bác của địch gợi những đau thương mà nhân dân phải gánh chịu. Nhưng khâm phục thay, bom đạn của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, sự lớn mạnh của cây xà nu. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Và dù có chịu nhiều tổn thương, những lứa cây mới sẽ nhanh chóng mọc lên và “đạn đại bác không giết nổi chúng”.

Bởi vậy, trong suốt cuộc chiến, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh “anh hùng” ấy của rừng xà nu là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt cho những thế người con Tây Nguyên. Là thế hệ trước ngã xuống sẽ có thế hệ sau tiếp nối. Xà nu còn là loài cây ham ánh mặt trời, như Tnú và dân làng Xô Man luôn hướng mình theo ánh sáng của cách mạng.

Qua việc phân tích rừng xà nu, đặc biệt là hình ảnh rừng xà nu có thể thấy, đây là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu có khi được nhìn từ xa, có khi được miêu tả rất gần. Xà nu không chỉ là một hình ảnh thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho khí chất, cho dáng dấp của những con người anh hùng Tây Nguyên.

Mặc dù rừng xà nu là hình ảnh đầu tiên được nhắc đến và cũng là hình ảnh biểu tượng được tác giả dùng để đặt nhan đề tác phẩm, nhưng thực chất con người Tây Nguyên là những nhân vật mà Nguyễn Trung Thành muốn khắc họa hơn cả.

Và tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ trẻ kiên cường, bất khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi cán bộ. Khi Tnú học chữ thua Mai, Tnú lấy đá tự đập vào đầu. Nhưng được anh Quyết khuyên “Tnú phải làm cán bộ thay anh”, Tnú đã quyết tâm học chữ.

Khi đi liên lạc, Tnú “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Tnú cũng là người nhanh trí, khi bị giặc bắt thì liền nuốt thư vào bụng.

Khi Tnú lớn lên, anh cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Khi thằng Dục biết được tin này, nó tìm cách bắt Tnú. Anh bị tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên hai bàn tay rồi đốt. Tnú không thể cứu được mẹ con Mai và còn chứng kiến mẹ con chết trước mắt mình. Nỗi đau mất vợ và đứa con chưa còn chưa chào đời cùng nỗi đau bị tra tấn đã biến thành nỗi căm hờn, uất hận trong Tnú.

Lúc này, dù đau đớn Tnú không kêu lên một tiếng, mà chỉ trợn mắt nhìn thằng Dục. Sự căm thù, tinh thần kiên cường khiến anh “không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa”, mà anh nghe lửa như đang cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. “Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Phân tích rừng xà nu có thể thấy, Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà còn là người sâu nặng nghĩa tình. Tnú cũng là người chồng, người cha yêu thương vợ con.

Bên cạnh nhân vật Tnú, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành còn khắc họa thành công các nhân vật khác như cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, Heng… Qua các nhân vật này, tác giả đã làm nổi bật những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau một lòng yêu nước, một lòng đi theo lý tưởng của Đảng.

Anh Quyết là cán bộ cách mạng, người dạy chữ cho Mai và Tnú. Và anh cũng là người có vai trò nhen “lửa yêu nước” “lửa đấu tranh” cho người dân Tây Nguyên. Anh như người khai sáng, người giáo dục tinh thần cách mạng cho những người trẻ. Bằng tấm lòng, bằng tình yêu nước anh đã khơi gợi ở Tnú tinh thần chiến đấu vì lí tưởng cách mạng, tin theo Đảng và bác Hồ.

Và bài phân tích rừng xà nu sẽ không trọn vẹn nếu ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước, là người lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng là người kể chuyện cho các thế hệ thanh niên trong lòng về cuộc đời người anh hùng Tnú. Cụ cũng được trao cho sứ mệnh truyền đạt và khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân ta phải đi, đó là” “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nghĩa là chúng ta không thể chịu áp bức mãi được, chúng ta phải đứng dậy, phải cầm giáo đấu tranh cho chính nghĩa.

Những thế hệ sau của cụ Mết, của Tnú là Dít và Heng, chúng sẽ là người nối tiếp con được của thế hệ đi trước. Sau này Dít lớn lên và trở thành chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ. Nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Dít đã thật gan dạ nhờ vào sự giáo dục về lí tưởng cách mạng của thế hệ đi trước. Dù chỉ là một cô bé, Dít đã rất bản lĩnh mà không run sợ trước súng đạn của quân địch.

Còn cậu bé Heng, ngày mà Tnú ra đi, “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”, nhưng khi Tnú về thăm làng, Heng đã trở thành một người lính kiên cường. Heng có thể dẫn Tnú đi qua những con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Và dù vẫn còn là một đứa trẻ, cậu bé đã thật dũng cảm, là mảnh ghép không thể thiếu của một tập thể anh hùng trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ.

Qua phân tích tác phẩm Rừng xà nu có thể thấy, tác phẩm thấm đẫm chất sử thi hùng tráng. Điều này thể hiện ngay từ chủ đề tác phẩm, đến nhân vật, giọng điệu. Thông qua tác phẩm “Rừng xà nu”, tác giả đã tái hiện một không khí hào hùng một thời chống Mỹ của buôn làng Xô Man nói riêng và cả dân tộc ta nói chung.

Như đã phân tích xuyên suốt tác phẩm, ta có thể thấy điểm nổi bật của “Rừng xà nu” không chỉ là hình ảnh rừng xà nu ở phần đầu mà còn ở tuyến nhân vật là những người anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa Tây Nguyên đại ngàn. Phân tích rừng xà nu ta như đang hát một khúc ca chiến đầu hào sảng, được hòa mình vào khí thế đấu tranh của những người dân buôn làng Xô Man chân chất và anh dũng. Đồng thời, kết cấu của tác phẩm được xây dựng theo hình thức truyền lồng trong truyện thực đã mang lại sự hấp dẫn cho tác phẩm của Nguyễn Trung Thành.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 9

Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn “Rừng xà nu” sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

“Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàn. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗ khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu. Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết.

Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vét sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.

Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.

Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc.

Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ T nú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, T nú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư.

Ngày còn nhỏ T nú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong.

Tnú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 10

Trong nền văn học nước nhà, thể loại văn xuôi được biết đến là một trong những thế loại đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong các tác phẩm không thể không nhắc đến bài “rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một bài sử thi đậm chất Tây Nguyên. Trong đó tác giả khắc họa thành công hình tượng cây xà nu, làm cho ta cảm thấy hào hùng, sự chiến đấu của con người Tây Nguyên.

Tác giả Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông còn hoạt động chiến trường miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu của tác phẩm, hình tượng “cây xà nu” là hình ảnh trung tâm trong bài văn. Xà nu được biết đến là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dai, kiên cường bất khuất như người dân Tây Nguyên, sống trong một môi trường khắc nghiệt nhưng nó vẫn bền bỉ.

Hình ảnh cây xà nu được ví như những con người Tây Nguyên không chịu đầu hàng với số phận, với thời tiết, không chịu đầu hàng, luôn hướng về phía trước để bảo vệ độc lập, tự do của bản mình, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những cây xà nu vươn mình bảo vệ dân làng khỏi bão táp, khỏi sự săn đuổi, giúp cán bộ cách mạng thực hiện được chiến lược của mình.

Cây xà nu gắn liền với đời sống hàng ngày với người dân Tây Nguyên, sự trưởng thành từng của các thế hệ dân làng Xô Man, đó là từ Tnú, chị Mai, cụ Mết, bé Heng, đó là những người thế hệ từ đời này sang đời khác, mỗi thế hệ đều cố gắng lớn lên, thay nhau bảo vệ ngôi nhà Tây Nguyên của mình, mà cây xà nu vẫn gắn bó, trải qua bao bom đạn với dân làng nơi đây.

Có thể nói “cây xà nu”chính là linh hồn của Tây Nguyên, nó đã lớn lên, ăn sâu trong mỗi tiềm thức con người Tây Nguyên, khi nhắc đến loài cây này, dường như ta cảm thấy sự hào hùng, cây mọc thẳng, vươn vai, cao lớn, hướng tới ánh sáng cũng như người dân Xô Man hướng tới hạnh phúc, sự độc lập dân tộc.

Trong lịch sử kháng chiến của dân làng Tây Nguyên, cây xà nu chính là người bạn chiến đấu, sát cánh cùng người dân, nó chính là biểu tượng tinh thần và ý chí quật cường, mặc dù bị thiêu rụi thì cây xà nu vẫn kiên cường bảo vệ âm ỷ dòng nhựa để cho cây non mọc lên, cũng như Tnú từ một cậu bé dần dần được cách mạng nuôi dưỡng, bảo vệ và lớn dần khi trưởng thành chiến đấu, dù bị đốt mười ngón tay những vẫn cầm súng chiến đấu.

Tác giả đã miêu tả hình tượng cây xà nu ẩn dụ, miêu tả cây bằng nghệ thuật nhân hóa như những con người Tây Nguyên, nói lên sự hi sinh, và cũng miêu tả lê cảnh bị áp bức bóc lột đến tàn bạo mà bọn thực dân đối với dân làng Xô Man, cây xà nu bị thiêu rụi, cũng chính là sự mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến cho lầm than cứ nối tiếp. Hình ảnh Mai và Tnú bị tra tấn nhưng họ vẫn chịu đựng, gắng gượng đến phút cuối cùng.

Mối quan hệ giữa người dân với cây xà nu có một sợi dây gắn kết rất bền chặt, và khăng khít không ai có thể tách rời, cây xà nu chính là người bạn từ thuở ấu thơ, trải qua bao thăng trầm lịch sử với dân làng, chúng chính là hàng rào bảo vệ kiên cố, dù bị thiêu rụi vẫn cố gắng đứng lên như con người Xô Man, tuy không thể nói, không thể biểu hiện cảm xúc nhưng những cây xà nu lại làm ta cảm thấy thêm niềm tin, sức mạnh chiến đấu đến cùng.

Cứ thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau lại đứng lên nối tiếp nhau, phát huy hết sức mạnh chiến đấu, cũng như cây xà nu già chết lại trên thân cây đó có cây xà nu con mọc lên vươn vai để bảo vệ người dân Xô Man, từ thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnú và cuối cùng là bé Heng, ở họ đều có sự khao khát cháy bỏng về một tương lai tươi đẹp ở phía trước đang chờ đợi họ.

Trong tác phẩm rừng xà nu chắc chắn hình ảnh Tnú và cây xà nu được ví như hai hình ảnh song song nhau, có nhiều mối tương đồng, hỗ trợ lẫn nhau, làm nổi bật được ý chí và tinh thần chiến đấu của nhau, một cây xà nu to, chắc, vươn rộng vai mình bao trùm dân làng cũng như Tnú một chàng thanh niên khỏe mạnh cùng cán bộ,cùng các già làng đấu tranh đuổi bọn giặc Mỹ ra khỏi làng, để người dân có một cuộc sống êm đềm, không còn sống trong sợ hãi, hi sinh bản thân vì độc lập, tự do.

Sự khát vọng hòa bình, sự bình yên cho cả nước, những ước mong mà người dân luôn khao khát từng ngày, bằng tình yêu bao la của mình đối với Tây Nguyên, câu văn miêu tác giả dùng những tả qua hình ảnh cây xà nu, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật, sự kiên cường của từng con người Xô Man, và sự quan sát một cách tinh tế, Nguyễn Trung Thành đã khiến cho người đọc cảm nhận được sự mất mát và đau thương mà người dân nơi đây phải chịu thông qua hình ảnh cây xà nu, có một trái tim đồng cảm và chua xót cho con người Tây Nguyên.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 11

Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây Nguyên hùng vĩ núi non. Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng chính là vùng đất mà ông gắn bó, trăn trở trong sáng tác của mình. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông bám trụ ở Tây Nguyên để rồi viết nên tiểu thuyết Đất nước đứng lên.

Những năm đánh Mĩ, Nguyên Ngọc lại trở về với vùng gian khổ này từ đầu những năm sáu mươi, ngay sau những ngày đồng khởi cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi lòng cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.

Rừng xu nu chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó là lớn lao. Đó là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường.

Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó.

“Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình. Ở những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại. và đặc quệnh thành từng cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang ngực lại bị đại bác chặt đứt làm đôi, năm mười hôm thì cây chết.

Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vươn rất nhanh, thay thế những cày đã ngã. Cứ thể hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”.

Nguyên Ngọc miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ.

Bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.

Tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.

Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Cậu bé Tnú đến với cách mạng ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chững kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng.

Ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi là phẩm chất tốt đẹp của Tnú, “nó liên lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả đường nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xẻ rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”.

Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn em về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: Cộng sản ở đây này”. Đó không phái là câu trả lời mà là một lời thách thức, dũng cảm ! Với lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.

Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… ” chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó.

Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh. Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù.

Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh…

Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn. Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng la thằng Dục cả”.

Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.

Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ.

Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.

Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”.

Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.

Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng cùa cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng cùa người Strá.

Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man. Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất cúa quê hương.

Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phái cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.

Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.

Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.

Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tưởng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ.

Những mảng đời quá khứ, những mảng đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông.

Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tố chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.

Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.

Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh tụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.

Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.

Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Rừng xà nu là chuyện của con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Từ câu chuyện của Tnú và của làng Xô Man, tác già nói tới sự trưởng thành của cách mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay, vẫn thấy âm vang cái hào hùng của một thời chống Mĩ, một thời có những con người đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai….

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 12

“Rừng xà nu” là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng về dấu ấn cá nhân nhất trong phong cách viết văn của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Bên cạnh đó,”Rừng xà nu” còn là một tác phẩm có vị trí quan trọng trong văn học kháng chiến chống Mỹ. Đó là một bài hịch đanh thép hùng hồn cổ vũ mọi người đứng lên chiến đấu giành độc lập.

Nhan đề “rừng xà nu” mở ra hình tượng trung tâm tác phẩm. Đó là một loài cây đặc trưng của vùng Tây Nguyên. Qua đó, góp phần tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, tạo ra không gian nghệ thuật rộng lớn. Nó gợi dậy hương sắc Tây Nguyên, sức sống và hơi thở Tây Nguyên. Từ đó soi sáng tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.

Rừng xà nu là hình ảnh mở đầu cũng là hình ảnh xuyên suốt và kết thúc tác phẩm. Vì vậy có thể nói đây là hình ảnh bao trùm truyện ngắn và có một vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Nó trở đi trở lại như một ám ảnh của nhà văn cũng như bạn đọc. Đây là hình ảnh khơi nguồn cảm xúc để nhà văn sáng tạo, suy ngẫm, là mạch thẩm mĩ để dẫn dắt nhà văn miêu tả, kể chuyện đúng với những tâm sự của ông.

Cây xà nu hiện lên với những vẻ đẹp tự nhiên gắn liền với năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành sử dụng những câu văn ngắn tạo nên nơi người đọc ấn tượng khá mạnh mẽ về bối cảnh lịch sử, thời đại. Qua đó, nhà văn thể hiện giá trị tố cáo mạnh mẽ bản chất độc ác, dã man của kẻ thù cũng như sứcô hủy diệt vô cùng của bom đạn, chiến tranh.

Hầu hết tác giả nêu lên một cách trực tiếp bom đạn không chỉ hủy diệt con người mà còn hủy diệt cả thiên nhiên. Để rừng xà nu, cây xà nu hiện lên trong hoàn cảnh đặc biệt giúp nhà văn làm nổi bật sức sống dẻo dai, mãnh liệt. Thiên nhiên ở đây không chỉ là bức tránh mĩ lệ mà còn là nạn nhân, một chứng nhân lịch sử và đồng thời cũng tham gia vào bản hùng ca của buôn làng, của cộng đồng.

Cùng với bức tranh thiên nhiên mà cây xà nu đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên thì nhà văn còn xây dựng hình tượng tập thể dân làng Xô Man qua nhiều thế hệ. Trong đó, cụ Mết đi vào tác phẩm là một già làng, kết tinh đẹp đẽ nhất phẩm chất tốt đẹp, khát vọng của cả cộng đồng. Cụ cũng là người chỉ huy cao nhất là điểm tựa tinh thần cũng là linh hồn của cuộc đấu tranh giải phóng quê hương.

Cụ Mết là người phát ngôn câu nói giản dị nhưng chắc nịch nêu cao kinh nghiệm sống và chiến đấu của dân làng Xô Man. Cụ hiện lên như một pho tượng sự sống tượng trưng cho lịch sử, cội nguồn, sức sống bền bỉ cùng với truyền thống hiên ngang bất khuất của cả dân làng. Cụ Mết được xây dựng với bút pháp sử thi và lí tưởng hóa khiến người đọc liên tưởng tới các tù trưởng trong tác phẩm sử thi cổ đại.

Nếu cụ Mết đại diện cho thế hệ đi trước với tinh thần chiến đấu và lòng yêu nước dũng cảm thì Tnú là thế hệ đi sau. Qua lời văn của Nguyễn Trung Thành Tnú mồ côi cha mẹ, lớn lên trong sự cưu mang của dân làng Xô Man. Ở Tnú là sự gan góc, táo bạo của con người sinh sinh ra và lớn lên nơi núi rừng. Có cái gì vừa mạnh mẽ, hiện đại vừa kiên cường bất khuất không hề nhụt chí, nản lòng trước những khó khăn, hiểm nguy hay trước những lời đe dọa nào.

Ở Tnú còn là sự nhanh nhẹn, thông minh và rất bản lĩnh và tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đặc biệt là hình ảnh bàn tay Tnú bị thiêu đốt gây ấn tượng mạnh nơi người đọc. Qua đó, tô đậm tính cách, số phận và cuộc đời của Tnú. Nhân vật T nú đi vào tác phẩm là nhân vật chính, có mối quan hệ gắn bó máu thịt với dân làng Xô Man.

Tính cách, số phận và cuộc đời của Tnú tiêu biểu cho số phận và cuộc đời của người dân Tây Nguyên. Anh chính là người kế tục xuất sắc, phát huy xuất sắc nhất tinh thần cách mạng của quê hương.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 13

Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vô số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.

Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử khẳng định.

“Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà – một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.

Và đặc biệt đó cũng là một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.

Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Mọi thứ dường như đều xoay quanh một loại cây đặc biệt này. Ngược đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng xà nu là để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất.

Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (4 lần), “rừng xà nu” (5 lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.

Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.

Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.

Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.

Tnú nhân vật chính của Rừng Xà Nu đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng , nuôi dạy khôn lớn. Đó là người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành và kiên cường bất khuất từ trong lòng của nhân dân, của dân tộc.

Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng.

Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: “Cộng sản ở đây này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giản là một câu trả lời mà đó là cả một lời thách thức, sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.

Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… ” chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.

Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Rác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù.

Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.

Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng là thằng Dục cả”. Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.

Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dít “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xong rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.

Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.

Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man.

Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quăc thước như xưa ngực cũng như một tấm xà nu lớn tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.

Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.

Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.

Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.

Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ.

Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tướng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông.

Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tổ chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.

Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.

Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.

Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.

Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Mẫu 14

Khi nhắc đến cuộc sống và chiến đấu của người dân Nam bộ, người đọc không thể nhắc đến nhà văn Nguyễn Thi với các tác phẩm: Mẹ vắng nhà, Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình. Khi nhắc đến cuộc sống người dân Tây Bắc, người đọc lại không thể không nhắc đến nhà văn Tô Hoài với Vợ chồng A Phủ. Còn khi nhắc đến đồng bào Tây Nguyên thì ta càng phải nhớ tới nhà văn Nguyễn Trung Thành với Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.

Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc đời cách mạng của Tnú, của cả buôn làng Xô Man. Câu chuyện có tên là Rừng xà nu bởi đây là loài cây đặc trưng của xứ này. Những cánh rừng xà nu xanh ngút ngàn trải dài suốt tầm mắt là hình ảnh trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm. Những cây xà nu được tác giả miêu tả từ cụ thể chi tiết cho đến toàn cảnh. Nó hiện lên với đầy đủ dáng dấp tính cách và ý chí kiên cường.

Đạn địch không thể đốn ngã những cây xà nu cũng như chiến tranh không thể phá hủy được nó. Những cây xà nu vẫn vươn lên xanh tốt, cây này ngã xuống những cây mới lại mọc lên, nhựa xà nu chảy như những dòng máu nóng trong một cơ thể sục sôi tinh thần dân tộc. Rừng xà nu được miêu tả cụ thể, mang đầy dáng dấp sử thi và càng làm nổi bật tính cách, số phận của những người con buôn làng Xô Man.

Những người ấy là Tnú, là Mai, cụ Mết, là Dít là bé Heng. Mỗi một nhân vật lại có những phẩm chất tính cách riêng nhưng đều hội chung lại là những con người dũng cảm, quật cường, có một tình yêu vô bờ bến đối với đất nước, với cách mạng. Tnú là một chàng trai gan dạ, lì lợm, hội tụ những phẩm chất của một người anh hùng cách mạng. Anh được giác ngộ cách mạng ngay từ nhỏ, được nuôi dưỡng bằng tình cảm với cách mạng và sự căm thù đối với quân địch.

Từ bé Tnú đã là một chú bé giao liên dũng cảm, nuôi giấu cán bộ trong rừng, luôn xông xáo làm những nhiệm vụ nguy hiểm, khi bị giặt bắt và tra tấn thì một chút cũng không khai, trái lại còn thẳng thừng thừa nhận, cách mạng đã ăn sâu vào trong con người mình.

Tnú cũng là một người yêu thương gia đình yêu thương bản làng sâu sắc. Chứng kiến vợ con bị sát hại, tra tấn anh xông tới tay không đối với địch, ánh mắt anh hằn lên vẻ căm thù, anh chịu đựng tra tấn, bị giặc đốt hai bàn tay mà quyết không khuất phục. Anh cũng gắn bó với người dân trong làng, luôn về thăm hỏi mọi người mỗi khi được nghỉ phép.

Mai, Dít là những người con gái cũng can đảm không kém Tnú. Họ giống như chị Chiến trong Những đứa con trong gia đình, sớm giác ngộ cách mạng và đi theo cách mạng. Dù là phận gái yếu đuối nhưng sự thật tinh thần và hành động của họ lại quả cảm hơn bất kỳ ai.

Mai cùng Tnú nuôi giấu cán bộ trong rừng, bị giặc tra tấn, sát hại mà quyết không khai nửa lời, Dít dù còn bé nhưng đã lì lợm, đứng trong làn đạn của giặc mà vẫn im re, mắt nhìn trâng tráo không khai một câu. Họ là thế hệ người phụ nữ mà “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” đáng ngợi ca của dân tộc.

Cụ Mết là người tuổi cao, nhiều trải nghiệm nhất, cụ nhìn thấu mọi việc bằng con mắt của một người dày dạn, một người trải qua nhiều thăng trầm đã trở nên vững vàng và bình ổn. Cụ là ngọn cờ đầu, là người chỉ huy của cả buôn làng. Cụ đứng lên kêu gọi dân làng xông tới khi chứng kiến Tnú bị tra tấn, cụ lãnh đạo người dân trong làng chiến đấu, cụ kể chuyện cho những thế hệ sau của buôn làng nghe những câu chuyện về cuộc đời Tnú. Cụ Mết chính là người giữ lửa cách mạng cho những thế hệ khác nhau của buôn làng Xô Man.

Mỗi một con người trong Rừng xà nu lại có những tính cách và số phận khác nhau nhưng họ lại vô cùng đoàn kết, rất yêu thương nhau và cùng chung nhau mối thù giặc Mỹ.

Rừng xà nu được nhận xét là câu chuyện của một đời được kể trong một đêm. Cuộc đời ấy là cuộc đời của Tnú, một con người mà từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên đều cống hiến mình cho cách mạng, anh là đại diện cho dân làng, là sự tiếp nối, phát huy đầy bản lĩnh của thế hệ trước và là tấm gương sáng chói cho những thế hệ sau. Con người Tnú là đại diện cho những thế hệ anh hùng kiên cường dũng mãnh trong kháng chiến.

Câu chuyện của anh là đại diện cho một thế hệ trẻ mà đầy hoài bão ước mơ và sức sống, dám hết mình vì lý tưởng của cách mạng. Đó cũng chính là ý nghĩa sử thi mà các nhân vật, hay chính rừng xà nu mang lại.

*****

Trên đây là 14 bài mẫu Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (4 bình chọn)


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button