Học TậpLớp 12

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp ngắn gọn, hay nhất (11 Mẫu)

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 11 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp.
Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp.

Dàn ý Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp lớp 12

Dàn ý Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Số 1

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp ngắn gọn, hay nhất (11 Mẫu)

– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

2. Thân bài:

a. Hoàn cảnh của Xô-cô-lốp và bé Vania sau chiến tranh:

– Xô-cô-lốp là một người lính từng trải qua hai cuộc chiến tranh và phải chịu nhiều đau khổ:

+ Chiến tranh đã cướp đi của Xô-cô-lốp tất cả: người thân, quê hương, gia định, vợ và những đứa con. Trong tận cùng đau khổ, anh dường như chẳng còn gì để mất.

+ Anh trở thành một kẻ cô độc sau chiến tranh: không quê nhà, không người thân, anh lang thang và sống nhờ nhà người bạn cũ ở Uriupinxco.

+ Anh tìm một công việc lái xe để nuôi song bản thân và quên đi những đau khổ, không muốn trở thành gánh nặng của xã hội.

– Bé Vania: Em cũng là một nạn nhân của chiến tranh:

+ Mới năm sáu tuổi nhưng em đã mất hết người thân “bố chết trận”, mẹ “bị đánh … tàu” => em trở thành một đứa trẻ mồ côi do bom đạn chiến tranh, không người thân, quê nhà.

+ Trở thành một đứa trẻ lang thang, đói rách “ai cho …nấy” “bạ đâu…đó”

=> Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi tuổi thơ, cha mẹ của những đứa trẻ, biến chúng trở thành những kẻ lang thang của cuộc đời =>chiến tranh đã gây ra quá nhiều đau khổ cho con người.

b. Cuộc sống của Xô-cô-lốp và bé Vania sau khi gặp nhau:

– Hoàn cảnh gặp gỡ: Tại một quán giải khát nơi mà Xô-cô-lốp hay vào “nhấm nháp”, ” uống … người”.

– Diễn biến tâm trạng của mọi người khi hai người nhận làm cha con:

+ Xô-cô-lốp: Xúc động tới nghẹn ngào khi nghe những lời Vania thủ thỉ “Bố yêu …gặp bố”…

=> Niềm hân hoan nghẹn ngào trong lồng ngực người lính đã từng trải qua bao nhiêu mất mát, hy sinh.

+ Bé Vania: Được Xô-cô-lốp nhận làm con, chú đã “nhảy chồm …lái” =>Niềm vui sướng của một đứa trẻ rất đỗi chân thành và đáng yêu, vui sướng tới độ “ríu tít …lái”.

=> Sự gắn bó của Vania và Xô-cô-lốp là sự gắn bó của những con người mất mát sau chiến tranh. Đối với trẻ con, những mất mát ấy càng hằn sâu vào tâm hồn ngây thơ của chúng, để đến khi được yêu thương, chúng càng gắn bó, càng quyến luyến hơn.

c. Cuộc sống của hai cha con: cuộc sống của Xô-cô-lốp từ khi có bé Vania thì khó khăn và vất vả hơn nhưng anh vẫn luôn yêu thương thằng bé hết lòng :

– Việc chăm sóc một đứa trẻ với người đàn ông làm nghề lái xe như anh hết sức khó khăn nhưng anh vẫn luôn luôn cố gắng.

– Thể chất của anh bị suy kiệt “quả tim …mặt mũi”.

– Nỗi ám ảnh việc mất người thân luôn khiến anh day dứt hàng đêm “hầu như đêm …quá cố” khiến anh thức giấc “gối ướt …mắt”.

– Sức mạnh tinh thần to lớn từ tình yêu thương , lòng nhân hậu, bản lĩnh kiên cường đã giúp anh vượt qua hết thảy.

=> Xô-cô-lốp và bé Vania là những con người tiêu biểu đại diện cho nhân dân Nga. Họ vừa kiên cường, dũng cảm lại giàu lòng thương người. Nó cũng làm sống dậy một thời bi tráng trong lịch sử Liên Xô khi đấu tranh chống Phát xít Đức.

d. Thái độ của người viết:

– Sự cảm thông, đồng cảm trước những hoàn cảnh đau thương, những số phận con người cùng cực sau chiến tranh.

– Từ đó, ông muốn nhắc nhở mọi người về sự phi nghĩa của chiến tranh, những hậu quả nó để lại và nhắc nhở chúng ta về sự quan tâm, trách nhiệm đối với những số phận đau khổ, nhất là những đứa trẻ.

e. Kết luận chung:

– Nội dung: Kể về những con người Nga và số phận của họ sau chiến tranh, làm sống dậy vẻ đẹp tâm hồn của những con người Nga trung dũng, kiên cường, giàu lòng nhân hậu và cũng làm sống dậy thời đại bi tráng trong lịch sử của Liên Xô khi chống phát xít Đức.

– Nghệ thuật:

+ Giọng văn hết sức tự nhiên, chân thành, giản dị.

+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc, miêu tả những con người đứng lên từ đau thương của chiến tranh, làm nổi bật tâm hồn con người Nga cùng bản lĩnh và khát vọng vươn lên của họ.

3. Kết bài:

– Khẳng định vấn đề.

Dàn ý Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Số 2

I. Mở bài:

  • Tác giả Sô-lô-khốp là nhà văn lớn của nước Nga, được coi là nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
  • Số phận con người là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của ông, tác phẩm đã cho thấy tính cách kiên cường và lòng nhân ái của con người Nga, nghị lực phi thường của họ để vượt qua những khó khăn.

II. Thân bài:

1. Hoàn cảnh của Xô-cô-lốp

– Là một người đàn ông trải qua nhiều đau khổ trong chiến tranh:

  • Bị thương hai lần, bị bắt giam 2 năm trong trại tù binh ở Đức.
  • Sau khi thoát khỏi trại tù binh ở Đức, trở về với hồng quân liên xô, anh lại biết tin vợ và con gái đã mất do bom đạn của bọn phát xít.
  • Niềm hy vọng duy nhất của anh chính là cậu con trai, nhưng đến ngày hồng quân giành chiến thắng cũng là ngày con trai anh bị một tên thiện xạ Đức giết hại.

– Anh trở nên cô độc sau chiến tranh:

  • Không còn quê nhà, không còn nhà, không còn người thân và phải sống nhờ nhà người bạn.
  • Luôn sống trong nỗi thất vọng, cô đơn, luôn như người mất hồn “cặp mắt buồn nguội lạnh lúc nào cũng buồn thê thảm”ngày ngày tìm đến quán rượu, suýt trở thành kẻ nghiện rượu.

– Nhận xét: Xô-cô-lốp là nạn nhân của chiến tranh, chịu nỗi đau cả về thể chất và tinh thần.

2. Cuộc gặp gỡ với bé Va-ni-a và cố gắng vượt qua nỗi đau của Xô-cô-lốp

a. Sự thay đổi của Xô-cô-lốp

– Anh chú ý đến bé Va-ni-a trong những lần gặp tình cờ, qua một số câu hỏi ngẫu nhiên anh biết bé Va-ni-a mồ côi cha me, cha mẹ em đều chết trong bom đạn kẻ thù, em không còn có người thân thích.

– Một lần gặp, anh quyết định nhận nuôi Va-ni-a vì sự cảm thương. Đây là quyết định mang tính bột phát, xuất phát từ tình yêu thương chân thành, không toan tính.

– Khi đưa đứa trẻ về nhà người bạn, hai vợ chồng họ đều rất vui, “bà chủ múc súp… nước mắt ròng ròng”. Giọt nước nước mắt của bà là sự xót thương cho cảnh ngộ của chú bé, của Xô-cô-lốp và cho chính bà.

– Bằng bàn tay vụng về của một người đàn ông, Xô-cô-lốp đã chăm sóc bé Va-ni-a một cách yêu thương, ân cần.

– Từ khi có bé Va-ni-a, anh thấy cuộc sống của mình thực sự có ý nghĩa “trở nên êm dịu hơn”. Chú bé Va-ni-a đã trở thành điểm tựa của anh.

– Thế nhưng, anh vẫn luôn day dứt về nỗi đau mất người thân yêu, cùng với việc anh bị tước bằng lái, Xô-cô-lốp quyết định cùng bé Va-ni-a đến nơi khác sống.

– Nhận xét: Tình yêu thương đã khiến con người trước kia trong anh hồi sinh, anh bắt đầu lại với một cuộc sống mới đầy ý nghĩa, ước mơ. Anh dần thoát khỏi nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Anh dùng cách.

– Nêu suy nghĩ về số phận con người: cả Xô-cô-lốp và Va-ni-a đều là những nạn nhân của chiến tranh, nhưng hai con người ấy đã nương tựa vào nhau để cùng vượt qua nỗi đau. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước?”, họ còn phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa để tìm thấy hạnh phúc.

III. Kết bài:

  • Nghệ thuật đặc sắc: kết cấu truyện lồng trong truyện, xây dựng nhân vật điển hình cho tính cách Nga, con người Nga, chi tiết nghệ thuật độc đáo.
  • Qua số phận của Xô-cô-lốp, tác giả đã tố cáo tội ác của chiến tranh phát xít, phản ánh chân thực cuộc sống của người lính Nga thời hậu chiến từ đó bày tỏ niềm cảm thương trước số phận của họ, đồng thời ngợi ca nghị lực, vẻ đẹp tâm hồn con người Nga.

11 Bài mẫu Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 1

Đề tài về sự đau thương, mất mát của chiến tranh được nhiều độc tác giả lựa chọn để sáng tạo, nhưng chưa mấy ai quan tâm đến cuộc sống của những con người ấy sau chiến tranh như thế nào. Nắm bắt được sự cần thiết phải có những tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội của sau chiến tranh nhà văn Sô Lô Khốp viết nên truyện ngắn “số phận con người” với nhân vật chính là Xô-cô-lốp, một người có những đức tính khiến ai cũng phải tôn trọng.

Sô Lô Khốp đã khắc họa tính cách và phẩm chất của một con người anh hùng, kiên cường, một phẩm chất tốt đẹp của người dân Nga, có thể nói cuộc đời của Xô-cô-lốp gắn liền với những thăng trầm, biến cố của lịch sử nước Nga. Nhắc tới chiến tranh là nhắc tới những nỗi đau, những mất mát về cả vật chất và tinh thần, Sô Lô Khốp không hề né tránh sự đau thương đó mà ông khắc họa nó trên chính cơ thể của những người lính sau ngày trở về. Tuy nhiên ông viết một cách đầy chân thật chứ không dùng những lời lẽ hay giọng điệu chua chát, cay đắng để nói về cái thực tế sau chiến tranh. Nhà văn không hề sử dụng những thủ pháp nghệ thuật phô trương, phóng đại hay là bi hài mà vẫn vạch trần được tội ác của chiến tranh và những đau thương mà những người ra đi và ở lại đều phải gánh chịu.

Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh chính quyền của nước Nga còn quá non trẻ, chưa đủ nhiều kinh nghiệm để gánh vác những sự kiện hệ trọng của quốc gia, mà còn phải đối mặt với rất nhiều kẻ thù. Nhưng đổi lại họ lại có những con người như Xô-cô-lốp, một con người đại diện cho ý chí quật cường của người dân Xô viết, anh từng làm rất nhiều nghề khác nhau để sinh sống, ngay cả đi làm thuê, chứng kiến quá nhiều hoàn cảnh khác nhau và số phận đau thương đã phải bỏ mạng vì chết đói. Chính vì điều này anh đã đầu quân tham gia vào hồng quân Liên Xô.

Khi phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô thì đứng trước tình hình đó, hàng triệu người dân Xô Viết yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù. Chứng tỏ rằng chỉ cần đất nước bị kẻ thù xâm lược và tìm cách chiếm đoạt thì lúc đó tinh thần yêu nước mới được phát huy một cách triệt để nhất. Và Xô-cô-lốp, cũng tham gia trong cuộc chiến đó và dĩ nhiên anh đã không tránh khỏi thương tích: hai lần anh bị thương ở vào chân và tay mà những vết thương ấy đâu chỉ ngày một ngày hai là hết mà nó theo anh đến hết cả cuộc đời. Nó không chỉ là vết thương về thể xác mà còn động tới tâm hồn, nỗi nhục, sự căm thù khi bị chúng tra tấn. Không những thế anh còn bị bắt đi đày khổ sai và tra tấn hành hạ một cách dã man diễn ra trong thời gian dài, chúng cho anh ăn những đồ tồi tệ nhất mà đó không phải là thức ăn dành cho con người: súp thì lõng bõng còn bánh mì thì lẫn cả mạt cưa. Cảnh thiếu thốn về vật chất cũng như nỗi đau thể xác đang hành hạ anh cũng chính là hoàn cảnh chung của những người con dân Xô Viết khi bị phát xít tra tấn và đày đọa.

Sau khi chiến tranh kết thúc, thiệt hại về người và của là không thể tưởng tượng được. Hàng triệu thành phố làng mạc của đất nước Xô Viết bị phá đổ, con người chết hàng triệu, chưa thống kê được hết mà trong số đó có vợ và con của xocolop và cha mẹ của bé vania. Những con người đấy, sau chính tranh, họ không còn nhà để ở, gia đình để nương tựa chính vì thế họ đã sát cánh bên nhau, che chở cho nhau, cùng nhau sưởi ấm qua cái mùa đông giá rét bằng tình yêu và hơi ấm của cơ thể. Dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng nỗi đau trong tâm hồn của Xô-cô-lốp vẫn vẹn nguyên, mỗi khi nhớ về vợ và con lòng anh lại nhói đau nhưng anh vẫn cố gắng để sống giống như cha Vania vậy.

Điều tuyệt vời nhất mà anh có được sau cuộc chiến là anh sống với những giấc mơ của những người lính hồng quân Liên Xô. Phải thật dũng cảm và có lòng quyết tâm lắm người ta mới có thể vượt lên nỗi đau, nỗi đau mất đi gia đình, nhưng cũng giống như bao nhiêu người đàn ông khác, nỗi đau ấy của anh bị trỗi dậy khi men rượu làm anh lại phải nhớ, nó cứ hiện diện trước mắt anh, làm anh không sao có thể quên đi được. Chiến tranh không có mắt, chỉ có những người gây nên chiến tranh mới là người có lỗi, hậu quả ấy để lại không thể nào nguôi ngoai, nhưng tác giả dường như không để cho khán giả phải trải qua hết bi thảm này đến bi kịch kia để con người thấy cuộc sống vô nghĩa, mà ông đặt nhân vật và bé Vania gặp nhau như một định mệnh, định mệnh của người cùng cảnh ngộ, họ hiểu và thông cảm, thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau.

Nhưng thật sự điều đó không thể nào Xô-cô-lốp quên đi mất máy, đau thương, nỗi đau ấy vẫn hiện diện, làm cho con người mà chúng ta thấy hãnh diện kia vẫn cứ bị tình cảm gia đình lấn át, ai cũng thế mà thôi, điều đó không ai trách ông, chỉ có ông dễ dàng quên đi thì ta mới thấy giận chứ ông còn nhớ nghĩa là ông vẫn luôn nhớ thương da diết và gia đình của mình, về quê hương, về đất nước mà ông đang sống, hai con người ấy đến với nhau thật hợp tình hợp lý, đã đến lúc họ phải tiếp tục hành trình mới cho mình, những khó khăn và thách thức mới đang ở phía trước chờ đợi họ.

Như vậy, ta có thể thấy rằng qua “số phận con người” của nhà văn Xô-cô-lốp nhân vật Xô-cô-lốp hiện lên tiêu biểu cho số phận của người lính Nga nói riêng và số phận của người nhân dân Nga nói chung sau chiến tranh. Sau những ngày kinh hoàng ấy họ sống với nỗi đau mất mát gia đình và trở thành ám ảnh. Và những con người ấy định mệnh đã đưa họ đến với nhau để lấp đầy những khoảng trống trong con người họ.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 2

Tác phẩm Số phận con người là lời tự sự của nhân vật trung tâm – anh lính hồng quân Xô-cô-lốp, người đàn ông đã chịu bao giông tố khắc nghiệt của cuộc đời đổ ập lên số phận. Đó là cuộc đời gắn liền với một trang sử bi tráng hào hùng của nhân dân Nga, với chế độ Xô-viết đã tạo thành phẩm chất của những con người Nga kiên cường. M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xô viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại hào hùng của đất nước Liên Xô cũ.

Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có – không khoa trương hào nhoáng, không bi kịch hoá mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ông Nga có cái họ bình thường như bao người Nga: Xô-cô-lốp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua các thời kỳ khốc liệt nhất. Không tránh né sự thật – đó là phẩm chất hàng đầu của các cây bút Nga – xô viết mà M. Sôlôkhôp chính là một tấm gương. Sự thật đó không phải được kể bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía, trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xô viết – chính là phản chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.

Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xô viết non trẻ phải đối mặt với lũ bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên tên tuổi của M.Sôlôkhôp trong Sông Đông êm đềm. Nạn đói, cuộc sống cùng cực không quật ngã nổi ý chí của người dân xô viết. Xô-cô-lốp từng trải qua cuộc đời làm thuê, từng chứng kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh trở thành chiến sĩ hồng quân, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế làm chủ cuộc đời.

Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi không phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xô viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy diệt của nó khiến cho Xô-cô-lốp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát là điều không tránh khỏi nhưng với người trong cuộc còn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xô-cô-lốp mỗi lần tỉnh giấc lại đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt không thể rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản bội. Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh.

Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sôlôkhôp có phần gần gũi với Alếchxây Tônxtôi với “Tính cách Nga”, với “Người xô viết chúng tôi”… Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc con người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng không tắt về tương lai. Xô-cô-lốp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lòng căm thù sục sôi với kẻ đã hủy hoại hạnh phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” – người con trai đã thành đại úy pháo binh Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã phải tiễn đưa con mình. Dẫu biết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lòng cũng có thể quị ngã. Có lẽ đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.

Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người – nhân dân Nga trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vô ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát. Bởi thế, Xô-cô-lốp đã sống, làm việc như bao người lính xô viết trở về sau chiến trận. Nỗi đau lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xô-cô-lốp tìm quên trong men rượu. Áp lực đời thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã. Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xô-cô-lốp với bé Vania.

Chú bé Vania – đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải che chở, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xôcôlốp và bé Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khô héo vì đau khổ. Nước mắt – hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.

Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến những lời nói dối – nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con – một người đang cần nén chặt nỗi đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu cợt để cho bố con Xô-cô-lốp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ phía trước.

Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc sống bao dồn đẩy sóng gió đã tôi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương yêu bao la. Gương mặt người đàn ông ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lòng cảm phục vô hạn trước nhân cách một con Người chân chính. Bức thông điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao bi kịch bất hạnh.

Đó là sự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào con người nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 3

Sô-lô-khốp là một nhà văn lỗi lạc của nền văn học Nga, đặc biệt là sau sự thành công vang dội của bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Sông Đông êm đềm”. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở đó, Sô-lô-khốp còn nổi tiếng với những tác phẩm truyện ngắn vô cùng đặc sắc khi viết về những con người Nga, tiêu biểu nhất là truyện ngắn “Số phận con người”. Tác phẩm là câu chuyện về số phận con người lao động của nước Nga sau chiến tranh với những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao quý là tấm lòng vị tha, nhân hậu, kiên cường, dũng cảm đồng thời cũng là lời ca ngợi về thời đại bi tráng, hào hùng  của cả dân tộc nước Nga.

Năm 1939 chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và kết thúc vào năm 1945 khi phe Phát xít Đức đầu hàng quân đội Đồng minh và Hồng quân Liên Xô. Thế nhưng, dù nó đã đi qua, kết thúc rồi, nó vẫn để lại những nỗi đau đớn khôn nguôi cho những con người ở lại. Chiến tranh hủy hoại không chỉ nhà cửa, ruộng vườn mà nó còn cướp đi cả những người thân yêu của biết bao gia đình, nó biến vô số những đứa trẻ trở thành kẻ mồ côi, lang thang khắp nơi. Và sau chiến tranh, những người lính Hồng quân được trở về với cuộc sống thường ngày, thoát khỏi hiểm họa của Phát xít, họ không phải đối mặt với súng đạn nhưng họ lại phải đối mặt với những khó khăn, những thách thức mới trong chính cuộc sống hằng ngày, nó thử thách ý chí và lòng nghị lực của họ. Và Xô-cô-lốp – nhân vật chính trong tác phẩm “Số phận con người” của nhà văn Sô-lô-khốp cũng chính là một người như vậy. Anh là một người lính, trở về từ mưa bom bão đạn trong chiến tranh và giờ đây, anh bắt đầu gây dựng lại cuộc sống thường ngày của mình bằng bản lĩnh bằng ý chí kiên cường của một người lính, trở về từ cái chết hồi sinh.

Nói về Xô-cô-lốp trước hết phải nói về hoàn cảnh của anh, anh là một người con, một người chồng và là một người cha. Anh cũng là một người lính chống Phát xít nhưng đồng thời cũng là một nạn nhân của thảm họa ấy. Anh là một người lính, tham gia, hoạt động và phục vụ trong Hồng quân Liên Xô, trong cuộc nội chiến ở đất nước này. Khi cuộc nội chiến qua đi, anh trở về quê hương nhưng tất cả người thân, cha mẹ, anh chị đã chẳng còn ai sống sót. Đây là nỗi đau đầu tiên trong đời mà Xô-cô-lốp trải qua, những tưởng, đó là nỗi đau đớn, sự mất mát lớn nhất mà anh phải chịu đựng, và đã vượt qua khi anh có gia đình, làm cha của 3 đứa trẻ. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ đến với anh cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và anh lại một lần nữa tham gia vào đội quân Hồng quân để ra chiến trường. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu, nó chẳng thể nào cho anh được bình yên bởi khi nhập ngũ, anh đã bị thương tới hai lần rồi còn bị bọn Phát xít bắt làm tù binh. Nhờ lòng dũng cảm, kiên trì mà anh đã trốn thoát rồi chạy về phía Hồng quân, nhưng đến lúc ấy, anh mới biết tin vợ và hai người con gái của anh đã chết bởi bom đạn. Nỗi đau mất đi người thân lại một lần nữa xâm chiếm lấy tâm hồn anh, niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng của anh là đứa con trai tài giỏi của anh. Nỗi buồn chưa nguôi ngoai được bao lâu thì đứa con trai– niềm hy vọng cuối cùng của anh bị bắn chết bởi một tay thiện xạ Đức. Cứ như vậy tất cả niềm hy vọng của anh trong phút chốc bỗng vỡ tung hết, anh thấy “trong người tôi như có cái gì đó vỡ tung ra“, chẳng còn chút ánh sáng, chẳng còn chút niềm tin nào le lói trong cuộc đời anh bởi anh “đã chôn trên đất người, đất Đức, niềm vui sướng và niềm hi vọng cuối cùng của tôi”. Chiến tranh đã cướp đi mọi thứ của anh quê hương, gia đình, cha mẹ, người thân, nhà cửa, nó biến anh trở thành một kẻ lang thang, cô độc. Không còn quê hương, không còn nhà cửa, không còn người thân thích, anh phiêu bạt khắp nơi với cuộc sống đơn độc cùng một trái tim kiệt quệ đau đớn rỉ máu. Anh đến ở nhờ nhà một người bạn ở U-riu-pin-xcơ, và ở đây anh bắt đầu cuộc sống của một kẻ cô độc. Xô-cô-lốp tìm một công việc để kiếm sống, cũng là để quên đi những nỗi đau đang giày xé trong tim và anh cũng không muốn trở thành một gánh nặng cho xã hội. Thế nhưng, một kẻ cô độc, đầy những vết thương chằng chịt ấy luôn phải tìm cách quên mình trong cuộc sống và rượu chính là thứ khiến cho Xô-cô-lốp có thể vơi đi phần nào nỗi buồn kia. Và có lẽ chỉ chút nữa thôi, anh đã tự biến mình thành gã nghiện rượu vì “quá say mê cái món nguy hại ấy”.

Có thể nói, Xô-cô-lốp là một trong những nạn nhân đau đớn, bất hạnh nhất của chiến tranh, không chỉ về mặt thể xác khi anh bị thương hai lần, khi anh bị tra tấn lúc trong tù mà còn ở mặt tâm hồn. Nó đã cướp đi của anh tất cả mọi thứ mà anh thương yêu!

Tuy nhiên, chiến tranh không chỉ gây lên những đau thương mất mát cho những người lính như Xô-cô-lốp nó còn gây lên cho những người khác nữa, đặc biệt là những đứa trẻ, chúng cũng vô tình trở thành nạn nhân của cuộc chiến ấy, và bé Vania trong tác phẩm chính là một nhân vật đại diện cho chúng.

Bé Vania có một cuộc sống bất hạnh, bi thương hơn bất cứ trẻ em nào khác, em phải chịu nỗi đau mất cả gia đình, người thân khi mới chỉ 5, 6 tuổi: Bố của cậu thì “chết ngoài mặt trận”, còn mẹ thì “bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Còn gì đau đớn, xót xa hơn khi phải tận mắt chứng kiến người mẹ thân yêu của mình bị giết chết bởi bom đạn, với người lớn đó còn là một nỗi đau quá lớn, huống chi là một đứa trẻ chưa hiểu chuyện gì như Vania. Chiến tranh đã biến Vania thành một đứa trẻ vô gia cư, lang thang khắp chốn, đói rách bần cùng, không nhà, không gia đình, không quê hương, không người thân thích “ai cho gì ăn nấy” rồi “bạ đâu ngủ đó”. Chiến tranh quá đỗi tàn khốc, ác liệt, bởi nó đã cướp đi bầu trời tuổi thơ, cướp đi cha mẹ, người thân của biết bao đứa trẻ, cướp đi cả tương lai phía trước của chúng nữa, rồi lại biến chúng thành những kẻ lang thang, đầu đường xó chợ, nay đây mai đó, khốn khổ vô cùng.

Chiến tranh thật sự đã gây ra quá nhiều mất mát, đau thương, đã làm biến đổi số phận của biết bao nhiêu con người mà Xô-cô-lốp và bé Vania là hai nhân vật đại diện cho những số phận mất mát, đau thương vì chiến tranh ấy. Và có lẽ, chính sự đau thương ấy đã khiến cho họ, hai con người xa lạ ấy đồng cảm mà đến bên nhau, để sưởi ấm, đem lại nhịp đập cho trái tim đã gần như kiệt quệ của Xô-cô-lốp.

Xô-cô-lốp và bé Vania gặp nhau trong một lần tình cờ và có lẽ đó chính là món quà mà Thượng Đế đã cố tình sắp đặt để dành cho những số phận đau thương trong cuộc đời ấy được tìm thấy và về bên nhau. Như mọi ngày, sau chuyến chạy xe cuối cùng, Xô-cô-lốp lại vào quán giải khát ven đường ấy để uống rượu và ở đó, qua tấm kính, lần đầu tiên anh nhìn thấy bé Vania trong tình trạng “rách bươm như xơ mướp” đang ngồi ở gần đó. Và mặc dầu, thằng bé có vẻ rách rưới, bẩn thỉu, nhem nhuốc “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩm như ma lem, đầu tóc rối bù“, nhưng Xô-cô-lốp lại bị thu hút và ấn tượng bởi “cặp mắt – cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm” của cậu bé. Và thế là trong lòng anh dâng lên một cảm xúc thật lạ, một niềm yêu thích lạ lùng với nó, anh đã bắt đầu thấy nhớ cậu bé, còn cố tình chạy thật nhanh để được gặp nó. Phải chăng, có một sự đồng điệu trong tâm hồn, có sự đồng cảm giữa những trái tim cô đơn, thiếu vắng sự yêu thương? Xô-cô-lốp đã mất đi cả gia đình, người thân, quê hương còn Vania lại mất đi cha mẹ của mình, hai trái tim chằng chịt vết thương, thiếu thốn hơi ấm, có lẽ chính điều đó đã khiến cho Xô-cô-lốp gần như ngay lập tức có cảm tình, đồng cảm và xót thương cho số phận của một đứa trẻ lang thang?

Và trái tim của anh đã chẳng thể chịu đựng được lâu hơn nữa,  ngày thứ tư khi nhìn thấy Vania  đang ngồi ở bậc thềm, hai bàn chân nhỏ xíu của cậu đung đưa, và trong như có vẻ đang rất đói, anh đã thò đầu ra ngoài cửa buồng lái và hét to tên của chú bé con ấy. Anh đưa nó lên xe của mình, hỏi han về cuộc sống của nó, lúc này anh mới biết nó mồ côi cả cha lẫn mẹ, nghe tới đây Xô-cô-lốp đã có một quyết định gần như ngay lập tức rằng anh phải trở thành cha của thằng bé. Anh đã không kìm được mà bật khóc, những giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên gương mặt cùng khổ đã từng trải của anh, và anh nghẹn ngào trả lời: “Ta là bố của con”. Đây là một quyết định nhanh gọn, không chút đắn đo, suy nghĩ, nó được quyết định bằng tất cả tình yêu thương, lòng thương xót và sự đồng cảm chân thành của một số phận bất hạnh, đầy những đau thương, mất mát với một số phận khác tương tự bản thân mình. Anh đã hành động bằng cả một trái tim của một con người tràn đầy tình yêu thương và có lẽ chính quyết định ấy đã làm thay đổi phần đời còn lại của anh theo một chiều hướng mới, tích cực và tràn đầy yêu thương hơn.

Xô-cô-lốp đã nhận bé Vania làm con nuôi, sau cái quyết định bồng bột ấy, tâm trạng của anh, của cậu bé Vania hay của mọi người đều có những thay đổi, những biến chuyển mới, tươi sáng và màu sắc hơn giữa khoảng không gian u tối, buồn đau ngày trước. Và những biến chuyển ấy được bắt đầu từ Xô-cô-lốp.

Ngay từ lúc nhận bé Vania làm con nuôi trên buồng lái của chiếc xe cũ, anh dường như đã xúc động tới nghẹn ngào, những giọt nước mắt của anh lại càng thi nhau mà rơi xuống nóng hổi khi anh nghe những lời thủ thỉ, hồn nhiên của đứa con mới nhận: “Bố yêu của con ơi! Con biết mà! Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà! Thế nào cũng tìm thấy mà! Con chờ mãi mong được gặp bố!”. Tiếng thủ thỉ ríu rít của chú chim non trong lòng đã khiến anh xúc động dâng trào “mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy”. Có lẽ, đó là niềm xúc động vui sướng, niềm hạnh phúc nhất trong đời anh kể từ ngày anh mất đi niềm hy vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Dâng lên trong lòng anh lúc này là niềm vui sướng khôn nguôi, là niềm hy vọng lại chợt bừng cháy thêm một lần nữa, cái mà anh tưởng đã chôn vùi ở đất Đức rồi. Và anh quyết định quay xe trở về nhà ngay mà không đến kho thóc nữa. Bởi giờ đây, trong trái tim đã chai sạn, đã chằng chịt những nỗi đau của anh được thổi bùng lên một tình yêu thương mới, niềm vui sướng nghẹn ngào dâng lên trong lồng ngực người lính già. Trở về căn nhà của hai người bạn, anh nhanh chóng giới thiệu đứa con nuôi mình mới nhận một cách hào hứng, phấn khởi và nhận được sự chia sẻ từ hai người bạn của mình. Qủa đúng là vậy, những trái tim cô đơn bao giờ cũng thấu hiểu và làm lan tỏa cái niềm vui sướng ấy ra khắp nơi. Còn với Xô-cô-lốp, sau bao nhiêu năm trời, hôm nay là lần đầu tiên anh được ngủ một giấc yên bình, với một niềm vui không lời nào tả xiết. Đêm hôm đó, anh đã không dám trở mình để cho Vania được ngủ yên không thức giấc,  thế rồi lại không nén được mà nhẹ nhàng ngồi dậy đánh diêm để ngắm nhìn đứa con mình ngủ. Có lẽ, niềm vui sướng hạnh phúc đã lan tỏa trong tâm hồn anh, khiến cho anh cảm thấy không biết liệu đây có là sự thật hay chỉ là một giấc mơ nữa. Vania có lẽ chính là món quà to lớn đã lấp đầy vào trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn bấy lâu vì đau khổ của Xô-cô-lốp, khiến nó trở nên êm dịu hơn.

Có thể nói rằng, tình yêu thương và sự đồng cảm đã kéo những con người bất hạnh, kéo những trái tim cô đơn lại gần nhau hơn! Nó đã xoa dịu đi cả những vết thương hằn sâu  tưởng chừng như chẳng thể nào có thể lành lại được, xoa dịu cả những trái tim đã chai sạn nhất!

Nếu nói về sự thay đổi, biến chuyển thì chắc chắn không thể nào bỏ qua hành động, cảm xúc của bé Vania được. Chú bé là minh chứng cho việc dành tình yêu thương cho một đứa trẻ sẽ nhận được niềm vui sướng đến nhường nào!

Lúc Vania được Xô-cô-lốp nhận làm con, người ta đã thấy vô cùng bất ngờ khi cậu bé với dáng vẻ im lìm, lặng thinh, tư lự, ngại ngùng ấy lại đột nhiên “nhảy chồm lên cổ hôn vào má, vào môi, vào trán và như con chim chích, nó ríu rít líu lo vang rộn cả buồng lái“. Niềm vui của một đứa trẻ rất đỗi giản dị, hồn nhiên mà rất đỗi chân thành và đáng yêu đến thế! Dường như nó vui sướng, phấn khích đến tột cùng khi nhận ra người bố đi chiến tranh đã tìm được mình. Thế rồi, niềm vui ấy bất chợt lại biến thành sự nghẹn ngào, xúc động “nó áp sát người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió”. Phải chăng đó là sự run rẩy của một tâm hồn bé thơ, mỏng manh, yếu đuối giờ đây được bao bọc trong tình yêu to lớn của người cha, vậy nên mới xúc động và nghẹn ngào tới thế? Trẻ con chẳng cần điều gì cao sang, phú quý, điều mà chúng cần nhất có lẽ là tình yêu thương của cha mẹ, và giờ đây Vania đã nhận được cái điều mà nó mong mỏi từ bấy lâu. Chắc có lẽ vì vậy mà nó quyến luyến, nó quấn quýt người bố nuôi không rời, nó còn theo bố trên những chuyến xe chở hàng. Đến khi không được đi theo bố nữa, thì nó cứ khóc suốt từ sáng cho đến tối rồi chiều tối lại chuồn ra kho thóc tìm bố. Nó thường đợi bố ở đó đến khuya. Có lẽ nỗi sợ hãi, sự bất an trong lòng Vania vẫn còn quá lớn, khiến cậu bé không thể yên tâm rời xa người bố của mình dù là trong giây phút, vậy mới biết, chiến tranh đã gây ra cho con trẻ những mất mát, những đau thương tới nhường nào!

Sự gắn bó khăng khít của Xô-cô-lốp và bé Vania chính là sự gắn bó, gắn kết của những trái tim tổn thương, của những con người đau khổ, mất mát vì chiến tranh. Họ đến với nhau rất mộc mạc, rất giản dị, chẳng rềnh rang, hoa mỹ nhưng lại rất chân thành và gắn bó. Đối với một đứa trẻ như Vania mà nói những vết thương từ quá khứ sẽ còn hằn sâu, in dấu vào trong tâm hồn thơ ngây của nó, khiến nó luôn lo sợ, bất an và quyến luyến người bố của mình nhiều hơn bình thường, và chỉ có sự yêu thương mới có thể khiến trái tim cảm thấy ấm áp và khiến chúng cảm thấy an toàn hơn!

Người ta không chỉ nhận ra những thay đổi trong tâm trạng thật sâu sắc trong tâm hồn của cha con Xô-cô-lốp mà còn cả trong tâm hồn của ông bà chủ nhà nữa. Bởi khi Xô-cô-lốp dẫn bé Vania về và giới thiệu bé là con cuả anh, thì cả hai người dường như đã hiểu ngay câu chuyện nên cứ lăng xăng tíu tít. Và rồi khi nhìn thấy bộ dạng Vania “ăn ngấu nghiến” món súp bắp cải, bà đã bật khóc. Bà khóc vì vui mừng và vì xót thương cho số phận của hai con người ấy. Bà vui bởi cả Vania và Xô-cô-lốp cuối cùng cũng tìm được một nơi nương tựa cho bản thân mình, lại vừa xót thương cho số phận đau khổ của cả hai cha con. Bà còn cảm phục trước tấm lòng nhân hậu của Xô-cô-lốp, một tấm lòng rộng lượng và tràn đầy tình yêu thương. Thế nhưng, khi nhìn cha con họ, bà còn cảm thấy xót thương cho chính số phận của vợ chồng bà khi hai người không thể có được người con.

Đó là niềm cảm thương, niềm xúc động sâu sắc nhất của những con người đã từng trải qua đau khổ khi chứng kiến cuộc gặp gỡ của hai cha con Xô-cô-lốp. Đó cũng là sự đồng cảm, sự xót thương của chính tác giả dành cho những người có số phận bất hạnh, đau thương như Xô-cô-lốp, như Vania.

Liệu trong chúng ta có ai tự hỏi rằng cuộc sống sau này của hai bố con như thế nào không nhỉ? Liệu cuộc sống của Xô-cô-lốp liệu đã có những đổi thay chăng?

Và đúng là như vậy, cuộc sống của Xô-cô-lốp thay đổi rất nhiều sau khi nhận nuôi bé Vania. Nếu trước đây, anh chỉ phải nuôi một mình anh thì giờ đây, anh lại phải chăm lo, nuôi nấng một đứa trẻ nữa. Điều ấy lại càng khó khăn khi mà thể chất của anh dần trở lên yếu đi “quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, đến phải thay pít-tông thôi… có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi“. Khó khăn lại chồng chất khó khăn, bởi việc chăm sóc một đứa trẻ không hề đơn giản một chút nào, cái ăn, cái mặc của nó đều đè lên vai của Xô-cô-lốp. Thế nhưng, anh chưa bao giờ than phiền dù chỉ một câu, chưa bao giờ ngừng cố gắng để cậu con trai của anh có được cuộc sống tốt hơn. Ấy vậy mà, cuộc sống không ngừng trêu đùa anh, không chỉ là những giấc mơ hàng ngày ám ảnh về người thân quá cố mà nay còn là sự mất việc, bị thu hồi bằng lái xe khi anh đâm phải một con bò, công việc cuối cùng nuôi sống hai cha con cũng không còn. Người cha già ấy vẫn từng chút gắng gượng vượt qua hết thảy những nỗi đau ấy, dù cho nó đã từng thấm sâu vào tâm hồn anh, khiến cho anh có một vết thương lòng sâu hoẳm ghê gớm. Mỗi ngày, anh đều cố gắng hơn không một tiếng thở dài cũng chẳng một lời than vãn để bé Vania có được một chỗ dựa vững chãi để lớn lên.

Tình yêu thương dạt dào đã cho anh thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, cùng với tấm lòng nhân hậu, bản lĩnh kiên cường và lòng dũng cảm là nguồn động lực to lớn nhất để Xô-cô-lốp cố gắng từng ngày.

Xô-cô-lốp và Vania là hai nhân vật đại diện tiêu biểu cho những số phận con người Nga sau chiến tranh. Họ mang số phận đau thương, bi thảm là thế, nhưng vẫn luôn kiên cường, dũng cảm và giàu lòng yêu thương người cùng cảnh ngộ. Họ là lớp những con người Nga với vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Đồng thời, qua đó người ta cũng thấy được một thời đại bi tráng, hào hùng của Liên Xô trong công cuộc chống lại chủ nghĩa Phát xít.

Sô-lô-khốp đã viết lên một thiên tuyệt tác về số phận bất hạnh, đau thương của những con người nước Nga sau chiến tranh. Ở đó, người ta thấy được những sự cảm thông, niềm xót thương sâu sắc của ông trước những hoàn cảnh bi thương, những số phận con người cùng khổ mà chiến tranh để lại. Cũng từ số phận của họ, đặc biệt là số phận của bé Vania, nhà văn như muốn kêu gọi, nhắc nhở mọi người về sự quan tâm, về trách nhiệm của toàn xã hội đối với những đứa trẻ – chúng cần được quan tâm, chia sẻ, yêu thương và trân trọng hơn.

Về phần nghệ thuật, nhà văn Sô-lô-khốp đã sử dụng một giọng văn hết sức dung dị, mộc mạc, gần gũi, tự nhiên, với những từ ngữ chân thành, giàu sắc thái và tự thuật bằng lời của chính nhân vật. Ông cũng xây dựng thành công hình tượng nhân vật người chiến sĩ Hồng quân sau chiến tranh với những nỗi đau thương, mất mát và sự đứng dậy mạnh mẽ của họ. Ông đã làm nổi bật lên tinh thần quật cường, kiên trì, dũng cảm của những con người Nga đầy bản lĩnh với khát khao mạnh mẽ vươn lên làm chủ cuộc đời.

Tác phẩm “Số phận con người” đã cho chúng ta thấy được toàn cảnh về số phận của những người lao động của nước Nga sau chiến tranh. Họ là những con người bình thường với vẻ đẹp tâm hồn kiên cường, dũng cảm, giàu lòng nhân hậu và tình yêu thương đồng thời cũng làm dậy lên một thời đại hào hùng, bi tráng của dân tộc Nga. Truyện ngắn này là một thành tựu xuất sắc nhất của văn hào Sô-lô-khốp cũng như của nền văn học Nga.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 4

Sô-lô-khốp nhà văn Nga lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1965. Ông để lại số lượng tác phẩm đồ sộ, những bộ tiểu thuyết lớn và những truyện ngắn hay với cái nhìn chân thực về cuộc sống và chiến tranh. Số phận con người được sáng tác dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Liên Xô, khôi phục tinh thần dân chủ, chống sùng bái cá nhân và trong xu thế quan tâm đến số phận con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Sô – lô – khốp mang tinh thần thời đại rất rõ nét.

Xô-cô-lốp bị thương, anh bị bắt làm tù binh trong trại tập trung của phát xít Đức với những cực hình vô nhân đạo. Không chỉ vậy anh còn mất đi tất cả người thân, gia đình vì bom đạn phát xít: vợ và hai con gái. Đây có lẽ là nỗi đau đớn lớn nhất cuộc đời anh, những vết thương về thể xác có thể lành theo năm tháng, còn những mất mát, đau thương về tinh thần thi năm tháng cũng không thể chữa lành. Và niềm an ủi duy nhất, cuối cùng cho tầm hồn đầy đau thương ấy là đứa con trai xuất sắc, là đại úy pháo binh, là học sinh học giỏi toán lại bị tên thiện xạ Đức bắn trúng ngay trong khoảnh khắc chiến thắng. Anh phải chôn niềm hy vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Bước ra khỏi cuộc chiến, anh không còn lấy một người thân ở bên cạnh, nỗi cô đơn, trống trải, hụt hẫng bủa vây lấy người đàn ông này.

Bởi vì quá đau thương, anh không dám trở về quê hương. Mảnh đất quê hương gắn với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của anh và gia đình, nếu anh trở về đó, từng mảnh kí ức ùa về, có lẽ anh sẽ không thể sống nổi. Chính vì vậy Xô-cô-lốp lựa chọn cách đến ở nhờ nhà bạn, đề vợi bớt nỗi đau đớn và u buồn. Tại anh anh làm nghề lái xe để mưu sinh và trong những ngày đó anh bắt đầu nghiện rượu, anh tìm đến rượu để quên đi quá khứ, chạy trốn những kí ức đeo bám anh. Nhưng anh càng chạy trốn, càng tìm đến rượu thì quá khứ càng ám ảnh anh bấy nhiêu. Sau đó Xô-cô-lốp bị mất bằng lái, anh thất nghiệp nên đã di chuyển đến một vùng đất khác để sinh sống. Những vết tích mà chiến tranh để lại đã hằn in trên đôi mắt màu tro đượm buồn của anh.

Bé Va-ni-a cũng là một số phận bất hạnh khác, bố mẹ em chết vì bom đạn phát-xít. Va-ni-a trở thành một đứa trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, em sống lang thang trên đường phố, cuộc sống hết sức cơ cực “bạ đâu ngủ đấy, ai cho gì thì ăn nấy”. Cả Va-ni-a và Xô-cô-lốp đều là những nạn nhân của chiến tranh phát-xít, họ bị mất gia đình, người thân, sống cuộc đời cô đơn, trơ trọi, nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực họ sẽ bị cuộc đời vùi dập.

Số phận đau thương, bất hạnh đã khiến cho hai con người người ấy gặp nhau, bằng tình yêu thương Xô-cô-lốp đã quyết định nhận bé Va-ni-a làm con. Xô-cô-lốp mang hạnh phúc vô bờ bến cho bé Va-ni-a. Em “nhảy chồm lên cổ, hôn vào má vào môi vào trán, như con chim chích ó ríu rít líu lo vang dội cả buồng lái…”. Quyết định ấy không chỉ mang lại niềm vui cho bé Va-ni-a mà còn đem lại sự bình yên, hạnh phúc cho Xô-cô-lốp, sau biết bao nhiêu năm lấy rượu để quên đi, để chìm vào giấc ngủ, thì đây là lần đầu tiên sau nhiều năm anh được ngủ một cách ngon lành… Bằng tình yêu thương, hai con người bị khuyết thiếu tình yêu thương ấy đã bù đắp, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau. Anh luôn quan tâm, dành tình yêu thương và sự quan tâm chăm sóc cho Va-ni-a: lấy xà phòng rửa tay trước khi đặt ngồi vào bàn ăn, đưa tới hiệu cắt tóc tắm rửa, chạy ra cửa hàng tạp hóa mua một chiếc quần dạ vào lúc trời đang rất nóng… Bởi khi mang hạnh phúc đến cho Va-ni-a cũng chính là mang lại hạnh phúc cho chính anh.

Không chỉ tình yêu thương, mà cả nghị lực kiên cường đã giúp Xô-cô-lốp vượt lên số phận đầy đau thương của mình. Gia đình anh đều bị bom đạn phát-xít cướp mất tính mạng, chỉ còn một mình anh cô độc trong cuộc đời, trái tim đã dần trở nên yếu đuối, chán nản, có những lúc tưởng như bỏ cuộc. Sức khỏe của anh ngày một đi xuống, con tim bỗng nhiên nhói lên, thắt lại giữa ban ngày, khiến anh tối sầm mặt lại. Anh lo lắng rồi một ngày không xa cái chết sẽ đến và anh còn lo hơn cho bé Va-ni-a, anh chết, bé sẽ rơi vào cảnh cô đơn, lang thang, điều này còn làm anh lo lắng gấp bội. Không chỉ vậy, những ám ảnh quá khứ vẫn đeo bám anh, dù đã cố gắng nhưng nó vẫn lẩn khuất hiện về. Hầu như đêm nào anh cũng gặp lại những giấc chiêm bao về vợ con. Tuy nhiên luôn phải giấu diếm, che đậy nỗi đau, không muốn để Va-ni-a nhìn thấy mình khóc, để giữ niềm vui trọn vẹn cho Va- ni- a. Ý chí nghị lực của anh còn thể hiện trong lần anh mất bằng lái, thay vì chán nản, bi quan, than vãn, đổ lỗi cho số phận, anh lại mang đứa con trai của anh đến những vùng đất mới để giải quyết việc trước mắt là mưu sinh bằng nghề nghiệp khác, và cũng là để quên đi nỗi đau quá khứ. Ý chí nghị lực đã giúp anh vượt qua nỗi đau, những trớ trêu của số phận để tiếp tục sống, nuôi dưỡng bé Va-ni-a trưởng thành. Ý chí nghị lực của anh cũng chính là bản tính tiêu biểu của con người Nga.

Tác phẩm dùng lối kể truyện, truyện lồng trong truyện vô cùng đặc sắc. Giúp cho câu chuyện vừa chân thật, vừa dạt dào tình cảm. Đặc biệt với mỗi lối kể sẽ đem đến những hiểu quả khác nhau. Khi Xô-cô-lốp kể chuyện giọng điệu, ngôn ngữ sẽ nương theo đặc điểm của người lính, người lái xe, giúp cho nhân vật hiện lên sinh động, tự nhiên hơn. Khi chọn ngôi kể là tác giả câu chuyện sẽ được thuật lại khách quan, chân thực hơn.

Dù chỉ là trích đoạn nằm ở cuối tác phẩm nhưng đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc của tác giả. Sô-lô-cốp kêu gọi, nhắc nhở sự quan tâm cả toàn xã hội đối với những cá nhân, những số phận con người như Xô-cô-lốp đã hi sinh tất cả để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Đồng thời lên án bão tố chiến tranh phi nghĩa với sức mạnh phũ phàng của nó và nó vẫn có ý nghĩa thời sự tới tận ngày nay.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 5

Sô-lô-khốp là một nhà văn rất đỗi nổi tiếng của văn học Nga, đặc biệt là sau thành công của bộ tiểu thuyết nổi tiếng Sông Đông êm đềm. Thế nhưng, Sô-lô-khốp còn nổi tiếng với những tác phẩm truyện ngắn vô cùng đặc sắc viết về những con người Nga, một trong số đó là truyện ngắn Số phận con người. Tác phẩm là câu chuyện về những số phận con người lao động của nước Nga sau chiến tranh với những vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc cùng tấm lòng vị tha, nhân hậu, đồng thời cũng là lời ca ngợi về thời đại bi hùng của cả dân tộc nước Nga.

Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra vào năm 1939, kết thúc năm 1945 khi phe Phát xít đầu hàng quân đội Đồng minh và Hồng quân Liên Xô. Thế nhưng, dù nó đi qua, kết thúc rồi, nó vẫn để lại những nỗi đau đớn khôn cùng cho những con người ở lại. Chiến tranh đã tàn phá không chỉ nhà cửa, ruộng vườn mà còn cướp đi cả những người thân yêu trong gia đình của nhiều người khác, biến vô số những đứa trẻ trở thành những kẻ mồ côi, lang thang khắp chốn. Và sau chiến tranh, những người lính Hồng quân trở về cuộc sống thường ngày, thoát khỏi hiểm họa Phát xít, thế nhưng, họ lại phải đối mặt với những khó khăn, những thách thức mới, thử thách ý chí và lòng nghị lực của họ. Và Xô-cô-lốp trong tác phẩm Số phận con người của nhà văn Sô-lô-khốp cũng là một người như vậy. Anh là một người lính, trở về từ chiến tranh và giờ đây, anh bắt đầu gây dựng lại cuộc sống thường ngày của mình bằng bản lĩnh của một người lính, trở về từ khói lửa, từ cái chết hồi sinh.

Kể về Xô-cô-lốp mà không kể về hoàn cảnh của anh thì thật là một thiếu sót lớn, bởi anh là một con người, là một người lính chống Phát xít nhưng cũng đồng thời là một nạn nhân của thảm họa ấy. Anh là một người lính, phục vụ trong Hồng quân Liên Xô, trong cuộc nội chiến ở đất nước này. Nội chiến qua đi, anh trở lại quê hương nhưng tất cả người thân, cha mẹ, anh chị đã chẳng còn ai sống sót. Đây là nỗi đau đầu tiên trong đời của Xô-cô-lốp, những tưởng, đó là nỗi đau đớn nhất mà anh phải chịu đựng, và đã vượt qua khi anh có gia đình và có được ba người con. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ đến với người lính ấy cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và anh lại một lần nữa gia nhập vào đội quân Hồng quân vinh dự ấy. Nhưng cuộc đời chẳng thể nào cho anh được bình yên bởi khi nhập ngũ, anh bị thương đến hai lần rồi bị bọn Phát xít bắt làm tù binh. Nhờ lòng dũng cảm, anh đã trốn thoát rồi chạy về phía Hồng quân, nhưng đến lúc ấy, anh mới biết rằng, vợ và hai người con gái của anh đã bị bom đạn của Phát xít giết chết. Nỗi đau lại một lần nữa xâm chiếm lấy tâm hồn anh, anh chỉ còn lại duy nhất một đứa con trai và nó là niềm hy vọng cuối cùng của cuộc đời anh. Cho đến ngày 9-5-1945, khi hai cha con cùng nhau tiến vào Berlin – sào huyệt của bọn Phát xít thì đứa con trai An-na-to-li – niềm hy vọng cuối cùng của anh bị một tay thiện xạ Đức giết chết. Tất cả hy vọng của anh trong phút chốc chợt vỡ tung hết “trong người tôi như có cái gì đó vỡ tung ra”, chẳng còn một chút ánh sáng nào le lói cho cuộc đời anh bởi anh “đã chôn trên đất người, đất Đức, niềm vui sướng và niềm hi vọng cuối cùng của tôi”. Chiến tranh đã cướp đi của anh tất cả, quê hương, gia đình, cha mẹ, người thân, biến anh trở thành một kẻ cô độc. Không còn quê hương, không còn người thân, anh phiêu bạt với cuộc sống đơn độc với một trái tim kiệt quệ đau đớn. Anh đến ở nhờ nhà một người bạn ở U-riu-pin-xcơ, bắt đầu cuộc sống của một kẻ cô độc. Xô-cô-lốp tìm một công việc để nuôi sống bản thân mình, cũng là để quên đi những nỗi đau trong tim và không trở thành một gánh nặng cho xã hội. Thế nhưng, một kẻ cô độc, đau đớn ấy luôn phải tìm quên trong cuộc sống và rượu chính là thứ khiến cho Xô-cô-lốp có thể vơi đi nỗi buồn. Và có lẽ chỉ chút nữa thôi, anh đã biến thành một kẻ nghiện rượu khi “quá say mê cái món nguy hại ấy”.

Có thể nói, Xô-cô-lốp là một trong những nạn nhân đau đớn nhất của chiến tranh, không chỉ về mặt thể xác khi anh bị bắt làm tù binh ở những trại tập trung Đức, bị thương hai lần trên mặt trận mà còn ở mặt tâm hồn. Nó đã cướp đi của anh gần như tất cả mọi thứ thân yêu!

Không chỉ những người lính như Xô-cô-lốp phải hứng chịu những mất mát, đau thương mà chiến tranh gây lên, những người khác, đặc biệt là những đứa trẻ cũng là những số phận phải trở thành nạn nhân của cuộc chiến ấy, và bé Vania chính là một nhân vật đại diện cho chúng.

Bé Vania có một cuộc sống bất hạnh hơn bất cứ trẻ em nào khác, em phải chịu nỗi đau mất cả gia đình khi mới chỉ năm, sáu tuổi: Bố “chết ngoài mặt trận”, “mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Còn gì đau đớn hơn khi phải tận mắt chứng kiến người mẹ của mình bị giết chết bởi bom đạn, với người lớn còn là một nỗi đau quá lớn, huống chi Vania mới chỉ là một đứa trẻ? Chiến tranh đã biến Vania thành một đứa trẻ lang thang, đói rách, không nhà, không gia đình, không quê hương “ai cho gì ăn nấy” và “bạ đâu ngủ đó”. Chiến tranh quá đỗi khốc liệt, bởi nó đã cướp đi của trẻ em cả bầu trời tuổi thơ, cướp đi cha mẹ, người thân của chúng, cướp đi cả tương lai phía trước của chúng nữa, rồi biến chúng thành những kẻ lang thang, đầu đường xó chợ.

Chiến tranh thật sự đã gây ra quá nhiều đau thương, đã làm biến đổi số phận của hàng triệu con người mà Xô-cô-lốp và bé Vania là hai đại diện cho những số phận mất mát, đau thương vì chiến tranh ấy. Và có lẽ, chính sự đau thương ấy đã khiến cho họ đồng cảm mà đến bên nhau, để sưởi ấm cho trái tim đã gần như kiệt quệ của Xô-cô-lốp.

Xô-cô-lốp và bé Vania có một sự gặp nhau rất tình cờ, có lẽ đó là món quà mà Thượng Đế đã sắp tâm dụng ý để dành cho những số phận đau thương trong cuộc đời ấy được tìm thấy nhau. Như mọi lần, sau chuyến chạy xe, Xô-cô-lốp lại vào quán giải khát để uống rượu và ở đó, qua tấm kính, lần đầu tiên anh nhìn thấy bé Vania “rách bươm như xơ mướp” đang ở gần đó. Và mặc dầu, thằng bé rách rưới, bẩn thỉu “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩm như ma lem, đầu tóc rối bù”, nhưng Xô-cô-lốp lại bị ấn tượng bởi “cặp mắt – cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”. Và thế là trong lòng anh dâng lên một niềm yêu thích lạ lùng với nó, anh “bắt đầu thấy nhớ nó, cố chạy xe thật nhanh để được gặp nó”. Phải chăng, có một sự đồng cảm gần như ngay lập tức giữa những trái tim cô đơn, thiếu vắng sự yêu thương? Xô-cô-lốp mất đi cả gia đình, con cái còn Vania lại mất đi cha mẹ của mình, hai trái tim thiếu thốn hơi ấm, và chính điều đó đã khiến Xô-cô-lốp đã gần như ngay lập tức có cảm tình, đồng cảm, xót thương cho số phận của một đứa bé lang thang?

Và trái tim của anh đã chẳng thể chịu đựng lâu hơn ngày thứ tư, khi nhìn thấy Vania “ngồi ở bậc thềm, hai bàn chân nhỏ xíu đung đưa, và nom có vẻ như đang đói”, anh đã “thò đầu ra ngoài cửa buồng lái và hét gọi” tên của chú bé con ấy. Anh đưa nó lên xe, hỏi han về cuộc sống của nó, và khi nhận ra, nó mồ côi cả cha lẫn mẹ, Xô-cô-lốp đã có một quyết định gần như ngay lập tức rằng mình phải trở thành cha của thằng bé. Những giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên gương mặt đã từng trải của anh, và anh đã nghẹn ngào trả lời khi được Vania hỏi: “Ta là bố của con”. Xô-cô-lốp đã đưa ra cái quyết định ấy bằng tất cả tình yêu thương, lòng thương xót, đồng cảm chân thành của một số phận đau khổ, mất mát với một số phận khác tương tự bản thân mình. Anh đã hành động bằng một trái tim của một con người với tấm lòng yêu thương chan chứa và có lẽ quyết định ấy đã thay đổi cuộc đời còn lại của anh theo một hướng mới, tích cực và tràn đầy yêu thương hơn “tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên”.

Xô-cô-lốp nhận bé Vania làm con nuôi, sau cái quyết định ấy, tâm trạng của anh, của Vania hay của mọi người đều có những biến chuyển mới, tươi sáng và màu sắc hơn giữa những u tối, buồn đau ngày trước. Và những biến chuyển ấy bắt đầu từ Xô-cô-lốp.

Ngay từ lúc nhận Vania làm con trên buồng lái của chiếc xe cũ, anh đã dường như xúc động tới nghẹn ngào, những giọt nước mắt lại càng thi nhau mà rơi xuống nóng hổi khi anh nghe những lời thủ thỉ của đứa con mới nhận: “Bố yêu của con ơi! Con biết mà! Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà! Thế nào cũng tìm thấy mà! Con chờ mãi mong được gặp bố!”. Tiếng thủ thỉ của chú chim non trong lòng đã khiến anh xúc động “mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy”. Có lẽ, đó là niềm xúc động vui sướng nhất trong đời anh kể từ ngày anh mất đi niềm hy vọng cuối cùng của đời mình. Dâng lên trong lòng anh lúc này, niềm vui sướng, hi vọng lại chợt bừng cháy thêm một lần nữa, cái mà anh những tưởng đã chôn ở đất Đức rồi. Và anh quyết định quay xe trở về nhà “đến kho thóc làm gì nữa, khi mà tôi không còn bụng dạ nào để đi đến đó”. Bởi giờ đây, trong trái tim đã chai sạn về khổ đau của anh được thổi bùng lên một tình yêu thương mới, niềm vui sướng nghẹn ngào trong lồng ngực người lính già đã từng trải qua bao nhiêu đau thương, mất mát. Trở về căn nhà của hai người bạn, anh đã giới thiệu đứa con nuôi của mình “một cách phấn khởi” và nhận được sự chia sẻ từ hai người bạn của mình. Phải, những trái tim cô đơn bao giờ cũng thấu hiểu nhiều điều và làm lan tỏa cái niềm vui sướng ấy ra rộng khắp. Còn Xô-cô-lốp. bao nhiêu năm trời nay, đây là hôm đầu tiên, anh “được ngủ một giấc yên lành” với một niềm vui “không lời nào tả xiết”. Đêm hôm đó, anh “không dám trở mình để nó khỏi thức giấc”, thế rồi “không nén được”, anh “nhẹ nhàng ngồi dậy đánh diêm ngắm nhìn nó ngủ”. Có lẽ, niềm vui sướng lan tỏa trong tâm hồn anh, khiến cho anh cảm thấy không biết liệu đây là sự thật hay là một giấc mơ nữa, và Vania có lẽ chính là món quà đã lấp đầy “trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ” của anh, khiến nó “trở nên êm dịu hơn”?

Có thể nói rằng, tình yêu thương, sự đồng cảm đã kéo những con người bất hạnh lại gần nhau hơn! Nó xoa dịu đi cả những vết thương tưởng chừng như chẳng thể nào lành lại được, xoa dịu cả những trái tim đã chai sạn nhất!

Nếu nói về sự thay đổi, biến chuyển thì không thể nào không nhắc tới bé Vania! Chú bé là mình chứng cho việc yêu thương một đứa trẻ sẽ nhận được niềm vui sướng đến nhường nào!

Lúc Vania được Xô-cô-lốp nhận làm con, người ta đã thật bất ngờ khi cái chú bé với dáng vẻ im lìm, “lặng thinh, tư lự” ấy lại đột nhiên “nhảy chồm lên cổ hôn vào má, vào môi, vào trán và như con chim chích, nó ríu rít líu lo vang rộn cả buồng lái”. Cái niềm vui của một đứa trẻ rất đỗi giản dị, rất đỗi chân thành và đáng yêu đến thế! Dường như nó vui sướng đến tột cùng khi nhận ra người bố đã tìm được mình. Thế rồi, niềm vui ấy biến thành sự nghẹn ngào “nó áp sát người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió”. Phải chăng đó là sự run rẩy của một tâm hồn thơ dại mỏng manh giờ đây được bao bọc trong tình yêu to lớn của người cha của mình, vậy nên mới xúc động và nghẹn ngào tới thế? Trẻ con không cần điều gì cao sang, phú quý, điều chúng cần nhất có lẽ là tình yêu thương của cha mẹ, và Vania giờ đây đã nhận được cái điều mà nó mong mỏi nhất. Chắc có lẽ vì vậy mà nó quyến luyến người bố nuôi không rời “không sao dứt khỏi chú con trai”, rồi theo bố trên những chuyến xe chở hàng. Đến khi không được theo bố đi nữa, nó “cứ khóc suốt từ sáng cho đến tối, chiều tối chuồn ra kho thóc tìm tôi. Nó thường đợi tôi ở đó đến khuya”. Có lẽ niềm bất an trong lòng Vania còn quá lớn, khiến chú không thể yên tâm rời xa người bố của mình dù là trong giây phút, vậy mới biết, những mất mát gây ra cho con trẻ khiến chúng phải tổn thương tới nhường nào!

Sự gắn bó của Xô-cô-lốp và bé Vania là sự gắn bó, gắn kết của những con người đau khổ, mất mát vì chiến tranh. Họ đến với nhau rất mộc mạc, rất giản dị, nhưng lại rất chân thành và gắn bó. Đối với một đứa trẻ như Vania, những vết thương từ quá khứ sẽ còn hằn sâu vào trong tâm hồn thơ ngây của nó, khiến nó lo sợ, bất an và quyến luyến người bố của mình nhiều hơn bình thường, và chỉ có sự yêu thương mới khiến chúng cảm thấy an toàn hơn!

Và người ta không chỉ nhận ra những diễn biến tâm trạng thật sâu sắc ở trong tâm hồn của cha con bé Vania mà còn cả trong tâm hồn của ông bà chủ nhà nữa. Bởi khi Xô-cô-lốp dẫn bé Vania về và giới thiệu “Đây, tôi tìm được cháu Va-niu-ska của tôi rồi!” thì cả hai người dường như “lập tức hiểu ngay câu chuyện, cứ lăng xăng tíu tít”. Và rồi khi nhìn Vania nhìn Vania “ăn ngấu nghiến” món súp bắp cải, bà đã bật khóc “nước mắt ròng ròng”. Bà khóc bởi bà vừa vui mừng vừa xót thương cho số phận của hai con người ấy. Bà vui bởi cả Vania và Xô-cô-lốp tìm được một nơi nương tựa cho bản thân mình, lại vừa xót thương cho cả hai cha con, bởi số phận khổ đau của họ. Bà còn cảm phục trước tấm lòng của Xô-cô-lốp, một tấm lòng rộng lượng, nhân hậu và tràn đầy yêu thương. Thế nhưng, nhìn cha con họ, bà còn cảm thấy xót thương cho số phận của vợ chồng mình khi hai người không thể có được người con.

Đó là niềm cảm thương sâu sắc nhất của những con người đã từng trải qua đau khổ khi chứng kiến cuộc gặp gỡ của hai bố con Vania. Và đó cũng là sự đồng cảm, thương xót của tác giả dành cho những người có số phận đau thương như Xô-cô-lốp, như Vania.

Liệu trong chúng ta có ai tự hỏi rằng cuộc sống của hai bố con sau đó như thế nào không nhỉ? Cuộc sống của Xô-cô-lốp liệu đã đổi thay những gì chăng?

Và đúng là như vậy, cuộc sống của anh đổi thay rất nhiều sau khi nhận nuôi Vania. Nếu trước đây, anh chỉ phải nuôi một bản thân mình thì giờ đây, anh lại phải chăm lo cho một đứa trẻ nữa. Điều ấy ngày càng khó khăn khi mà thể chất của anh ngày càng yếu đi “quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, đến phải thay pít-tông thôi… có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Khó khăn lại càng thêm khó khăn, bởi việc chăm sóc một đứa trẻ không hề đơn giản, cái ăn, cái mặc của nó đều trên vai của Xô-cô-lốp. Thế nhưng, anh chưa bao giờ than phiền, chưa bao giờ thôi cố gắng để chú con trai của anh có được cuộc sống tốt hơn. Ấy vậy, cuộc sống cứ ngày một khốn khó hơn với cha con anh, không chỉ là những giấc mơ ám ảnh về người thân quá cố mà còn là sự mất việc, bị thu hồi bằng lái khi anh đâm phải một con bò. Người cha già ấy vẫn gắng gượng vượt qua hết thảy những nỗi đau ấy, dù nó đã từng thấm sâu vào tâm hồn anh, khiến cho anh có một vết thương lòng ghê gớm. Mỗi ngày, anh cố gắng hơn “không một tiếng thở dài, một lời than vãn” để bé Vania có được một chỗ dựa để lớn lên.

Tình yêu thương đã cho anh sức mạnh mà vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, cùng với tấm lòng nhân hậu, bản lĩnh kiên cường, lòng dũng cảm là nguồn động lực to lớn để xô-cô-lốp cố gắng từng ngày.

Xô-cô-lốp và Vania là hai đại diện tiêu biểu cho lớp những số phận con người Nga sau chiến tranh. Họ mang số phận đau thương là thế, nhưng luôn kiên cường, dũng cảm, giàu lòng yêu thương người cùng cảnh ngộ. Họ là lớp những con người Nga với vẻ đẹp tâm hồn cao cả. Đồng thời, người ta cũng thấy được ở sau đó là một thời đại bi tráng của Liên Xô trong công cuộc chống lại chủ nghĩa Phát xít.

Sô-lô-khốp đã viết lên một thiên tuyệt tác về số phận của những con người nước Nga sau chiến tranh. Ở đó, người ta thấy được những niềm cảm thông sâu sắc của ông trước những hoàn cảnh đau thương, những số phận con người cùng khổ mà chiến tranh để lại. Cũng từ số phận của họ, đặc biệt là số phận của bé Vania, ông muốn nhắc nhở mọi người về sự quan tâm, về trách nhiệm của xã hội đối với những đứa trẻ – chúng cần được quan tâm, yêu thương và trân trọng.

Về phần nghệ thuật, Sô-lô-khốp đã sử dụng một giọng văn hết sức dung dị, tự nhiên, với những từ ngữ chân thành, giàu sắc thái, tự thuật bằng lời của nhân vật. Ông cũng xây dựng lên hình tượng nhân vật người chiến sĩ Hồng quân sau chiến tranh với những nỗi đau, mất mát và sự đứng dậy mạnh mẽ của họ. Ông đã làm nổi bật lên tinh thần quật cường của những con người Nga đầy bản lĩnh với khát vọng vươn lên làm chủ cuộc đời.

Tác phẩm Số phận con người đã cho chúng ta thấy được toàn cảnh của những người lao động của nước Nga sau chiến tranh. Họ là những người Nga bình thường với vẻ đẹp tâm hồn kiên cường, giàu lòng nhân hậu, đồng thời cũng làm dậy lên một thời đại hào hùng của dân tộc Nga. Truyện ngắn này là một thành tựu xuất sắc của Sô-lô-khốp cũng như của nền văn học Nga.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 6

Nhà văn Sô-lô-khốp tên họ đầy đủ là Mi-khai-in A-lếch-xan-đrô-vích Sô-lô-khốp. Ông sinh năm 1905 tại thị trấn Vi-ô-sen-xcai-a, tỉnh Rô-xtốp thuộc vùng Sông Đông, Liên Xô (cũ). Thời trẻ, ông đã phải trải qua rất nhiều nghề lao động vất vả để kiếm sống. Vượt lên khó khăn, thử thách, Sô-lô-khốp tự học, tự đọc rất chuyên cần và bắt tay vào sáng tác với ước nguyện sẽ đưa hình ảnh quê hương, đất nước và con người thân yêu vào trong tác phẩm của mình.

Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Sô-lô-khốp gắn liền với các sự kiện lịch sử lớn lao, trọng đại trong cuộc chiến tranh vệ quốc đau thương và oanh liệt của nước Nga Xô viết chống phát xít Đức xâm lược. Với những tác phẩm nổi tiếng như tiểu thuyết Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, truyện ngắn Số phận con người… Năm 1965, Sô-lô-khốp vinh dự được nhận Giải thưởng Nô – ben về văn học và được đánh giá là một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế kỉ XX của nước Nga và thế giới.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc bằng chiến thắng vẻ vang của Hồng quân Liên Xô trong trận tiến công vào tận sào huyệt phát xít Đức ở Béc-lin. Sự mất mát, hi sinh to lớn của nước Nga Xô viết đã giúp nhân loại thoát khỏi hiểm họa phát xít đáng ghê tởm. Hòa bình lập lại, nhân dân Nga hối hả bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các chiến sĩ Hồng quân giải ngũ trở về với cuộc sống lao động bình thường. Nhưng mọi điều đều không dễ dàng.

Bao gian khổ, khó khăn trên con đường đi tới tiếp tục thử thách lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực của họ. Nhà văn Sô-lô-khốp cảm phục trước sức mạnh tinh thần của nhân dân Nga trong thời hậu chiến, trăn trở trước số phận và tương lai của con người nên đã sáng tác truyện ngắn Số phận con người. Có thể nói đây là tác phẩm hiện thực xuất sắc đầu tiên xuất hiện sau chiến tranh mà tác giả dám nhìn thẳng vào những vấn đề gai góc, nan giải của cuộc sống, của những số phận bất hạnh, để từ đó ca ngợi và tôn vinh phẩm chất kiên cường, nhân hậu của nhân dân Nga mà ông hết lòng yêu mến và trân trọng.

Nhân vật chính của truyện là Xô-cô-lốp, một chiến sĩ Hồng quân trực tiếp tham gia chiến đấu chống phát xít Đức và đã trải qua hai năm khủng khiếp trong trại tù binh của quân thù. Nhờ dũng cảm, mưu trí, anh đã bắt sống tên thiếu tá Đức, cướp xe vận tải rồi tìm cách chạy về phía quân ta. Đến lúc này anh mới biết tin vợ và hai đứa con gái nhỏ đã bị chết trong một trận máy bay Đức ném bom quê anh năm 1942. Con trai lớn của anh cũng tham gia trận tấn công vào Béc-lin và đã bị kẻ thù sát hại đúng vào ngày chiến thắng.

Số phận Xô-cô-lốp thật bất hạnh. Hòa bình rồi nhưng anh không thể trở về quê hương vì không còn ai là người thân. Anh sống phiêu bạt nay đây mai đó với cuộc sống bấp bênh và những cơn ác mộng kinh hoàng khiến trái tim anh luôn rỉ máu. Đoan trích nằm ở cuối tác phẩm, kể về chuyện Xô-cô-lốp nhận chú bé mồ côi Va-ni-a làm con nuôi. Tình yêu thương con người đã sưởi ấm trái tim anh, khiến cho anh có thêm sức mạnh vượt qua những bất hạnh của số phận và tiếp tục tin yêu cuộc sống.

Đúng như tên gọi của tác phẩm là Số phận con người, nhà văn Sô-lô-khốp dường như bám sát những diễn biến trong cuộc sống của nhân vật Xô-cô-lốp và luôn đặt anh vào những tình huống bất thường để bộc lộ tính cách. Điều bất hạnh lớn nhất mà Xô-cô-lốp phải đối đầu trong cuộc sống hòa bình là anh đã mất tất cả những người thân yêu, mất niềm hi vọng sum họp gia đình sau bao ngày chiến tranh ác liệt, luôn cận kề với cái chết. Anh không muốn trở về quê hương vì sợ không chịu nổi sự nhức nhối, day dứt do bao nhiêu kỉ niệm êm đẹp gợi lên trong tâm trí. Lang thang nơi đất khách quê người, anh chỉ còn nguồn an ủi duy nhất là vợ chồng người bạn chiến đấu cũ, nay cũng phải lăn lộn vất vả mưu sinh. Xô-cô-lốp ở nhờ nhà họ và được bạn xin cho một chân lái xe chở hàng trong đội vận tải. Công việc hằng ngày của anh là chở hàng hóa từ thành phố về các huyện.

Sự thiếu thốn về vật chất cộng với nỗi đau tinh thần không thể nguôi ngoai khiến sức khỏe của anh ngày một yếu đi. Anh chẳng có thú vui gì ngoài thói quen uống rượu : Thường cứ chạy xe xong trở về thành phố, việc đầu tiên cũng dễ hiểu thôi, là tôi vào hiệu giải khát, nhấm nháp chút gì đó và tất nhiên có uống một li rượu lừ người… Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy… Xô-cô-lốp cố dùng rượu để giải sầu nhưng nỗi sầu chẳng hề vơi mà cứ kết lại thành hình thành khối nặng trĩu trong lòng. Điều đó thể hiện tâm trạng đau đớn, bế tắc và tuyệt vọng của anh.

Ngẫu nhiên, cũng chính ở cái hiệu giải khát ấy, anh đã để ý tới chú bé mồ côi Va-ni-a : Thế rồi một hôm, tôi thấy chú bé ấy ở gần cửa hàng giải khát, hôm sau vẫn lại thấy… Cái dáng vẻ bên ngoài khốn khổ của chú bé đập vào mắt anh, khơi dậy tình cảm xót thương: …thằng bé rách bươm xơ mướp. Mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù nhưng cặp mắt – cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm. Nó vô tình khiến anh nhớ lại đứa con trai kháu khỉnh, thông minh mà anh hết lòng yêu thương và kì vọng. Anh thú nhận: Tôi thích nó, và lạ thật, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó, cố chạy xe cho nhanh để được về gặp nó.

Có lẽ sự thiếu thốn tình cảm gia đình và khao khát có được người thân bên cạnh là nguyên nhân của cảm giác ấy. Xô-cô-lốp cảm thấy ấm lòng khi nhìn thấy chú bé, nghĩ về chú bé. Lòng nhân hậu đã làm sống lại tình phụ từ thiêng liêng trong anh. Trái tim anh tưởng chừng đã bị nỗi đau đớn ghê gớm làm cho chai đá thì giờ đây lại ấm nóng và đập những nhịp rộn ràng. Nghe bé Va-ni-a thở dài, trong lòng anh trào lên nỗi xót thương vô hạn : Một con chim con non nớt như thế mà đã học thở dài ư ? Đấy đâu phải việc của nó.

Anh chủ động làm quen với chú bé tội nghiệp và qua trò chuyện, anh biết chủ bé cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc: Tôi hỏi:

– Bố cháu đâu hả Va-ni-a?

– Chết ở mặt trận.

– Thế mẹ cháu?

– Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu.

– Thế cháu từ đâu đến

– Cháu không biết, không nhớ

– Thế ở đây cháu không có ai là bà con thân thuộc à?.

– Không có ai cả.

– Thế đêm cháu ngủ ở đâu

– Bạ đâu ngủ đó

Nghe cái giọng non nớt, tội nghiệp của cậu bé, Xô-cô-lốp xúc động không sao cầm được nước mắt: Những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, và lập tức tôi quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con”. Những giọt nước mắt của Xô-cô-lốp, người chiến binh dạn dày trận mạc, vào sống ra chết trong chiến tranh có ý nghĩa nhân văn sâu xa. Nó thể hiện nỗi đau tột cùng không thể thốt nên lời; đồng thời tố cáo chiến tranh phi nghĩa và tội ác của kẻ thù gieo rắc đau thương, tang tóc cho con người và đất nước Nga thân yêu của anh.

Quyết định bất ngờ của Xô-cô-lốp bắt nguồn từ lòng nhân hậu vốn có của người Nga. Riêng đối với anh, đây là quyết định hoàn toàn đúng đắn bởi trái tim nhạy cảm của anh thấu hiểu nỗi cô độc của kẻ không gia đình, không nhà cửa, không quê hương, sống trơ trọi giữa cuộc đời gian nan và đầy bất trắc. Đoạn văn tả cảnh Xô-cô-lốp đưa chú bé lên xe và chuyện trò với nó trong buồng lái thật tự nhiên và cảm động: Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên. Tôi cúi xuống bên nó khẽ hỏi: ” Va-niu-ska, có biết ta là ai không nào ?”. Nó hỏi lại nghẹn ngào: “Thế chú là ai ?” Tôi nói lại cũng khẽ như thế: “Ta là bố của con!”. Trời ơi! Thật không thể tưởng tượng được. Nó nhảy chồm lên cổ tôi rồi hôn vào má, vào môi, vào trán và như con chim chích, nó ríu rít líu lo vang rộn cả buồng lái: “Bố yêu của con ơi! Con biết mà! Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà! Thế nào cũng tìm thấy mà! Con chờ mãi mong được gặp bố”. Nó áp sát vào người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió. Còn mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy… Lòng yêu thương quả là có sức mạnh diệu kì làm tái sinh, thay đổi hẳn con người, đem lại niềm vui sống.

Tâm hồn Xô-cô-lốp và Va-ni-a đều đang khao khát được sưởi ấm, được yêu thương, chia sẻ. Dường như có một sự sắp đặt kì diệu nào đó đưa đẩy hai con người bất hạnh đến với nhau. Va-ni-a tin rằng người đàn ông với thái độ cử chỉ đầy bao dung, che chở này chính là bố đẻ của mình. Còn Xô-cô-lốp thực lòng yêu thương và chăm sóc chú bé Va-ni-a như con đẻ. Anh thương xót, lo lắng cho chú bé với tất cả sự quan tâm và trách nhiệm của một người cha. Anh tắm rửa cho chú bé sạch sẽ, đặt lên giường ngủ rồi chạy vội ra cửa hàng tạp hóa mua quần áo, mũ và dép cho con trai mới. Xô-cô-lốp làm tất cà những việc đó với niềm vui khó tả. Những dòng nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật Xô-cô-lốp trong đêm đầu tiên ngủ cùng chú bé Va-ni-a thật tinh tế và làm thổn thức trái tim người đọc: Tôi ngủ chung với nó, và lần đầu tiên, sao bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Nhưng trong đêm cũng phải dậy đến vài bốn bận. Tôi thức giấc, thấy nó rúc vào nách tôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết! Tôi không dám trở mình để nó khỏi thức giấc, nhưng rồi không nén được, tôi nhẹ nhàng ngồi dậy đánh diêm ngắm nhìn nó ngủ…

Xô-cô-lốp không giấu sự vất vả, khó khăn trong những ngày đầu nhận nuôi chú bé Va-ni-a. Nó đòi hỏi ở anh lòng kiên nhẫn, đức vị tha, tình yêu thương cùng trách nhiệm của người cha, người mẹ: Thời gian đầu, nó còn theo tôi trong các chuyến xe, nhưng rồi tôi hiểu ra rằng như thế không có lợi. Chỉ một mình tôi thì có cần gì đâu? Một mẩu bánh mì, một củ hành với tí muối, thế là đủ cho một ngày của đời lính. Nhưng thêm nó thì khác: Khi thì phải mua sữa cho nó, khi thì phải luộc quả trứng, không có thức ăn nóng cho nó là không xong… Tuy nhiên, chú bé Va-ni-a dễ thương gợi cho Xô-cô-lốp nhớ tới đứa con trai mà anh yêu quý và điều đó đã bù đắp cho anh tất cả.

Điều quan trọng hơn là Xô-cô-lốp luôn cố gắng tạo ra cho chú bé mồ côi một niềm vui, một nguồn an ủi và tin tưởng vào anh – người mà nó tưởng là bố. Cho nên mỗi khi bất ngờ chú bẻ hỏi anh về một thứ gì đó như cái áo bành tô bằng da mà trước đây bố nó hay mặc thì anh phải tìm cách trả lời sao cho êm xuôi để Va-ni-a không nghi ngờ. Anh không muốn làm tổn thương trái tim non nớt của chú bé tội nghiệp. Đó cũng là biểu hiện rất tự nhiên của tấm lòng nhân hậu.

Cuộc đời của hai bố con Xô-cô-lốp tưởng chừng cứ thế trôi qua trong yên bình, nhưng số phận bất hạnh chưa buông tha anh. Đến tháng mười một thì Xô-cô-lốp gặp chuyện rủi ro: Xe anh đụng phải chân một con bò đi ngang đường. Con bò chẳng làm sao nhưng người chủ của nó vẫn làm ầm ĩ nên Xô-cô-lốp bị nhân viên kiểm soát giao thông thu hồi bằng lái. Anh mất việc, phải đi làm thợ mộc kiếm sống qua ngày. Một người bạn cũ ở Ka-ra-sư hứa sẽ xin việc cho anh trong thời gian chờ cấp bằng lái xe mới. Thế là bố con anh lại lên đường.

Hành trình của Xô-cô-lốp thật gian nan: anh phải đi bộ rất xa, từ vùng này sang vùng khác. Song anh không nản chí. Chú bé Va-ni-a lúc khỏe thì chạy tung tăng bên bố, lúc mỏi chân thì được bố cõng trên lưng hoặc cho ngồi lên vai, cứ như thế suốt hàng trăm dặm đường. Những lời tâm sự chân thành của Xô-cô-lốp khiến chúng ta hiểu sâu hơn về tính cách đáng quý và càng thêm cảm phục anh: …tất cả những điều ấy cũng chẳng sao, miễn là bố con chúng tôi sống được; nhưng mà quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, đến phải thay pít-tông thôi… Có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi. Tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn làm cho con trai tôi phải khiếp sợ.

Lại còn thêm một nỗi khổ này nữa: hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân đã quá cố. Và lúc nào cũng thế, tôi ở bên này, sau hàng rào dây thép gai, còn vợ con thì tự do ở bên kia… Tôi nói đủ chuyện với I-ri-na, với các con nhưng chỉ vừa mới toan lấy tay đẩy dây thép gai ra thì vợ con lại rời bỏ tôi, cứ như là vụt tan biến mất… Và đây là một điều rất kì lạ: ban ngày bao giờ tôi cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt. Những giọt nước mắt nóng hổi và mặn chát đau thương của Xô-cô-lốp quả đã làm rung động, thổn thức trái tim người đọc.

Kết thúc truyện ngắn Số phận con người là hình ảnh: Chú bẻ chạy tới, đứng bên phải bố, túm lấy vạt áo bông của bố, chạy lon ton cho kịp bước sải dài của người lớn. Hình ảnh ấy khơi dậy trong lòng tác giả một cảm xúc khó tả, một suy ngẫm sâu xa: Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ… Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước ? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chủ bé kia một khi lởn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.

Tình cảm chân thành và sự thấu hiểu đến mức hóa thân vào nhân vật của nhà vốn Sô-lô-khốp đã tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Vì thế nên tuy hình thức là một truyện ngắn nhưng nội dung ý nghĩa của nó lại mang tầm cỡ của một sử thi. Với truyện ngắn nổi tiếng này, Sô-lô-khốp một lần nữa khám phá và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của người Nga: dũng cảm, hào hiệp và nhân hậu, vị tha. Đồng thời khẳng định: Sức mạnh của lòng nhân ái giúp con người vượt lên số phận bất hạnh để sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa và tốt đẹp hơn.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 7

Nhà văn Sô lô Khốp (1905 – 1984), ông là một nhà văn Xô Viết lỗi lạc, vinh dự hơn khi ông được nhận giải thưởng Nô-Ben về văn học năm 1965. Đồng thời ông được liệt vào danh sách những nhà văn lớn. Tác phẩm của ông để lại gồm những tập truyện, tiểu thuyết lớn và tiêu biểu trong số đó có tác phẩm số phận con người. Qua tác phẩm ấy, ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh. Từ khi ra đời có trên mặt báo Sự Thật cho đến nay, tác phẩm vẫn còn nguyên những giá trị ý nghĩa của mình.

Nhân vật chính trong truyện chính là nhân vật Xô cô lốp. Anh là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh không còn gì cả, người thân, nhà cửa, bạn bè không còn ai hết. Đối với anh mà nói, một lòng chiến đấu vì quê hương đất nước, cũng chính là bảo vệ người thân của mình, vậy mà giờ đây những người thân yêu của anh đều từ bỏ anh mà đi, bom đạn kia đã cướp họ khỏi anh.

Chính vì thế mà anh phải sống một cuộc sống đau khổ. Trong chiến đấu anh cũng phải chịu những bất hạnh đó, là hai lần anh bị thương và tiếp tục bị đày đọa hai năm trong trại tập trung của phát xít Nhật. Vợ và hai người con gái của anh bị bom phát xít cướp đi tính mạng. Anh chỉ còn niềm hi vọng vào người con trai cả là A-na-tô-li thì anh ấy cũng bị chết trận năm 1945.

Như vậy có thể thấy số phận của anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những khổ cực về thể xác rồi, mà đến khi chiến tranh kết thúc, mọi nhà sống trong độc lập thì với anh lại là niềm đau khổ về tinh thần, vì những người thân yêu của anh đều bị chiến tranh cướp đi mất rồi. Anh tuyệt vọng trước những đau khổ của cuộc đời. Từ đó ta thấy được hậu quả của chiến tranh để lại thật sự rất đau lòng.

Sau chiến tranh anh không còn nhà cửa, không còn người thân, cho nên anh phải ở nhờ một người đồng chí cũ. Anh phải tìm đến rượu để dịu bớt nỗi đau của mình. Tóm lại sau chiến tranh anh phải sống một cảnh sống cô đơn và bế tắc. Và trong một lần tình cờ hay do duyên trời run rủi cho anh gặp bé Va ni a. Nhà văn miêu tả ngoại hình của chú bé bằng những lời văn chân thực nhất, để từ đó thấy được hậu quả kinh khủng của chiến tranh để lại. Chú bé khoảng năm đến sáu tuổi. Chú hiện lên trong bộ dạng quần áo rách bươm xơ mướp, mặt mũi thì bê bết lem luốc… duy nhất chỉ có cặp mắt là sáng ngời. Cậu bé ấy cũng có một hoàn cảnh vô cùng thương tâm.

Cả cha và mẹ của cậu bé đều chết trong chiến tranh. Cùng có người thân bị mất, nhưng ít ra Xô cô lốp còn có sức mà lao động, còn cậu bé kia làm sao có thể lao động được. Cậu còn quá nhỏ. Cậu sống vạ vật, ai cho gì ăn nấy, bạ đâu ngủ đấy. Và duyên phận như cho họ gặp nhau, để bù đắp cho nhau những tình thương mà mình đã mất đi. Xô cô lốp cảm thương tình cảnh của Va ni a cho nên anh quyết định nhận cậu làm con nuôi. Cả hai người chủ nhà của Xô cô lốp cũng đồng tình với hành động nhân ái ấy. Và anh như quên đi mọi đau khổ, mà dành cho bé Va ni a những tình thương sự tận tình chu đáo. Anh mua quần áo cho cậu bé, một chiếc áo bành tô rất đẹp. Chính lòng nhân ái đã đem hai trái tim gần nhau sưởi ấm cho nhau.

Thế rồi anh cố gắng kiếm sống để nuôi bé Va ni a, nhưng cuộc sống hay số phận anh khổ đau. Anh vượt lên những nỗi đau, xe anh quệt nhẹ người ta mà anh bị tước bằng lái, anh mất việc nên phải đi lang bạt kiếm sống. Đã thế sức khỏe của anh cũng giảm đi trông thấy. Anh đau đến khóc, thế nhưng anh vẫn cố gắng không để cho bé Va ni a biết. Trước mặt cậu anh vẫn tỏ ra bình thường. Dường như nhà văn đang nhìn anh với một ánh mắt nhân đạo, anh đã không để cho bé Va ni a phải khóc, điều đó thể hiện một sự hi sinh của người cha.

Đến đoạn cuối tác phẩm, thì nhà văn như thể hiện sự đồng cảm thương xót của mình với nhân vật. Tác giả không thể nào giấu được những cảm xúc của bản thân mình, trước những tình cảnh cũng như tình cảm của hai cha con mà thốt lên: “Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…” Hai người côi cút, đã tìm đến nhau chia sẻ cho nhau những niềm yêu thương trong cuộc sống. Đoạn văn thể hiện sự khâm phục, những tính cách con người Nga kiên cường trước những khó khăn của cuộc sống. Trong hoàn cảnh đói nghèo đau khổ, nhưng vẫn trao cho nhau những tình yêu thương nhân ái để chạm tay đến hạnh phúc.

Như vậy, có thể nói, qua đây ta thấy được số phận con người sau chiến tranh đau khổ như thế nào. Người lính đã trải qua những khó khăn trên chiến trường, rồi tưởng rằng chiến tranh kết thúc sẽ được đoàn tụ, thì người thân cũng bị chiến tranh cướp đi. Xô cô lốp cùng bé Va ni a chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Đồng thời qua tác phẩm này nhà văn kêu gọi mọi người nên có trách nhiệm với số phận của những con người như thế.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 8

Mi-khai-in Sô-lô-khốp (1905 – 1984), nhà văn Nga được Giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965 và được coi là một trong số các nhà văn lớn nhất thế giới thế kỉ XX. Sức mạnh nghệ thuật của tác phẩm Sô-lô-khốp tập trung ở chỗ: ông đã trình bày những sự thật vĩ đại, hoành tráng mà cũng đầy khắc nghiệt và cay đắng của cuộc cách mạng vô sản, của cuộc chiến tranh giữ nước, của cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô viết. Chính sự thật đó đã chinh phục hàng triệu độc giả vì nó được viết ra với mục đích cao cả: “Nói với con người sự thật, đôi khi khắc nghiệt, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người niềm tin ở tương lai… Tôi mong muốn tác phẩm của mình giúp cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tính tình yêu đối với con người, khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người” (Lời phát biểu trong lễ trao Giải Nô-ben, năm 1965).

Truyện ngắn Số phận con người (1957) chứa dựng tầm khái quát sử thi với dung lượng hiện thực và tư tưởng sâu rộng, lớn lao, kết tinh những dồn nén, suy tư của nhà văn về chiến tranh, về số phận và sức mạnh tinh thần của con người, về tính cách Nga. Tác phẩm là câu chuyện về một con người bị số phận khắc nghiệt nhấn xuống chìm nghỉm đã kiên cường đứng vững bằng tình yêu thương và lòng dũng cảm, đã gieo vào lòng người đọc niềm tin, hi vọng vào con người, vào cuộc sống sau bao đau thương, mất mát trong chiến tranh. Với nghệ thuật kể chuyện giản dị, ngắn gọn mà chứa đựng một chiều sâu hiện thực và tâm lí nhân vật, truyện ngắn đã tác động mạnh mẽ, sâu xa, đầy cảm động tới trí tuệ và trái tim người đọc.

Cuộc đời nhân vật An-đrây Xô-cô-lốp phản chiếu một trang sử hào hùng, bất khuất mà cũng thấm đẫm nước mắt của đất nước và con người Xô viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống phát xít Đức. Số phận bình thường của anh không tách rời số phận lịch sử của đất nước và nhân dân với tất cả hào quang chiến thắng và gánh nặng của thương đau. Đoạn trích kể về đoạn đời sau chiến tranh của Xô-cô-lốp. Hoàn toàn trơ trọi trên cõi đời, tại một thành phố xa lạ, Xô-cô-lốp gặp bé Va-ni-a cũng lang thang, cô độc như chính mình. Tình thương trỗi dậy, Xô-cô-lốp nhận cậu bé làm con nuôi và dồn sức lo lắng trông nom em.

Số phận, là từ chỉ phần hoạ phúc, sướng khổ, thường là hoạ nhiều hơn phúc, dành riêng cho cuộc đời mỗi người ngoài ý muốn của họ. Chiến tranh đã tạo nên bao số phận bất hạnh, khổ đau. Chiến tranh nổ ra, Xô-cô-lốp từ biệt vợ con ra trận. Sau một năm chiến đấu và bị thương, anh bị bắt làm tù binh. Trải bao khổ cực trong tù, Xô-cô-lốp vẫn giữ vững khí phách anh hùng của người lính Xô viết. Gặp dịp may được lái xe cho bọn Đức, anh trốn thoát, về hậu phương, anh mới biết tin vợ và hai con đã chết vì bom từ hai năm trước. Con trai lớn của anh cũng là một chiến sĩ Hồng quân, nhưng đã hi sinh đúng ngày chiến thắng trên đất Đức. Chắc chắn số phận buồn đau không chi lựa chọn một mình Xô-cô-lốp mà còn vùi dập bao người. Chiến tranh đã tước đoạt tất cả những gì quý giá nhất của họ: quê hương, gia đình, tình thương yêu, niềm hi vọng. Hết chiến tranh, trước mặt họ là khoảng không trống rỗng, khủng khiếp: không nhà cửa, không vợ con, không niềm hi vọng. Từng bị hành hạ vô cùng dã man trong lao tù của phát xít Đức, Xô-cô-lốp vẫn kiên cường đứng vững.

Nhưng giờ đây, chạm mặt với sự thật tàn nhẫn nhất: chôn trên đất người, đất Đức niềm vui sướng và hi vọng cuối cùng, tinh thần và thể chất dường như đổ sụp, anh trở nên như người mất hồn, trong anh như có cái gì vỡ tung ra. Dường như anh đã phải uống trọn nỗi đau cùng cực của kiếp người. Xô-cô-lốp không dám về thành phố quê hương, Vô-rô-nhe-giơ. Có lẽ nơi ấy giữ quá nhiều kỉ niệm êm đềm về gia đình, vợ con, mà bây giờ anh không dám đối mặt. Anh gần trở thành kẻ lang thang, ăn nhờ ở đậu, chìm vào rượu để trốn chạy quá khứ, tiêu sầu trong hiện tại. Nỗi buồn đau, mất mát in đậm trên gương mặt anh (cặp mắt nguội lạnh lúc nào cũng buồn thê thảm khiến người khác không dám nhìn thẳng vào), vò xé trái tim anh (trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ), tàn phá sức khoẻ anh (quả tim tôi đã rệu rã lắm rồi… có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn…).

Chiến tranh không chỉ nhấn chìm con người dày dạn, kiên cường như Xô-cô-lốp mà ngay cả bé Va-ni-a thơ ngây mới bốn, năm tuổi, cũng vì chiến tranh (bố chết ở mặt trận, mẹ chết bom) mà trơ trọi, đói khát, lang thang (ai cho gì ăn nấy, bạ đâu ngủ đấy, quần áo rách bươm như xơ mướp, bẩn như ma lem). Dù đang tuổi thơ dại nhưng chú bé cũng ý thức được nỗi bất hạnh của mình qua thái độ, đôi lúc lặng thinh, tư lự và những tiếng thở dài như khỉa vào tim Xô-cô-lốp.

Chiến tranh đã qua đi nhưng số phận vẫn tàn nhẫn với Xô-cô-lốp. Tâm hồn anh vẫn luôn bị giày vò bởi những kí ức ngày hôm qua. Cứ tưởng những gì yêu quý nhất đã mãi mãi mất đi là nỗi khổ đau nhất, vậy mà kí ức về nó lại là những vết thương nhức nhối, không ngừng rỉ máu trong hiện tại. Xô-cô-lốp nhiều đêm không ngủ : hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân quá cố. Trong giấc chiêm bao của hiện tại, cũng như ngày xưa trong nhà tù phát xít, anh luôn mơ thấy mình trò chuyện với vợ con qua hàng rào dây thép gai. Cái hàng rào như ranh giới vĩnh viễn ngãn cách hai cõi đời tự do và tù đày, sống và chết, tồn tại và hư vô, mà trước đây cũng như bây giờ anh khống bao giờ vượt qua được.

Và điều rất kì lạ này, chính Xô-cô-lôp cùng phải thú nhận là kì lạ : ban ngày bao giờ anh cũng trăn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt dẫm nước mắt. Ta bàng hoàng vì những lời thú nhận đau đớn, về những giọt nước mắt cứa con người từng trải và dày dặn như Xô-cô-lôp. Thời gian không thể chữa lành vết thương trong trái tim anh. Ban ngày, nhờ nghị lực và lòng dũng cảm, Xô-cô-lôp vẫn giữ được bình tĩnh. Còn những giọt nước mắt âm thầm, vô thức chảy trong đêm diễn tả nỗi dau lẩn sâu vào từng nếp gấp của trái tim anh, trái tim mang những buổn thương mà ý chí cũng không sao xoá mờ, không tài nào kiểm soát nổi. Có nghĩa là, quá khứ không hé mất đi mà trở thành nỗi dớn dau mãi mãi làm nhức nhối tâm hồn Xô-cô-lốp.

Đâu chỉ mình Xô-cô-lốp đã từng khắc khoải chờ mong ngày hội ngộ với gia đình. Va-ni-a bé bỏng cũng thổ lộ với bố Xô-cô-lốp: Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà ! Thế nào cũng tim thấy mà ! Con chờ mãi mong được gặp bố ! Dù biết bố đã hi sinh ở mặt trận, nhưng Va-ni-a vẫn mãi mãi trông ngày gặp bố. Và đâu chỉ mình Xô-cô-lốp bị quá khứ ám ảnh, giày vò, kí ức thơ dại của Va-ni-a cũng đôi lúc trở về, thỉnh thoáng lại vụt sáng như quầng sáng mùa hạ, soi sáng tất cá trong chốc lát rồi vụt tát. Điều đó bộc lộ bằng những câu hỏi bất ngờ của Va-ni-a: Bố ơi, cái áo bành tô bằng da của bố đâu rồi?… Thế tại sao bố lại tìm con lâu thế?,… Điều đó khiến Xô-cô-lốp lo ngại, bới những kí ức ấy rất có thể sẽ lại là những vết thương, một ám ảnh buồn đau sống mãi trong tám hồn Va-ni-a nếu em nhớ lại sự thực và ý thức được chính xác thân phận mình.

Những niềm đau kí ức như thế mãi mãi còn loé sáng, làm đau đớn đời sống tinh thần hiện tại. Những hi sinh, mất mát do chiến tranh đem tới rõ ràng không thể chỉ tính trên phương diện vật chất mà phải đo bằng những vết thương mãi nhức nhối trong tâm hồn những người đi qua chiến tranh, kể cả trẻ thơ ! Nỗi buồn đau buộc hai bố con Xô-cô-lốp cuốc bộ khắp nước Nga: Nổi đau buồn không cho tôi ở lâu mãi một chỗ được. Họ lại trở thành kẻ lang thang ngay trên chính quê hương mình ! Xô-cô-lốp vẫn hi vọng một lúc nào đó, lòng anh nguôi bớt nỗi buồn. Nhưng có lẽ điều ấy mãi mãi vẫn chỉ là hi vọng.

Cỏ thể nói, đây là cái giá đăt nhất của chiến thắng: những đau khổ tột cùng do chiến tranh đem lại. Lên án chiến tranh, nhìn thẳng vào hi sinh, mất mát bên cạnh việc ngợi ca khí phách anh hùng của nhân dân xô viết là một cách nhìn mới về chiến tranh của Sô-lô-khôp. Đất nước Xô viết đã mất hai mươi triệu người trong cuộc chiến tranh này mà nỗi đau mênh mông ấy ở đây mới chỉ được tỏ bày qua hai số phận!

Trước nỗi đau số phận ấy, Xô-cô-lốp tìm đến lãng quên bằng rượu. Anh bắt đầu có thói quen vào quán làm một li rượu sau một ngày lao động cật lực: Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy. Lời tâm sự bộc lộ sự bế tắc và tuyệt vọng. Biết là nguy hại mà Xô-cô-lốp vẫn cứ lao vào. Dường như anh đã không thê tránh được lối mòn tự huỷ hoại được báo trước ấy. Nhưng khi gặp Va-ni-a, một số phận còn đáng thương hơn (bởi mới có bốn, năm tuổi mà em đã thành kẻ bơ vơ, trơ trọi bên lề cuộc đời) thì tình cảm và trách nhiệm của một người cha, tình thương mến trẻ thơ – một tình cảm bản năng của mọi tấm lòng trung hậu, đã thức dậy trong Xô-cô-lốp. Trái tim tưởng chừng hoàn toàn tan nát, chai sạn vì đau khổ của anh lại đập lại những nhịp đập xúc động, cảm thông, lại chứa chan tình thương yêu, niềm trắc ẩn.

Hình ảnh thằng bé mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù nhưng cặp mất cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm, làm anh thấy thích, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó. Cái nhìn thương mến trẻ thơ một cách tự nhiên, bột phát, bộc lộ qua cách anh vui vẻ làm quen với Va-ni-a, rủ chú bé đi ăn trưa với những lời lẽ giản dị. Nhạy cảm với nỗi đau trong trái tim bé bỏng cũa Va-ni-a, Xô-cô-lốp quyết định: Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được.

Điều đó có nghĩa là anh cũng tự ý thức rằng mình đang chìm nghịm với nỗi đau của mình bên cạnh một cuộc đời bất hạnh khác. Quyết định nhân ái đó đã thực sự nâng đỡ đời anh: Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng. Nhẹ nhõm và bừng sáng, những từ ấy không chỉ diễn tả phút giây hiện tại mà còn bộc lộ cả một thực trạng trước đó của hồn anh: u uất, tối sầm, nặng trĩu buồn đau. Tâm hồn anh trở nên nhẹ nhõm bới anh đã tìm được lẽ sống của mình: thương yêu, đùm bọc kẻ bất hạnh khác là liều thuốc giúp khuây khoả nỗi khổ của mình.

Niềm vui bất ngờ của tình cảm cha con không chỉ thổi luồng gió mới vào tâm hồn bé thơ của Va-ni-a, khiến cậu bé nhảy chồm chồm lên, ríu rít, líu lo vang rộn như con chim chích mà còn làm hồi sinh trái tim đã chai cứng vì đớn đau của Xô-cô-lốp: mắt mờ đi, hai tay lẩy bẩy, tôi thấy lòng vui không tài nào tả xiết, trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Sức mạnh của tình thương đã sưởi ấm số phận của hai con người côi cút, hai hạt cát cô đơn bị bão tố chiến tranh thổi bạt.

Tình thương Va-ni-a đã cứu vớt linh hồn Xô-cô-lốp, giúp anh trở về với cuộc sống bình thường. Khi cậu bé hồn nhiên, tin cậy gọi anh là bố, quấn quýt lấy anh không rời và rúc vào nách anh như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, thì lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm anh mới được ngủ một giấc yên lành. Có Va-ni-a, anh đã lấy được phần nào bóng dáng cuộc sống gia đình: có trẻ thơ, trách nhiệm, niềm hi vọng, những gì tưởng đã mất hết trong chiến tranh. Một sinh linh bé bỏng ngây thơ là Va-ni-a lại là chỗ dựa tinh thần cho con người dày dạn, kiên cường như Xô-cô-lốp. Quả là một nghịch lí, nhưng cuộc đời có biết bao điều kì lạ như vậy!

Nhận Va-ni-a làm con nuôi, Xô-cô-lốp tự nguyện gánh lấy những trách nhiệm nặng nề: săn sóc cái ăn, cái mặc, giấc ngủ, rồi mai đây còn việc học hành,… Những lo toan tỉ mỉ mà bàn tay đàn ông không thành thạo. Nhưng chính sự chăm sóc vụng về ấy (mua quần dạ giữa mùa hè, chỉ cho con ăn bánh mì và trứng,…) làm ta cảm động vì ẩn đằng sau đó là một tình thương chân thành, mộc mạc, gốc rễ của một tấm lòng nhân hậu sâu xa.

Nhưng điều khó khăn nhất đối với Xô-cô-lốp là gắng sao không làm tổn thương đến trái tim bé bỏng của Va-ni-a bằng cách giấu đi những sự thật về cuộc đời cậu bé và của chính mình. Sự thật ấy, khi lớn lên em sẽ biết, nhưng bây giờ em cần sống một cách hồn nhiên, không bị quá khứ ám ảnh. Xô-cô-lốp phải giấu đi những giọt nước mắt đàn ông nóng bỏng, hiếm hoi, những giọt nước mắt của con người bạc đầu vì chiến tranh để sống và nuôi nấng Va-ni-a. Nhờ nghị lực và trách nhiệm ấy, anh đã vượt lên những khúc mắc của đời sống hàng ngày, coi những rắc rối (như bị tước bằng lái xe một cách oan uổng) cũng chỉ là những điều vặt vãnh, không đáng bận tàm.

Hai số phận đau khổ dựa vào nhau, nâng đỡ nhau: Va-ni-a bé bỏng cần có bàn tay cứng cáp của Xô-cô-lốp cưu mang, chở che; còn Xô-cô-lốp, tình thương và trách nhiệm khiến anh bình tĩnh lại, cố đứng thẳng dậy, vươn mình vượt qua số phận, để trong anh thức dậy một niềm hi vọng lớn: làm việc và chờ đợi một ngày cháu Va-niu-ska lớn lên. Ẩn sâu trong con người Xô-cô-lốp là một tính cách Nga khiêm nhường mà quảng đại, dũng cảm mà nhân ái. Các hành vi của Xô-cô-lốp, từ lúc ở chiến trường, ở trại tù binh và trong hiện tại đều được chi phối bởi quan niệm đúng đắn về phẩm giá và trách nhiệm con người. Xô-cô-lốp từng khẳng định: anh là thằng đàn ông, anh là thằng lính chính là để chịu đựng hết mọi thứ, gánh vác hết mọi thứ khi cần thiết. Điều đó giúp anh ứng xử trong mọi trường hợp như một con người chân chính. Cuộc sống lao động, ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân, đồng đội đã giúp Xô-cô-lốp, dù chỉ là một người Nga bình thường, giản dị nhưng vẫn mang dáng vóc cao cả. Tinh thần dũng cảm và lòng nhân hậu, hai nét đặc biệt ấy đã giúp Xô-cô-lốp vượt qua thứ thách của số phận.

Hình ảnh cuối cùng của cha con Xô-cồ-lốp, một già, một trẻ, một dày dạn, một thơ ngây, cầm tay nhau đi trên con đường vạn dặm mà chưa biết đâu là bến đỗ cuối cùng, đã khiến trái tim nhạy cảm trước nỗi đau đồng loại của tác giả bị bóp nghẹt vì đau đớn, vì thương cảm cho cả hai số phận, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ. Bất chấp số phận khắc nghiệt, họ sẽ dựa vào nhau để sống. Có thể nói, con đường đời của Xô-cô-lốp là hình ảnh nhân dân Nga bất chấp đau thương của chiến tranh, quyết vươn lên để tồn tại và phát triển.

Trong truyện có hai người kể chuyện: người kể – nhân vật và người kể – tác giả. Sự luân phiên và bổ sung điểm nhìn trần thuật của hai nhân vật này giúp cho chất trữ tình nhân vật và chất trữ tình tác giả hoà quyện, làm tăng sức hấp dẫn của thiên truyện và niềm cảm thông của người đọc trước số phận con người. Với những lời lẽ giản dị, chân thành, người kể – nhân vật (Xô-cô-lốp) đã bộc lộ một tâm hồn đau khổ nhưng đầy cương nghị, dũng cảm. Trong lời tâm sự, anh vừa nói với người nghe, vừa nói với chính mình, vừa thuật kể, vừa tự phân tích những cảm giác của mình : Về đâu bây giờ? Chã nhẽ lại về Vô-rô-ne-giơ?

Không được! Tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết,… Anh chùn thành thú nhận những điều không phải ai cũng dễ bộc lộ: những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, ban đêm thức giấc thì gối ướt đấm nước mắt. Quá khứ và hiện tại đan cài trong những lời tâm sự. Đặc biệt, chính những sự thật về cuộc đời, về trạng thái tâm hồn, về những nghĩ suy và tình cảm được miêu tả qua lời kể, lời phân trần, bộc bạch của Xô-cô-lốp lại có sức lôi cuốn mạnh mẽ, sâu xa. Chất trữ tình man mác, sâu lắng bao trùm câu chuyện kể.

Còn lời kể của tác giả? Ở đây chất trữ tình, tính chính luận hoà quyện làm lời văn tràn đầy âm hưởng bi tráng và mãnh liệt. Tác giả nồng nhiệt lên án chiến tranh, bày tỏ niềm cảm thương với hai số phận, bình luận vể ý chí dũng cảm và lòng nhân hậu của tính cách Nga. Lời trữ tình ngoại đê cuối tác phẩm là những lời văn mạnh mẽ mà lắng đọng suy tư, chứa chan niềm tin và hi vọng vào sức mạnh tinh thần của con người. Lúc phia tay, tác giả nhìn theo hai cha con Xô-cô-lốp và bày tỏ nồng nhiệt một niềm tin mãnh liệt vào tính cách Nga. Ông hi vọng rằng, lớn lên bên con người kiên cường, nhân hậu như Xô-cô-lốp, chú bé mồ côi Va-ni-a sẽ sống xứng đáng như một con người, có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.

Truyện ngắn Số phận con người, còn được gọi là truyện ngắn – sử thi hay tiểu anh hùng ca, mang sức khái quát hiện thực lớn lao ; bởi thông qua số phận một con người, một thời đại của đất nước Xô viết được tái hiện. Câu chuyện về số phận một con người được lí giải trong mối quan hệ với số phận lịch sử của nhân dân Xô viết với hai chủ đề xuyên thấm : anh hùng và bi kịch. Cuộc đời bình thường của một người lính, những gian khổ và đau buồn trong chiến tranh đã là âm hướng về ý chí anh hùng, lòng dũng cảm, sức chịu đựng và sức mạnh tinh thần ghê gớm của con người Nga.

Số phận con người chứa đựng một nội dung sâu sắc về triết học và thẩm mĩ. Đó là nội dung mang ý nghĩa nhân loại : sức mạnh tinh thần có khả năng cứu vớt con người và nhờ nó con người có thể vuợt qua sự tàn phá, huỷ diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành. Đó là hình ảnh con người vừa mang cá tính sinh động, vừa kết tinh những phẩm chất tốt đẹp nhất của cộng đồng. Hình tượng Xô-cô-lốp, do đó trở thành biểu tượng cho số phận và vẻ đẹp tinh thần của con người qua những cơn bão táp lịch sử của thế kỷ XX.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 9

Sô lô khốp được biết đến là một nhà văn Xô viết lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nobel về văn học vào năm 1965. Ông đã có nhiều tác phẩm hay và nổi tiếng để lại bao gồm truyện, tiểu thuyết và đặc biệt hơn nữa là tác phẩm xuất sắc viết về “số phận con người”. Và thông qua tác phẩm này chúng ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh.

Nhân vật chính trong truyện được biết đến là nhân vật Xô-cô-lốp. Và anh ta được xây dựng lên là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trong khi trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh mất hết tất cả từ người thân, nhà cửa và cả bạn bè nữa. Đối với Xô-cô-lốp thì có thể nói thì anh chiến đấu vì gia đình, vì quê hương đất nước nhưng khi hòa bình đã được lập lại thì mọi thứ đã bỏ anh mà đi thì không còn gì nữa cả. Anh dường như đã phải sống trong một cuộc sống đau khổ, kể cả khi chiến đấu, anh bị thương rất nhiều. Có cả vợ và hai người con của anh cũng bị bom của phát xít cướp đi tính mạng của mình. Và lúc này Xô-cô-lốp chỉ còn biết hi vọng và trông chờ vào người anh trai nhưng rồi cuối cùng anh ấy cũng đã chết trận.

Như vậy, thông qua đây chúng ta như đã có thể thấy được rằng số phận anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những giày vò thật tủi cực về thể xác lẫn tinh thần. Sau đó khi trở giờ về thì lại phải nếm trải niềm đau khổ về tinh thần tụt độ bởi người thân yêu duy nhất của mình cũng không còn nữa. Từ đó chúng ta có thể thấy được những hậu quả mà chiến tranh đã để lại là quá lớn lao, quá đắng cay và thật đáng thương cho Xô-cô-lốp.

Sau chiến tranh, anh cứ ngỡ được sống trong hạnh phúc, nhưng không, Xô-cô-lốp phải sống trong bế tắc và tuyệt vọng. Không hề có một mái nhà che nắng che mưa mà anh phải sống nhờ nhà một người bạn. Và để rồi cho tới khi anh tình cờ gặp được cậu bé có tên Va-ni-a. Nhà văn đã miêu tả thật ám ảnh về ngoại hình của cậu bé bằng những lời văn hết sức chân thật. Hiện lên đó là một cậu bé tầm 5 tới 6 tuổi ăn mặc rách rưới, cả cha và mẹ của cậu bé đều đã chết trong chiến tranh, ít ra Sô-lô-khốp còn có thể lao động được còn cậu bé thì lại không có ai, ai cho ăn gì thì cậu bé ăn nấy và bạ đâu ngủ đấy. Duyên phận dường như đã đưa đẩy cho họ gặp nhau như để bù đặp cho nhau những thiếu sót của cuộc đời đầy giông bão này vậy.

Xô-cô-lốp đã nhận nuôi bé Va-ni-a, anh còn chăm sóc tận tình chu đáo, anh còn mua quần áo cho cậu bé, là một chiếc áo bành tô rất đẹp. Có thể nói rằng chính lòng nhân ái đó đã đem hai trái tim đó như đã xích lại với nhau như để sưởi ấm cho nhau vậy. Anh luôn luôn cố gắng làm mọi việc để nuôi bé Va-ni-a, nhưng trớ trêu thay cuộc sống không giống như những gì mình nghĩ, anh vượt qua mọi nỗi đau, xe anh quệt nhẹ vào người ta và cuối cùng bị mất bằng lái và không được lái xe. Nghề mưu sinh của anh cũng đã không còn cho nên anh phải đi khắp nơi, đã thế sức khỏe anh lại yếu đi trông thấy, anh đau đến mức khóc nhưng anh lại không để cho bé Va-ni-a biết được điều này. Thông qua điều này chúng ta dường như nhận thấy tác giả có một tấm lòng nhân đạo cao cả.

Đến đoạn cuối của tác phẩm đầy tình thương yêu và biết bao sự nghiệt ngã này thì nhà văn đã thể hiện sự thương xót của mình đối với nhân vật. Đó chính là “Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…”. Đoạn văn như đã thể hiện được sự khâm phục, tính cách của những con người luôn luôn kiên cường đứng vững vàng trước những khó khăn của cuộc sống. Có thể nói trong hoàn cảnh có nghèo khó thế nào thì họ vẫn luôn trao nhau những tình yêu thương đầy sự nhân ái, họ luôn luôn đùm bọc nhau cho nhau những yêu thương để vượt qua cuộc đời khó khăn và để sống.

Như vậy, chỉ với qua tác phẩm thôi mà chúng ta như có thể thấy được số phận đau khổ của con người qua chiến tranh là như thế nào. Con người đó, họ không những phải chịu những nỗi đau thể xác trên chiến trường mà còn phải chịu nhiều nỗi đau về tinh thần. Xô-cô-lốp cùng bé Va-ni-a là hai nhân vật chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Qua đó tác giả Sô-lô-khốp như đã muốn kêu gọi mọi người hãy có trách nhiệm đối với những con người như vậy hơn, để cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 10

Trong truyện “Số phận con người” của nhà văn Sô-lô-khốp để cho thấy, nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô Viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái” – được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Hê-min-guây (1899-1960) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nôbel về văn chương năm 1954 đã từng viết: “Tôi rất thích văn học Nga… Trong các nhà văn hiện đại tôi thích Sô-lô-khốp”. Là nhà văn Xô Viết được giải thưởng Nobel về văn học năm 1965, Sô-lô-khốp được ca ngợi là “một trong những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỷ 20”.

“Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… và “Số phận con người” đã đem đến vinh quang cho Sô-lô-khốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm 1956. Hình ảnh nhà văn Xôcôlốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp.

Đọc “Số phận con người” ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của nhân vật Xô-cô-lốp. Năm 1941, phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cùng với hàng triệu người Xô viết cầm vũ khí đứng lên, Xô-cô-lốp ra trận. Anh nếm trải những gian truận, thất bại buổi đầu của Liên Xô. Hai lần bị thương vào chân và tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa suốt hai năm trong nhiều trại tập trung. Sống bằng xúp lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. Áo quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù ra bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bọn chỉ huy trại đấm vào mặt, vào mũi tù binh cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trò “phòng bệnh cúm”. Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực kỳ man rợ để đánh đập bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt sau hàng rào dây thép gai, Xô-cô-lốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần rình rập.

Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xô-cô-lốp gánh chịu bao mất mát đau thương. Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai – đại uý pháo binh Anatôli, niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xô-cô-lốp “như người mất hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh không muốn về lại Vôrônegiơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha “chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “không có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đau ngủ đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” Áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”; “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”…

Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xô-cô-lốp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thế chiến 2 phải trả là cực kỳ khủng khiếp. Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó, nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt.

Chiến tranh đã đi qua, nhưng một năm sau Xô-cô-lốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn… mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong ký ức, cứ xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh, tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô da của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em như một ám ảnh không nguôi! Còn Xôcôlốp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ta một tiếng thở dài, một lời than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xô-cô-lốp và bé Vania trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ…”

Nhân vật Xô-cô-lốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của người lính Xô viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ, một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng, tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát xúp lõng bõng. Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle , chỉ huy trại tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chế sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói:

“Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xô-cô-lốp, của người lính Nga trong máu lửa được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người” mang vẻ đẹp một “tiểu anh hùng ca”. Qua nhân vật Xô-cô-lốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị cứ níu lấy anh, không thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên “điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lòng Xô-cô-lốp mãi không nguôi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món nguy hại ấy!”

Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng không có lối thoát. Nhưng rồi tình cảm người cha, – tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay, như được mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xô-cô-lốp thấy “thích nó” và “nhớ nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!” Một quyết định đầy nhân ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Câu nói khẽ của Xô-cô-lốp: “Là bố của con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mông! Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania, Xô-cô-lốp vô cùng xúc động: “Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”

Xô-cô-lốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Vania thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xô-cô-lốp lòng vui không lời nào tả xiết, đêm đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Vết thương lòng đâu dễ nguôi? Vì thế mà Xô-cô-lốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga. Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xô-cô-lốp “mới có thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người bố đối với đứa con.

Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thía, nhưng ông vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”. Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xô-cô-lốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến.

Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả mặt thật của chiến tranh , ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua nhân vật Xô-cô-lốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà nhà văn gửi gắm qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh; với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.

Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xô-cô-lốp rất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người yêu mến, cảm phục. Tác phẩm là lời tự sự của nhân vật trung tâm – anh lính hồng quân Xô-cô-lốp, người đàn ông đã chịu bao giông tố khắc nghiệt của cuộc đời đổ ập lên số phận. Đó là cuộc đời gắn liền với một trang sử bi tráng hào hùng của nhân dân Nga, với chế độ Xô-viết đã tạo thành phẩm chất của những con người Nga kiên cường.

M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xô viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại hào hùng của đất nước Liên Xô cũ. Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có – không khoa trương hào nhoáng, không bi kịch hoá mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ông Nga có cái họ bình thường như bao người Nga: Xô-cô-lốp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua các thời kỳ khốc liệt nhất. Không tránh né sự thật – đó là phẩm chất hàng đầu của các cây bút Nga – xô viết mà M. Sôlôkhôp chính là một tấm gương. Sự thật đó không phải được kể bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía, trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xô viết – chính là phản chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.

Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xô viết non trẻ phải đối mặt với lũ bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên tên tuổi của M.Sôlôkhôp trong Sông Đông êm đềm. Nạn đói, cuộc sống cùng cực không quật ngã nổi ý chí của người dân xô viết. Xô-cô-lốp từng trải qua cuộc đời làm thuê, từng chứng kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh trở thành chiến sĩ hồng quân, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế làm chủ cuộc đời.

Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi không phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xô viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy diệt của nó khiến cho Xô-cô-lốp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát là điều không tránh khỏi nhưng với người trong cuộc còn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xô-cô-lốp mỗi lần tỉnh giấc lại đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt không thể rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản bội. Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh. Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sôlôkhôp có phần gần gũi với Alêcxây Tônxtôi với “Tính cách Nga”, với “Người xô viết chúng tôi”…

Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc con người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng không tắt về tương lai. Xô-cô-lốp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lòng căm thù sục sôi với kẻ đã hủy hoại hạnh phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” – người con trai đã thành đại úy pháo binh Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã phải tiễn đưa con mình. Dẫu biết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lòng cũng có thể quị ngã. Có lẽ đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.

Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người – nhân dân Nga trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vô ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát. Bởi thế, Xô-cô-lốp đã sống, làm việc như bao người lính xô viết trở về sau chiến trận. Nỗi đau lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xô-cô-lốp tìm quên trong men rượu. Áp lực đời thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã. Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xô-cô-lốp với bé Vania.

Chú bé Vania – đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải chở che, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xôcôlôp với bé Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khô héo vì đau khổ. Nước mắt – hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.

Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến những lời nói dối – nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con – một người đang cần nén chặt nỗi đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu cợt để cho bố con Xô-cô-lốp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ phía trước.

Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc sống bao dồn đẩy sóng gió đã tôi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương yêu bao la. Gương mặt người đàn ông ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lòng cảm phục vô hạn trước nhân cách một Con Người chân chính.

Bức thông điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao bi kịch bất hạnh. Đó là sự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào con người, nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu.

Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp – Mẫu 11

Sô Lô Khốp là nhà văn nổi tiếng của nước Nga, ông đạt được rất nhiều thành tựu văn học to lớn, trong đó ông đã đạt được giải thưởng Nô ben văn học năm 1965 và đạt được nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Số phận con người là một tác phẩm xuất sắc của ông.

Chiến tranh là một đề tài sâu rộng và nó dần ăn đi tiềm thức và cuộc sống của con người, con người được xem như là nạn nhân của chiến tranh, họ phải chịu đựng những đau khổ, và bất hạnh do cuộc sống gây nên, chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của con người, con người đang dần phải sống những năm tháng tăm tối và bị chiến tranh vùi dập đến tận xương tủy. Khi chiến tranh nhiều anh hùng đã xung phong ra mặt trận và Xô cô Lốp là một nhân vật như thế, chiến tranh nổ ra anh đã từ giã gia đình để xung phong ra mặt trận, bỏ lại ở nhà đó là vợ và con, buôn ba ngoài mặt trận nhiều năm, con trai lớn của anh cũng đang tham gia vào đội quân của Liên xô.

Trước khi tham gia vào chiến tranh Xô Cô Lốp được xem như là một nhân vật giàu lòng yêu thương, có tấm lòng nhân ái, và sự quả quyết trong cuộc sống, nhưng rồi chính chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của anh, từ gia đình, quê hương, người thân… anh đã trở thành nạn nhân của chiến tranh, bị chiến tranh vùi dập anh lâm vào tình trạng đau khổ, số phận con người đang dần phải chịu đựng nhiều đau khổ, và điều đó đã mang một ý nghĩa to lớn, ngay trong chính nhan đề, tác giả đã thể hiện được dòng tâm trạng, và một thái độ dứt khoát trước kẻ thù, ở đây số phận con người đã nêu ra một hiện thực đó là con người phải chịu nhiều đau khổ và là nạn nhân xấu số của chiến tranh.

Xô Cô Lốp là nhân vật đại diện cho con người Nga, với tính chất kiên cường, quả cảm mặc dù khó khăn như anh vẫn luôn thể hiện cho mình một thái độ dứt khoát và anh dũng trước cuộc sống, giá trị của tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc về chiến tranh, chính chiến tranh làm cho các nhân vật này phải chịu nhiều cực khổ, họ phải sống cuộc sống vất vả và gian nan nhất. Trong hoàn cảnh đó con người đang phải chịu những đau đớn, không chỉ nỗi đau về tinh thần mà còn thể hiện nỗi đau về thể xác, con người phải chịu những hậu quả lớn do chiến tranh gây nên, chiến tranh là thủ phạm gây nên bao nhiêu đau khổ cho con người.

Chiến tranh cướp đi người thân và gia đình của con người, luôn hết mình quả cảm chiến đấu vì dân tộc, họ luôn phải vượt qua rất nhiều những gian nan để có thể quật cường đứng dậy trước những sóng gió mà cuộc sống này gây ra, con người cũng đang phải chịu những nỗi đau đớn, dằn vặt, đúng từ những điều đó mà con người phải chịu đựng nhiều bất hạnh và số phận con người đang phải chịu những vô định, dạt dào từ cuộc sống này. Giống như cậu bé Va ni a, chính chiến tranh cũng đã cướp đi cha mẹ của bé, mặc dù mới ít tuổi nhưng nỗi đau đớn về tinh thần đã bủa vây lấy con người của chính nhân vật này.

Tác phẩm đã để lại cho người đọc, nhiều cảm xúc, đó là những cảm xúc đau thương và sự cảm thông sâu sắc cho số phận của những con người trong tác phẩm, họ phải chịu nhiều đau đớn và sự tổn thương tinh thần sâu sắc, trong những cảm xúc đó con người đang bị chiến tranh vùi dập và nó cướp đi nhiều thứ quan trọng trong cuộc sống của con người, họ phải chịu nhiều tổn thương, không chỉ về thể xác mà còn chịu nhiều tổn thương tinh thần.

Và chiến tranh cũng đang ám ảnh lấy cuộc sống của con người, họ phải chịu đựng nhiều bất hạnh mà cuộc sống này đã gây nên, họ cướp đi gia đình người thân, và qua đó họ còn bị ám ảnh trước những hiện thực của chiến tranh, chiến tranh đã gây cho họ nhiều tổn thương, không chỉ về thể xác mà tinh thần của họ, cũng bị ám ảnh và đau đớn, mặc dù hòa bình, nhưng cuộc sống của họ vẫn bị ám ảnh những nỗi đau không thể nào nguôi ngoai, đó là những cảm xúc riêng trong tâm hồn của con người.

Chiến tranh để lại cho con người nhiều nỗi nhớ, khi người thân của họ ra chiến trường, nhưng không biết bao giờ mới quay trở về, họ vẫn đang bị ám ảnh và mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc, hình ảnh bé vania vẫn từng ngày chờ đợi bố về đó cũng thể hiện tình yêu thương mà những người con dành cho người bố, hình ảnh chiếc áo bành tô đó là sự thể hiện những nỗi khắc khoải sâu sắc của con người mong ngóng từng ngày người thân của mình sẽ trở về, đó là những cảm xúc riêng và cũng chứa chan bao nhiêu ý nghĩa.

Trong tác phẩm tác giả đã thể hiện được những ý nghĩa tư tưởng một cách sâu sắc, đó là hoàn cảnh của cuộc sống, của chiến tranh đang dần bao vây và che lấp đi cuộc sống cũng như giá trị của con người, từng ngày con người vẫn đang phải chịu những tổn thương sâu sắc, đó là hình ảnh của sự mất mát, đó là sự mất mát và không bao giờ có thể nguôi ngoai được, mỗi nhân vật trong tác phẩm đều thể hiện một tư tưởng khác nhau, nhưng họ đều phải chịu những nỗi đau chung đó là sự mất mát trong tâm hồn từ việc ra đi của người thân, họ bị thiếu hụt đi tình yêu thương.

Nhan đề trong tác phẩm cũng đã thể hiện mạnh mẽ được những điều đó, qua cách nhìn mới mẻ của tác giả, ông đã nêu lên hiện thực của chiến tranh, nó thật tàn khốc, và cướp đi cuộc sống bình lặng của con người. Trong tác phẩm, giá trị của nó để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, con người có thể hiểu biết và có cái nhìn nhận về chiến tranh, chiến tranh cướp đi cuộc sống của con người. Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, đó là sự tàn khốc và đau đớn và chiến tranh đã gây nên cho con người.

*****

Trên đây là 11 bài mẫu Phân tích Số phận con người của Sô-lô-khốp lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập

5/5 - (1 bình chọn)


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button