Tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn khác nhau và nêu một số thông tin bổ sung (kênh chữ hoặc kênh hình) về hiện tượng lũ lụt chưa có trong văn bản này bao gồm hướng dẫn viết cùng 1 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 8 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.
Đề bài: Tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn khác nhau và nêu một số thông tin bổ sung (kênh chữ hoặc kênh hình) về hiện tượng lũ lụt chưa có trong văn bản này.
Hướng dẫn Tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn khác nhau và nêu một số thông tin bổ sung (kênh chữ hoặc kênh hình) về hiện tượng lũ lụt chưa có trong văn bản này lớp 8
– Một số thông tin bổ sung về hiện tượng lũ lụt:
+ Các tác giả của nghiên cứu đã phân tích dữ liệu toàn cầu của Ngân hàng Thế giới (WB) về rủi ro ngập lụt từ biển, sông và lượng mưa cao, cũng như tình hình phân bố dân cư và nghèo đói. Kết quả cho thấy khoảng 1,81 tỷ người (tương đương 23% dân số thế giới) có nguy cơ phải hứng chịu ngập lụt với mực nước trên 15cm trong trận lũ nghiệm trọng cỡ 100 năm mới xảy ra một lần. Trong số này, 89% sống ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Cụ thể, 780 triệu người bị ảnh hưởng bởi lũ lụt sống với ít hơn 5,5 USD/ngày, và 170 triệu người chỉ sống với 1,9 USD/ngày. Tóm lại, cứ 10 người thì có 4 người chịu rủi ro lũ lụt trên toàn cầu sống trong cảnh nghèo đói. Các quốc gia có đường bờ biển dài, hệ thống sông ngòi dày đặc và vùng đồng bằng rộng lớn có tỷ lệ dân số chịu rủi ro cao hơn.
Lũ lụt không chỉ gây ra các thiệt hại về người. Theo một nghiên cứu được công bố bởi công ty tư vấn môi trường và kỹ thuật GHD (Mỹ), các thảm họa về nước (hạn hán, bão và lũ lụt) có thể gây thiệt hại 5,6 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu vào năm 2050. Trong đó, lũ lụt được dự báo sẽ gây ra khoảng 36% tổng thiệt hại.
Tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn khác nhau và nêu một số thông tin bổ sung (kênh chữ hoặc kênh hình) về hiện tượng lũ lụt chưa có trong văn bản này – Mẫu 1
Lũ là một hiện tượng trong thiên nhiên, xảy ra hàng năm trên các sông suối. Những trận lũ lớn đến đặc biệt lớn là một loại thiên tai, có thể cướp đi hàng trăm sinh mạng, tàn phá nhà cửa, công trình, mùa màng,… Vậy lũ trên các sông suối ở Tây Nguyên như thế nào?
Chúng ta đều biết rằng, nước sông suối trong mùa lũ lên xuống nhấp nhô tựa dạng răng cưa, phản ánh quá trình mưa trong lưu vực. Mỗi trận lũ có một hoặc vài đỉnh. Thông thường, mỗi năm, trên mỗi sông suối ở Tây Nguyên có từ 4 đến 6 trận lũ. Biên độ lũ (chênh lệch giữa mực nước chân lũ lên với mực nước đỉnh lũ) thường từ vài ba mét đến bảy tám mét, thậm chí trên một số sông suối nhỏ biên độ lũ có thể lớn hơn 10 mét. Do có địa hình dốc, mưa tập trung nên lũ trên các sông suối ở Tây Nguyên có tốc độ dòng chảy lũ khá lớn, từ 2,0 đến 4,0m/s. Lũ lên, xuống cũng khá nhanh, cường suất lũ đạt từ 0,20 đến 0,50m/giờ đối với các sông suối có diện tích lưu vực nhỏ hơn 1000 km2; từ 0,10 – 0,30m/giờ đối với các sông lớn hơn; cường suất lũ lên lớn nhất có thể đạt 1,50 – 1,80m/giờ. Thời gian mỗi trận lũ phụ thuộc vào tính chất mưa, hình dạng lưu vực và độ che phủ của thảm thực vật trên lưu vực. Hầu hết các sông, suối nhỏ và có thảm phủ kém do cây rừng bị chặt phá nhiều có thời gian một trận lũ chỉ kéo dài vài ba ngày. Những sông suối lớn và những sông suối có sự che trở tốt của rừng đầu nguồn thì thời gian trận lũ kéo dài hơn, thường từ 4 – 5 ngày đến hơn mười ngày. Thông thường, những trận mưa sinh lũ thường là mưa lớn trên diện rộng, địa hình lại dốc nên thời gian tập trung lũ khá nhanh, lượng dòng chảy lớn. Theo đó: Thời điểm xuất hiện đỉnh lũ muộn hơn từ 3 đến 6 giờ kể từ khi mưa lớn nhất xảy ra đối với các sông suối có diện tích lưu vực từ 500 km2 trở xuống và từ 6 – 12 giờ đối với các sông có diện tích lưu vực lớn hơn 500 km2. Mô đun đỉnh lũ lớn nhất (lượng nước lũ được sinh ra trên một đơn vị diện tích trong một đơn vị thời gian) trên các sông suối ở Tây Nguyên ở mức trung bình so với cả nước, phổ biến đạt từ 0,50 – 1,50m3/s.km2. Trận lũ năm 1999 trên các sông Đăk Nông và Đăk RTih có mô đun đỉnh lũ (Mmax) đạt 0,80 – 1,00 m3/s.km2; trận lũ trên sông Krông Nô năm 2000, có Mmax = 1,40 m3/s.km2. Trận lũ trên sông Sê san năm 2009 có Mmax = 1,67 m3/s.km2
Trong các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của dòng chảy lũ trên các sông suối ở Tây Nguyên thì mưa có vai trò chủ đạo. Ngoài lượng mưa, cường độ mưa (lượng mưa trong một khoảng thời gian nhất định nào đó – thường lấy đơn vị tính là mm/giờ) có tác động quyết định đến mức độ khốc liệt của nước lũ. So với các khu vực khác của nước ta thì cường độ mưa sinh lũ ở Tây Nguyên vào hàng trung bình, phổ biến từ 20 – 30mm/h, một số trận mưa tập trung có thể đạt từ 50 – 70mm/h. Lượng mưa một ngày lớn nhất trên mỗi lưu vực sông trong một trận lũ phổ biến từ 50 – 150mm. Tuy nhiên, trong một số năm, ở Tây Nguyên cũng đã xuất hiện những trận mưa có lượng đặc biệt lớn, đạt trên 200mm trong vòng từ 6 đến 24 giờ. Hầu hết những trận mưa rất to này đều sinh lũ lớn hoặc lũ quét, sạt lở đất và để lại hậu quả rất nghiêm trọng. Ví như trận mưa xuất hiện ngày 28 tháng 7 năm 1999 ở khu vực thị xã Gia Nghĩa và các huyện lân cận thuộc phần phía nam tỉnh Đắk Nông, trong vòng 6 – 8 giờ liên tục, lượng mưa đã đạt từ 300 – 320mm, sinh ra lũ quét và lũ đặc biệt lớn trên các sông Đăk Nông, Đăk Rtih.Trận mưa ngày 29/9 /2009 ở Kon Tum có lượng đạt từ 150 – 250mm/ 12 giờ gây ra trận lũ kinh hoàng nhất kề từ năm 1970.
Mùa lũ chính vụ trên các sông chính ở Tây Nguyên như sông SêRêPốk, sông Ba, sông ĐăkBla, Đồng Nai thượng thường trùng với mùa có các nhiễu động mạnh như bão, áp thấp nhiệt đới hoạt động trên biển Đông hoặc đổ bộ vào vùng bờ biển từ Trung Trung bộ đến Nam Trung bộ, kết hợp với gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh trong thời kỳ tháng 8, tháng 9 và không khí lạnh tăng cường trong thời kỳ tháng 10, tháng 11. Phần nhiều những cơn bão, áp thấp nhiệt đới này tạo nên dải hội tụ có trục đi ngang qua Trung bộ. Do vậy, đa phần Tây Nguyên nằm ở phần phía Nam dải hội tụ này nên mưa lũ thường xuất hiện. Đặc biệt nếu Bão hoặc áp thấp đổ bộ vào vùng bờ biển từ Bình định đến Nha Trang thì tàn dư của nó thường gây mưa lũ lớn ở Tây Nguyên.
Những năm gần đây, dưới sự tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, biến trình mưa ở khu vực Tây Nguyên cũng có những thay đổi nhất định. Theo đó, số trận mưa có cường độ và lượng lớn có xu thế tăng lên. Kết hợp với những biến đổi tại chỗ như việc chặt phá rừng cùng nhiều hoạt động khác làm thay đổi diện mạo tự nhiên của lưu vực đã khiến cho dòng chảy lũ trên các sông suối ở Tây Nguyên trở nên hung dữ hơn, có mức độ tàn phá khốc liệt hơn. Theo số liệu thống kê, trong vòng 15 năm trở lại đây, ở khu vực Tây Nguyên đã có 22 trận lũ lớn đến đặc biệt lớn và lũ quét gây ngập lụt trên diện rộng. Hậu quả sau mỗi trận lũ như vậy để lại là hàng chục người chết và mất tích, nhiều công trình nhà cửa, cầu cống, đường xá giao thông, mương máng thủy lợi bị hủy hoại,v.v..
Lũ lớn đến đặc biệt lớn là một trong những thiên tai có mức độ gây thiệt hại về vật chất lớn thứ hai sau hạn hán ở Tây Nguyên, nhưng mức độ gây thiệt hại về người, cơ sở hạ tầng và môi trường sinh thái là rất nghiêm trọng. Ông cha ta đã đặt thủy tai lên hàng đầu trong số các tai họa: “ thủy, hỏa, đạo, tặc”. Đảng và Nhà nước ta cũng đã có những quan tâm đặc biệt tới công tác phòng chống và hạn chế thiệt hại do thiên tai bão lũ gây ra. Vì vậy, công tác chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với thiên tai lũ lụt ở Tây Nguyên cần được các cấp chính quyền, các ban, ngành và toàn thể nhân dân thực hiện nghiêm túc. Các địa phương nên coi việc thực hiện chỉ đạo nhân dân làm tốt công tác phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai lũ lụt gây ra như một mục tiêu phấn đấu chủ đạo trong các chương trình hành động của mình. Phòng chống lũ lụt bao gồm hai nhiệm vụ là phòng lũ và chống lũ.
Phòng ngừa lũ lụt: Muốn phòng ngừ lũ lụt hiệu quả trước hết cần đưa chủ trương, đường lối, chính sách phòng lũ lụt vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; cụ thể hóa những quy định về đảm bảo phòng lũ lụt; coi trọng việc định ra các quy chế phòng lũ lụt khi phân vùng sử dụng đất để sản xuất, xây dựng, bố trí dân cư, phát triển thủy lợi, thủy điện. Điều tra, đánh giá, xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ ngập lụt. Thực hiện các biện pháp hạn chế quá trình chảy tràn, giảm tốc độ tập trung nước, gắn công tác phòng lụt với sử dụng đất trên lưu vực sông, kết hợp với giữa đất, giữ nước. Thay đổi đặc trưng lũ lụt thông qua các biện pháp vật lý như khơi thông cải tạo dòng chảy, đắp đê quai, nuôi dưỡng, gìn giữ rừng phòng hộ; xây dựng nhà cửa, công trình kiến cố phù hợp với điều kiện có lũ lụt thường xuyên. Tuyên truyền, phổ cập, giáo dục huấn luyện cho đại chúng cũng như các cán bộ lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia những kiến thức về lũ lụt và biện pháp phòng lũ lụt. Diễn tập chống lũ lụt, thông qua đó phát hiện ra những thiếu sót về kỹ thuật, phương tiện, nhận thức để bổ sung sửa chữa.
Các biện pháp nêu trên mới chỉ dừng lại ở mức độ phòng ngừa, chuẩn bị ứng phó với lũ lụt. Khi lũ lụt đã xảy ra thì các biệp pháp chống lũ lụt có hiệu quả phải thể hiện qua kết quả bảo vệ tính mạnh, tài sản của nhà nước và của nhân dân trong cả ba giai đoạn kể từ khi lũ lụt xảy ra, tác động và khi lũ lụt đã kết thúc. Nhiệm vụ chống lũ cần phải được thực hiện kịp thời, đồng bộ. Trước hết cần quan tâm đến việc lập kế hoạch chống lũ lụt cho toàn tỉnh, chi tiết cho từng huyện, xã. Đặc biệt quan tâm đến quy hoạch sử dụng đất và các tài nguyên khác trên bề mặt lưu vực sông. Theo dõi chặt chẽ, truyền thông tin kịp thời từ các trạm quan trắc KTTV, đến trung tâm dự báo KTTV của Tỉnh và Đài KTTV khu vực; phát báo kịp thời, tuyền thông tin đến cơ quan chức năng và chính quyền các địa phương nằm trong vùng uy hiếp của lũ để phát lệnh báo động, đồng thời phổ biến thông tin dự báo tới mọi người dân để chủ động tự phòng chống. Tổ chức chống lũ tập trung, huy động sức người, phương tiện tại chỗ và hỗ trợ từ bên ngoài, sơ tán dân ra khỏi vùng nguy hiểm. Thực hành thao tác khi bất trắc xảy ra và các hoạt động cứu trợ, an ninh, sức khỏe, môi trường và các công việc phục hồi, sửa chữa khắc phục hậu quả lũ lụt. Cung cấp thông tin, giáo dục, huấn luyện, phổ cấp các kiến thức về chống lũ lụt cho nhân dân các vùng thường xuyên bị lũ lụt, thực hiện nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng có trách nhiệm.
*****
Trên đây là 1 bài mẫu Tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn khác nhau và nêu một số thông tin bổ sung (kênh chữ hoặc kênh hình) về hiện tượng lũ lụt chưa có trong văn bản này lớp 8 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.
Đăng bởi: THCS Bình Chánh
- Chi tiết hoặc hình ảnh nào trong văn bản đã để lại trong em những ấn tượng sâu đậm? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8 – 10 dòng) ghi lại ấn tượng ấy lớp 8 (7 Mẫu)
- Trong truyện có nhiều đoạn văn mang tính triết lí về cuộc sống, con người. Em thích nhất đoạn văn nào? Vì sao? lớp 8 (2 Mẫu)
- Tóm tắt truyện Lão Hạc trong khoảng 10-15 dòng lớp 8 (24 Mẫu)
- Việc tái hiện sự khác nhau trong cách nhìn những bức tranh liên quan chặt chẽ đến ý nghĩa của đoạn trích. Em có đồng ý với nhận xét này không? Vì sao? (Trình bày thành một đoạn văn khoảng 8 – 10 dòng) lớp 8 (3 Mẫu)
- Viết một đoạn văn (khoảng 6-8 dòng) nêu ý kiến của em về hiện tượng sử dụng biệt ngữ xã hội trên mạng xã hội hiện nay lớp 8 (6 Mẫu)
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình là một trong những biểu hiện của lòng yêu nước. Viết một đoạn văn khoảng sáu câu, nêu một số việc mà em đã hoàn thành tốt và lí giải vì sao những việc đó có thể thể hiện lòng yêu nước của em lớp 8 (6 Mẫu)