Học TậpLớp 10

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ hay nhất (15 bài mẫu)

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ lớp 10 ngắn gọn, hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.

Đề bài: Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ
Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ

Mục lục

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ chi tiết

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 1

1. Mở bài

Bạn đang xem: Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ hay nhất (15 bài mẫu)

– Đỗ Phủ (712 – 770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc, chủ yếu viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân và chính bản thân mình.

– Cảm xúc mùa thu vừa là bức tranh thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu trĩu nặng của nhà thơ trong lúc đất nước đang rối ren, loạn lạc.

2. Thân bài

– Cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu (4 câu đầu):

+ “Phong” người ta liên tưởng đến mùa thu vì mỗi đợt thu về rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thương.

+ Sương móc trắng xóa, dày đặc làm xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá.

+ “Vu sơn, Vu giáp” chính là hẻm Vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông.

→ Qua hai câu đầu về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơ ca truyền thống.

+ Hình ảnh đối lập: sóng vọt lên tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống mặt đất, từ thấp lên cao rồi từ cao xuống thấp.

→ Cảnh thu chuyển động dữ dội tạo nên bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng.

⇨ Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau làm toát lên bức tranh thu rộng lớn vừa tiêu điều hiu hắt, vừa dữ dội, hùng vĩ.

– Nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước (4 câu sau):

+ Cúc là loài hoa của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ đẹp vậy mà nhìn nó lại nhỏ lệ, gợi một nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ, nhìn hoa cúc nhớ về những mùa thu ở quê hương.

+ Chữ “lệ” trong bài thơ rất khó phân biệt lệ của người hay của hoa.

+ “Cố chu” con thuyền cô độc, khi nhìn thấy con thuyền nỗi lòng tác giả càng dâng trào, càng nhớ quê da diết.

+ Hình ảnh con thuyền trôi nổi, lưu lạc, là phương tiện duy nhất nhà thơ gửi gắm ước nguyện về quê, “hệ cố viên tâm” rất đặc biệt như buộc chặt nỗi lòng con người với quê nhà nhờ con thuyền trôi về quê hương.

+ Cảnh mọi người giặt áo cũ âm thanh tiếng chày đập vải nhộn nhịp trên sông để chuẩn bị cho mùa đông tới.

– Sử dụng không gian dài, rộng, vừa cao, sâu, thấp lên cao và từ cao xuống thấp và những phép ẩn dụ đặc sắc, đối xứng chặt chẽ. Bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ cảm xúc, dùng quá khứ nói hiện tại.

3. Kết bài

– Bài thơ “Cảm xúc mùa thu” – nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải xa quê trong lúc loạn lạc.

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 2

I. Mở bài:

Giới thiệu về tác giả Đỗ Phủ và bài thơ ” Thu hứng “, có thể dẫn dắt từ đề tài mùa thu trong thơ ca nói chung, thơ Đường nói riêng

II. Thân bài:

1. Bốn câu thơ đầu tiên : Bức tranh mùa thu

a. Hai câu thơ đầu (1 và 2):

Hình ảnh: “ngọc lộ”, “phong thụ lâm” là những hình ảnh rất giản dị, quen thuộc song vô cùng đẹp và giàu tính ước lệ của mùa thu Trung Quốc:

“Ngọc lộ”: Miêu tả hạt sương móc trắng xóa, dầy đặc làm tiêu điều, hoang vu cả một rừng phong. Bản dịch thơ dịch thanh thoát nhưng chưa truyền tải đầy đủ nội dung, ý nghĩa thần thái của nguyên tác.

“Phong thụ lâm”: gợi ra hình ảnh của rừng cây cổ thụ rộng lớn thường được dùng để tả cảnh sắc mùa thu và nỗi sầu li biệt

“Núi Vu, kẽm Vu”: Là hai địa danh cụ thể ở Trung Quốc, vào mùa thu khí trời âm u, mù mịt, mở ra một không gian bao la nhưng lại hoang vắng đến lạnh lẽo. Bản dịch thơ là “ngàn non” đã đánh mất hai địa danh cụ thể lại không diễn tả được hết không khí của mùa thu.

“Khí tiêu sâm”: Hơi thu hiu hắt, ảm đạm, tô đậm thêm cho nó u buồn nhuốm đượm trong cảnh thiên nhiên

Không gian thiên nhiên vừa có chiều cao vừa có chiều rộng và chiều sâu. Từng hình ảnh hoà vào nhau, vẽ lên bức tranh thu với không gian lạnh lẽo xơ xác, tiêu điều, ảm đạm, tất cả mọi thứ như bị choán ngợp trong không gian bao la, hoang vắng

Thấm nhuần trong cảnh thiên nhiên, ta như thấy cảm xúc buồn, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả.

b. Hai câu tiếp theo (3 và 4):

Điểm nhìn từ lòng sông đến miền quan ải, không gian được quan sát theo ba chiều kích chiều xa, tầng cao và chiều rộng

Tầng xa: là ở giữa dòng sông thăm thẳm là “sóng vọt lên tận lưng trời”, bức tranh thiên nhiên như có độ sâu hơn càng làm hiện rõ sự mênh mông bảo trùm

Tầng cao: Là miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đấy.

Tầng rộng: mặt đất, bầu trời, dòng sông đều cho ta hình dung về không gian rộng lớn.

Thiên nhiên hiện lên qua ba chiều kích càng trở nên bao la đến rợn ngợp, cảm giác như con người đứng trước thiên nhiên ấy sẽ vô cùng nhỏ bé

Một loạt những hình ảnh tương phản đối lập kết hợp thủ pháp phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp), càng nhấn mạnh sự rộng lớn của không gian

Sự vận động trái chiều của những hình ảnh mở ra một không gian kì vĩ, tráng lệ, thậm chí khiến ta phải rùng mình

Nhưng con người hiện lên trong đó lại mang theo nỗi cô đơn giữa không gian bất tận, song lại có phần nào ngột ngạt, bí bách

Bốn câu thơ vẽ lên bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, mênh mông, rợn ngợp.

Miêu tả cảnh thiên nhiên nhưng dường như tác giả đang khắc hoạ chính bức tranh của xã hội Trung Quốc đương thời loạn lạc bất an, chao đảo.

Nỗi buồn lạc lõng giữa thiên nhiên phải chăng cũng là nỗi chênh vênh lo lắng của tác giả trước thời cuộc.

2. Bốn câu thơ sau: Tình cảm trước mùa thu

a. Câu 5 và 6

Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ: “Khóm cúc nở hoa – tuôn dòng lệ”:Trước hết là hình ảnh tả thực, cánh hoa nở ra là những giọt sương long lanh rơi như giọt lệ, vừa là hình ảnh biểu tượng cho nỗi buồn và dòng lệ trong lòng tác giả

“Cô chu”: con thuyền cô độc là hình ảnh biểu tượng khơi gợi sự trôi nổi, lưu lạc của con người, đặc biệt khi là với những người con xa quê hương khao khát được quay trở về

“Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.

Một loạt những từ ngữ thể hiện trực tiếp nỗi nhớ : “Lưỡng khai” (Nỗi buồn lưu cữu trải dài từ quá khứ đến hiện tại), “Cố viên tâm” (Tấm lòng hướng về quê cũ gợi thân phận của kẻ tha hương, li hương luôn khiến lòng nhà thơ thắt lại vì nỗi nhớ quê, nhớ nước)

Sự đồng nhất giữa các sự vật, hiện tượng:

Tình – cảnh: Nhìn cúc nở hoa mà lòng buồn tuôn giọt lệ

Quá khứ – hiện tại: Hoa cúc nở hai lần năm ngoái – năm nay mà không thay đổi

Sự vật – con người: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người

Hai câu thơ đặc tả nỗi lòng đau buồn, tha thiết, dồn nén vì nỗi nhớ quê không thể giải tỏa của nhà thơ.

b. Câu 7 và 8

Hình ảnh mọi người nhộn nhịp may áo rét, giặt quần áo chuẩn bị cho mùa đông tới gợi lên không khí chuẩn bị cho mùa đông, gấp gáp, thúc giục.

Âm thanh: Tiếng chày đập vải là âm thanh báo hiệu mùa đông sắp đến, đồng thời diễn tả sự thổn thức, ngổn ngang, mong chờ ngày về quê của tác giả.

Bốn câu thơ vẽ ra những hình ảnh quen thuộc về cuộc sống nơi quê nhà khắc sâu tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, trầm lắng, u sầu vì nỗi mong nhớ trở về quê hương.

3. Nghệ thuật

Tứ thơ trầm lắng, u uất

Giọng thơ buồn, thấm đẫm tâm trạng, câu chữ tinh luyện

Thi liệu, ngôn ngữ giản dị, đặc trưng mang tính ước lệ cao

Kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp đối lập, tả cảnh ngụ tình, lấy điểm tả diện

III. Kết bài

Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và khẳng định lại giá trị của tác phẩm

Bài thơ không chỉ vẽ nên một bức tranh thu giàu chất gợi hình mà còn gợi lên cả trong ta một nỗi niềm sâu kín. Nỗi lo âu thế sự, nỗi nhớ quê hương cùng nỗi đơn côi lạc lõng đã được thể hiện thật tài tình trong bài thơ. Chính với ngòi tinh tế và cảm xúc sâu sắc đong đầy, Đỗ Phủ và bài thơ “Thu hứng” sẽ mãi giữ được một vị trí quan trọng trong nền thi ca Trung Quốc nói riêng và trên thế giới nói chung.

15 bài mẫu Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ hay nhất

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 1

Thu hứng (bài số 1) của Đỗ Phủ là một bài thơ tiêu biểu, hết sức thâm thúy, hàm súc, kín đáo. Trong bài thơ tâm và cảnh, thi và họa, động và tĩnh, trộn lẫn, lắm lúc khó lòng phân biệt.

Có thể tạm chia bài thơ làm hai phần với bốn câu đầu là cảnh thu và bốn câu sau là nỗi lòng nhà thơ. Cách phân chia như vậy phù hợp về logic hình thức nhưng chưa thực xâm nhập vào chiều sâu quan hệ biện chứng giữa hai phần của bài thơ. Chúng ta biết rằng đặc trưng của thơ cổ nói chung, thơ Đường nói riêng là cái nhìn đồng nhất con người và vũ trụ (“thiên nhân tương đồng”). Cái “tôi” (tiểu ngã) chỉ là một phần của cái “ta” vũ trụ (đại ngã).

Do đó, các nhà thơ cổ nói “cảnh” cũng là đế nói “tâm”, nói “tâm” thường thông qua vẽ “cảnh”. Các nhà thơ Trung Hoa xưa thường nhắc đến mối quan hệ này. Đó là “Tâm nhập vào cảnh” (Vương Xương Linh), “Lòng nhập vào cảnh”, “Tình dĩ cảnh hội” (Yên Hoàng Đạo), “Tình bất gặp cảnh”, “Cảnh dĩ tình hợp”, “Tình dĩ cảnh sinh” (Vương Phu Phi). Ngay bốn câu đầu, qua những nét bút chấm phá về cảnh đã toát lên góc nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.

Chỉ có điều, cảnh ở đây dường như được vẽ ra bằng những nét bút có phần rõ ràng, “khách quan” hơn so với bốn câu thơ sau. Bài thơ có thời gian mùa thu; có địa điểm Vu Sơn, Vu Giáp (thuộc thượng sông Trường Giang, vùng Quý Châu thuộc tỉnh Tứ Xuyên). Cảnh ở đây cũng có phần được cá biệt hóa với màu sắc hùng vĩ, độc đáo: núi non hiểm trở, sóng bọt lưng trời, mây sa mặt đất. Cảnh vật hiện lên dần như trên một đoạn phim lướt vội.

Ống kính hắt đầu từ rặng phong tiêu điều với sương móc trắng xóa (Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm), (chữ “lác đác” trong bài dịch chưa thật sát với nghĩa nguyên tác), đến cảnh núi Vu và kèm vu hiu hắt, dần đến những đợt sóng bọt lên lưng trời giữa dòng sông rồi đứng lại ở những đám mây sa sầm giáp mặt đất nơi cửa ải. Bốn câu thơ cũng làm ta nhớ đến những bức tranh thủy mặc với lối vẽ chấm phá tài tình. Cảnh vật hiện lên trong cái “thần”, cái “hồn” của nó. Nhưng sau bức tranh kia đã ấn giấu bao nhiêu tâm trạng.

Tâm trạng ấy trước hết thể hiện ở sự lựa chọn cảnh vật. Nhà thơ xưa không đặt nhiệm vụ khám phá đối tượng mình quan sát (dù bên trong hay bên ngoài) mà chi là sắp xếp, tỉa tót nó cho phù hợp với sự cảm nhận duy lí. Thơ cổ không phân biệt rạch ròi chủ thể và khách thể. Ngay nét chấm phá đầu tiên “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” đã mở ra hướng lựa chọn. Cảnh tượng móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng phong làm ta nhớ đến những rừng phong, cây phong khác trong thơ cổ.

Cây phong trong thơ Đường như gắn với nỗi buồn, với chia li. Trong Tì bà hành có Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san đìu hiu hắt trong mắt nàng Kiều. Những nét vẽ cảnh tiếp theo dường như càng tô đậm thêm cái nét hoang vắng, hiu hắt, buồn bã trong tâm hồn nhà thơ. Đành rằng cảnh vật ở đây cũng có nét hùng vĩ nhưng nét hùng vĩ không lấn át được vẻ buồn, tàn tạ, không làm tan cái buồn, hiu hắt tràn từ núi đến rừng.

Hai câu tiếp theo đối nhau về ý và lời, tạo nên cảnh đối nghịch trong bức tranh Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm (Lưng trời sóng rợn lòng sông thám/ Mặt đất mây đùn cửa ải xa) cho ta những ấn tượng trái ngược: Cảnh vừa dữ dội, hoành tráng lại vừa bức bối, bị vây hãm không thoát ra được.

Đúng là bức “tâm cảnh” trong con mắt một kẻ xa quê, nhớ quê, lòng buồn trĩu nặng, đồng thời cũng bứt rứt, bức bối, không yên khi nhìn về quê nhà và trông ra thế sự. Kim Thánh Thân thật có lí khi bình rằng: “ngước mắt nhìn sông chỉ thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thấy gió mây mịt mờ liền đất. Thực đúng đau tức, bi thương, khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt”.

Bốn câu sau, tác giả tiếp tục phát triển cảm xúc của mình. Ở đây thể hiện nỗi lòng trực tiếp hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn thâm trầm, kín đáo. Cái nhìn duy lí đã trừu tượng hóa những sự vật cụ thể. Tác giả nói đến hoa cúc, đến con thuyền nhưng chúng là “tâm” hay là “cảnh”, thật lòng lòng phản biệt. Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ (Khóm cúc nở hoa hai lần: những giọt lệ ngày trước) và Cô chu nhất hệ cố viên tâm (Con thuyền lẻ loi buộc chặt tấm lòng nhớ vườn củ), ở đấy lời ít ý nhiều, không rõ hoa cúc nhỏ lệ hay thi nhân nhỏ lệ bên khóm cúc, không hiểu dây buộc thuyền hay dây thắt lòng người.

Hồ Sĩ Hiệp cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “Cúc đã nở hoa hai lần và đã hai lần làm chảy dòng lệ cũ” hoặc có thể hiểu “Nhìn cúc nở mà tưởng như cúc đã nhỏ lệ”. Dù hiểu cách nào thì cũng thấy rằng ở đây “cánh” đã nhòa vào “tâm”, đã “hội” vào “tâm”. Tác giả đã đồng nhất: tình và cảnh, hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ quá khứ), sự vật và con người (sợi dây cụ thể và sợi dày lòng).

So sánh với hoàn cảnh nhà thơ có thể hiểu Đỗ Phủ từ khi rời thành đô đến Quý Châu đã được hai năm, trải qua hai mùa thu. Dòng “lệ cũ” của nhà thơ không chỉ “tuôn” ra một lần mà đá nhiều lần rồi. Và đúng như có người nhận xét trong thơ ông già Thiếu Lăng đã lão hóa chốn thanh khốc, cảm thời hoa tiền lệ…

Hai câu thơ kết của bài thơ này thật độc đáo, mở ra nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu kết thường là tỏ lòng, nêu trực tiếp cảm xúc nhưng đây tác giả lại hướng nó về cảnh khách quan bên ngoài. Nhưng ờ đoạn đầu, cảnh khách quan là “tĩnh” thì ở đày lại “động”. Cảnh rộn ràng hơn trong không khí “rộn ràng dao thước để may áo rét’’ và âm thanh tiếng chày đập áo dồn dập về chiều trên thành Bạch Đế.

Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, gấp hơn. Thế nhưng, đó chỉ là ngoại cảnh, tấm lòng nhà thơ thì chưa chắc đã có đổi thay. Bởi góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong ánh chiều hắt hiu. Tiếng đập áo buổi chiều trên thành Bạch cao ấy (Thành Bạch chày vang bóng ác tà) dễ đưa người ta đến những liên tưởng buồn.

Nó dường như cùng hòa vào “gam” nhạc buồn của tiếng đập áo đêm trăng của người chinh phụ nhớ chồng trong Đảo y thiên của Lí Bạch (Chiếc áo đêm trường đập bóng trăng), hay tiếng chày đập áo của người phụ nữ trong mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị (Thu đến nhớ chồng đập lụa, gió trăng não lắm đá chày ơi) Tiếng chày ấy đang báo hiệu một mùa đông đến gần, mùa đông với một ( thiếu cơm, thiếu áo, không nhà, ở nhờ trên đất khách và tấm lòng thì luôn nặng trĩu nỗi lo và nỗi nhớ.

Như vậy, trên cái nền của cảnh thu với rừng thu, khí thu, hoa thu, tiếng thu, nhà thơ đã hòa vào đó tâm trạng của chủ thể trữ tình, một tâm trạng đượm buồn, da diết, sầu thương, khắc khoải trong tình quê nặng và nỗi âu lo kín đáo về thế sự.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 2

Nhắc đến Trung Quốc, không ai là không biết đến nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ (712 – 770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc, chủ yếu viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân và chính bản thân mình. Ông có nhiều tác phẩm kiệt tác, trong số đó có bài thơ Cảm xúc mùa thu bài thơ thứ nhất trong chùm thơ Thu hứng năm 766, khi ông cùng gia đình đi chạy nạn ở Quỳ Châu.

Cảm xúc mùa thu vừa là bức tranh thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu trĩu nặng của nhà thơ trong lúc đất nước đang rối ren, loạn lạc. Bài thơ chia làm hai phần, bốn câu thơ đầu tác giả tả cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu. Bốn câu thơ sau là tả tình, chính là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh mùa thu, nỗi nhớ quê và nỗi niềm dân nước.

Hai câu thơ đầu được nhìn trong tầm bao quát rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Tác giả đã đặt điểm nhìn của mình từ rừng núi xuống dòng sông, bao quát theo chiều rộng. Nhắc đến phong người ta liên tưởng đến mùa thu vì mỗi đợt thu về rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thương. Vậy mà sương móc trắng xóa, dày đặc làm xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rõ nét trong mắt của nhà thơ.

Câu thơ thứ hai càng làm nổi lên sự lạnh lẽo Vu sơn, Vu giáp chính là hẻm Vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông. Vào mùa thu không khí lạnh lẽo ảm đạm trong cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ càng hiu hắt, ảm đạm. Qua hai câu đầu về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơ ca truyền thống.

Chính sự đau buồn ấy, Đỗ Phủ viết lên những lời thơ sâu sắc:

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tại thượng phong vân tiếp địa âm.

Trong hai câu thơ này có hình ảnh đối lập vô cùng thú vị, sóng vọt lên tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống mặt đất, từ thấp lên cao rồi từ cao xuống thấp, sự vận động trái chiều và triệt để. Cảnh thu chuyển động dữ dội tạo nên bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng. Sự chuyển động chao đảo của cảnh vật, cũng là sự chao đảo xã hội lúc bấy giờ.

Lời thơ là nỗi lòng thương nhớ tuyệt vọng trước thời thế lúc bấy giờ của nhà thơ. Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau làm toát lên bức tranh thu rộng lớn vừa tiêu điều hiu hắt, vừa dữ dội, hùng vĩ. Chính cảnh vật ấy vừa gợi nỗi buồn tê tái, vừa ngầm thể hiện nỗi lo âu của nhà thơ về sự không yên bình nơi biên ải. Cảnh thu ở phần thứ nhất đã khơi gợi cái tình trong lòng nhà thơ.

Bốn câu thơ sau nói lên nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ

Cố chu nhất hệ cố viên tâm.

Cúc là loài hoa của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ đẹp vậy mà nhìn nó lại nhỏ lệ, gợi một nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ, nhìn hoa cúc nhớ về những mùa thu ở quê hương mà lòng u sầu, nghẹn ngào. Chữ lệ trong bài thơ rất khó phân biệt lệ của người hay của hoa, tuy nhiên có lẽ nên hiểu: mỗi lần nhìn hoa cúc nở, nhà thơ lại chạnh lòng nhớ về quê hương.

Những giọt nước mắt cũng cứ thế tuôn rơi không ngăn lại được, hình ảnh hoa cúc nở rồi lại nở vừa gợi sự trở đi trở lại của nỗi nhớ quê, vừa gợi ra những dòng lệ chứa chan ân tình của nhà thơ. Cố chu con thuyền cô độc, khi nhìn thấy con thuyền nỗi lòng tác giả càng dâng trào, càng nhớ quê da diết. Hình ảnh con thuyền trôi nổi, lưu lạc , là phương tiện duy nhất nhà thơ gửi gắm ước nguyện về quê, hệ cố viên tâm rất đặc biệt như buộc chặt nỗi lòng con người với quê nhà như con thuyền trôi về quê hương. Bằng nghệ thuật ẩn dụ tinh xảo hai câu thơ biểu hiện nỗi nhớ quê một cách sinh động và tha thiết, sâu lắng của nhà thơ.

Hai câu cuối âm thanh sinh động được lột tả:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.

Cảnh nhộn nhịp may áo rét, cảnh mọi người giặt áo cũ âm thanh tiếng chày đập vải nhộn nhịp trên sông để chuẩn bị cho mùa đông tới, vẽ lên cuộc sống sinh hoạt vui tươi và nhộn nhịp, vang động, lại càng xoáy sâu vào lòng người nỗi nhớ quê nhà tê tái, khuôn nguôi, nhớ đến cuộc sống bình yên nơi quê nhà càng mong nhớ quê da diết hơn. Trời tối rồi, nhà thơ không nhìn thấy gì nữa mà chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ những người lính nơi quan ải.

Bằng việc sử dụng không gian dài, rộng, vừa cao, sâu, thấp lên cao và từ cao xuống thấp và những phép ẩn dụ đặc sắc, đối xứng chặt chẽ. Cách hay trong bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ cảm xúc, dùng quá khứ nói hiện tại. Bài thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà hiu hắt, sôi động mà nhạt nhòa trong sương khói mùa thu, đồng thời hiện diện một tâm trạng buồn, xót xa với nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

Bài thơ Cảm xúc mùa thu là bài thơ rất hay và ý nghĩa. Bài thơ là nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải xa quê trong lúc loạn lạc. Bài thơ như nhắc nhở chúng ta yêu quê hương mình và trân trọng nơi chúng ta đã sinh ra.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 3

Đỗ Phủ (712 – 770) tên chữ là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, người huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Thủa trẻ Đỗ Phủ cũng đi thi nhưng không đỗ. Suốt cuộc đời, ông sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Tuy vậy, ngọn lửa đam mê văn chương trong lòng ông không bao giờ tắt. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

Bên cạnh những bài thơ được coi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ), Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu). Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loan đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của Thu hứng.

Bài thơ có thể chia làm hai phần: Bốn câu thơ đầu (đề, thực) là bức tranh vé thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang. Bốn câu sau (luận, kết) chủ yếu thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách. Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,

(Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa)

Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đôi cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong: Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm (Lác đác rừng phong hạt móc sa). Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.

Câu thứ hai nhắc đến Vu sơn, Vu giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm). Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp khiến bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh Quý Châu. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vũ nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ. Được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, tuyệt không có một chỗ trống. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm. Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.

Vẫn tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng như thế nên Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực đầy ám ảnh như có ma lực cuốn hút hồn người:

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa).

Ở hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch: Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.

Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiển hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô biên, vô tận. Tuy tác giả chưa nhắc tới cảnh đời điêu linh nhưng hình như nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang và mây xám mịt mù vùng quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng!

Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất Chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà)

Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. Câu thơ nguyên văn chữ Hán: Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ (Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước). Nguyễn Công Trứ dịch thoát ý là: Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chửa sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xạ quê hương sâu nặng nghĩa tình. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào.

Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh con thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: Cô chu nhất hệ cố viên tâm. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ). Câu thơ dịch bỏ mất tính từ cô trong Cô chủ chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.

Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà).

Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó. Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang…

Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thơ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.

Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng có sự liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất logic: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.

Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Thu hứng dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như Đăng cao, Mao ốc thu phong vị sở phá ca… được lưu truyền rộng rãi qua hàng ngàn năm, Thu hứng góp phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ Phủ. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh lá bậc “Thi thánh” của thơ? Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 4

Đỗ Phủ là nhà thơ lỗi lạc có nhiều đóng góp lớn cho thi ca Trung Quốc, ông là một thi sĩ tiêu biểu, với số lượng tác phẩm để lại không hề nhỏ. Tấm lòng lương thiện, nhạy cảm với cuộc sống với đời, những bài thơ ông viết ra, đều mang tư tưởng yêu nước, hay còn gọi là “yêu nước thương đời” đồng thời phản ánh chân thực thời đại mà ông đang sống. Với tâm hồn nghệ sĩ, những phút xao lòng với những đổi thay của đất trời, của thời tiết cũng khiến cho những câu từ trong chính tâm hồn in đậm lên trang giấy. Thu hứng hay còn gọi là Cảm hứng mùa thu là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu cho hồn thơ của Đỗ Phủ.

Đề tài về thiên nhiên đặc biệt là sự thay đổi của không gian của đất trời khiến cho các thi sĩ không ít khi nao lòng. Mùa thu là mùa mà khiến cho tâm hồn con người ta trở nên lãng mạn, thả hồn theo gió, ta cũng thấy một thứ gì đó vừa man mác lại vừa thấm đượm mùi vị đất trời chênh vênh. Cảm hứng mùa thu là bức tranh màu thu hắt hiu, mang nặng tâm trạng tu sầu của tác giả trong lúc đất nước lâm vào cảnh rối ren, nỗi thương nhớ quê hương dâng lên nghẹn ngào, và buồn thương cho thân phận mình nơi đất khách quê người.

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thồi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Sau khi được phiên âm, bài thơ “Cảm hứng mùa thu” lại dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc. Những cảnh vật hiện ra trong bài thơ nối tiếp nhau, nhưng bị bao phủ bởi một nỗi buồn khôn tả. Cùng với những vần thơ mềm mại mà thấm đượm, Nguyễn Công Trứ đã mang “cảm hứng mùa thu” lại gần hơn, đặc biệt thể hiện được cả những điều mà Đỗ Phủ đã gửi gắm. Có thể thấy rõ được, trong bài thơ, bốn câu đầu là “câu đề” với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang.

Qua bài thơ Cảm hứng màu thu, ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng “yêu nước thương đời” lại càng thể hiện rõ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ. Thu hứng đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng của ông, cũng như là một bài thơ tiêu biểu về mùa thu của thi ca Trung Quốc.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 5

Đỗ Phủ được mệnh danh là Thi Thánh, một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, có giá trị, khoảng 1500 bài thơ. Cảm xúc mùa thu được trích từ chùm thơ Thu hứng gồm có tám bài. Cảm xúc mùa thu được đánh giá là bài thơ hay nhất, có nội dung bao quát bảy bài thơ còn lại. Tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết, khắc khoải của tác giả.

Tác phẩm được sáng tác năm 766 trong thời điểm Trung Quốc đã chấm dứt loạn An Lộc Sơn. Loạn An Lộc Sơn đã gây ra hậu quả khủng khiếp. Triều đại nhà Đường rơi vào suy thoái. Cả nội chiến và ngoại xâm đều có nguy cơ bùng nổ. Tình cảnh của nhân dân vô cùng khốn khổ, bản thân Đỗ Phủ cũng phải trải nghiệm sự khốn khổ, điêu linh đó.

Khi ấy Đỗ Phủ đến vùng đất Tứ Xuyên, được sự giúp đỡ của một người bạn thân làm quan nhưng sau khi bạn thân mất, ông mất chỗ dựa. Đưa gia đình về nhưng đói khổ nên bị mắc lại ở Quỳ Châu hai năm trong tình cảnh nghèo túng, bệnh tật, bế tắc. Trong những năm này ông sáng tác nhiều, giọng thơ bi thiết, buồn thảm.

Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.

Câu thơ đầu đã cho độc giả thấy ba hình ảnh đặc trưng nhất của mùa thu là: rừng phong, hạt móc, nghìn thu, ba hình ảnh này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau gợi cảm giác lạnh lẽo, thê lương. Sương móc vốn là loại sương đặc trưng của mùa thu Trung Quốc, loại sương gợi nên sự giá buốt, lạnh lẽo. Nhưng trong câu thơ dịch không truyền tải được tinh thần của nguyên tắc: Sương móc rơi lác đác – lác đác là tính từ cho thấy sự thưa thớt của những hạt sương rơi.

Tạo nên cảnh tượng mờ ảo, quyến rũ. Nguyên tắc phải là Sương móc trắng xóa dày đặc, giăng mắc, bao phủ khắp không gian, cảnh vật. Màu trắng không gợi ra sự tinh khôi, thanh khiết mà gợi ra sự ảm đạm và hiu hắt, lạnh lẽo. Kết hợp với làn sương trắng xóa, hiu hắt là hình ảnh rừng phong, vốn rừng phong vào mùa thu có màu đỏ, gợi nên sự ấm nóng, rực rỡ. Nhưng với làn sương trắng xóa dày đặc, đã khiến cả rừng thu trở nên xơ xác, tiêu điều.

Sang đến câu thơ thứ hai, khắc họa rõ nét hơn sự ảm đạm, hiu hắt của khung cảnh thiên nhiên. Vu sơn, Vu giáp là những dãy núi chạy dài, không có một khoảng trống. Vùng núi cao ấy không bao giờ thấy ánh sáng mặt trời nên rất tăm tối, ảm đạm. Kết hợp với làn sương dày đặc càng khiến không gian thêm ảm đạm, hiu hắt hơn. Ba hình hình kết hợp lại với nhau mang đến cho người đọc sự cảm nhận về bức tranh cảnh thu nơi đất khách: lạnh lẽo, tiêu điều, hiu hắt tăm tối.

Nếu ở hai câu đề, tác giả bao quát cảnh thu theo chiều rộng thì ở hai câu thực, tác giả bao quát cảnh thu theo chiều cao: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thương phong vân tiếp địa âm. Câu thơ được tác giả sử dụng kết hợp biện pháp nghệ thuật đối và phóng đại: Sóng vọt lên tận lưng trời; Mây sà xuống giáp mặt đất. Hai sự vật thiên nhiên vận động trái chiều: vọt lên, sà xuống, các động từ đã nhấn mạnh hơn nữa vào sự vận động ngược chiều đó.

Hai sự vật vận động ngược chiều, ép sát vào nhau, khiến không gian bị ken đặc lại, bị lấp kín bởi cái mờ ảo, hoang vu của sông và mây. Bức tranh thu hiện lên hùng vĩ nhưng âm u, dữ dội, đầy ngột ngạt. Bốn câu đầu mở ra không gian nhìn từ xa: rừng phong, sông núi, cửa ải,… bốn câu sau mạch thơ có sự vận động về gần, trước mắt tác giả là hình ảnh:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Với ý tứ sâu xa, bản dịch thơ đã không truyền tải được hết ý nghĩa của nguyên tác. Câu thơ thứ năm mang đến nhiều cách hiểu, khi chủ thể của hoạt động nước mắt tuôn rơi đều bị ẩn đi. Câu thơ có thể hiểu nước mắt tuôn rơi là của khóm cúc vì những cánh hoa nở ra đều mang hình giọt lệ, khóm cúc nở hoa cũng là khóm cúc đang tuôn rơi những giọt lệ. Nhưng cũng có thể hiểu chủ thể của nước mắt là thi nhân. Cứ mỗi lần nhìn khóm cúc nở hoa là một lần nhận ra thời gian chảy trôi, mà mình thì bị buộc ở đây mãi, càng chạnh lòng, lại thức dậy nỗi nhớ quê trong bất lực.

Dù hiểu theo cách nào câu thơ chất chứa nỗi buồn đau của tác giả mỗi khi hoa cúc nở. Khóm cúc nở hoa đã hai lần nhấn mạnh vào con số, hai năm – khoảng thời gian gia đình tác giả lưu lạc và mắc lại ở mảnh đất Quỳ Châu. “Lưỡng khai” còn là con số ước lệ – số nhiều – gợi ra nỗi đau triền miên và dai dẳng. Không chỉ năm nay hoa cúc nở mới làm thức dậy nỗi đau mà nỗi đau ấy từ năm ngoái, cho thấy nỗi đau triền miên, dai dẳng, thường trực từ rất lâu. Nỗi đau trong bế tắc – nỗi đau thời thế, nỗi nhớ quê hương mà không thể nào có thể trở về quê hương.

Cảnh ngộ lẻ loi của tác giả thể hiện rõ ràng hơn trong hình ảnh “cô chu” – hình ảnh con thuyền cô đơn, lẻ loi. Đồng thời gợi ra cảnh ngộ cô đơn, lẻ loi, trôi nổi nơi đất khách của tác giả. Câu thơ trước hết là hình ảnh thực: con thuyền chở gia đình nhà thơ về quê đã bị mắc lại ở Quỳ Châu. Đằng sau nghĩa thực là một hàm ý: gửi gắm nỗi nhớ quê buộc chặt trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách. Chữ “buộc” trở thành nhãn tự của câu thơ, vừa là sợi dây buộc con thuyền, vừa là sợi dây thắt lòng người.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Trong nỗi nhớ quê hương da diết ấy, cảnh rộn ràng tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập áo dồn dập càng cho thấy rõ hơn nỗi niềm của kẻ xa quê phải tha hương nơi đất khách quê người. Nhưng bên cạnh đó hình ảnh ấy còn cho thấy nỗi lo lắng vì đất nước vẫn chưa được yên bình.

Với ngôn từ hàm súc, cô đọng, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Đỗ Phủ đã tái hiện bức tranh thu xơ xác, tiêu điều, lạnh lẽo. Đằng sau bức tranh ấy còn gửi gắm tâm trạng bài thơ: nỗi lo cho đất nước, nỗi nhớ quê hương và nỗi xót xa cho thân phận của chính mình.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 6

Đại thi hào Nguyễn Du đã từng đúc rút ra quy luật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thật vậy, dù cảnh có tráng lệ đến nhường nào, nhưng cũng vì tâm trạng con người mà nao núng theo. Đỗ Phủ khi xưa, vì mang trong mình nỗi nước nhà mà khiến cho mùa thu sầu như đổ lệ, để rồi nỗi lòng thi nhân khắc lên thành ánh thơ “Thu hứng”. Đó thật sự là một tuyệt tác của đời thơ Đỗ Phủ

Kể tên mười nhà thơ Đường xuất sắc nhất, sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua Đỗ Phủ, người từng được mệnh danh là “thánh thơ”. Cuộc đời ông gắn nhiều với những đau khổ bất hạnh, lúc nhỏ thì đói nghèo bệnh tật, khi trưởng thành lại vướng vào cảnh chiến tranh. Chưa bao giờ ông thôi làm thơ, ông gửi trọn lòng mình vào câu chữ. Khi sáng tác bài thơ “Thu hứng”, thi nhân đã trải qua mười một năm lưu lạc nơi xứ người sau loạn An Lộc Sơn.

Ông sống cuộc đời lưu lạc ấy ở vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, nơi mà núi non thi nhau hiểm trở, trùng trùng điệp điệp. Trước nơi đây, một hồn thơ Đỗ Phủ lại hướng về quê cũ, trĩu nặng suy tư. Và cũng từ đó, thi nhân mượn mùa thu để kí thác lòng mình. Như bao bài thơ Đường khác, “Thu hứng” cũng được chia làm bốn phần đề thực luận kết.

Bốn câu đầu, tác giả vẽ nên bức tranh mùa thu nơi vùng Quý Châu, có núi, có mây, có trời. Bốn câu sau là nỗi niềm của thi nhân khi đứng trước mùa thu, nhưng thực chất là đứng trước lòng mình mà nghĩ về phận lưu lạc. Mỗi phần đều có những đặc sắc về nghệ thuật và nội dung mà chúng ta còn phải khâm phục đến ngày hôm nay. Đứng trước cảnh Quý Châu núi rừng bạt ngàn, tự nhiên lòng thi nhân cũng treo vào rừng vào núi:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

(Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn non hiu hắt khí thu loà.)

“Thi trung hữu hoạ”, đối với trong thơ Đỗ Phủ quả không sai. Ta như nhìn được nét tay thi nhân chấm điểm từng nét của cảnh vật. Mùa thu về trên rừng phong, trên sương móc và núi non. Rừng phong có lẽ đã trở thành cổ điển cho mùa thu, khi lá phong chuyển màu đỏ cũng là lúc thu về. Nhưng cái nhìn tinh tế của Đỗ Phủ ở chỗ, ông nhìn được sương móc trên những cành phong rụng dần lá ấy.

Lá phong mang màu đỏ sẫm li biệt, lại rụng dần theo ngày tháng, ắt hẳn là nói đến buồn đau, chia li. Nỗi buồn ấy dường như trở thành muôn thuở trong cảm xúc của mùa thu. Và giọt sương thêm vào cũng làm không khí trở nên u ám tiêu điều hơn. Cảnh thu được nhìn từ trên cao mà bao quát, nhưng dường như càng trên cao lại càng thấy xa lạ cô đơn.

Ở câu thơ thứ hai, điểm nhìn vẫn treo chênh vênh trên đỉnh núi ấy. Ba chữ “khí tiêu sâm” vang lên làm mọi thứ cũng trở nên tối tăm mù mịt. Bản dịch dùng hai chữ “hiu hắt”, tôi nghĩ có lẽ vẫn chưa làm bật lên được sự u ám đến lạnh người ấy. Không gian đó trùm lên khắp Vu sơn, Vu giáp, làm núi Vu, hẻm Vu lại càng hiểm trở.

Cả không gian núi non của vùng đất Ba Thục xưa hiện ra trước mắt tầng tầng lớp lớp. Mây mù che phủ cả núi cả rừng, là mây mù tự nhiên hay lòng thi nhân sầu mà tự khắc sinh mây? Nhà thơ đã nhuốm cả ngòi bút bằng tâm trạng u sầu của mình mà vẽ nên cảnh vật. Hai câu thực tiếp theo, ta vẫn thấy cảnh vật nhuốm màu tâm trạng bi thương của tác giả. Núi non khép lại lại mở ra sông nước bạt ngàn:

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

(Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Thi nhân giờ đây không còn phải ngước mắt lên mà thu trọn cảnh vật vào nữa. Hơi thu toả vào tình sông nước, bi thương mà hùng tráng đến nao lòng. Các tính từ “rợn, thẳm” gợi tả được cái hồn của cảnh vật và cả hồn người. Vì thác ghềnh, sông hẹp nên sóng từ giữa sông cứ thế vọt lên như một cảnh dị thường trong đời. Lòng sông hay lòng người mà sâu thẳm đến vậy? Liệu đây có phải cảm giác rợn ngợp của tác giả khi đứng trước cả sóng nước lòng sông bao la? Con người dường như quá nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ.

Đến câu thơ thứ ba, mây mù lại lan toả khắp chốn: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”. Lúc trước là sóng chạm trời, bây giờ lại là mây tiếp đất, cảnh vật chỉ có thể gọi bằng hai chữ “hùng tráng”. Mây đùn mây dày đặc như tiếp đất, vừa tả thực lại vừa lột tả tâm trạng. Vùng mây ấy che đi cả cửa ải, che lối về chốn cũ của thi nhân. Lòng người giờ đây cũng giăng mắc trong mây, cũng mập mờ khi nhìn về cố hương.

Bốn câu thơ đầu đã lột tả được hồn của cảnh vật. Khí thu nơi đây có cái hùng vĩ tráng lệ của thiên nhiên núi rừng, nhưng lại đơn độc, lẻ loi và mang màu u ám. Cả bức tranh của vùng Quý Châu cứ ẩn hiện trong tâm trí người đọc. Tác giả chỉ điểm chứ không tả, nên sức khơi gợi càng lớn hơn bao giờ hết. Đứng trước một cảnh trời thu như vậy, lòng tác giả liệu có thể an yên?

Trong thơ cổ, thiên nhiên và con người vốn là thể hợp nhất. Cảnh núi non Quý Châu buồn như vậy, tâm trạng của người ngắm cảnh liệu có thể vui? Như một quy luật tất yêu, bốn câu thơ sau đã vén mở bức tranh tâm trạng thầm kín của thi nhân:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Đây có lẽ là hai câu thơ hay nhất trong cả áng thơ cảm hứng mùa thu. Câu thơ vừa có cảnh, lại vừa sinh tình. Không còn là những trùng điệp hùng vĩ của thiên nhiên, tác giả quay về với khóm cúc trước mặt. Dùng cúc để gợi mùa thu, đó không phải là nét mới của Đỗ Phủ.

Nhưng trước màu hoa cúc ấy mà tuôn lệ thì có lẽ chỉ có nỗi lòng Đỗ Phủ. Hoa cúc nở nhưng lòng người lại tàn đến xơ xác. Liệu có phải mùa cúc nở cũng là mùa thu nơi cố hương của tác giả, làm người lại nhớ đến những mùa thu xưa? Tức cảnh sinh tình, cúc cũng vì thế mà sinh lệ theo.

Cái tài của Đỗ Phủ là dùng được những hình ảnh, chỉ cần nhắc đến là người ta hiểu được tâm trạng mình. Trên dùng cúc, câu thơ dưới tác giả đặt hai chữ “cô chu”. Dùng hình ảnh con thuyền thôi cũng đã gợi sự lưu lạc thương nhớ lắm rồi, chữ “cô” lại làm nó đơn độc lạc lõng đến nhói lòng.

Con thuyền ở chở nỗi lòng thương nhớ, chở khát vọng quay về, nhưng dường như trước cả núi non mây mù, nó không tìm được lại phương hướng. Lòng tác giả cũng ngổn ngang bề bộn như con thuyền đơn độc kia. Bức tranh mùa thu kia mới chỉ có tĩnh mà chưa có động, mới có hoạ mà chưa có thang. Hai câu kết, có chút âm thanh vang lên như muốn đem lại sự sống:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Bóng chiều giờ đây đã buông xuống nuốt trọn cảnh vật và tâm hồn thi nhân. Còn lại trong cảnh chỉ là tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập vải. Là âm thanh của sự sống nhưng dường như lại nhỏ nhoi quá, không đủ để phá đi cái âm u của cảnh và làm ấm lại lòng người.

Trái lại, nó làm thi nhân nhớ đến những người lính nơi biên ải khi loạn nước chưa dẹp xong, chưa thể về bên gia đình. Tiếng đập vải ấy lại càng thêm chua chát. Cái lạnh lẽo của mùa thu đã bao trùm lên tất cả ,lên cả tiếng đập vải giữa trời chiều. Âm thanh ấy khép lại bài thơ, để rồi thả vào hồn người đọc những âm vang còn băn khoăn mãi.

Như vậy, cả bài thơ là hồn của cảnh và người vùng Quý Châu. Thiên nhiên dẫu có đẹp, có hùng vĩ đến đâu cũng không làm cho lòng người khởi sắc. Vẫn là một nỗi hoài niệm về chốn cũ chất chứa, như một chiếc thuyền đơn độc lẻ loi hay tiếng đập vải giữa đất trời. Ta thấy được cả một tài năng nghệ thuật trong cách tạo vế đối, cách dùng từ, đặt câu.

Đỗ Phủ đã dùng lòng mình mà trải nên thơ, đã biết cảm hứng mùa thu thành khúc thu của nhân loại. Thời gian rồi sẽ trôi, nhưng “Thu hứng” vẫn sẽ nằm ngoài sự băng hoại của nó!

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 7

Tác giả Đỗ Phủ (712 -770) là nhà thơ lớn, không chỉ của đời Đường, mà cả của lịch sử thơ ca Trung Quốc. Đỗ Phủ làm thơ từ lúc 7 tuổi, lúc nhà Đường còn phồn vinh, nhưng tài năng của ông nở rộ vào giai đoạn sau sự biến An Lộc Sơn – Sử Tư Minh (755 -763), lúc đất nước Trung Quốc chìm ngập liên miên trong cảnh loạn li. Và khi ấy Đỗ Phủ cùng gia đình cũng phải chạy loạn nhiều nơi. Phản ánh hiện thực và bày tỏ thái độ, tâm trạng trước hiện thực khốn khổ của nhân dân, của nạn chiến tranh, nạn đói là nội dung cơ bản của thơ ca Đỗ Phủ. Ông đặc biệt thành công ở mảng thơ biểu hiện tâm trạng khác nhau khi sống trong cảnh tha phương cầu thực vì loạn li – trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ “Thu hứng” gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật.

Tác phẩm Cảm xúc mùa thu (Thu hứng 1) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Là một bài thơ tả cảnh và tả tình, bài thơ có kết cấu khá quen thuộc : bốn câu đầu thiên về tả cảnh, bốn câu sau thiên về tả tình. Phong cảnh mùa thu mang những nét đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của một người đang phải tha phương cầu thực, nhớ quê hương nhưng không thể trở về nên hiu hắt và rất buồn. Bức tranh phong cảnh có đủ màu sắc, hình khối, đường nét và âm thanh, tất cả tạo nên sức gợi cho bài thơ. Đây là một bài thơ điển hình cho thể thơ luật Đường và cho phong cách thơ trữ tình hiện thực Đỗ Phủ.

Đỗ Phủ và Lí Bạch là hai đỉnh cao chói lọi của thơ Đường, tạo nên hai khuynh hướng trong Đường thi. Lí Bạch mang phong cách lãng mạn, một người lãng mạn cuồng phóng ; Đỗ Phủ mang phong cách hiện thực, một hiện thực sâu sắc. Cuộc đời của Đỗ Phủ gắn liền với điều kiện xã hội đầy biến động của đất nước Trung Hoa thời loạn An Lộc Sơn -Sử Tư Minh. Chứng kiến cảnh đất nước loạn li và là nạn nhân của xã hội thời loạn nên văn thơ của “Thi thánh” Đỗ Phủ chứa đựng chất liệu hiện thực rất phong phú. Thơ ông được coi là “thi sử” với nghệ thuật điêu luyện và khả năng truyền tải nội dung tư tưởng thời đại rất diệu kì. Xuất thân trong gia đình Nho học, mấy đời làm quan, ông nội là nhà thơ Đỗ Thẩm Ngôn nổi tiếng thời Sơ Thịnh Đường, Đỗ Phủ mang trong mình lí tưởng của người quân tử, muốn tiến thân bằng con đường khoa cử, cứu nước giúp đời. Nhưng triều đình phong kiến thối nát, vua tôi ăn chơi sa đọa thời ấy đã làm lí tưởng của ông đổ vỡ. Ông bị đẩy xuống tận đáy xã hội và phải chết đói trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách quê người. Qua thơ Đỗ Phủ, xã hội đời Đường ở hai giai đoạn trước và sau loạn An Lộc Sơn hiện lên rất đậm nét. Mang tâm trạng đau đời của một con người có trách nhiệm với dân tộc, với đất nước nên thơ ca Đỗ Phủ là những vần thơ thấm nỗi buồn và đẫm nước mắt.

Chùm thơ “Thu hứng” thể hiện rất rõ nỗi đau đời ấy của thi nhân. “Thu hứng” được sáng tác năm 766, bốn năm trước khi nhà thơ qua đời. Đây là giai đoạn nhà thơ đang cùng gia đình chạy loạn trong cảnh đói rét và bần hàn, cũng là thời kì chín muồi tài năng của ông. Một bài thất ngôn bát cú Đường thi thường có cấu trúc bốn phần là đề, thực, luận, kết và có những quy tắc riêng cho nội dung từng phần. Thế nhưng cấu trúc ấy cũng có thể chia làm hai phần phần vịnh cảnh và phần tả tình – nhất là đối với những bài trữ tình phong cảnh. Nội dung của bài Thu hứng cũng có thể phân chia theo kiểu cấu trúc thứ hai. Bốn câu đầu tả cảnh, bốn câu sau bày tỏ tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Tất nhiên cách phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối bởi trong thơ ca nói chung và trong thơ Đường nói riêng, tình và cảnh không thể tách rời, cảnh bao giờ cũng chứa tình và tình thì khó có thể bày tỏ nếu thiếu cảnh. Trong Thu hứng, cảnh và tình hòa quyện tạo nên khả năng biểu đạt tâm trạng cho bài thơ. Thơ Đường thường có những quy định rất chặt chẽ về niêm luật, về thi liệu, về đề tài. Hình ảnh và ngôn từ trong thơ Đường, vì vậy, thường không phong phú. Các nhà thơ thường có thói quen sử dụng một số hình ảnh và ngôn từ mang tính quy ước nhất định. Nhưng chính những yêu cầu ngặt nghèo về thi pháp ấy lại kích thích khả năng sử dụng ngôn ngữ của các nhà thơ cổ điển. Với những hình ảnh và vốn từ ngữ không nhiều ấy họ đã tinh luyện ngôn từ tạo cho ngôn ngữ thơ khả năng cô đọng, hàm súc ở mức tối đa. Cảnh mùa thu là đề tài quá quen thuộc của mọi loại hình nghệ thuật. Thiên nhiên mùa thu dường như đã mang sẵn trong nó phẩm chất tượng trưng nghệ thuật. Mọi loại hình nghệ thuật đều đã có những kiệt tác về đề tài mùa thu. Và trong văn học, nghệ thuật của ngôn từ, thì đề tài mùa thu đã có rất nhiều kiệt tác. Trong thơ ca phương Đông, cảnh mùa thu xuất hiện rất thường xuyên. Vì vậy, xét về đề tài, về hình ảnh thơ thì Thu hứng của Đỗ Phủ không có gì mới lạ. Cái mới lạ thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ và cũng là thành công của bài thơ chính là ở nghệ thuật miêu tả, sử dụng sáng tạo niêm luật thơ và nhất là hình tượng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Bốn câu thơ đầu tả cảnh mùa thu với những hình ảnh rất quen thuộc, đó là rừng phong, là khí trời u ám, mặt nước mờ sương :

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Bốn câu thơ tả cảnh thu vừa có chất nhạc vừa có chất hoạ. Đủ cả sắc màu, đường nét và âm thanh. Nhưng sắc màu không sáng, thanh âm không vui. Đường nét, hình ảnh của bức tranh thì rất hùng vĩ, mở ra một khung cảnh thiên nhiên với đủ núi rừng, sông nước, bầu trời và cửa ải. Một không gian rộng nhưng có giới hạn chứ không vô tận. Đó là một không gian u ám của một buổi sáng mùa thu không có ánh bình minh. Không khí u ám được gợi lên ở những từ ngữ “điêu thương”, “khí tiêu sâm”, “tiếp địa âm”. Nó gợi cảm giác u ám và lạnh lẽo. Nhạc tính được thể hiện ở nghệ thuật bố trí thanh bằng trắc và cách gieo vần. Bốn câu thơ này có tới ba câu gieo vần bằng, đồng thời lại sử dụng rất nhiều thanh bằng (17/28 thanh bằng), tạo nên cảm giác mênh mang của tâm trạng trữ tình. Xét về nội dung, đây là bốn câu thơ tả thực cảnh mùa thu với những nét thu rất đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Tính chất cổ điển của Đường thi thể hiện ở bốn câu thơ này. Có thể hình dung một người hoạ sĩ đứng ngắm mùa thu và cất bút vẽ, bắt đầu nhìn từ cảnh gần, từ rừng phong rồi đến dòng sông, xa hơn nữa là dãy núi và cuối cùng tầm nhìn bị cản trở bởi cửa ải xa đầy sương mù.

Cảnh thực mùa thu Trung Quốc thường buồn lạnh như vậy, nhưng cái khí u ám của bức tranh sơn thuỷ hùng vĩ này còn được tạo nên bởi tâm tư người dựng cảnh. Chủ thể sáng tạo bức tranh chắc phải mang tâm trạng rất u sầu thì mới thể hiện thần thái u buồn ấy của bức tranh. Cảnh và tình có sự giao hoà tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy tâm sự. Không gian nghệ thuật bài thơ có đủ chiều cao, chiều rộng nhưng không thoáng mà rất nặng nề. Bởi không gian và cảnh sắc mùa thu ấy được nhìn dưới con mắt của một con người đang phải sống tha hương trong cảnh khốn khó, phải chứng kiến dân tộc đang trong cảnh loạn li. Hướng về quê hương trong nỗi nhớ da diết nhưng không thể trở về được càng làm cho tâm trạng thêm u sầu. Ánh mắt hướng về nơi quê nhà ấy bị cản trở bởi cửa ải mây mù. Tâm trạng đau buồn của người tha hương thời loạn được bộc lộ trực tiếp hơn ở phần hai, phần tả tình của bài thơ :

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Bốn câu thơ nói đến cảnh ngộ và tâm trạng của chủ thể trữ tình. Hai phần của bài thơ có vẻ như độc lập về nội dung. Mạch cảm xúc có sự chuyển hướng đột ngột, nhưng thực ra đây là bước phát triển tất yếu của tâm trạng thơ. Cảnh buổi sáng mùa thu u ám gợi liên tưởng đến thực tại và những ngày kế tiếp của cảnh chạy loạn. Chẳng có gì sáng sủa hơn cho những ngày sắp tới. Nỗi nhớ quê hương trỗi dậy trong lòng người lữ thứ khi thu sắp tàn và đông sắp tới. Tư tưởng nghệ thuật của bài thơ được tập trung ở câu “Cô chu nhất hệ cố viên tâm”.

“Cô chu” là con thuyền đơn độc trên sông. Đây là hình ảnh thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là một biểu tượng nghệ thuật. Khi chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ đã phải sống trên một con thuyền thả trôi trên sông Trường Giang. Loạn lạc nên họ không thể trở về quê hương được. Tấm lòng thương nhớ quê nhà đành buộc chặt nơi con thuyền nhỏ ấy. Hình ảnh con thuyền còn mang một ý nghĩa khái quát, nó đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật của văn học, dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người. Lí Bạch từng dùng hình ảnh “cô phàm” để thể hiện tâm sự cô đơn, đồng thời thể hiện cảnh ngộ cô đơn và đầy bất trắc của Mạnh Hạo Nhiên khi ông bước chân vào chốn quan trường. Còn ở đây, “cô chu” thể hiện cảnh ngộ và tâm trạng của nhà thơ bất hạnh Đỗ Phủ. Năm 765, Đỗ Phủ cùng gia đình rời Thành Đô đến Vân An rồi Quỳ Châu. Vậy là trên thực tế, nhà thơ đã rời Thành Đô hai năm. Hai năm là hai mùa hoa cúc nở, hai mùa thu xa quê hương.

Người ta xa quê đi tha phương bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Còn với chủ thể trữ tình ở bài thơ này thì lí do xa quê là chạy loạn. Đó là lí do khắc nghiệt và đau thương nhất. Loạn li gây nên bao nỗi thương tâm nên nhìn hoa cúc nở mà lòng đau tưởng hoa cúc cũng rơi lệ. Nguyễn Công Trứ dịch câu thơ này là : “Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ “.Câu thơ dịch không làm rõ được nghĩa của nguyên tắc. Theo phần dịch nghĩa, có thể hiểu, người xa quê đã hai năm, nhưng dòng nước mắt nhớ quê không phải chỉ rơi hai năm mà đã từng rơi trước đó nữa. Đó không chỉ là dòng nước mắt của người chạy loạn mà còn là dòng nước mắt của nỗi đau đời. Nỗi đau được khúc xạ qua một tâm hồn nhạy cảm. Bao nỗi đau chất chứa trong lòng.

Tâm trạng “cố viên tâm” còn tiếp tục được bày tỏ trong bảy bài thơ còn lại của chùm Thu hứng. Bài Thu hứng có tính chất như là “cương lĩnh sáng tác” của cả chùm thơ. Nỗi nhớ quê càng da diết hơn khi người xa quê muốn trở về mà không được. Hai câu luận của bài thơ cùng phát triển một ý thơ, là điểm sáng thẩm mĩ và cũng là tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Vì nỗi nhớ quê hương, nhớ cuộc sống thanh bình nơi quê nhà xưa kia mà tâm trạng u uất, vì thế mà cảnh mùa thu vốn đã buồn lại càng nhuốm màu li biệt. Một con thuyền lẻ loi cô độc trên dòng Trường Giang dậy sóng là nơi trú ngụ của kẻ tha phương. Hướng về phía quê hương nhưng phía trước là cửa ải mịt mù, là dòng sông cuộn sóng, là loạn lạc binh đao. Một con thuyền nhỏ nhoi không đủ sức để vượt qua những cản trở đó mà trở về quê hương. Nỗi nhớ nhân lên nhiều hơn khi nghe tiếng chày đập áo, âm thanh quen thuộc và ấm áp của cuộc sống thường nhật :

Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Những ngày cuối đời sống ở Quỳ Châu, Đỗ Phủ phải sống trong một hoàn cảnh cực kì khó khăn. Đói rét hành hạ tấm thân, nỗi nhớ, nỗi đau, niềm u uất dày vò trong lòng. Lang thang nay đây mai đó trên con thuyền nhỏ rách nát lại càng thèm muốn một ngôi nhà ấm áp. Cuối thu người ta bắt đầu chuẩn bị áo ấm cho một mùa đông dài giá buốt. Tiếng chày đập áo, ngày thường thật giản dị, chẳng mấy ai để ý. Nhưng trong cảnh ngộ của nhân vật trữ tình lúc này nó có tác động rất lớn. Nó là biểu tượng cho một cuộc sống yên bình, điều mà nhà thơ đang khao khát.Sự đối lập giữa cảnh thu hiu hắt lạnh lẽo với tiếng chày đập áo trên thành Bạch Đế gợi nên sự đối lập của hai cuộc sống. Một tha phương đói rét, một ấm áp bình yên càng làm tăng nỗi nhớ quê hương của người lữ khách. Tiếng chày đập áo có sức gợi cảm rất lớn, nhất là trong mạch tâm trạng này của nhân vật trữ tình. Tiếng chày đập áo trong bóng chiều tà thật buồn, nó càng làm rõ thêm cảnh ngộ bi thương của người xa quê, nó đã tạo nên dư âm vang vọng cho bài thơ.

Bài thơ không chỉ là tâm trạng của một Đỗ Phủ trong cảnh ngộ cụ thể. Bài thơ là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là biệt li trong loạn lạc. Cảnh và tình đã có sự kết hợp rất chặt chẽ tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng của bài thơ. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. “Thu hứng”vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.

Phần lớn thơ của Đỗ Phủ là thơ luật. “Thu hứng” cũng nằm trong số đó. Về cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì quá xa lạ. Đó đều là những thi liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường ưa thích sử dụng. Nhưng với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, nhà thơ đã sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Bài thơ là một bức tranh tâm cảnh được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình. Nó mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.

Bài thơ Thu hứng 1 là bài thứ nhất -có tính chất cương lĩnh trong chùm thơ Thu hứng gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật của Đỗ Phủ, khi nhà thơ ở Quỳ Châu, lòng hướng về “vườn cũ” (cố viên). Đọc thêm Thu hứng 4 để thấy vẫn mạch cảm xúc ấy, nhưng cụ thể, mãnh liệt hơn, hồi cố những cảnh thăng bình của thủ đô Trường An những ngày còn thịnh trị.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 8

Mùa thu là đề tài được rất nhiều thi sĩ chọn để viết lên tác phẩm của mình. Tiêu biểu có thi sĩ người Trung Quốc Đỗ Phủ cũng làm về đề tài này với bài “Thu hứng”. Đỗ Phủ (712-770) tên thật là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, người tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và làm thơ lâu đời. Đỗ Phủ đã từng là một người thi năm lần bảy lượt đều trượt. Cuộc đời ông dường như sống trong nghèo khổ và bệnh tật.

Ấy vậy mà ngọn lửa văn chương trong ông luôn bùng cháy, không bao giờ tắt. Ông sáng tác thơ và để lại muôn ngàn bài thơ hay vào kho tàng thơ ca Trung Quốc, với những bài mang nội dung phong phú, sâu sắc,.. nói về lịch sử và lòng yêu nước của ông đối với quê hương đất nước, không chỉ có vậy các bài thơ của ông còn thể hiện chan chứa tình thương người. Ông đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

Ngoài những bài thơ được coi là “thi sử”, Đỗ Phủ còn có những bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình đối với thiên nhiên. Như đã nói ở trên đó là tác phẩm “Thu hứng”, là một bài thơ rất hay thể hiện cảm xúc mùa thu trong ông. Đây cũng là tác phẩm đầu tiên trong chùm thơ tám bài được tác giả viết vào năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Tứ Xuyên là vùng có cảnh đẹp, núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương của nhà thơ mấy ngàn dặm.

Tác phẩm “Thu hứng” được sáng tác trong hoàn cảnh: sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở nơi xứ người chưa được trở về quê hương vì lẽ đó đã khơi gợi cảm xúc bi thương cho nhà thơ để nhà thơ viết lên bài “Thu hứng” cảm xúc chủ đạo của bài này vì thế mà cũng bị sầu.

Thu hứng vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức thư nói lên tâm trạng của nhà thơ. Nhà thơ lo cho hiện trạng của đất nước đang lâm vào cảnh hỗn loạn, thương nhớ quê hương xa xôi và tự thương cho thân phận bất hạnh của mình ở xứ người.

Ở bài thơ này chúng ta có thể thấy ngay tác giả viết chia rõ ràng ra hai ý: ý thứ nhất thể hiện ở bốn câu thơ đầu nói về bức tranh về thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang. Ý thứ hai là bốn câu sau thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách. Ở 2 câu thơ đầu tiên tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu chỉ bằng vài nét chấm phá:

“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.”

(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)

Như ở câu thơ đã thể hiện rõ ràng tác giả đang đứng ở vị trí tương đối cao, ông ngắm nhìn được toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông xa rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay trong câu thơ đầu tiên miêu tả cảnh rừng phong: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” trong thơ Trung Quốc thì hình ảnh rừng phong gắn liền với hình ảnh mùa thu, vì mỗi độ thu về thì rừng phong lại chuyển sang màu đỏ úa, làm cho ta thấy hiện ra trước mắt là sự li biệt. Sương móc sa dày đặc làm mờ ảo, xơ xác, tiêu điều cả rừng phong.

Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ Đỗ Phủ. Tiếp đến câu thơ thứ hai: “Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm”, Vu Sơn, Vu giáp là giúp người đọc liên tưởng đến đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm sự hiu hắt. Trong phần dịch vì chưa sát ở từ “lòa” và “hiu hắt” làm chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ “khí tiêu sâm” (tối tăm, ảm đạm).

Vu Sơn là vùng núi nổi tiếng hiểm trở, hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong chuyện cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được tới xuống dòng sông. Mà vào mùa thu thì ánh nắng mặt trời yếu ớt làm cho nơi đây càng ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả của tác giả thì lại càng thêm tối tăm, ảm đạm. Vẫn tiếp tục tâm trạng như vậy quan sát cảnh thiên nhiên nơi đây, Đỗ Phủ tiếp tục viết lên những câu thơ tả thực đầy ám ảnh như có ma lực cuốn hút lòng người:

“Giang gian ba lăng khiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”

(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa)

Tiếp theo tác giả tả cảnh thu dưới thấp: cảnh giữa lòng sông, dữ dội vọt đến tận lưng trời. Nhìn vào bản dịch ta thấy được cảnh hùng vĩ, choáng ngợp của thiên nhiên nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước cảnh sắc nơi đây. Hình ảnh: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” tả cảnh sắc thực ở nơi đây mây trắng sà xuống thấp tưởng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cảnh sắc phía xa xa.

Nếu như cảnh sắc ở hai câu thơ trên là ảm đạm tăm tối thì ở hai câu sau lại hoành tráng, dữ dội. Hai cặp câu bổ sung cho nhau tạo nên một cảnh sắc tuyệt đẹp nơi đây nơi Vu Sơn vừa ẩm thấp vừa hùng vĩ. Ở bốn câu thơ tiếp, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh sắc mùa thu nơi đây, không phải là quê hương của nhà thơ. Câu năm và sáu tác giả sử dụng nghệ thuật đối hết sức chuẩn vừa là cảnh mùa thu mà cũng là tình thu, giống như là hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, thì hình ảnh hoa cúc cũng đi liền với cảnh mùa thu:

“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô thu nhất hệ cố viên tâm”.

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Câu thơ còn thể hiện rằng mỗi khi nhìn thấy hoa cúc nhà thơ lại rơi lệ, đọc câu thơ giúp người đọc thấu cảm được nỗi sầu bi của nhà thơ, sự cô đơn của nhà thơ qua nhiều năm phiêu bạt, xa quê hương chôn rau cắt rốn của mình. Hoa cúc là yếu tố làm gợi nhớ, thì hình ảnh con thuyền làm cho tác giả lại càng nhớ nhà. Con thuyền cũng là phương tiện duy nhất để tác giả trở về quê hương trong tâm tưởng.

Hai câu kết đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này làm cho bức tranh sinh hoạt trở nên sống động hơn, nhưng không đủ để xua đi cái buồn đang trong tâm trạng của nhà thơ:

“Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.”

(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Hình ảnh thu qua đông sắp sang nhắc nhở mọi người chuẩn bị đồ ấm. úc này cũng là lúc mà loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước thì vẫn chưa yên ổn, nhà thơ vẫn chưa trở về quê hương được.

Bài thơ “Thu hứng” đã giúp chúng ta thấy được Đỗ Phủ là một thi sĩ xuất sắc không chỉ phạm vi nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn vang rộng ra thế giới. Bài thơ giúp ta thấy được cảnh sắc mùa thu và còn thấy được nỗi lòng tác giả đau đáu nhớ quê hương.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 9

Cảm xúc mùa thu là sáng tác tiêu biểu trong chùm thơ mùa thu của Đỗ Phủ – thi sĩ nổi tiếng của Trung Quốc đời nhà Đường. Mùa thu vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca. Dù vậy, với Đỗ Phủ, mùa thu vẫn mang nét riêng độc đáo bởi cảm xúc và tài năng.

Bốn câu thơ đầu, tác giả miêu tả mùa thu trong bối cảnh không bình thường:

“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”.

Dịch thơ:

“Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt khí thu lòa,
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.

Với thi ca cổ, rừng phong lá đỏ từng là biểu tượng đẹp đẽ, hoành tráng của mùa thu. Ở đây thì không có gam màu ấy, chỉ có rừng phong ngập chìm trong sương thu. Hai chữ “điêu thương” đối nghịch với mùa thu lãng mạn. “Ngọc lộ” (sương móc) không phải tạo nên cái đẹp mà là nỗi “điêu thương” (tiêu điều) bao trùm lên rừng cây phong. Những câu thơ sau đó đã củng cố thêm cái dự cảm không yên ổn. Những địa danh như núi Vu, kẽm Vu từng nổi tiếng vì sự hiểm trở được miêu tả rất sinh động. Hơi thu hiu hắt, có khí mù mịt, có sống nhảy tận trời, có mây gió tựa cõi âm. Không gian đầy bất trắc là hiện thực nơi cửa ải, vốn đã sẵn nỗi buồn cho người xa xứ.

Nửa sau của bài thơ đã mang theo những tâm sự của thi sĩ:

“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm”.

Dịch thơ:

“Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà”

(Nguyễn Công Trứ dịch)

Nỗi buồn li biệt đã khiến hoa cúc hơn một lần rơi lệ. Những khóm cúc qua mùa thu những tưởng thêm hương thêm sắc, hóa ra chỉ thêm giọt lệ. Lệ của hoa và nước mắt của người. Và tấc lòng hướng về nơi quê cũ vườn xưa thanh bình như một mối dây ràng buộc, như neo lại con thuyền cô quạnh, con thuyền định mệnh từng lênh đênh theo nhà thơ, kể cả lúc trở về với cõi vĩnh hằng. Chủ đề của bài thơ, tâm sự của tác giả được gửi gắm nhiều trong hai câu thơ vào hàng tuyệt tác của bài này nói riêng cũng như của thơ Đường nói chung:

Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà”…

Hai câu thơ là một tiểu đối hoàn chỉnh về âm, về ý, lại như những giọt nước mắt cô đọng sâu thẳm cảm xúc.

Đến hai câu thơ cuối, tác giả trở về với hiện thức mắt thấy tai nghe nhưng cũng rất gợi cảm:

“Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà”.

Ở đây, câu chuyện chuẩn bị áo rét cho mùa đông sắp đến cũng rất xúc động. Cái lạnh lùng của thời tiết khiến nơi lo may cắt, giặt giũ, chuẩn bị áo ấm. Trong thơ cổ Trung Quốc, tiếng chày đập lụa giặt áo có sức gợi rất lớn. Nó là tập quán, là biểu tượng. Bạch Cư Dị từng có bài thơ “Nghe tiếng chày đêm”. Tiếng chày có bâng khuâng về nỗi nhớ ấm lạnh, về sự từ giã lúc chuyển mùa, về tình cảm đôi lứa… Ở hai câu thơ này, những từ như “xứ xứ”, “cấp” cùng các từ “thôi xích”, “Bạch đế thành” còn gợi về khung cảnh binh đao, về thời buổi loạn lạc, nội chiến mà nơi nơi đang phải gánh chịu.

Thơ Đỗ Phủ rất có linh hồn nên không gò theo luật lệ Đường thi với bố cục: đề – thực – luận – kết. Hai phần rõ rệt của bài: bốn câu đầu có nhiều yếu tố ngoại cảnh, bốn câu sau nhiều tâm sự. Bài Cảm xúc mùa thu gắn liền với thẩm mĩ thơ ca cổ, nhưng cũng rất mới mẻ. Do gắn liền với cảnh đời thực nên sức tả, sức gợi cũng rất lớn. Chính chất hiện thực đã làm nên sức sống mạnh mẽ cho bài thơ này.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 10

Đỗ Phủ (712 – 770) tên chữ là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, người huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Thủa trẻ Đỗ Phủ cũng đi thi nhưng không đỗ. Suốt cuộc đời, ông sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Tuy vậy, ngọn lửa đam mê văn chương trong lòng ông không bao giờ tắt. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

Bên cạnh những bài thơ được coi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ), Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu). Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu.. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của Thu hứng.

Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, Vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li: lo cho hiện tình của đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.

Phân tích bài Thu hứng của Đỗ Phủ để thấy được những cảm xúc, tâm sự thầm kín của nhà thơ

Phiên âm chữ Hán:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch nghĩa:

Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong
Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt
Gió lộng sông, sóng vọt lên tận lưng trời,
Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u.
Khóm cúc nở hoa đã: hai lần (làm) tuôn rơi nước mắt ngày trước,
Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ.
Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
Về chiều, thành Bạch Đế cao, tiếng chày đập áo nghe càng dồn dập.

Dịch thơ tiếng Việt:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

(Nguyễn Công Trứ dịch)

Bài thơ có thể chia làm hai phần: Bổn câu thơ đầu (đề, thực) là bức tranh vé thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang. Bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách.

Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,

(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)

Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đôi cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong:

Ngọc lộ điếu thương phong thụ lâm (Lác đác rừng phong hạt móc sa). Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.

Câu thứ hai: Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Nhắc, đến Vu sơn, Vu giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm). Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp khiến bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh Quý Châu. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ. Được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, tuyệt không có một chỗ trống. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm.

Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.

Vẫn tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng như thế nên Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực đầy ám ảnh như có ma lực cuốn hút hồn người:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Ở hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch : Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa.

Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.

Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiển hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô biên, vô tận. Tuy tác giả chưa nhắc tới cảnh đời điêu linh nhưng hình như nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang và mây xám mịt mù vùng quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng.

Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất Chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ.

Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. Câu thơ nguyên văn chữ Hán ; Tùng cúc lường khai tha nhật lệ (Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước). Nguyễn Công Trứ dịch thoát ý là : Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chửa sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xạ quê hương sâu nặng nghĩa tình. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào.

Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh con thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: Cô chu nhất hệ cố viên tâm. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ). Câu thơ dịch bỏ mất tính từ cô trong Cô chu chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.

Hai câu kết:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.

(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ.

Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. Hãy đọc lại câu thơ thứ tư: Tái thượng phong vân tiếp địa âm. (Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u). Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó. Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang… “Ngôn tận nhi ý bất tận” (lời hết mà ý không hết). Đỗ Phủ cảm thấy Không lời lẽ nào có thể nói hết nỗi niềm Thu hứng.

Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu “, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.

Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng có sự liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.

Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Thu hứng dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như Đăng cao, Mao ốc thu phong vị sở phá ca . . được lưu truyền rộng rãi qua hàng ngàn năm, Thu hứng góp phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ Phủ. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh lá bậc “Thi thánh” của thơ? Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 11

Bài thơ này vừa là bức tranh phong cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của Đỗ Phủ trong cảnh loạn ly. Ông lo cho vận nước đang cơn bĩ cực và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách quê người.

Dịch nghĩa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Đứng ở thành Quỳ Châu, nhìn ra phong cảnh bốn bề. Lúc ấy sương móc sa xuống, lá phong trong rừng đã thấy úa vàng, trên dãy núi Vu Sơn, bóng tối mịt, mù, đủ thấy khí hậu rét lắm. Ớ nẻo xa xa trong lòng sông, làn sóng cồn liền với chân trời. Trên ngọn núi, vài bóng mây lờ mờ tiếp với mặt đất. Thình lình nghĩ đến cảnh mình, tác giả sực nhớ mình đã lênh đênh đất khách đến hai năm trời, khóm cúc ở các nhà chắc đã hai lần nở hoa, sau này về trông thây chắc phải xót cảnh lưu lạc mà rỏ nước mắt.

Bây giờ tạm trú ở đây, không phải là lâu dài chắc chắn, cho nên cứ luôn nhớ đến quê hương, lòng mong mỏi cố hương của mình chẳng khác gì một chiếc thuyền lênh đênh giữa dòng sông có lúc buộc lại. Nhưng cái ngày ấy biết là ngày nào? Hiện nay mùa thu sắp hết, mùa rét sắp đến, trên thành Bạch Đế mỗi lúc trời chiều, tiếng chày đập vải đã thấy rộn rịp, mau kíp như giục những ai quên việc kéo thước phải sắm áo lạnh. Đáng buồn vô cùng (Ngô Tất Tố dịch).

Dịch thơ:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Nguyễn Công Trứ dịch

“Hứng” là nói “nổi lên” (hứng). Gái đẹp đương xuân thì ý nồng nàn, chí sì trước thu thì tình sâu xa; phàm núi sông rừng núi, gió khói, mây sương, sắc cò, hương hoa, cái mắt thấy, điều tai nghe, có gì là không cùng với tấc lòng cùng chứa chất nhau, là không chợt tự nhiên tiếp xúc mà phát sinh ra. Tiên sinh với tấm lòng trung tín gặp buổi nhiêu linh, lại đem cái thân lưu ngụ trải qua mùa thu héo rạng này, thì hứng ấy thực là hứng mất hết, lòng nguội tro, ý tiêu tan, chẳng có mảy may hứng nào, vì thế có tám bài này. Số bài mô phỏng của người sau nhiều đến thế như “mồ hôi trâu đầy cột” (hãn ngưu sung đồng); thấy tiên sinh khéo đặt đề thơ, họ cũng từng làm thử theo. Đầu đề là “thu hứng” mà thơ thì lại không có hứng. Người làm thơ trong lòng không có hứng mà lại muốn làm thu hứng, vì thế chẳng những thơ đúng thực là tha diệu mà đề cũng đúng thực là để diệu; chẳng những đề đúng thực là đề diệu mà tiên sinh cũng đúng thực là người diệu. Từ xưa đến nay, thơ gồm bao nhiêu bài thì nhiều thêm một bài không được, mà ít đi một bài cũng không được. Như thế này gồm tám bài thì bảy bài không được, mà chín bài cũng không được. Tôi nói như vậy nhiều lần rồi mà có người chưa mấy tin: xin hãy xem thơ này bài thứ nhất thuần tả “thu”, bài thứ tám thuần tả “hứng” thì sẽ biết tám bài là một vậy.

(1 – 4) “Lộ” (móc) mà nói là “ngọc lộ” (móc ngọc), “thụ lâm” (rừng cây) mà nói là “phong thụ lâm” (rừng cây phong); chỉ một cõi “điêu thương* (héo hon) mà “trắng” thì tả rất mực “trắng”, “đỏ” thì tả rất mực “đỏ”, “thu” sở dĩ “hứng” chính là vì thế. Tiếp theo hạ chữ “Vu Sơn”, “Vu Giáp”, liền thấy cái khí “tiêu sùm” (mịt mờ), thảy đều lạnh lùng, vắng lặng, mà hai câu “ba lãng”, “phong ván” thì thừa tiếp ngay “Vu Sơn, Vu Giáp”. Còn như nói “móc ngọc” tả tơi, “rừng phong” soi lá, thì tả cảnh ấy tuy khiến cho người chí sĩ thêm nỗi bi ai, cũng là nơi mà kẻ u nhân gửi niềm hoài bão. Sao lại ở hoài chốn Vu Sơn, Vu Giáp mà ngước mắt nhìn sông, chỉ thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thấy gió mây mịt mờ liền đất?

Thực đáng đau đớn bi thương! Khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt. Một giải xâu suốt cả tám bài, nối thẳng câu cuối “giai nhân thập thúy” (người đẹp nhặt lóng chim thúy), rồi than “bạch đầu ngâm vọng khổ đê thùy” (đầu trắng ngâm trong khổ cúi buồn).

(5 – 8) Kẻ không biết thì bảo “lưỡng khai” (nở hai lần) ấy là “tùng cúc” (khóm cúc), đâu biết rằng “lưỡng khai” ấy đều là “tha nhật lệ” (nước mắt ngày sau)! Kẻ không biết thì bảo “cô chu” (con thuyền lẻ loi) hà tất phải “nhất hệ” ấy chỉ là “cố viên tâm” (lòng nhớ vườn xưa)! Trên chữ “lệ” đặt chữ “tha nhật”: tuyệt diệu! Chỉ có chính mình ở vào hoàn cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói “xứ xứ” (nơi nơi) chính là tiên sinh “buộc lòng” (hệ tâm) vào một nơi (nhất xứ); Bạch Đế thành ở phía đông Quý Phủ: đây là nói gần để chỉ xa vậy. Trong bụng nghĩ đến “dao thước” (dao xích) trong nhà, mà trong tai chỉ nghe thấy tiếng châm thành Bạch Đế; khách xa nhà vì thế mà rất mực thê lương. Dưới “châm” mà hạ chữ “thành cao” liền thấy được là tai xa nghe, mắt xa trông nỗi khổ của khách xa nhà vì đó mà rất mực thê lương. Các câu 3, 4 thừa các câu 1, 2; các câu 5, 6 chuyển đến các câu 7, 8: cứ xem như thế thì biết lời tôi “phân giải” không lầm đâu.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 12

Một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc mà chúng ta không thể không biết tới đó chính là Đỗ Phủ. Ngoài cái tên nổi tiếng là Lí Bạch thì Đỗ Phủ là một cái tên mà nhiều người biết đến qua tài năng thơ của ông. Các tác phẩm của ông được nhiều bạn đọc hưởng ứng và sức hấp dân của những bài thơ ấy còn được đem ra để bình luận tốn khá nhiều giấy bút. Tiêu biểu trong những bài thơ hay ấy phải kể đến bài thơ. Cảm xúc mùa thu.

Cảm xúc mùa thu có tên hán là thu hứng thể hiện cảm xúc của nhà thơ trước những màu sắc cảnh vật trời thu. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Với thể thơ này thì những hình ảnh mùa thu cũng nhu tâm trạng của nhà thơ được thể hiện rõ. Đó chính là tâm trạng buồn cùng cảnh thế gian loạn lạc rối ren. Có thể nói những người làm thơ đa số có một tâm hồn nhạy cảm sự đa sầu đa cảm trong trái tim dạt dào yêu thương của mình.

Bốn câu thơ đầu như vẽ lên hình ảnh màu thu với những rừng phong của cảnh vật nơi đây.

Trước hết là hai câu thơ đầu với hình ảnh của những rừng phong quen thuộc gắn với những hình ảnh của tuyết lạnh lẽo ấy:

“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,”

(Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)

Qua hai câu thơ ta thấy dường như nhà thơ đang đứng ở một nơi cao nhất phóng tầm mắt xa của mình để thu được chụp lại được những gì gọi là cảnh sắc của trời thu. Hai chữ “lác đác” thể hiện sự thưa thớt nhẹ nhàng của màu thu. Thu rất nhẹ nhàng dịu dàng chính vì thế nó lúc nào cũng là mùa tâm trạng, đẹp nhưng lại vấn vương điều gì mà buồn khó tả. Những rừng phong kia thì quá quen thuộc với hình ảnh của mùa thu, nhắc đến mùa thu xứ ấy ta hay nhớ đến hình ảnh của những rừng phong nhuốm màu đỏ rực. Ở đây cũng thế những rừng phong như thưa thớt hơn khi thu về lá nhuốm đỏ rồi rụng lác đác. Hạt “móc sa” kia chính là những hạt tuyết trắng. Có thể nói không gian nơi đây không chỉ có màu sắc của rừng phong li biệt mà còn có cả sự lạnh lẽo của tuyết trắng. không khí mùa thu còn được thể hiện qua câu thơ thứ hai đó là không khí lạnh lẽo qua cụm từ “khí thu lòa”. Cái khí thu lòa ấy đã phần nào thể hiện được những ảm đạm tăm tối của mùa thu. Núi Vu Sơn, Vu Giáp thật sự là những cái tên nổi tiếng trong thơ ca của Trung Quốc với chiều cao và tầm vóc của nó mà không biết bao nhiêu lần nó góp mặt trong văn học. Hẻm Vu, Núi Vu vốn dĩ đã rất lạnh lẽo nhưng qua bút pháp miêu tả của Đỗ Phủ thì càng thấm đẫm lạnh lẽo và sự biệt ly hơn.

Như vậy có thể thấy qua hai câu thơ đầu nhà thơ đã vẽ lên những hình ảnh gắn với mùa thu. Qua đó ta cảm nhận được những sự tiêu điều xơ xác của cảnh vật. Không khí màu thu lạnh lẽo với tuyết trắng khiến cho lòng người nếu cô đơn sẽ thật sự thấy rét mướt đến nhường nào.

Cảnh vật mùa thu tiếp tục được thể hiện trong hai câu thơ thực:

“Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.”

(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Một cảnh đẹp tuy hoang sơ nhưng lại hấp dẫn người đọc qua những hình ảnh đẹp ấy. Lưng trời lòng sông sâu thẳm. Mặt đất kia rồi lại mây đùn trên bầu trời. Có thể nói rằng chính những cảnh vật trên trời dưới nước, mặt đất trên mây đã làm nên những cảnh hấp dẫn người đọc. “Mây đùn” ta như cảm nhận được hình ảnh những đám mây bồng bềnh như đùn đùn xô nhau lên. Với những từ như “rợn” và thẳm thì chúng ta thấy được sự hùng vĩ của sông núi nơi đây chính vì thế mà con người cảm thấy như nhỏ bé với chính những sự rộng lớn của thiên nhiên nơi đây. Và hình ảnh mây đùn lại giống như là từ dưới mặt đất đùn lên khiến che lấp đi cả cửa ải xa xa.

Như vậy qua hai câu thơ trên ta thấy cảnh vật màu thu không còn bi thương tàn tạ như ở hai câu đê nữa mà ở đây là cảnh vật của sự hùng vĩ, hoành tráng của sông núi nơi đây. Bốn câu thơ như lột tả hết tất cả những cảnh sắc của mùa thu mà nhà thơ muốn thể hiện. Nói cách khác nhà thơ đã cảm nhận được cảnh sắc mùa thu nơi đây. Mùa thu ấy có sự tàn tạ héo úa, mùa thu ấy cũng có cả những núi non hùng vĩ, mây trời cuồn cuộn. Tuy nhiên trước cảnh vật ấy ta cũng phần nào thấy được tâm tình của tác giả.

Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ thể hiện tâm trạng của bản thân mình trước khung cảnh mùa thu nơi đất khách quê hương.

Hai câu thơ luận nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật cân đối hoàn chỉnh khiến cho ta vừa cảm nhận được tình thu lại vừa cảm nhận được cảnh thu:

“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.”

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Cảnh thu đó chính là hình ảnh những khóm hoa cúc cũng như đang buồn mà rũ cánh hoa xuống thành những dòng lệ chan. Không biết là cúc tuôn lệ hay chính là cúc nở hoa mà nhà thơ lại tuôn lệ. Bên cạnh đó là hình ảnh những con thuyền buộc chặt vô cùng đẹp. Không những thế mà qua hai câu thơ ấy ta còn cảm nhận được tình thu của nhà thơ. Tại sao hoa cúc nở hoa nhà thơ lại khóc?. Con thuyền kia được nhân hóa buộc chặt với mối tình nhà để thể hiện điều gì?. Có lẽ bởi vì trước cảnh tượng ấy nhà thơ nhớ đến quê hương của mình. Nhà thơ đã hai lần nhìn thấy hoa cúc nở đồng nghĩa với việc nhà thơ hai năm rời xa quê hương. Và chính những tâm tư ấy khiến cho nhà thơ nhớ đến chốn quê hương nghĩa nặng tình sâu. Con thuyền kia như là vật để đưa nhà thơ về với quê hương của mình.

Tiếp đến là cái tình trong hai câu thơ cuối, hai câu thơ cuối bao giờ cũng nói đến nhưng hoạt động của con người. Nếu như Xuân Hương của Việt Nam ngán cảnh xuân đi xuân lại thì Đỗ Phủ của Trung Quốc lại thể hiện tâm trạng của mình qua hình ảnh và âm thanh của cuộc sống sinh hoạt nơi biên ải:

“Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.”

(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Ở đây hình ảnh của những âm thanh sinh hoạt nơi cửa ải bỗng nhiên được vang lên. Đó nhịp đập của những tiếng chày giặt quần áo bên sông, Nguyễn Công Trứ đã dịch rất hay cho từ “đao xích” thành “dao thước”. Không nói đến cụ thể mà chúng ta vẫn có thể hiểu được đó là công việc may vá. Sự lãnh lẽo thúc giục người ta màu đông sắp đến mau chóng may quần áo để chống trọi với mùa đông giá rét kia. Và không gian thì hãy còn lạnh lẽo, ta như cảm nhận được có chút gì đó vui vui trong tâm trạng của nhà thơ nhưng rồi lại trùng lại buồn thiu khi cất lên những câu thơ cuối. Trong khi ấy chiến tranh thì xảy ra liên miên khiến cho nhà thơ mong muốn dẹp hết loạn để nhân dân nơi đây cũng như những người dân quê ông được sống trong ấm no hạnh phúc.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 13

Nhắc đến Trung Quốc, không ai là không biết đến nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ (712-770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc, chủ yếu viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân và chính bản thân mình. Ông có nhiều tác phẩm kiệt tác, trong số đó có bài thơ “cảm xúc mùa thu” bài thơ thứ nhất trong chùm thơ “thu hứng” năm 766, khi ông cùng gia đình đi chạy nạn ở Quỳ Châu. “Cảm xúc mùa thu” vừa là bức tranh thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu trĩu nặng của nhà thơ trong lúc đất nước đang rối ren, loạn lạc.

Bài thơ chia làm hai phần, bốn câu thơ đầu tác giả tả cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu. Bốn câu thơ sau là tả tình, chính là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh mùa thu, nỗi nhớ quê và nỗi niềm dân nước.

Hai câu thơ đầu được nhìn trong tầm bao quát rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Tác giả đã đặt điểm nhìn của mình từ rừng núi xuống dòng sông, bao quát theo chiều rộng. Nhắc đến phong người ta liên tưởng đến mùa thu vì mỗi đợt thu về rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thương. Vậy mà sương móc trắng xóa, dày đặc làm xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rõ nét trong mắt của nhà thơ. Câu thơ thứ hai càng làm nổi lên sự lạnh lẽo “Vu sơn, Vu giáp” chính là hẻm Vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông. Vào mùa thu không khí lạnh lẽo ảm đạm trong cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ càng hiu hắt, ảm đạm. Qua hai câu đầu về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơ ca truyền thống. Chính sự đau buồn ấy, Đỗ Phủ viết lên những lời thơ sâu sắc:

Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tại thượng phong vân tiếp địa âm.

Trong hai câu thơ này có hình ảnh đối lập vô cùng thú vị, sóng vọt lên tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống mặt đất, từ thấp lên cao rồi từ cao xuống thấp, sự vận động trái chiều và triệt để. Cảnh thu chuyển động dữ dội tạo nên bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng. Sự chuyển động chao đảo của cảnh vật, cũng là sự chao đảo xã hội lúc bấy giờ. Lời thơ là nỗi lòng thương nhớ tuyệt vọng trước thời thế lúc bấy giờ của nhà thơ. Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau làm toát lên bức tranh thu rộng lớn vừa tiêu điều hiu hắt, vừa dữ dội, hùng vĩ. Chính cảnh vật ấy vừa gợi nỗi buồn tê tái, vừa ngầm thể hiện nỗi lo âu của nhà thơ về sự không yên bình nơi biên ải.

Cảnh thu ở phần thứ nhất đã khơi gợi cái tình trong lòng nhà thơ. Bốn câu thơ sau nói lên nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cố chu nhất hệ cố viên tâm.

Cúc là loài hoa của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ đẹp vậy mà nhìn nó lại nhỏ lệ , gợi một nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ, nhìn hoa cúc nhớ về những mùa thu ở quê hương mà lòng u sầu, nghẹn ngào. Chữ ” lệ” trong bài thơ rất khó phân biệt lệ của người hay của hoa, tuy nhiên có lẽ nên hiểu: mỗi lần nhìn hoa cúc nở, nhà thơ lại chạnh lòng nhớ về quê hương. Những giọt nước mắt cũng cứ thế tuôn rơi không ngăn lại được, hình ảnh hoa cúc nở rồi lại nở vừa gợi sự trở đi trở lại của nỗi nhớ quê, vừa gợi ra những dòng lệ chứa chan ân tình của nhà thơ. “Cố chu” con thuyền cô độc, khi nhìn thấy con thuyền nỗi lòng tác giả càng dâng trào, càng nhớ quê da diết. Hình ảnh con thuyền trôi nổi, lưu lạc , là phương tiện duy nhất nhà thơ gửi gắm ước nguyện về quê, “hệ cố viên tâm” rất đặc biệt như buộc chặt nỗi lòng con người với quê nhà như con thuyền trôi về quê hương. Bằng nghệ thuật ẩn dụ tinh xảo hai câu thơ biểu hiện nỗi nhớ quê một cách sinh động và tha thiết, sâu lắng của nhà thơ.

Hai câu cuối âm thanh sinh động được lột tả:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.

Cảnh nhộn nhịp may áo rét, cảnh mọi người giặt áo cũ âm thanh tiếng chày đập vải nhộn nhịp trên sông để chuẩn bị cho mùa đông tới, vẽ lên cuộc sống sinh hoạt vui tươi và nhộn nhịp, vang động, lại càng xoáy sâu vào lòng người nỗi nhớ quê nhà tê tái, khuôn nguôi, nhớ đến cuộc sống bình yên nơi quê nhà càng mong nhớ quê da diết hơn. Trời tối rồi, nhà thơ không nhìn thấy gì nữa mà chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ những người lính nơi quan ải.

Bằng việc sử dụng không gian dài, rộng, vừa cao, sâu, thấp lên cao và từ cao xuống thấp và những phép ẩn dụ đặc sắc, đối xứng chặt chẽ. Cách hay trong bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ cảm xúc, dùng quá khứ nói hiện tại. Bài thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà hiu hắt, sôi động mà nhạt nhòa trong sương khói mùa thu, đồng thời hiện diện một tâm trạng buồn, xót xa với nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

Bài thơ ” Cảm xúc mùa thu” là bài thơ rất hay và ý nghĩa. Bài thơ là nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải xa quê trong lúc loạn lạc. Bài thơ như nhắc nhở chúng ta yêu quê hương mình và trân trọng nơi chúng ta đã sinh ra.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 14

Nói đến văn thơ Trung Quốc, không ai là không biết đến Đỗ Phủ (712-770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc,thường viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân và chính bản thân. Ông để đời nhiều kiệt tác, và phải keerr đến “cảm xúc mùa thu” bài thơ thứ nhất trong chùm thơ “thu hứng” năm 766, lúc mà ông chạy nạn ở Quỳ Châu. “Cảm xúc mùa thu” vừa là bức tranh thu ảm đạm, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu của nhà thơ trong lúc đất nước loạn lạc.

Bài thơ có thể chia hai phần, bốn câu đầu cảnh thu ảm đạm, hắt hiu. Bốn câu sau tả tình, là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh mùa thu mà nỗi nhớ quê ùa về.

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Tác giả đặt điểm nhìn của mình từ rừng núi xuống dòng sông, bao quát theo chiều rộng. Nhắc đến phong người ta liên tưởng đến mùa thu, rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thương. Sương móc trắng xóa, dày đặc xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá. Câu thứ hai càng làm nổi lên sự lạnh lẽo “Vu sơn, Vu giáp” chính là hẻm Vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng đứng mặt trời khó lọt xuống. Vào mùa thu không khí lạnh lẽo với cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ càng hiu hắt, ảm đạm. Qua hai câu đầu sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơ ca truyền thống. Sự đau buồn ấy, Đỗ Phủ viết lên những lời thơ sâu sắc:

Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tại thượng phong vân tiếp địa âm.

Hình ảnh đối lập được sử dụng vô cùng thú vị, sóng thì vọt lên tận lưng trời, còn mây thì sa sầm xuống mặt đất, thấp lên cao rồi cao xuống thấp, một sự vận động trái chiều. Cảnh thu chuyển động dữ dội khiến bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng. Sự chuyển động chao đảo của cảnh vật, cũng là sự chao đảo xã hội lúc bấy giờ. Lời thơ là nỗi lòng thương nhớ tuyệt vọng trước thời thế lúc bấy giờ. Bốn câu thơ tả cảnh hiện lên bức tranh thu rộng lớn tiêu điều hiu hắt lại dữ dội, hùng vĩ. Chính những cảnh vật ấy đã gợi nỗi buồn tê tái, và thể hiện nỗi lo về yên bình nơi biên ải.

Cảnh thu ở phần thứ nhất đã khơi gợi nên cái tình ở nhà thơ. Bốn câu thơ sau nói về nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cố chu nhất hệ cố viên tâm.

Cúc đại diện của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ đẹp thế nhưng nhìn cúc tác giả lại rơi lệ. Chữ ” lệ” rất khó mà phân biệt lệ của người hay của hoa. Những giọt nước mắt cứ thế tuôn rơi mà không ngăn lại được, hoa cúc nở rồi lại nở càng khiến u sầu về nỗi nhớ quê nhà. “Cố chu” con thuyền cô độc, thấy con thuyền thì nỗi lòng tác giả càng dâng trào. Con thuyền trôi nổi, lưu lạc, là phương tiện mà nhà thơ gửi gắm nỗi long về quê nhà. Với nghệ thuật ẩn dụ tinh xảo hai câu thơ biểu hiện nỗi nhớ quê một cách sinh động và tha thiết của nhà thơ.

Hai câu cuối âm thanh sinh động được lột tả:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.

Cảnh nhộn nhịp may áo rét, mọi người giặt áo cũ âm thanh tiếng chày đập vải thật nhộn nhịp sinh động trên sông lại càng xoáy sâu vào lòng người nỗi nhớ quê nhà tê tái, nhớ đến cuộc sống bình yên nơi quê nhà càng mong nhớ quê da diết hơn. Trời tối rồi, nhà thơ không nhìn thấy gì chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ những người lính nơi quan ải. Không gian dài, rộng, rồi lại cao, sâu, thấp lên cao, cao xuống thấp, ẩn dụ thì đặc sắc, đối xứng thì chặt chẽ. Bài thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ nhưng hiu hắt, sôi động mà nhạt nhòa trong sương khói mùa thu, đồng thời hiện lên tâm trạng buồn, xót xa với nỗi nhớ quê hương.

Bài thơ ” Cảm xúc mùa thu” rất hay và ý nghĩa. Bài thơ là nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải xa quê trong lúc loạn lạc và như nhắc nhở chúng ta yêu quê hương mình và trân trọng nơi chúng ta đã sinh ra.

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ- Mẫu 15

Từ khi bước chân vào trường tới bây giờ chắc hẳn ai cũng đã từng đọc thơ của Đỗ Phủ. Thơ ông ngổn ngang một bầu trời tâm trạng, một tấm lòng yêu thương con người, yêu đời tha thiết

Đỗ phủ sinh ra và lớn lên trong tình cảnh đất nước Trung Quốc triền miên trong cảnh loạn li mặc dù ông giữ một chức quan nhưng ông cũng đã rơi vào tình cảnh phiêu bạt. Đỗ Phủ là nhà thơ lớn nhất không chỉ của thơ Đường mà trong cả lịch sử Trung Quốc. Ông để lai cho nhân loại vô số tác phẩm và nhắc đến nhiều nhất trong số đó là bài “Thu Hứng” – bức tranh mùa thu hiu hắt, cũng là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật thơ Đường thời bấy giờ.

Bốn câu thơ đầu là cảnh trong tầm mắt rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Bốn câu thơ đầu tả cảnh thu đầy màu sắc và âm thanh vừa có chất vừa có họa. Ông đang đứng ở vị trí tương đối cao để có thể ngắm nhìn toàn cảnh vật vì thế khả năng quan sát của ông cũng khá cao và rộng nên ông đứng ở đó có thể nhìn được toàn cảnh thiên nhiên mùa thu. Mùa thu gắn với cánh rừng phong đang mùa rụng lá, cảnh rừng phong chuyển sang màu đỏ tượng trưng cho màu sắc của sự li biệt của sự cách xa. Cảnh vật buồn cùng với tâm trạng buồn của nhà thơ được miêu tả rõ khiến hình ảnh rừng phong càng gợi lên một sắc thu tiêu điều.

Hai câu đầu, ẩn dụ và nhân hóa với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Hai câu thơ tiếp tả cảnh thực đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu như hai câu thơ đầu tiên là tả cảnh trên cao thì hai câu thơ tiếp theo thì tả cảnh dưới thấp được cảm nhận qua đôi mắt tinh sảo của thi nhân chứa đựng rất nhiều tâm sự. Các từ “sóng rợn” “mây đùn” đã diễn tả cảnh trời đất rộng lớn bao la hùng vĩ trước con người nhỏ bé. Hai câu thơ đầu tả cảnh sắc buồn tẻ của thiên nhiên thì hai câu sau tả cảnh hùng vĩ của thiên nhiên như đối lập nhau khiến cho bài thơ thêm mới lạ và có đôi chút bí hiểm thu hút người đọc. Bốn câu thơ đầu tả cảnh thu, hai câu đề đặc tả cảnh sắc mùa thu đẫm uất bi thương, tàn tạ, hai câu thực tả cảnh thu hoành tráng dữ dội. Cảnh sắc mùa thu địa phương Quỳ Châu vừa âm u, vừa hùng vĩ, cảnh sắc ấy mang phong cách thơ của Đỗ Phủ vừa trầm uất, vừa bi tráng.

Bốn câu thơ sau nỗi lòng tác giả được thể hiện trực tiếp hơn cụ thể hơn:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Nhớ đến mùa thu nhớ ngay đến hoa cúc là điều bình thường nhưng cái lạ chính là loài hoa này xuất hiện thì dòng lệ rơi. Chữ “lệ” trong câu thơ làm lòng người hoang mang là lệ của hoa hay chính là lệ của nhà thơ. Nhưng có lẽ ta nên hiểu mỗi khi nhìn hoa nở thì nhà thơ lại chạnh lòng mà nhớ đến quê hương. Giọt nước mắt cứ thế mà tuôn rơi không thể nào ngừng lại được. Đây là hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là biểu tượng nghệ thuật. Khi mà chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ phải sống trên con thuyền trên sông Trường Giang. Con thuyền đã trở thành biểu tượng nghệ thuật văn học, ẩn dụ chỉ thân phận lênh đênh của con người. Ở hai câu cuối nổi lên một tiếng chày giặt vải trên dòng sông thứ âm thanh khiến ta có thể quên được đi cái nỗi nhớ quê hương đang chen lấn trong lòng nhà thơ. Âm thanh mùa thu vừa kết thúc thì bài thơ lại mở ra nỗi nhớ mênh mang sâu thẳm trong lòng nhà thơ. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã lên án mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. Bài thơ là nỗi u sầu là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của người nhớ quê hay tất cả người dân.

Đã từng sống ở thời chiến tranh thì ắt hẳn sẽ hiểu được tâm trạng của tác giả, chính thế đây cũng là bài rất hay ở thời bấy giờ. Về cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì xa lạ. Đều là những thi liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường thích sử dụng. Với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, ông sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Đây là một bức tranh tâm cảnh được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.

Bài thơ không chỉ là tâm trạng của mỗi tác giả mà còn là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi sống trong cảnh biệt li loạn lạc. Bài thơ mang đậm cảm xúc của Đỗ Phủ, cảm xúc ấy được thể hiện trong từng câu từng chữ của bài thơ. Bài thơ cũng cho thấy được cái hay của thơ thất ngôn bát cú mỗi câu thơ đều mang cái thần thái cái cảm xúc của nhà thơ được gửi trọn vào tác phẩm.

Trên đây là nội dung bài học Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ hay nhất (15 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.

Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập

5/5 - (6 bình chọn)



Nguyễn Thanh Tùng

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button