Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ bao gồm hướng dẫn viết cùng 15 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 12 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.
Đề bài: Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ.
Hướng dẫn Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ lớp 12
I. Mở bài
Bạn đang xem: Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ lớp 12 (15 Mẫu)
– Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu: là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.
– Giới thiệu bài thơ Việt Bắc: hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính của bài thơ.
II. Thân bài
1. Hình tượng thiên nhiên
a. Thiên nhiên Tây Bắc khắc nghiệt nhưng cũng thơ mộng, trữ tình
– Thiên nhiên vùng núi khắc nghiệt: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”, “đêm thăm thẳm sương dày”, gây ra không ít những khó khăn cho đồng bào ta khi chiến đấu.
– Nhưng thiên nhiên cũng có nét thơ mộng, hiền hòa:
- Thiên nhiên thân thuộc, đầm ấm, giản dị với hình ảnh những món ăn dân dã như: “trám bùi, măng mai”.
- Có những nét đặc trưng cả thiên nhiên Việt Bắc: “rừng nứa, bờ tre”
- Thiên nhiên đẹp như một bức tranh tứ bình với bốn mùa trong năm: xuân, hạ, thu, đông.
b. Thiên đồng hành cùng nhân dân, cán bộ trong kháng chiến
– Thiên nhiên Việt Bắc như một người đồng chí cùng đồng bào cán bộ đánh Tây: “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.
– Thiên nhiên còn là bức tường thành vững chắc để bảo vệ nhân trong kháng chiến “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
– Thiên nhiên mang ý nghĩa chiến lược, đóng góp không nhỏ cho sự thắng lợi của nhân dân ta trong kháng chiến.
2. Hình tượng con người Việt Bắc
a. Con người ân tình, ân nghĩa, gắn bó trung thành với cách mạng, với Đảng
– Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:
- Bốn câu trên, sử dụng điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” là lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
- Cách xưng hô “mình – ta” như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau khiến cuộc chia tay trở nên thân mật, giản dị.
- Bốn câu thơ tiếp là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.
– Mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi: nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ, nhớ đến quang thời gian hoạt động cách mạng.
- Con người Việt Bắc dù gian khó, vất vả nhưng vẫn có tấm lòng thủy chung, cùng chia sẻ mọi “đắng cay ngọt bùi” trong kháng chiến: “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”.
- Những kỉ niệm ấm áp giữa bộ đội và đồng bào Việt Bắc: “lớp học i tờ”, “giờ liên hoan”, “ca vang núi đèo”.
- Luôn sát cánh cùng bộ đội trong cuộc kháng chiến: “Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
b. Con người lao động với vẻ đẹp bình dị
– Hình ảnh những con người mang vẻ đẹp mộc mạc, cần cù “người mẹ … địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.
– “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: gợi dáng vẻ khỏe khoắn, lớn lao của người lao động, với tâm thế làm chủ thiên nhiên, cuộc sống.
– Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái”: hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.
– Con người say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng thủy chung, nặng ân tình.
* Nhận xét: Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người nơi đây luôn gắn bó khăng khít, không thể tách rời, thiên nhiên chính là yếu tố làm tôn lên vẻ đẹp con người.
III. Kết bài
– Khái quát giá trị nghệ thuật: thể thơ lục bát, lối đối đáp, cách xưng hô mình – ta, ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi…
– Khái quát giá trị nội dung: bài thơ là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, là bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 1
Ân tình và chung thủy – đó là một nét đẹp trong rất nhiều nét đẹp của con người cách mạng. Nét đẹp ấy thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ta cũng bắt gặp nét đẹp ấy trong Việt Bắc của Tố Hữu. Tập trung, tiêu biểu nhất là ở đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta …
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Việt Bắc tràn đầy nỗi nhớ của người kháng chiến về xuôi với quê hương cách mạng trong mười lăm năm “thiết tha mặn nồng tình nghĩa. Biết bao chữ ”nhớ” vang lên trong bài thơ cùng với bao nhiêu nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại. Nhớ chiến khu, nhớ “mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”, nhớ những đêm “quân đi điệp điệp trùng trùng”, nhớ “ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang” và cả “nhớ gì như nhớ người yêu”… Giữa rất nhiều nỗi nhớ ấy, hiện lên một nỗi nhớ vừa đằm thắm thiết tha lại vừa bâng khuâng man mác:
Ta về mình có nhớ ta…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Mười câu thơ trên là đoạn thơ thứ năm của bài thơ Việt Bắc, tự nó đã có tính hoàn chỉnh. Đó là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu của Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng bâng khuâng, man mác vì nó được lọc qua nỗi nhớ của người về xuôi. Nỗi nhớ được bộc lộ tha thiết trong buổi chia tay:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Hai lần “ta về” láy lại ở đầu câu – cùng một thời điểm chia tay, nhưng câu trên là hỏi người, câu dưới là giãi bày lòng mình. Cái giọng thơ tâm tình của Tố Hữu ở đây thật ngọt ngào dễ thương. Cuộc chia tay giữa người kháng chiến và người Việt Bắc, giữa miền ngược với miền xuôi đã trở thành một cuộc giã bạn đôi lứa (ta – mình). Nỗi nhớ về những ngày gian nan gắn bó với cảnh và người Việt Bắc cứ hiện dần trong tâm trí người đi. Cảnh vật, con người Việt Bắc, cái gì cũng đáng yêu, đáng nhớ. Nhớ trước nhất là hoa cùng người. Hoa và người hòa quyện trong nỗi nhớ. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc không thể tách rời với cái đẹp của những con người Việt Bắc đã từng cưu mang, gắn bó với người đi, với cách mạng, vẻ đẹp bức tranh Việt Bắc, trước tiên là vẻ đẹp của sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người.
Bức tranh đó được diễn tả bằng những câu thơ êm ả, nhẹ nhàng. Có màu sắc tươi tắn rực rỡ, có ánh sáng lung linh chan hoà, có âm thanh vui tươi, đầm ấm. Cảnh và người hòa quyện vào nhau: bốn cặp lục bát tả bốn mùa, thì câu trên nhớ cảnh, câu dưới nhớ người. Mà cảnh nào, người nào được nhắc tới cũng đều có cái riêng để nhớ. Tất cả đã hiện lên trước mắt ta một bức tranh Việt Bắc tuyệt diệu, nên thơ qua nét bút chấm phá tài tình của tác giả.
Mỗi mùa được nhà thơ nhớ lại bằng một nét tiêu biểu nhất, với cách diễn tả tinh tế gợi cảm, Nhớ mùa đông Việt Bắc là nhớ tới “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Giữa cái bạt ngàn của màu xanh, hiển hiện một màu sắc ấm nóng (tươi đỏ), bức tranh mùa đông của Việt Bắc đâu còn cái lạnh lẽo, hoang vu nữa. Xuân sang sắc màu lại đổi khác, tràn ngập sinh sôi một màu trắng tinh khiết, thơ mộng: “ngày xuân mở nở trắng rừng”. Cảnh này có gì đó giống như cảnh Bác về nước:
Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Bốn cặp lục bát sau Tố Hữu dùng để tả cảnh hè đến và cảnh mùa thu. Nếu như sắc màu chủ đạo của cảnh động là màu xanh điểm vào đó có sắc hoa tươi đỏ, của cảnh xuân là màu trắng hoa mơ, thì của mùa hè là màu vàng tươi đẹp của rừng phách: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Đây là một câu thơ vào loại hay nhất của bài thơ Việt Bắc. Câu thơ sáu chữ mà thấy được sự chuyển đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Câu thơ ấy ran lên một tiếng ve kêu không dứt trong màu vàng chói chang của rừng phách dưới nắng hạ. Cuối cùng, cảnh thu hiện ra với màu sắc dịu hiền của ánh trăng, màu của mơ ước về cuộc sống hoà bình giữa những ngày gian khổ. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh nên thơ, kì thú.
Bức tranh bốn mùa ấy còn ánh lên vẻ đẹp đằm thắm của con người Việt Bắc. Cảnh làm nền cho người và người gắn với cảnh, chúng quyện hoà vào nhau và tô điểm cho nhau. Dường như những cảnh ấy phải có những con người này và nhà thơ đã đưa vào bức tranh Việt Bắc những con người thật bình dị đáng yêu: hình ảnh người lên núi với lưỡi dao lấp lánh ánh nắng cạnh sườn, bàn tay “chuốt từng sợi giang” của người đan nón và “cô em gái hái măng một mình” giữa khúc nhạc ve ran và sắc vàng rừng phách. Cả tiếng hát ân tình nữa cũng làm cho rừng thu êm dịu và ánh trăng hoà bình toả sáng lung linh.
Không hiểu Việt Bắc sâu sắc, không yêu Việt Bắc nồng nàn và nhớ Việt Bắc tha thiết thì không thể dựng lên bức tranh quê hương cách mạng đẹp tuyệt diệu và ấm tình người đến thế. Nhưng để có bức tranh này, còn có quan điểm đúng đắn và cách nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với những cái nhìn sai lệch trước đây về miền núi và con người miền núi là nơi “ma thiêng nước độc” với những con người dữ tợn, kém văn minh,…) Tố Hữu đã có một cách nhìn đầy thông cảm, thương yêu và ưu ái với quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này chính là bắt nguồn từ sự gắn bó chung thủy, từ lòng nhớ thương sâu nặng của nhà thơ đối với cảnh và người Việt Bắc.
Tình cảm nhớ thương tha thiết ấy là âm hưởng bao trùm cả đoạn thơ và nhịp điệu dịu dàng trầm bổng của thể thơ lục bát làm cho âm hưởng đó bâng khuâng, tha thiết. Kết cấu của bài thơ Việt Bắc là kết cấu đối đáp, có ta và mình, có người đi kẻ ở, nhưng thực ra đó chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình.
Câu thơ trên là lời đáp, lời giãi bày của người đi nhưng không hẳn là thế. Nhớ cảnh nhớ người, nhớ đến từng chi tiết sống động như vậy là nỗi nhớ chung của con người đã cùng gắn bó với nhau, đồng cam cộng khổ trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.
Khép lại đoạn thơ là tiếng hát ân tình, thuỷ chung của người chiến sĩ cách mạng miền xuôi, của đồng bào Việt Bắc. Tiếng hát ấy vang trong lòng người đi, luôn nhắc nhớ những ngày tháng nghĩa tình sắt son. Tiếng hát ấy là chiếc cầu nối giữa tấm lòng với tấm lòng, giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 2
Việt Bắc của Tố Hữu có thể coi là một khúc tráng ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã ghi lại cuộc kháng chiến trường kì bằng một giọng thơ đầy ân tình, khắc họa không chỉ sự anh hùng của dân tộc mà còn ánh lên vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc – ân tình, thủy chung. Và vẻ đẹp đó đã được thể hiện đầy đủ trong đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Thơ của Tố Hữu, là thơ trữ tình, chính trị, bởi vậy cảm hứng chính trị cũng là cảm hứng chi phối toàn bộ tác phẩm. Nhưng chất chính trị ấy lại hòa điệu nhịp nhàng, nhuần nhuyễn trong chất trữ tình đậm nét, chính điều đó khiến cho tác phẩm của Tố Hữu không chỉ là những bản tuyên truyền khô cứng, giáo huấn đơn thuần mà đó còn là tâm tư, tình cảm rất đỗi chân thành được tác giả gửi gắm trong đó. Hai chất liệu này hòa quyện với nhau, đem đến sự thuyết phục trong lòng bạn đọc
Cả bài thơ Việt Bắc thấm đượm trong nỗi nhớ nhung khắc khoải, đúng như chính bản thân Tố Hữu đã khẳng định trong bài thơ: “Nhớ gì như nhớ người yêu/ Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”. Bởi vậy, bài thơ trở nên da diết, thiết tha hơn trong sự hòa quyện của mối quan hệ khăng khít giữa con người và khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc. Qua đó vừa làm nổi bật vẻ đẹp rực rỡ, đầy sức sống của thiên nhiên, vừa khẳng định sự ân tình, thủy chung trong con người Việt Bắc.
Khổ thơ là bức tranh tứ bình đẹp đẽ, mang những đặc điểm riêng của bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa đông với sắc đỏ nổi bật:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng
Màu xanh thẫm của đại ngàn được tác giả khắc họa thật đẹp, nhưng nổi bật nhất trong bức tranh ấy không phải là màu xanh bạt ngàn của mà là màu đỏ rực của hoa chuối. Bằng bút pháp chấm phá, Tố Hữu đã khiến cả bức tranh bừng sáng. Dù bức tranh mùa đông, nhưng không hề u ám, lạnh lẽo mà trái lại với sắc đỏ bức tranh càng trở nên ấm nóng, ngập đầy sức sống hơn. Trong bức tranh ấy, con người xuất hiện thật chủ động và khỏe khoắn. Con dao – vật dụng lao động của người dân Việt Bắc, lại một lần nữa được ánh sáng của mặt trời làm cho bừng sáng. Con người ở trong khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên nhưng không hề bé nhỏ mà mang trong mình nét hiên ngang, hùng dũng giữa núi rừng.
Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp, tràn đầy sức sống với sắc trắng tinh khôi của loài hoa mơ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Hoa mơ một loài hoa giản dị, mộc mạc nhưng đầy thanh cao, tinh khiết, sắc trắng của hoa mơ khiến không gian rừng núi càng trở nên đẹp đẽ, tươi sáng hơn. Tương ứng vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân là hình ảnh “người đan nón” với đôi bàn tay tài hoa, khéo léo. Họ hiện lên là những người lao động cần cù, chăm chỉ, khéo léo “chuốt từng sợi giang”.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Vẻ đẹp của thiên nhiên được khắc họa rõ nét nhất trong bức tranh mùa hè, vừa có màu sắc vừa có âm thanh. Màu vàng đặc trưng của mùa hè, và âm thanh ve kêu rộn rã khiến cho sức sống mùa hạ như bừng thức, trỗi dậy. Câu thơ đầu tiên là một câu thơ rất hay và giàu ý nghĩa, có thể hiểu tiếng ve kêu đã tác động, khiến cho rừng phách đổ vàng; nhưng cũng có thể hiểu là tiếng ve kêu trong rừng phách. Dù hiểu theo cách nào thì đây cũng là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, giàu sức sống. Nổi bật giữa khung cảnh thiên nhiên là người con gái xuất hiện thật thân thương, ngọt ngào “cô em gái”. Giữa con người và thiên nhiên có sự đồng điệu, hô ứng với nhau, cô em gái cũng đang ở độ tuổi đẹp đẽ, tràn đầy sức sống nhất, cũng như thiên nhiên ngập đầy sức sống. Mặc dù cô em gái chỉ xuất hiện một mình nhưng không hề tạo cảm giác cô đơn mà vẫn vô cùng đẹp đẽ, khỏe khoắn.
Khổ thơ kết lại bằng bức tranh mùa thu: “Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Ánh trăng vàng trải dài khắp rừng núi khiến cho bức tranh thêm phần lung linh, huyền hảo. Đồng thời bức tranh đó cũng tái tạo không khí yên bình, thanh tĩnh trong đêm khuya. Bởi vậy ánh trăng không đơn thuần là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của hòa bình. Con người được khai thác qua hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc, đó là những câu hát giao duyên, đầy ân tình, thủy chung.
Bằng lớp ngôn từ giản dị, giọng điệu tâm tình ngọt ngào, Tố Hữu đã đem đến cho bạn đọc một thiên nhiên Việt Bắc tràn đầy sức sống, một người dân Việt Bắc khỏe khoắn, cần cù, yêu lao động. Đoạn thơ đã cho thấy sự hòa điệp nhịp nhàng, giữa con người và thiên nhiên tạo nên vẻ đẹp hoàn chỉnh cho thiên nhiên và con người nơi đây.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 3
Thành công của bài thơ Việt Bắc không những là ghi lại một cách chân thực và cảm động tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong phút chia tay của cán bộ về xuôi và nhân dân Việt Bắc mà còn làm nổi bật vẻ đẹp thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc. Tố Hữu đã khắc họa rất thành công bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đoạn thơ là lời giãi bày nỗi nhớ của người ra đi. Nhớ chiến khu Việt Bắc là nhớ“những hoa cùng người”; nhớ thiên nhiên đầy hương sắc và âm thanh; nhớ con người Việt Bắc sâu đậm, tình nghĩa:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc. Khi nhớ người thì hiện lên bóng hoa, khi nhớ hoa thì hiện lên bóng người. Có thể nói đây là đoạn thơ đẹp nhất trong thi phẩm Việt Bắc. Bốn cặp lục bát đã tạo nên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc cân xứng và hài hòa. Ở mỗi cặp lục bát, đan cài sau mỗi dòng “nhớ” cảnh là một dòng “nhớ” người. Lúc nào, thiên nhiên cũng làm phông nền cho sự xuất hiện của con người.
Mùa đông Việt Bắc hiện lên với sắc xanh rừng thẳm và hoa chuối đỏ giữa đại ngàn cùng con người lao động khỏe khoắn:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao, nắng ánh dao gài thắt lưng”
Giữa màu xanh bát ngát của rừng già, nổi bật lên màu sắc rực rỡ của bông hoa chuối đỏ tươi. Màu đỏ nồng ấm ấy xua tan cái lạnh lẽo của núi rừng, làm ấm cả không gian và ấm cả lòng người. Rừng núi, nơi chiến khu và hoang sơ vừa mang vẻ đẹp diễm lệ.
Trên bức tranh thiên nhiên hiền hòa và tươi tắn xuất hiện hình ảnh con người trên đất đèo cao đầy nắng với gió ,ánh nắng chan hòa khắp nơi phản chiếu lấp lánh trên chiếc dao người đi rừng. Đó là con người trong tư thế lao động với vóc dáng mạnh mẽ, tự tin, làm chủ núi rừng và mang đậm chất miền núi. Hình ảnh con người với tư thế vững chãi khỏe khoắn đã trở thành trung tâm của bức tranh thiên nhiên.
Mùa xuân Việt Bắc tươi đẹp với sắc mơ trắng rừng và người lao động bình dị:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa xuân sang thiên nhiên khoác tấm áo mới, vạn vật sinh sôi nảy nở, tràn đầy sức sống, cả núi rừng ngập tràn hoa mơ trắng. Đó là sắc trắng dịu dàng và tinh khiết. Không gian thơ mộng và thanh thoát đến kỳ lạ
Động từ “nở” tạo nên sức sống từ bên trong đang tràn đầy. Hai tiếng trắng rừng làm bừng sáng cả núi rừng bởi sắc trắng của hoa mơ. Trong bài “theo chân Bác” Tố Hữu đã từng viết : “Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”
Nỗi nhớ về mùa xuân gắn liền với hình ảnh người đan nón chuốt từng sợi giang. Đôi bàn tay lao động khéo léo, tỉ mỉ và tài hoa của người Việt Bắc được gợi lên thật tinh tế qua động từ “chuốt”
Vào mùa hè được cảm nhận bằng thính giác và thị giác:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Bức tranh mùa hè không chỉ có màu sắc ánh sáng mà có cả âm thanh tiếng ve. Tiếng ve ngân vang, khắp núi rừng rộn rã. Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm thiên nhiên thay chiếc áo mới. Cả rừng phách đồng loạt trổ hoa vàng rực rỡ đây là bức tranh sơn mài được vẽ bằng hoài niệm. “Đổ” là cách dùng từ rất tinh tế, nhấn mạnh sự chuyển màu nhanh chóng kỳ lạ, đồng thời nói lên sự bừng sáng tươi tắn của thiên nhiên.
Giữa thiên nhiên rực rỡ, hình ảnh con người hiện lên bình dị và đáng yêu biết mấy. Đó là cô em Việt Bắc trẻ trung, thầm lặng hái măng giữa rừng. Ba chữ “cô em gái” đã nói lên tình cảm thương mến, lưu luyến mà tác giả dành cho người Việt Bắc.
Cảnh sắc mùa thu Việt Bắc được cảm nhận qua ánh trăng rừng hiền hòa và tiếng hát ân tình, thủy chung:
“Mùa thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình chung thủy”
Câu thơ mở ra khung ảnh đêm trăng rất êm đềm. Ánh trăng thu trong trẻo rọi qua vòm lá tạo nên khung cảnh huyền ảo. Câu thơ gợi không khí thanh bình, êm ả. Từ lâu trăng chiến khu đã bén duyên với thơ ca cách mạng. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến ánh trăng trong thơ Bác: “Trăng lồng cổ thụ bóng lòng hoa”. Hình ảnh ánh trăng toát lên cái khát vọng hòa bình của dân tộc.
“Ai” là đại từ phiếm chỉ. Chữ “nhớ ai” thể hiện tình cảm yêu mến mà tác giả dành cho nhân dân Việt Bắc đã âm thầm che chở cho cách mạng suốt thời kỳ kháng chiến. Nhớ Việt Bắc là nhớ “tiếng hát ân tình thủy chung”. Hai chữ “nhớ ai” thể hiện tấm lòng yêu mến trân trọng và lòng biết ơn của tác giả đối với mảnh đất và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ được viết bằng thể thơ lục bát truyền thống giàu nhạc điệu. Giọng điệu thơ ân tình ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc. Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn từ tinh tế, giàu sức gợi cảm. Sau mỗi câu thơ miêu tả thiên nhiên là một câu thơ đan xen diễn tả vẻ đẹp của con người. Con người gắn bó khăng khít với thiên nhiên, làm cho thiên nhiên càng đẹp, càng thêm sức sống. Con người hiện lên bình dị, đáng yêu như chính cuộc sống hồn hậu của con người miền núi thật thà, chất phác, ân tình, thủy chung.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 4
Việt Bắc là bài thơ tổng kết mười lăm năm kháng chiến trường kì gian khổ của dân tộc. Nó có thể coi như bản trường ca tổng kết lại cả một quá trình đấu tranh đầy mất mát nhưng cũng vô cùng anh dũng, hào hùng. Nhưng tác phẩm không chỉ đề cấp đến chiến công, mà bên cạnh đó còn thể hiện tấm lòng, sự gắn bó thiết tha, sâu nặng với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Tình cảm đó đã được ông thể hiện trong đoạn thơ:
Ta mình về mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Trong bài thơ có không ít những câu thơ thể hiện thiên nhiên và con người Việt Bắc như: “Nhớ đèo mây phủ…..” “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”,… nhưng ông thật tinh tế, khi lựa ra một bức tranh đẹp đẽ nhất của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông để khái quát toàn bộ vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong nỗi nhớ nhung khắc khoải của tác giả, thiên nhiên hiện lên vô cùng phong phú, con người hiện lên gần gũi, mộc mạc. Hai yêu tố đó hòa hợp, quyện lẫn vào nhau, người tôn lên cảnh, cảnh tôn lên vẻ đẹp của người.
Mở đầu đoạn thơ là khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc vào một ngày đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Nếu như thơ xưa, mùa đông gắn với cái lạnh lẽo, tàn lụi, héo úa, với những cảm xúc thê lương, bi ai: “Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió/ Hỏi ngày về chỉ độ đào bông/ Nay đào đã quyến gió đông/ Phù dung lại nở bên sông bờ sờ” (Đặng Trần Cồn). Còn đến với câu thơ của Tố Hữu, ta lại nhận thấy cái ấm trong chính không khí lạnh lẽo đó. Giữa đại ngàn bát ngát một màu xanh của núi rừng, sắc đỏ của cây chuối rừng hiện lên thật đẹp đẽ và vô cùng đặc sắc. Dường như nó trở thành nhãn tự của câu thơ, làm bừng sáng cả một bức tranh thiên nhiên. Sắc đỏ đó khiến ta bất chợt nhớ đến câu thơ của Nguyễn Trãi khi vào hè:
Hèo lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, là ánh sáng lấp lánh của chiếc dao gài thắt lưng của con người. Con người Việt Bắc hiện lên thật mạnh mẽ, rắn rỏi, làm chủ thiên nhiên. Giữa hoang vu đại ngàn, con người không bị thiên nhiên khuất lấp, mà ngược lại con người trong tư thế làm chủ thiên nhiên, đất trời
Bức tranh thiên nhiên – con người thứ hai là bức tranh mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Vùng đồng bằng, mỗi độ xuân về đào đỏ bung sắc thắm, còn với núi rừng Việt Bắc nếu lấy đào đỏ có lẽ sẽ không nói được đặc trưng thiên nhiên nơi đây. Tố Hữu lựa chọn hoa mơ – một loại hoa điển hình của núi rừng Tây Bắc để nói về mùa xuân quả là một lựa chọn hoàn hảo. Sắc trắng tinh khôi, nở rộ của hoa mơ khiến cả không gian ngập tràn sức sống, một sự sống thanh khiết, tươi non mơm mởn. Giữa rừng mơ trắng nổi bât hình ảnh người đan nón và hành động cụ thể “chuốt từng sợi giang”. Vẻ đẹp đó là vẻ đẹp của sự cần mẫn, chăm chỉ, chịu thương chịu khó.
Xuân qua, hạ đến, bức tranh nào, hình ảnh nào sẽ làm nổi bật vẻ đẹp và con người nơi đây? Không để bạn đọc thất vọng, sắc vàng óng trong cả câu thơ khiến bức tranh vừa mơ màng, huyền ão mà cũng tất đỗi lung linh:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Mùa hạ nổi bật với sắc vàng của lá và âm thanh tưng bừng, rộn rã của tiếng ve. Không gian trở nên sống động và tràn ngập sức sống hơn. Con người ở đây được tác giả gọi một cách thật đặc biệt: “cô em gái”. Cô em gái là cách gọi đầy thân thương, rất đỗi tình cảm. Trong không gian tràn đầy màu sắc, hình ảnh người con gái đang hăng say lao động, không khỏi khiến người chiến sĩ xao xuyến, lay động. Đây quả là bức tranh lay thức, làm lòng người động tâm. Cô gái mang trong mình một vẻ đẹp mộc mạc, khỏe khoắn mà vẫn hết sức tình tứ.
Bức tranh cuối cùng la khung cảnh mùa thu:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Từ bức tranh mùa đông, Tố Hữu đi đến bức tranh mùa thu – mùa hòa bình. Bức tranh cuối cùng kết lại khổ thơ tứ bình. Phải chăng bức tranh thu hòa bình đó cũng chính là mong muốn, nguyện ước và niềm tin của tác giả. Không gian về đêm yên tĩnh, thanh bình, bức tranh tựa như được vẽ bởi mực tàu, lung linh, huyền ảo dưới ánh sáng của ánh trăng. Trong đem trăng hòa bình ấy, tiếng hát tha thiết, trầm bổng càng xa hơn, ngân nga hơn. Đó là tiếng hát của tấm lòng thủy chung, là sự sắt son như một của kẻ ở, người đi.
Tuy đoạn thơ hết sức ngắn ngủi nhưng đã thể hiện được tình cảm sâu đậm mà tác giả dành cho thiên nhiên và con người nơi đây. Phải có một tâm hồn tinh tế, tấm chân tình thì mới có thể thấy được vẻ đẹp của từng mùa và khái quát nên những câu thơ đặc sắc đến như vậy.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 5
“Việt Bắc” của Tố Hữu không chỉ là bài ca ân tình thủy chung giữa những con người của cách mạng với đồng bào miền núi, đó còn là khúc hát ngợi ca thiên nhiên và con người nơi mảnh đất xa xôi của Tổ quốc. Hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc được nhà thơ tập trung khắc họa ngợi ca trong những dòng thơ tươi đẹp:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Cảnh vật Việt Bắc được khắc họa rất điển hình. Tố Hữu đã mượn hình ảnh của hoa chuối đỏ tươi để gợi dậy một nét đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Có người cho rằng hình ảnh hoa chuối lần đầu tiên đi vào thơ Tố Hữu nhưng đã tạo được ấn tượng đặc biệt với người đọc. Cảnh mùa đông có nét ấm áp, rực rỡ, tươi tắn, chứ không phải là sự lạnh lẽo, hắt hiu. Bức tranh đan dệt bởi nhiều màu sắc: xanh, đỏ tươi, vàng. Nó không chỉ có nhiều sắc màu mà còn ngập tràn ánh sáng. “Ánh” là một từ rất gợi, hé mở sức sống kì diệu của cảnh và người Việt Bắc. Không thấy con người hiện hữu cụ thể mà chỉ qua hình ảnh “dao gài thắt lưng”, bóng dáng của người lao động vẫn hiện lên đầy bình dị, thân thiết. Bức tranh mùa đông đẹp vẻ đẹp ấm áp từ trong lòng cảnh vật, từ trong sức sống lao động của con người.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Mùa xuân Việt Bắc được gợi ra từ sắc trắng của hoa mơ, sắc xanh của rừng, tạo nên nét đẹp tinh khôi, thơ mộng của cảnh. Màu trắng của hoa có khả năng bao chiếm không gian, nhấn mạnh sự thanh khiết của cảnh vật. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp giản dị trong công việc lao động hàng ngày. Chỉ cần hình ảnh rất nhỏ cũng làm sáng vẻ đẹp cần mẫn, bền bỉ, kiên trì của người lao động trong công việc lao động của họ.
Nếu câu thơ mùa xuân bừng sáng sắc trắng của hoa mơ thì câu thơ mùa hạ lại ngân lên tiếng ve quen thuộc của núi rừng Việt Bắc. Tiếng ve dệt thành bản đồng ca mùa hạ rộn ràng, tươi vui. Sự hòa quyện giữa âm thanh và màu sắc đã tạo nên sự độc đáo cho cảnh vật. Sắc vàng của rừng phách như muốn tràn ra ngoài, ứa nhựa sống nhờ những tác động rộn ràng của tiếng ve. Câu thơ mùa hạ tưng bừng bởi thanh âm, náo nức bởi màu sắc, nhộn nhịp của cuộc sống lao động. Hình ảnh cô em gái hái măng không gợi nên sự lạc lõng, cô đơn mà hiển hiện người lao động bình dị, làm chủ công việc của mình, đã trở thành điểm nhấn cho bức tranh mùa hạ.
Hình ảnh vầng trăng mùa thu hòa bình mát rượi và tiếng hát ân tình vang ngân của con người đã làm sáng lên bức tranh mùa thu. Bức tranh ấy lắng lại trong nét đẹp quyến rũ, gợi cảm. Khúc hát ân tình vang lên trong tâm hồn thi sĩ, vọng lại từ rừng thu Việt Bắc kháng chiến. Cái đẹp của thiên nhiên hòa quyện với cái đẹp của con người.
Đặc sắc hơn cả, bức tranh được nhìn bằng tất cả niềm yêu thương, gợi bằng nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả. Từ “nhớ” được lặp nhiều lần, Tố Hữu qua thơ đã dựng lại một bức tranh Việt Bắc giản dị mà thân thuộc tình người. Sự chọn lọc hình ảnh đầy tài năng, sáng tạo của nhà thơ đã tạo ra một bộ tứ bình độc đáo, hoàn chỉnh. Lời thơ lục bát ngọt ngào, tha thiết làm nỗi nhớ càng thiết tha, sâu nặng.
Viết về cảnh và người Việt Bắc, Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc để thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha của mình. Chẳng những vậy, đoạn thơ sử dụng từ ngữ một cách tinh tế; hình ảnh thơ giản dị, gần gũi mà tươi đẹp diễn tả thành công hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc ân tình, chung thuỷ.
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Việt Bắc” nói chung đã khắc vào lòng người đọc những hình ảnh đẹp đẽ nhất về cảnh và người Việt Bắc. Đọc bài thơ, không chỉ những con người của cách mạng năm xưa cảm thấy xúc động vô bờ mà cả những con người của thế hệ hôm nay lòng cũng chợt nghiêng nghiêng về một vùng gió ngàn Việt Bắc.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 6
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4-10-1920, quê làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thơ của ông luôn có sức thu hút to lớn với những thế hệ người đọc qua mấy chục năm, chính là ở niềm say mê lý tưởng và tính dân tộc đậm đà trong nội dung và hình thức thơ của ông.
Nói thơ của ông mượt mà truyền thống dân tộc, bởi lẽ, ngay từ lúc ấu thơ, tâm hồn Tố Hữu đã được vun đắp, ấp yêu trong những câu ca dao, tục ngữ của cha, những bài dân ca xứ Huế, những giọng hò tha thiết, ngọt ngào của mẹ và trong cái nôi quê hương thơ mộng đất Huế, giàu văn hóa, bản sắc dân tộc, đã hình thành nên một hồn thơ của truyền thống, của quê hương – hồn thơ Tố Hữu.
Bước vào tuổi thanh niên đúng vào những năm cao trào cách mạng, Tố Hữu nhanh chóng bị lôi cuốn vào phong trào đấu tranh, gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lý tưởng cách mạng. Do đó đã định hình ở Tố Hữu phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Vũ khí của chiến sĩ là súng, nhưng ở Tố Hữu bằng cả ngòi bút, bởi vì đối với ông thơ và cách mạng đã hòa là một, trong thơ có lý luận chính trị sắc bén, trong cách mạng có tiếng nói ân tình thủy chung của người con xứ Huế Tố Hữu.
Sống giữa quê hương luôn biến động, hồn thơ Tố Hữu được trui rèn và thường vang ứng nhạy bén, dạt dào cảm hứng trước những bước ngoặt lịch sử, nên con đường thơ cũng đồng hành, gắn bó với những giai đoạn ấy.
Vì thế ta dễ hiểu lý do Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, rút ra từ tập thơ cùng tên, là một đỉnh cao, một tác phẩm xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc được sáng tác tháng 10 năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, Trung ương Đảng và chính phủ quyết định rời căn cứ từ Việt Bắc về Hà Nội. Đây là lúc giao thời giữa lịch sử và lòng người. Trong không khí hân hoan của cuộc sống mới, Tố Hữu hướng tâm hồn mình vào một nỗi niềm khác. Ông tự hỏi rằng liệu trong thời đại mới, con người có dễ dàng quên đi những năm tháng chiến đấu gian khổ, vĩ đại đã qua, liệu chúng ta có dễ dàng thoả mãn bằng lòng với hiện tại mà mờ phai quần chúng đã hi sinh đổ máu. Trong lúc giao thời ấy nhưng lại nhạy cảm với tâm hồn thơ Tố Hữu, Việt Bắc xuất hiện như một tiếng nói ân tình, tha thiết của tác giả với nhân dân kháng chiến, cũng là sự ngụ ý với tất cả mọi người.
Cả đoạn trích liên tục với những câu thơ 6,8 trải dài nên cấu tứ gần với thể loại ca dao dân ca. Và hình thức thể hiện chỉ ca dao, dân ca mới có, đó là lối đối đáp của kẻ ở người đi, chân thành, tha thiết không kém lối giao duyên của nam nữ, của những người yêu nhau. Thêm vào đó là giọng điệu ngọt ngào tâm tình, nhạc điệu theo cấu trúc 4/4 xoáy sâu vào lòng người đọc những âm hưởng du dương của văn học dân tộc. Cho nên Việt Bắc rất gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc. Việt Bắc quả là một tác phẩm mang đậm tính nghệ thuật dân tộc.
Nhưng nếu chỉ có thế thì xem ra Tố Hữu không có gì là đổi mới, sáng tạo về nghệ thuật. Nhưng khi xét cái hay của tác phẩm, ta không chỉ đơn thuần thưởng thức tác phẩm ở hình thức, cấu trúc thơ mà còn ở cái hồn, chính là nội dung tác phẩm. Với Việt Bắc, thoạt nhìn cứ tưởng đây là cuộc tâm tình giữa những cá thể nhưng đọc kĩ, ta phát hiện ra cái riêng tâm tình ấy đã hóa thành cái chung, một vấn đề hết sức to lớn không của riêng ai, đánh động vào không ít tâm hồn người đọc: đó chính là mối ân tình gắn bó thuỷ chung giữa chiến sĩ cách mạng và nhân dân vùng kháng chiến.
Đến đây đã thể hiện được tài năng cách mạng hóa, chính trị hoá thơ Tố Hữu. Nhưng cách mạng hoá, chính trị hoá ở đây không phải là đưa thơ vào chỗ khô khan, tuyên truyền mà với Tố Hữu đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống dân tộc và tư tưởng tiến bộ, nhạy cảm. Cho nên đọc Việt Bắc ta cảm nhận được sự thân quen, gần gũi nhưng lại có cảm giác bừng tỉnh, mới mẻ, sâu sắc.
Đoạn trích mở đầu với cuộc chia ly thấm đẫm sự lưu luyến, thương tiếc:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Đại từ “mình – ta” được lặp đi lặp lại nhiều lần, không biết tự khi nào “mình” và “ta” đã gắn bó gắn bó gần gũi, keo sơn như vậy. “Ta” – nhân dân Việt Bắc thiết tha cất tiếng hỏi người ra đi:
Mình về mình có nhớ không?
tựa như nỗi niềm của ngưởi con gái luyến tiếc, không đành lòng chia tay người yêu. “Mình” ra đi liệu có khắc cốt ghi tâm ơn tình, ân nghĩa của “ta”.Cho nên câu hỏi có sự lắng đọng sâu sắc, từ thắm trong tâm hồn “ta” mong chờ ở mình sự chung thuỷ, nhớ thương như tình cảm của “ta” đối với “mình”.
Đáp lại sự thiết tha của người ở lại, người ra đi cũng tha thiết nên nỗi không cất thành lời. Tấm lòng luôn hướng về những kỉ niệm, sự yêu thương, gắn bó cùng thời gian, người ra đi mang bên mình một nỗi bâng khuâng, bước đi không đành, bồn chồn, không dứt khoát.
Trong giây phút này, bất kì lời nói nào cũng không tỏ hết nỗi lòng của kẻ đi người ở, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt, truyền cho nhau cảm xúc, cảm giác, truyền cho nhau câu trả lời thầm kín để ngươì ở lại tin rằng, dù mai sau, dù có ở đâu chăng nữa, tấm lòng này vẫn chung thuỷ, sắt son hướng về nơi ân nghĩa tình người.
Đoạn trích mở đầu thật xúc động, sâu lắng, dù không có câu trả lời của người ra đi nhưng ta lại nhận ra một mạch ngầm tri âm hiện hữu. Điều đó nói lên rằng ta và mình vốn thương nhau, gắn bó như ruột thịt, không cần nói vẫn hiểu nhau.
Chỉ bằng những câu thơ đầu tiên đã thể hiện tài năng tột cùng của tác giả khi thể hiện hình thức thơ. “Mình” và “ta”, tựa như hai cá thể đang đối thoại nhưng thật ra là sự độc thoại của chính tác giả. Tố Hữu, cũng là chủ thể trữ tình, phân thân để dễ dàng bày tỏ tâm trạng, cảm xúc. Cuộc đối thoại vốn chân tình, sâu lắng như vậy chắc hẳn tấm lòng của tác giả còn da diết, không đành hơn nữa. Qua đó cho ta thấy một điều, mối tình giữa nhân dân vùng kháng chiến và chiến sĩ cách mạng trong sáng, hoà quyện, không thể tách rời.
Vẫn lời tha thiết của người ở lại, khổ hai mở ra một Việt Bắc đắng cay, sục sôi ý chí, ơn nghĩa, keo sơn. Trong gian khổ của những năm đau thương chiến đấu, sự khắc nghiệt cuả thiên nhiên, vật chất thiếu thốn không làm lung lay ý chí con người, “mình” và “ta” đùm bọc, gắn bó, gian khó bao nhiêu thì tinh thần lên cao, quyết tâm trả thù bấy nhiêu:
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Một tấm lòng, một ý chí, “ta” và “mình” đã cùng vượt qua bao khổ đau để đến với một niềm tin vào ngày mai, tấm lòng ấy đậm đà, toả sáng như ánh nắng chiếu sáng những âm u, của “những mây cùng mù”, của những “hắt hiu lau xám”
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Tiểu đối “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son” làm cho câu bát có cấu trúc đẹp, hài hoà khiến cho màu son của tấm lòng Việt Bắc như càng hắt sáng lên trên nền lau xám nghèo khó, mang đến sự xao xuyến mãi.
Những cấu trúc câu 4/4 liên tục rõ ràng, mạch lạc, mang đến nhạc điệu êm ả, khiến cho câu thơ như một bài hát, của sức mạnh, sự nhắc nhở và niềm tin.
Qua bao câu hỏi thiết tha của người ở lại, giờ đây người ra đi mới cất tiếng, khẳng định một tấm lòng trước sau như một:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Đọng trong tâm trí người ra đi là ánh trăng, là nắng chiều:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Là từng bản khói bên bếp lửa thân quen, nhớ từng củ sắn lùi, những bữa ăn đạm bạc nhưng ấm cúng:
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Và từng rừng tre nứa bao bọc, che chở chiến sĩ trước quân thù. Hay cảm động xót xa trước hình ảnh người mẹ địu con trên đồng nắng gắt bẻ từng bắp ngô:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Ôi, bao nhiêu gian khổ, nhưng những đắng cay ấy lại làm nên một tinh thần đoàn kết, cứng rắn, luôn yêu đời:
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Bây giờ xa rồi, tưởng chừng như tâm hồn mình đứng lại, chợt lắng nghe hay là tưởng tượng, âm thanh của tiếng mõ, tiếng cối đều đều, cứ chạm sâu vào tâm can, như gọi người ra đi trở lại:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Bởi vậy mới biết tấm chân tình của chiến sĩ và nhân dân Việt nam sâu sắc đến nhường nào.
Nếu khổ thơ trên chỉ là đơn thuần nhớ về con ngưòi vùng Việt Bắc thì khổ thơ sau đây thể hiện chiều sâu vượt bậc của Tố Hữu khi nâng cao giá trị của con người, cùng với thiên nhiên đã làm nên một vẻ đẹp lung linh của vạn vật nơi này:
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu ví người như hoa, cũng phải, bởi “người ta là hoa đất”, đó là những người dân lao động cần cù, trẻ, khỏe, tinh thần cao. Nhưng nếu chỉ có vậy thì không hết được dụng ý của tác giả. Tố Hữu đã mở bừng ra một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc tươi sáng, với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, đó là một bức tứ bình đạt tới độ hài hòa, cân xứng: mùa đông rực màu đỏ hoa chuối giữa nền rừng xanh mênh mông; mùa xuân tinh khiết bởi màu trắng hoa mơ; mùa hè rực lên sắc vàng rừng phách; mùa thu huyền ảo ánh trăng soi. Trình độ miêu tả thiên nhiên của Tố Hữu đã đạt đến trình độ điêu luyện và có thể sánh với vẻ đẹp cổ điển trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Ở đây còn có sự sáng tạo ngôn ngữ độc đáo:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Âm thanh đánh vào thính giác vậy mà mắt như thấy được sắc vàng loang cả khu rừng. Tiếng ve, một âm thanh tiêu biểu, vô tình thôi nhưng khi cất lên đã đánh thức, làm bừng tỉnh vạn vật. Nghe mà như thấy, Tố Hữu đã thực sự hoà quyện mình vào từng con suối dòng sông nơi đây. Chỉ có ai có sự gắn bó tha thiết, sâu sắc mới có khả năng này.
Thiên nhiên này càng đẹp bởi có hoa, có người. Thiên nhiên và con người đan cài làm nên sự duy nhất, vĩnh cửu của Việt Bắc nơi đây. Đó chính là dụng ý của tác giả khi cứ một câu thơ tả cảnh lại xen một câu thơ tả người, mang đến cho bài thơ nét trữ tình, ngọt ngào.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh, nhớ người, nhưng quan trọng nhất là nhớ về kháng chiến – một Việt Bắc kháng chiến thật hào hùng. Vẻ độc đáo của một Việt Bắc đứng lên là hình ảnh cả núi rừng đánh giặc:
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Chữ “rừng” rải kín những câu thơ, rải kín đất Việt Bắc, tạo thế hiểm của trường thành lũy thép vây bọc quân thù.
Nhưng ở Việt Bắc, đẹp nhất là hình ảnh toàn dân kháng chiến. Thực tiễn cách mạng lúc này đòi hỏi phải miêu tả khí thế của đám đông trên nền không gian lớn, do vậy cái bút pháp thủ thỉ “mình – ta” kia phải nhanh chóng vươn tới hình thức tráng ca:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Từ tiết tấu ngân nga dìu dặt như lời ru ở những đoạn thơ trên:
Nhớ gì/ như nhớ / người yêu
Trăng lên đầu núi / nắng chiều lưng nương,
Đến đây tác giả phá vỡ tính cân xứng để tạo ra một tiết tấu khác, phi đối xứng:
Quân đi / điệp điệp trùng trùng…
Dân công / đỏ đuốc từng đoàn…
Nghìn đêm / thăm thẳm sương dày…
Làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước hành quân vũ bão. Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả: nát đá, thăm thẳm, bật sáng…, hình ảnh kì vĩ (hình ảnh bộ đội, dân công nườm nượp những nẻo đường kháng chiến), ý thơ mở ra một tương lai tươi sáng:
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên…
Tất cả tạo một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng.
Ở khổ thơ cuối đoạn trích, hình thức hỏi – đáp đã trở nên hết sức tinh tế và sâu sắc:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Màu sắc trữ tình đã chuyển sang lí trí trong những câu thơ mang dáng vẻ của chân lí, châm ngôn. Việt Bắc thành đầu mối quy tụ tư tưởng, tình cảm của cả dân tộc, là điểm chốt lại bài thơ. Việt Bắc trở thành biểu tượng chung cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí toàn dân. Việt Bắc bình dị thành Việt Bắc thiêng liêng.
Thơ ca cách mạng đã tìm được vẻ đẹp của mình trong thành công của bài thơ Việt Bắc. Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu với hình thức cấu tứ đậm tính dân tộc, do vậy giọng lục bát điêu luyện, ngọt ngào của thơ Tố Hữu vừa nói được những vấn đề rất lớn của thời đại mới, vừa chạm được vào chỗ thẳm sâu trong truyền thống ân nghĩa thủy chung của tâm hồn con người Việt Nam.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 7
Nếu nói đến nhà thơ mang nhiều danh xưng nhất của nền văn học Việt Nam chắc có lẽ không ai ngoài Tố Hữu. Ông được tán dương hết lòng vì những đóng góp cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là cho nền văn học mang khuynh hướng trữ tình chính trị. Người ta nhắc đến Tố Hữu như là một “nhà thơ của cách mạng”, một “nhà thơ của nhân dân”, là “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, thơ ca của ông luôn có một sự nhất trí “Nhất trí giữa đời sống và nghệ thuật. Nhất trí giữa tình cảm, tư tưởng và hành động. Nhất trí giữa con người với thời đại, với tập thể”.
Kể từ khi bước vào chặng đường sáng tác Tố Hữu chưa khi nào rời xa cách mạng, rời xa đất nước và nhân dân, thơ ông luôn tồn tại một tình yêu lớn, một tình yêu chung vĩ đại “Yêu dân, yêu nước, yêu Đảng, yêu Bác, yêu người thân, yêu bạn bè, tình yêu bao la không bờ bến…”. Khi năm tháng dần qua đi, từ lúc Tố Hữu viết “Từ ấy” với giọng thơ sôi nổi nhiệt huyết, cho đến khi ông viết “Việt Bắc” bằng giọng thơ ân tình, trầm lắng, người ta dễ dàng nhận thấy sự trưởng thành của một hồn thơ lý tưởng, ngày càng trở nên thân thiết và gắn bó với nhân dân, với cách mạng, với đất nước, có thể nói “phẩm chất ấy là cốt lõi của thơ Tố Hữu, của nhà cách mạng Tố Hữu, của phong thái Tố Hữu”. “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu, sau “Từ ấy”, thể hiện rõ nét sự trưởng thành, hoàn chỉnh trong phong cách thơ ca trữ tình chính trị, kết hợp với yếu tố văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của nhà thơ. Trong đó Tố Hữu đã dành riêng một đoạn thơ mười câu để nói riêng về những nét đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc rất hay và đặc sắc, bộc lộ được cái ngòi bút tài hoa vô cùng của tác giả.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Tháng 10 năm 1954, sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi được khoảng ba tháng, trung ương Đảng và Chính phủ ra quyết định chuyển căn cứ trở về thủ đô, trong không khí hân hoan vui mừng vì nền hòa bình mới lập lại, thì cuộc chia tay với núi rừng và con người Tây Bắc sau gần mười năm gắn bó keo sơn đã đem đến cho tác giả nhiều cảm xúc, “Việt Bắc” đã ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt ấy. Bằng giọng thơ trầm lắng, thấm đẫm ân tình thủy chung, với thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, kết hợp cùng nội dung mang tính lịch sử tựa như một bản tổng kết của cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, đắng cay gần mười năm trời của quân dân ta, cũng đồng thời là lời tri ân sâu sắc của người ra đi đối với người ở lại, “Việt Bắc” đã trở thành đỉnh cao của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Trong một tác phẩm có dung lượng lớn như vậy, hình ảnh thiên nhiên và con người Tây Bắc vẫn đều đặn xuất hiện trong suốt cả bài thơ, thế nhưng rõ nét nhất và đặc sắc nhất chính là “bức tranh tứ bình” với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong mười câu thơ từ câu thứ bốn mươi ba đến câu thứ năm mươi hai. Ở đó mỗi một mùa chỉ được miêu ta bằng hai câu thơ thế nhưng nhiêu đấy cũng đủ để người ta thấm thía về một Việt Bắc xa xôi, thấm đẫm ân tình thủy chung.
Khởi đầu chính là bức tranh thiên nhiên mùa đông với hai câu thơ:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Có thể thấy rằng khung cảnh mùa đông không được tả một cách tỉ mỉ chi tiết mà chỉ được gợi ra bằng những nét chấm phá đặc trưng của thơ ca cổ điển với hai gam màu “xanh” và “đỏ”. Nhưng màu xanh ở đây không phải là màu xanh tươi, màu xanh non mơn mởn của cành lá mới đâm chồi, nảy lộc là màu xanh này là gam màu xanh thẫm, gợi ra cảm giác lạnh lẽo, âm u của một vùng núi rừng bạt ngàn cây cối. Đôi lúc liên tưởng xa hơn, người ta nghĩ rằng sở dĩ màu xanh ấy càng trở nên trầm mặc, âm u vậy là bởi vì khí trời mùa đông quá đỗi lạnh lẽo, đã phủ một lớp sương dày làm màu xanh của lá cũng trở nên đậm và trầm hơn hẳn. Trên cái nền xanh thẳm bạt ngàn ấy nổi bật lên là những cái hoa chuối đỏ tươi, tựa như đốm lửa rực rỡ giữa ngày đông buốt giá, dĩ nhiên rằng cái màu đỏ ấy chẳng thể nào che lấp đi cái rét cắt da ở Tây Bắc, thế nhưng sắc đỏ hòa cùng với những đốm nắng nhàn nhạt dường như đã làm cho mùa đông nơi đây vơi đi được phần nào sự lạnh lẽo, trầm u. Bức tranh thiên nhiên trở nên ấm áp và đặc sắc hơn, từ nó người ta cũng thấy được nét riêng trong phong cách làm thơ trữ tình cách mạng của Tố Hữu, ông không quá tập trung nhấn mạnh những cái gì gian khó khắc họa, mà thay vào đó ông đưa vào thơ mình những hoàn cảnh gian lao thế nhưng ở đó vẫn hiện lên những vẻ đẹp tinh tế, vẻ đẹp khiến lòng người trở nên phấn khởi, vui tươi, thay vì sự sợ hãi, chùn bước. Nổi bật giữa bức tranh mùa đông với màu xanh của núi rừng điểm vài chấm đỏ của hoa chuối đó chính là hình ảnh con người trong lao động. Ở đây không phải hình ảnh của các cán bộ chiến sĩ mà là hình ảnh của một người dân Việt Bắc với vẻ đẹp khỏe khoắn và chủ động giữa thiên nhiên rộng lớn. Trên lưng họ lúc nào cũng mang theo một con dao chuyên dụng để mở đường mỗi khi vượt núi băng rừng, tư thế hiên hiên ngang sẵn sàng chinh phục mọi “đèo cao”, ánh nắng ấm áp bao phủ càng tô đậm cho hình tượng con người với tinh thần và sức sống mãnh liệt, sẵn sàng chinh phục, làm chủ mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên. Có thể nói rằng chính bức tranh thiên nhiên mùa đông đã trở thành bức phông nền làm nổi bật lên dáng vẻ mạnh mẽ, tự tin, sinh động của con người Tây Bắc trong lao động và kháng chiến.
Tương tự, sau bức tranh mùa đông, chính là bức tranh Việt Bắc mùa xuân.
Mùa xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Mùa xuân ở Việt Bắc không báo hiệu bằng hoa mai vàng rực rỡ, hay hoa đào hồng ý nhị mà thay vào đó là hình ảnh hoa mơ trắng. Tố Hữu đã thể hiện rõ rệt sự chuyển mùa bằng cách chuyển đổi màu sắc linh hoạt từ một màu xanh thăm thẳm, lạnh lẽo, âm u sang gam màu trắng, dịu dàng tinh tế, vừa trẻ trung vừa khỏe khoắn đúng với cái không khí rộn ràng của mùa xuân trên rẻo cao. Bức tranh thiên nhiên dường như bừng sáng hẳn lên, mang lại cảm giác tươi vui, sự sống qua một đợt đổi mới trở nên thanh khiết và tràn đầy sinh khí. Giữa khung cảnh mùa xuân dịu dàng, hình ảnh con người hiện lên với công việc “đan nón” nhẹ nhàng, thế nhưng lại thể hiện vẻ đẹp tinh tế, khéo léo của con người Tây Bắc trong công việc cần tính nhẫn nại và tỉ mẩn. Sự chuyên chú trong công việc “chuốt từng sợi giang” bộc lộ đức tính cần mẫn và tài hoa của đôi bàn tay những con người miền núi, bức tranh mùa xuân và con người lại càng trở nên hòa hợp và ý nhị.
Qua đông, xuân lại đến hè, mùa hè trên vùng Tây Bắc cũng thể hiện một cách rõ rệt.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Nếu màu xanh tượng trưng cho mùa đông, màu trắng tượng trưng cho mùa xuân, thì có lẽ không có màu nào khác ngoài màu vàng có thể diễn tả được hết cái sắc hè rõ rệt ở núi rừng Việt Bắc. Mùa hè bắt đầu bằng tiếng ve kêu râm ran, từ tiếng ve kéo theo theo cả “rừng phách đổ vàng”, khắp nơi nơi đều tràn ngập trong sắc vàng, nắng vàng, lá vàng, thậm chí đến cả cánh ve, tiếng ve dường như cũng vàng theo. Khung cảnh trở nên sinh động và nhộn nhịp vô cùng, hơn thế nữa chỉ một từ “đổ” thôi cũng diễn tả được cái hè ập đến núi rừng Tây Bắc một cách nhanh chóng và đồng loạt. Nơi đây đã hoàn toàn xa rời cái mùa đông cắt da cắt thịt, cũng lột bỏ hoàn toàn lớp áo trắng tinh khôi thay vào đó là bộ cánh vàng rực rỡ, tươi vui mới mẻ. Khác với phong cảnh núi rừng có vẻ tràn đầy sức sống, rộn ràng, tươi vui thì hình ảnh con người hiện lên lại khá trầm lặng, dịu dàng với “cô em gái hái măng một mình”. Sự tương phản ấy cũng tương tự như bức tranh mùa đông trầm buồn làm nổi bật hình ảnh con người khỏe khoắn, tự tin thì ở đây bức tranh nhiệt huyết mùa hè lại làm nổi bật nên hình ảnh lao động cần cù, hi sinh thầm lặng của con người Việt Bắc dành cho kháng chiến. Giọng thơ Tố Hữu trở nên trầm tĩnh, thân thuộc và mang nhiều tình cảm gắn bó tha thiết, thể hiện tấm lòng yêu thương, ân nghĩa sâu nặng với đồng bào nơi đây.
Cuối cùng kết thúc bức tranh tứ bình đặc sắc là bức tranh mùa thu với hình ảnh con người thông qua tiếng hát ân tình, phần này có nhiều nét khác biệt so với các bức tranh đông, xuân, hạ trước đó bởi nó không chỉ là mùa thu mà còn là thời điểm mang nhiều ý nghĩa đặc biệt của cách mạng, của dân tộc.
Mùa thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Trái ngược với khung cảnh ban ngày sáng rõ với ánh nắng mặt trời ấm áp thì mùa thu lại hiện lên trong khung cảnh ban đêm với ánh trăng dịu hiền, thanh mát. Hình ảnh vầng trăng mang nhiều ý nghĩa biểu trưng, đó có thể hoài niệm về những đêm dài thức trắng đợi giặc, bầu bạn cùng với trăng trong: “Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/Đầu súng trăng treo”. Rồi vầng trăng tròn vành vạnh soi sáng đất nước và núi rừng Tây Bắc cũng là biểu hiện cho sự sum họp, ấm no, hạnh phúc, trăng cũng là biểu tượng của sự thủy chung tình nghĩa, chẳng phải từ cổ chí kim người ta vẫn thường lấy trăng làm minh chứng cho sự thề nguyền gắn bó hay sao? Đặc biệt trong bức tranh mùa thu con người không còn hiện lên với hình ảnh chuyên chú lao động, mà thay vào đó “tiếng hát hát ân tình thủy chung” đã gợi lên sự luyến tiếc, bịn rịn của những con người Việt Bắc trước giờ phút chia ly sau gần mười năm gắn bó keo sơn tựa ruột thịt, cùng chia ngọt sẻ bùi trong chiến đấu với các cán bộ cách mạng. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của bức tranh mùa mùa thu mà Tố Hữu còn có dụng ý sâu xa khi để mùa thu là sự kết thúc của tranh tứ bình. Nếu đối chiếu theo từng giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp những năm 1946 – 1954 thì mùa đông chính là thời điểm cuộc kháng chiến bắt đầu, với nhiều khó khăn thử thách, quân dân ta còn gặp nhiều khó khăn trắc trở, mùa xuân biểu trưng cho giai đoạn ta đã bắt đầu quen dần với hoàn cảnh kháng chiến khắc nghiệt, niềm tin, niềm hy vọng vào chiến thắng dần trở nên lớn mạnh, để mùa hè chính là giai đoạn kháng chiến ác liệt nhất, có vai trò quyết định đối với lịch sử dân tộc. Và cuối cùng mùa thu năm 1954 kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang, hòa bình lặp lại, mùa thu có thể nói chính là mùa thu trái ngọt sau bao tháng ngày vất vả trường kỳ kháng chiến đầy gian khổ.
Đoạn trích chỉ ngắn gọn mười câu thế nhưng thông qua đó hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc đã được Tố Hữu tái hiện rất sinh động bằng ngòi bút tỉ mỉ và đôi mắt tinh tường với nhiều dáng vẻ khác nhau, mỗi dáng vẻ lại là một nét đẹp đặc sắc của người và cảnh. Làm nên thành công của bức tranh tứ bình không chỉ ở phần nội dung thơ mà còn có sự đóng góp rất lớn của phong cách trữ trình chính trị kết hợp nhuần nhuyễn với yếu tố văn học đậm đà bản sắc dân tộc, bằng thể thơ lục bát truyền thống, bằng bút pháp gợi tả chấm phá cổ điển. Không chỉ vậy giọng điệu và ngôn ngữ thơ còn thấm đẫm ân tình thủy chung, rất đỗi truyền cảm và thân thuộc dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc. Có thể nói rằng nhà thơ Tố Hữu xứng đáng có thêm một danh hiệu khác ấy là “ông hoàng của thơ tình yêu lãng mạn cách mạng”.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 8
“Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi nhớ thấm sâu lòng người… Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tầm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu – nơi đã từng nuôi nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”: “Mình có nhớ ta không?” Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì? Việc Bắc có gì để mà nhớ, để mà thương? Câu thơ đã trình bày rất rõ:
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng. Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi… Núi rừng Việt Bắc như một sinh thế đang biến đổi trong từng khoảnh khắc.
Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hòa nắng ấm, sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao. Hình ảnh con người làm nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thủy chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc… Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế. “Ta, mình” làm sao có thể quên nhau được? Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại.
Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 9
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Mỗi một chặng đường thơ của ông đều luôn gắn bó mật thiết với các chặng đường cách mạng dân tộc. Các tác phẩm của ông luôn gắn liền với phong cách thơ mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp với tính dân tộc đậm đà bản sắc, góp phần to lớn trong việc cổ vũ và ủng hộ Cách mạng thành công. Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu, đồng thời cũng là đỉnh cao của nền thơ kháng chiến chống Pháp, tác phẩm vinh dự được xem là bản tổng kết bằng thơ của cuộc kháng chiến gian khổ, hào hùng của dân tộc đồng thời cũng là lời tri ân sâu sắc, nghĩa tình đối với nhân dân Việt Bắc, núi rừng Việt Bắc xa xôi. Trong suốt tác phẩm có độ dài khá lớn, hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc đã hiện lên thật đẹp đẽ và nhiều ý nghĩa. Dẫu rằng hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc được thể hiện kéo dài xuyên suốt cả tác phẩm, thế nhưng cô đọng và hàm súc nhất vẫn là bức tranh thiên nhiên con người gói gọn trong mười câu thơ từ câu số bốn mươi ba đến câu năm mươi hai. Mà người ta vẫn thường yên mến gọi đó là bức tranh tứ bình, ở đó cảnh sắc thiên nhiên và con người trong lao động, trong kháng chiến hiện lên theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với những nét đẹp vô cùng đặc sắc, ấn tượng.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Bức tranh mùa đông được gợi lên thật ngắn gọn qua hai câu thơ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, nhưng đã tái hiện được toàn vẹn vẻ đẹp của cả thiên nhiên và của cả con người. Vẻ đẹp của thiên nhiên rừng đông nằm ở sự hòa sắc tuyệt vời giữa hai màu xanh và đỏ, bằng bút pháp chấm phá chỉ gợi chứ không tả cụ thể với gam màu chủ là màu xanh. Màu xanh của rừng mùa đông không phải là màu xanh non mỡ màng của mùa xuân mà đó là màu xanh thẫm, một gam màu lạnh trải dài bát ngát, tạo nên cho núi rừng Tây Bắc một cảm giác âm u, trầm mặc. Nổi bật trên gam màu xanh ấy là màu đỏ tươi của hoa chuối, khiến người ta liên tưởng đến những ngọn đuốc đang cháy rừng rực giữa một vùng rừng xanh âm u trầm mặc và người ta còn thấy thấp thoáng một vài đốm nắng nhàn nhạt. Chính sự hiện diện của hai gam màu nóng trên nền xanh lạnh lẽo đã đem lại cho cả núi rừng Tây Bắc một chút ấm áp, xua tan đi bớt những cái giá rét cắt da cắt thịt của mùa đông. Như vậy điều Tố Hữu mong muốn là đưa vào thơ một thiên nhiên Việt Bắc bớt đi sự khắc nghiệt, những thứ đã từng là trở ngại, khiến bộ đội chùn bước trong kháng chiến, để đem đến cho núi rừng Việt Bắc một vẻ đẹp khác biệt, ấn tượng bên cạnh cái khắc nghiệt của thời tiết của địa hình. Bên cạnh vẻ đẹp chấm phá của thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn trong lao động “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” – lưỡi dao mà tác giả nhắc đến là lưỡi dao chuyên biệt để đi rừng của dân tộc nơi đây, để mở đường vào rừng. Tư thế của con người thể hiện qua từ miêu tả địa hình “đèo cao”, một dạng địa hình đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, chập chùng, gập ghềnh muôn kiểu, gợi ra vẻ đẹp mạnh mẽ hiên ngang, với tâm thế làm chủ thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bức tranh thứ hai chính là bức tranh mùa xuân, thiên nhiên tái hiện qua cây “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”, tác giả đã có sự chuyển đổi màu sắc rất linh hoạt, chuyển từ một màu xanh thẫm lạnh lẽo sang sắc trắng dịu dàng, khỏe khoắn. Thiên nhiên nổi bật lên với màu trắng của hoa mơ, đó là màu trắng tinh khôi, thanh khiết, trải dài mang sức sống rất mãnh liệt, bức tranh thiên nhiên dường như bừng sáng hẳn lên. Trên nền thiên nhiên ấy ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp của con người đang trong công việc lao động nhẹ nhàng, với phẩm chất dồn tụ lại trong hai từ “chuốt từng”, cho thấy sự cần mẫn, chăm chỉ, sự cẩn trọng và đặc biệt là phẩm chất tài hoa trong lao động của con người Việt Bắc.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Bức tranh tiếp theo trong bộ tranh tứ bình chính là bức tranh mùa hạ, thiên nhiên được gợi lên trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng”, bức tranh thiên nhiên mùa hạ không chỉ được tái hiện bằng thị giác mà còn được tái hiện bằng cả thính giác, vẻ đẹp được kết hợp cả hình ảnh và âm thanh. Câu thơ dù chỉ sáu chữ thế nhưng nó đã gợi ra cả một chuỗi vận động liên hoàn, tiếng ve gọi mùa hè, rồi mùa hè lại nhuộm vàng cả rừng phách. Đặc biệt bước đi của thời gian đã được Tố Hữu hữu hình hóa bằng phong cách dùng từ độc đáo “đổ vàng”, nhấn mạnh tốc độ chuyển màu nhanh chóng và đồng loạt. Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên rực rỡ chính là hình ảnh con người trong lao động, cách gọi “cô em gái” thể hiện tình cảm gắn bó, thân thuộc của tác giả với đồng bào Việt Bắc. Cô gái hái măng “một mình”, gợi ra vẻ đẹp bình dị, lặng lẽ, sự đóng góp âm thầm trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần làm nên đất nước.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Cuối cùng chính là bức tranh mùa thu, đến đây phải nhắc đến một điều mà Tố Hữu đã cố tình dụng ý trong sự phá lệ của trình tự bốn mùa, bức tranh tứ bình bắt đầu vào mùa đông và kết thúc vào mùa thu, chính là sự song hành với cuộc kháng chiến của quân dân ta, sự khắc nghiệt của mùa đông chính là sự gian khổ trong những năm tháng kháng chiến, mùa thu chính là mùa của thu hoạch, là mùa để thu về những quả ngọt sau bao tháng ngày vất vả, đại diện cho sự thắng lợi của quân dân ta. Đồng thời sự khởi đầu và kết thúc này cũng trùng khớp với thời gian mở đầu và kết thúc chín năm kháng chiến ròng rã ở chiến khu Việt Bắc. Bức tranh thiên nhiên mùa thu mở ra với câu thơ “Rừng thu trăng rọi hòa bình”, hình ảnh vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, trước hết đó là vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, đồng thời cũng gợi ra những đêm thao thức không ngủ trong suốt chín năm kháng chiến gian khổ, cuối cùng ánh trăng cũng chính là ánh sáng của ấm no, hạnh phúc. Hình ảnh con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là con người đang say sua cất tiếng hát trong giây phút xúc động, lưu luyến của sự chia ly.
Như vậy, hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đã được Tố Hữu khắc họa thật sinh động qua những câu thơ trên.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 10
Cuộc chia tay đầy lưu luyến nhớ thương giữa những người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu phản ánh trong bài thơ “Việt Bắc” như cuộc chia tay của một đôi bạn tình. Ta và mình đã sống với nhau mười lăm năm keo sơn gắn bó, giờ đây phải chia tay để làm nhiệm vụ mới. Bài thơ được kết cấu theo lối hát đối đáp dân tộc. Đoạn trích dưới đây là lời của người cán bộ kháng chiến nói lên nỗi yêu thương nhớ của mình đối với Việt Bắc, với thiên nhiên tươi đẹp và với con người Việt Bắc tình nghĩa:
“… Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Mở đầu đoạn thơ, người cán bộ kháng chiến hỏi Việt Bắc có nhớ “ta” không và diễn tả nỗi nhớ của mình với Việt Bắc một cách khái quát:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Điệp từ “Ta về” và “nhớ” tăng cường nhạc điệu êm ái hợp với tình cảm thương nhớ và nhấn mạnh tình cảm tha thiết giữa người đi kẻ ở. Trong nỗi nhớ của người ra về, ấn tượng sâu đậm nhất là “hoa” và “người”. “Hoa” là biểu tượng của thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp. Đặt “hoa” bên cạnh “người” làm tôn lên niềm yêu mến trân trọng của người đối với nhân dân các dân tộc Việt Bắc tình nghĩa.
Đoạn thơ còn lại diễn tả nỗi nhớ dào dạt của người về xuôi đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ hiện lên trong từng thời gian và không gian của Việt Bắc. Người ra về nhớ cả hình ảnh bốn mùa của Việt Bắc. Cũng là cái cớ để nhà thơ phác họa vẻ đẹp rực rỡ và thơ mộng của núi rừng và gợi hình ảnh của nhân dân Việt Bắc ân tình thủy chung. Đây là mùa đông với màu xanh tha thiết lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng, ấm áp tình yêu: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi / Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng”. Vẻ đẹp của màu sắc, của hoa lá, của ánh sáng, của hương hoa hòa quyện với vẻ đẹp của con người. Giữa “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” đã nổi bật lên hình ảnh người lao động miền núi: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Tố Hữu quan sát rất tinh. Người đi rừng bao giờ cũng có một con dao trần dắt lưng lấp lánh ánh sáng mặt trời. Hình ảnh “đèo cao ánh nắng”… ấy làm sao mà quên được?
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bức tranh mùa xuân lại được chuyển sang gam màu lạnh. Ngày xuân rừng núi phủ một màu trắng tinh khiết của hoa mơ. Động từ “nở” khiến cho màu sắc như đang vận động, màu trắng càng có sức ám ảnh đối với người đọc. Dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái lao động Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Mùa hè, âm thanh của tiếng ve là đặc trưng của rừng núi Việt Bắc: “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Tác giả đã sử dụng bút pháp ấn tượng. Tưởng chừng như tiếng “ve kêu” đậm đặc, rung chuyển cả cây rừng khiến cho lá “phách đổ vàng”. Ấn tượng ấy mang lại nét lạ cho phong cách thơ Tố Hữu. Giữa cảnh rừng mùa hè, bất chợt gặp một cô gái “hái măng một mình”, phong cảnh thật là hữu tình. Cảnh thu Việt Bắc lại được miêu tả về đêm với bầu trời cao rộng và mảnh trăng thu thanh bình.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Những đêm trăng thu nổi lên “tiếng hát ân tình thủy chung” như tạc vào trong dạ của người ra đi. Trong trí nhớ của họ, phong cảnh Việt Bắc đầy màu sắc như một cái nền để làm nổi bật hình ảnh người Việt Bắc đảm đang, tình nghĩa, thủy chung. Như vậy là màu sắc, đường nét, âm thanh của rừng núi Việt Bắc được miêu tả trong sự vận động của thời gian, không gian. Mùa nào, cảnh rừng Việt Bắc cũng đẹp, cũng nên thơ đáng yêu, đáng nhớ. Có thể coi đấy là bộ tranh tứ bình đặc sắc của cảnh rừng Việt Bắc kháng chiến in đậm trong tâm trí của người về. Đây là đoạn thơ đặc sắc trong bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng của Tố Hữu. Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm nhớ thương Việt Bắc sâu nặng của người cán bộ kháng chiến khi rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Ngôn ngữ uyển chuyển, ngọt ngào. Những từ “ta”, “mình” được nhà thơ sử dụng có ý nghĩa mới. Những từ vốn rất riêng được Tố Hữu dùng với nghĩa chung, khiến cho cái chung có sức rung động lạ thường. Nhạc điệu của câu thơ lục bát êm đềm có sức ngân vang trong lòng người đọc như một khúc hát ru kỉ niệm. Điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần với nhiều cấp độ khác nhau tăng cường nhạc điệu du dương của đoạn thơ và nhấn mạnh được nỗi lòng lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh, với người Việt Bắc. Đặc biệt hơn cả là trong tâm tưởng của người ra về in sâu hình ảnh sắc màu của bức tranh tứ bình tươi sáng rực rỡ thơ mộng.
Đoạn thơ đã diễn tả được một khía cạnh sâu sắc của chủ đề bài thơ “Việt Bắc” là tình cảm thủy chung – thủy chung với cách mạng.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 11
Bài thơ “Việt Bắc” đã trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu. Đến với bài thơ này, người đọc sẽ cảm nhận được hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc qua bức tranh tứ bình tuyệt đẹp.
Chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng “nhớ” được điệp lại năm lần. Điều đó cho thấy nỗi nhớ chính là cảm xúc xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Ở hai dòng thơ đầu là lời giống như một lời nhắc dành cho người ở lại. Liệu rằng khi ta rời đi, mình có còn nhớ đến ta nữa không? Cách xưng hô “mình – ta” gợi sự thân mật cùng với tình cảm đậm đà tha thiết. “Ta” với “mình” tuy hai nhưng là một. Đối với “ta” thì vẫn luôn nhớ: “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Thiên nhiên Việt Bắc được ví như “hoa”. Nhưng không chỉ vậy, “ta” nhớ nhất vẫn là hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp.
Tám câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc qua bốn mùa: đông, xuân, hạ, thu.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Vào mùa đông, rừng biếc xanh. Điểm vào đó là những bông hoa chuối “đỏ tươi” cùng ánh nắng vàng rực rỡ. Màu đỏ của hoa chuối và màu vàng của nắng khiến cho bức tranh phần nào vơi đi cái u ấm, lạnh lẽo của ngày đông. Và con người xuất hiện trong công việc lao động sản xuất. Con người xuất hiện trong bức tranh mùa đông mang tầm vóc mạnh mẽ, chủ động tự tin trong lao động, sẵn sàng chinh phục thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
Khi mùa xuân đến cả khu rừng bừng lên sức sống bởi sắc trắng của hoa mơ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Sắc trắng của hoa mơ gợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, thanh khiết và đầy hy vọng. Hoa mơ chính là loài hoa tượng trưng cho mùa xuân ở vùng cao Tây Bắc. Trong thiên nhiên đó, hình ảnh con người trong công việc lao động nhẹ nhàng, nhưng lại tôn lên nét đẹp của sự tài hoa, khéo léo và cần cù.
Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ vàng”:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Bức tranh thu không chỉ có tiếng ve kêu báo hiệu mà còn có sắc vàng của rừng phách. Người đọc cảm tưởng như tiếng ve kêu đến đâu, lá của cây phách lại chuyển vàng đến đấy. Quả là một hình ảnh độc đáo. Con người trong bức tranh ngày hè xuất hiện với hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” gợi ra sự thầm lặng trong lao động, hi sinh sinh vì kháng chiến và tình cảm trân trọng, gần gũi yêu thương của Tố Hữu đối với con người Việt Bắc.
Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đây là ánh trăng của đất nước, biểu trưng cho sự ấm no, sum vầy, cũng là biểu tượng cho sự gắn kết, thủy chung. Hình ảnh con người lúc này cũng không còn gắn với những công việc lao động. Mà xuất hiện với tiếng hát để thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, ân tình thủy chung phút chia ly.
Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao, chỉ với vài nét chấm phá nhưng đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 12
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của Việt Nam. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông phải kể đến bài thơ “Việt Bắc”. Nổi bật trong bài thơ là hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc được khắc họa trong đoạn thơ sau:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đây được coi là bức tranh tứ bình khắc họa nên khung cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc. Hai câu thơ đầu tiên vẫn là lời đối đáp quen thuộc của người ra đi và người ở lại. “Ta” – “mình” cho thấy tình cảm gắn bó tha thiết giữa người lính với đồng bào Việt Bắc. Ở đây, người ra đi đã hỏi người ở lại: “Ta về mình có nhớ ta” đồng thời bộc lộ nỗi nhớ về “hoa cùng người”. Khi ra đi, người lính vẫn luôn nhớ đến khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc cùng với con người nơi đây.
Bức tranh đầu tiên được khắc họa là bức tranh mùa đông. Khung cảnh núi rừng Việt Bắc vào mùa đông hiện ta qua vài nét chấm phá đặc trưng của thơ ca cổ điển. Hai gam màu chủ đạo trong bức tranh đó là “xanh” và “đỏ”. Màu xanh thường gắn với sức sống, hy vọng và phát triển. Nhưng màu xanh ở đây lại gợi ra một sự lạnh lẽo, âm u của núi rừng Việt Bắc chỉ có bạt ngàn cây cối. Trên cái nền xanh mênh mông ấy nổi bật lên là màu đỏ tươi của hoa chuối rừng. Những bông hoa chuối đỏ giống như những ngọn đuốc thắp sáng rừng sâu u ấm, khiến nó bớt đi cái lạnh giá. Và trong bức tranh núi rừng đó, con người bỗng xuất hiện với công việc lao động sản xuất- gợi ra hình ảnh những con người Việt Bắc khỏe khoắn. Trên người họ lúc nào cũng có một con dao để vượt núi băng rừng làm rẫy. Ánh nắng ấm áp bao phủ càng tô đậm hơn sức sống mãnh liệt của đồng bào Việt Bắc.
Đông qua, xuân đến, núi rừng Việt Bắc tràn ngập trong sắc trắng của hoa “mơ”. Giống như hoa đào tượng trưng cho mùa xuân ở đồng bằng Bắc Bộ, hoa mai tượng trưng cho mùa xuân ở đồng bằng Nam Bộ. Thì hoa mơ chính là loài hoa tượng trưng cho mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc. Sắc trắng của hoa mơ bao phủ khắp núi rừng khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn đầy sinh khí, ấm áp và thơ mộng. Giữa thiên nhiên đó, con người xuất hiện với công việc “đan nón” đầy tinh tế “chuốt từng sợi giang”. Sự tỉ mỉ, cẩn thận gợi cho người đọc hình ảnh về con người Việt Bắc đầy tâm huyết với công việc mình đang làm. Bàn tay tài hoa của họ cũng giống như người nghệ sĩ sáng tạo ra những sản phẩm thủ công có giá trị.
Xuân qua, thiên nhiên Việt Bắc lại đến với mùa hè. Hình ảnh “ve kêu rừng phách đổ vàng” được Tố Hữu sử dụng thật khéo léo. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác qua từ “đổ vàng” khiến người đọc cảm nhận được thiên nhiên thay đổi vốn qua thính giác nay biến thành thị giác. Mùa hè ập đến với núi rừng nơi đây thật nhanh chóng, bất ngờ. Trong thiên nhiên ấy, con người xuất hiện đơn độc. “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này từng xuất hiện trong thơ của Hồ Chí Minh:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Chiều tối)
Một mình nhưng không đơn độc giữa núi rừng, bởi cô đang say sưa lao động để phục vụ cho kháng chiến. Đó là sự hy sinh của người Việt Bắc dành cho các chiến sĩ cách mạng.
Cuối cùng là bức tranh mùa thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hòa bình”. Hình ảnh vầng trăng vốn đã quá quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Đó là ánh trăng bầu bạn trong thơ của Hồ Chí Minh:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
(Ngắm trăng)
Hay ánh trăng trong thơ Chính Hữu với những lí tưởng cách mạng của người chiến sĩ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(Đồng chí)
Còn ở đây là ánh trăng của hòa bình, ánh trăng của niềm vui chiến thắng khi đất nước được độc lập. Ánh trăng thanh bình của một đêm mùa thu lịch sử với nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, trong bức tranh mùa thu, con người xuất hiện không phải với công việc lao động nữa, mà xuất hiện với “tiếng hát”. Có thể hiểu đó là tiếng hát mừng chiến thắng của đồng bào Việt Bắc. Cũng có thể hiểu đó là tiếng hát chia tay đầy lưu luyến của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ kháng chiến. Giờ phút chia tay này, những kỉ niệm về năm tháng kháng chiến gian khổ lại ùa về. Biết bao năm cùng nhau lao động, chiến đấu – chia ngọt sẻ bùi.
Bài thơ được bắt đầu bằng bức tranh mùa đông và kết thúc bằng bức tranh mùa thu – đó không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Bởi xét theo lịch sử, cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta diễn ra từ năm ngày mùa đông và kết thúc vào những ngày mùa thu lịch sử.
Tóm lại, hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đã được Tố Hữu khắc họa một cách thật tinh tế qua đoạn thơ trên.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 13
Những tháng năm kháng chiến trường kì, văn học giống như một cuốn nhật kí lưu giữ mọi bước đi của thời gian, Tổ quốc và con người. Việt Bắc của Tố Hữu chính là một tác phẩm ý nghĩa như thế. Dưới ngòi bút của hồn thơ trữ tình chính trị tiêu biểu, Việt Bắc đã ghi lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả qua những câu thơ diễn tả ân tình cách mạng và những hình ảnh miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên chan hòa cùng con người. Đặc biệt là đoạn thơ:
“ Mình về mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
“Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10.1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cùng bộ đội, chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Bài thơ ngợi ca cội nguồn cách mạng sâu nặng nghĩa tình và diễn tả nỗi lòng người đi người ở giây phút chia li. Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất miêu tả thiên nhiên và con người, đẹp hài hòa trong nỗi nhớ của nhà thơ. Khoảnh khắc phải rời xa nơi đây, nỗi nhớ không chỉ đong đầy câu thơ mà lời hứa thủy chung cũng thốt lên bồi hồi, xao xuyến:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Khi xưa, Chế Lan Viên từng viết ” Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Phải chăng Việt Bắc đã hóa tâm hồn người cán bộ. Câu thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Nhưng câu hỏi đó lại không cần lời hồi đáp mà giãi bày tâm trạng nhiều hơn. Hai tiếng “Ta – mình” xoắn xuýt thân thiết như đôi lứa yêu nhau. Điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn.
Trong cảm nhận của nhà thơ, người cán bộ rời đi không những khắc ghi những tháng ngày gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ cả vẻ đẹp của “hoa cùng người” Việt Bắc. Hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn người là con người Việt Bắc đậm đà lòng son. Thiên nhiên cùng con người hòa quyện, quấn quýt tạo nên vẻ đẹp của riêng mảnh đất này.
Đoạn thơ là bốn bức tranh về bốn mùa xuân hạ thu đông, mỗi bức tranh lại tái hiện một vẻ đẹp khác nhau, xao xuyến lòng người. Bức tranh mở đầu là mùa đông ấm áp:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Không phải cái lạnh lẽo, ảm đạm những ngày giá rét, mùa đông Việt Bắc ấm áp đến lạ thường. Điểm xuyết trên nền xanh của rừng già là sắc đỏ tươi của hoa chuối đang nở rộ, tỏ sáng dưới ánh nắng mặt trời. Những bông hoa đó như những bó đuốc sáng rực điểm tô cho bức tranh với gam màu vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại. Màu “đỏ tươi” giống như 1 phép màu xua tan cái hoang sơ lạnh giá của mùa đông nơi núi rừng. Và trên phông nền ấy con người hiện lên thật đẹp biết bao: ” Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Không có gương mặt nào hiện lên mà thay vào đó là dáng hình tư thế tuyệt đẹp. Con người đang đứng trên đỉnh cao, hăng say lao động và ánh nắng chớp lóe trên lưỡi dao gài trên thắt lưng họ. Giữa thiên nhiên rộng lớn, bao la, con người bỗng trở thành điểm hội tụ của ánh sáng, trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông.
Đông qua xuân đến, núi rừng ngập tràn sức sống mới:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Sắc trắng trong trẻo, dịu dàng của hoa mơ lặng lẽ bao trùm cả cảnh vật. Động từ “nở”, “trắng rừng” kết hợp với phép đảo ngữ đã nhấn mạnh sức sống của mùa xuân đang lan tỏa khắp nơi nơi. Con người xuất hiện với hành động “chuốt từng sợi giang”. Đó là công việc thường ngày của họ, họ cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo và tài hoa, họ đẹp ngay trong chính hiện thực hàng ngày.
Tố Hữu nhớ về mùa hè nơi đây với những âm thanh rộn rã huyên náo:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Tiếng ve vang lên, rừng phách thay áo mới, chuyển từ màu xanh sang màu vàng. Động từ “Đổ” không chỉ diễn tả sinh động sự chuyển màu nhanh chóng, đồng loạt của hoa phách đầu hè mà còn làm cho người đọc liên tưởng màu vàng của hoa phách dường như đang đổ tràn lênh láng. Cả khu rừng bỗng trở nên lấp lánh, long lanh dưới ánh nắng hè. Trên nền bức tranh thiên nhiên lộng lẫy ấy, nhà thơ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Người thiếu nữ ấy hái măng “một mình” nhưng không cô đơn mà hiện lên gần gũi thân thuộc. Người thiếu nữ xinh đẹp chịu thương chịu khó, cần cù lao động để nuôi cán bộ, nuôi cách mạng. Tố Hữu đã gửi vào đó biết bao sự yêu thương trân trọng. Và rồi trong nỗi nhung nhớ vấn vương, mùa thu ùa về trong tâm trí:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Ánh trăng mùa thu xuyên qua kẽ lá, vòm cây tạo nên khung cảnh huyền ảo. Hình ảnh ấy gợi lên một cuộc sống bình yên hạnh phúc, một ước mơ tươi sáng và niềm tin chiến thắng. Đó là cái nhìn đầy lạc quan của Tố Hữu đối với hiện thực cách mạng.Chữ “ai” trong câu thơ là đại từ phiếm chỉ, không nói rõ ai nhưng lại gợi lên bao hoài niệm, bâng khuâng về ân tình cách mạng.
Có thể nói, với việc kết hợp khéo léo những hình ảnh thơ ngập tràn màu sắc và thể thơ lục bát, những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, Tố Hữu đã tái hiện vô cùng sinh động vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc. Mỗi câu thơ tả bức tranh đồng hiện cảnh và người. Thiên nhiên như một sinh thể đang biến đổi trong từng khoảnh khắc, hài hoà xuất hiện cùng con người. Họ sừng sững giữa thiên nhiên, làm chủ cuộc đời, làm thiên nhiên thêm rực rỡ. Để rồi để lại trong lòng người ra đi bao nhớ nhung lưu luyến. Đoạn thơ vì thế cũng trở thành bức tranh tứ bình tuyệt đẹp trong bài thơ Việt Bắc, góp phần khẳng định phong cách thơ Tố Hữu và đưa “Việt Bắc” trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học kháng chiến. Vẻ đẹp hài hòa thiên nhiên và con người đồng hiện trong đoạn thơ cho đến hôm nay vẫn luôn tỏa sáng mãi trong trái tim những người đang sống, gợi nhắc về một thời hào hùng đã qua.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 14
Việt Bắc là bài thơ lục bát mang tầm vóc của một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1954, ngày giải phóng thủ đô Hà Nội. Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ “Việt Bắc” đã được tác giả tập trung hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc.
“Ta về mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Trong hoài niệm của nhà thơ, núi rừng Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp đa dạng và phong phú. Trong những khoảng thời gian và không gian khác nhau, trong những thời tiết khác nhau núi rừng Việt Bắc được ví như “hoa” đã lần lượt hiện ra. Đan xen trong cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp đó hình tượng con người Việt Bắc gần gũi, mộc mạc hiện ra hòa hợp với thiên nhiên tạo nên sự gắn kết rất riêng của Việt Bắc.
Bằng cách sử dụng thiên nhiên, màu sắc đặc trưng của từng mùa làm chất liệu bốn mùa trong năm đã lần lượt đi qua với nhiều kỷ niệm, mỗi mùa lại có một hương vị rất riêng.
Để xua đi cái lạnh giá của mùa đông nơi rừng xanh thì tác giả đã nhớ đến những bông hoa chuối “đỏ tươi”. Những bông hoa chuối này như những bó đuốc làm sáng rực cả khu rừng Việt Bắc. Con dao của người đi nương đi rẫy phản quang nắng ánh rất gợi cảm.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Màu xanh của núi rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của nắng chiếu lên những con dao… đã làm nổi bật lên sức sống tiềm tàng, mãnh liệt làm chủ thiên nhiên của con người Việt Bắc. Không những thế, bằng cách miêu tả này Tố Hữu còn giúp bức tranh rừng Việt Bắc bỗng trở nên ấm áp lạ thường, mất đi sự hoang sơ lạnh lẽo.
Xuân sang, núi rừng Việt Bắc ngập trắng hoa mơ, một màu trắng tinh khôi, dịu nhẹ phủ kín cả cánh rừng. Chi tiết “mơ nở trắng rừng” gợi lên hình ảnh hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết, mênh mông và bao la:
“Ngày xuân mở nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi nan”
Hè sang, núi rừng Việt Bắc sống động hơn hẳn lên cùng với cảnh sắc của những cây phách là tiếng ve kêu râm ran như những bản nhạc rừng. Tiếng ve kêu là âm thanh những tác giả lại cảm nhận bằng màu sắc vàng rực, sóng sánh đổ loang cả rừng phách. Từ “đổ” diễn tả sự thay đổi luân phiên về thời gian mang đến cho người đọc cảm nhận sự chuyển biến giữa các mùa.
Câu thơ thứ hai lại là một câu thơ giàu âm điệu và thanh nhạc: có vần lưng: “gái” vần với “hái” có điệp âm M: măng – một – mình. Đây là những vần nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui. Dù “cô gái hái măng một mình” nhưng không hề cảm thấy lẻ loi mà vẫn mang nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.
Thu về dưới ánh trăng thu vằng vặc mang đến vẻ thanh bình trong sáng cho vùng đất nơi đây. Người cán bộ về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu trăng rọi qua tán lá xanh, trăng thanh mát rượi màu hoa bình nên thơ. Câu thơ đã gợi nên được sắc thanh bình, thơ mộng trong ánh sáng dịu dàng của trăng sau chín năm kháng chiến. Trong đêm trăng thanh bình rất hợp với những câu hát giao duyên. Bởi thế, kết của đoạn thơ là nỗi nhớ về tiếng hát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Cùng với đó để tạo nên sự biến chuyển về thời gian lúc giao mùa tác giả còn mô tả theo chiều dọc của thời gian. Buổi sáng “mơ nở trắng rừng” trưa thì thì nắng vàng như mật, đêm về thì trăng soi sáng cả cánh rừng.
Giữa bức tranh đầy màu sắc rực rỡ đó hình ảnh con người Việt Bắc xuất hiện đã khiến bức tranh trở nên hài hòa và sinh động hơn hẳn. Bằng thủ pháp một câu tả cảnh một câu tả người đã giúp con người và thiên nhiên đan xen vào nhau một cách hài hòa. Và đó là những con người đang hăng say lao động làm việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và đâu đây vang vọng tiếng hát của ai đó giữa núi rừng Việt bắc….
Bằng việc sử dụng các màu sắc rực rỡ nổi bật như: xanh, đỏ, vàng, trắng… từ câu thơ như đập mạnh vào cảm giác người đọc, khiến người đọc cảm nhận được bức tranh tứ bình sinh động trong từ câu thơ. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương rẫy, người đan nón, cô em gái hái măng là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả những nét tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: Cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời lao động, kiên nhẫn khéo léo, tài hoa, lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Cũng qua những câu thơ trên chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp mềm mại, chân chất bình dị của con người Việt Bắc. Những con người nơi đây đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà thủy chung, bằng tấm lòng thủy chung “trước sau như một “.
Cùng bằng việc gợi nhớ về hình ảnh về con người, thiên nhiên nhà thơ đã thể hiện một tình cảm nhớ thương da diết giữa “ta” và “mình”. Mối tình mười lăm năm chia ngọt sẻ bùi đã ăn sâu vào tiềm thức người đi, để rồi mỗi khi nhớ lại vẫn luôn bùi ngùi xúc động. Nỗi nhớ tha thiết bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi nhưng tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm vào lòng người.
Bằng giọng văn lục bát nhẹ nhàng đằm thắm, đã mang đến âm hưởng trữ tình ngọt ngào, như một khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ Việt Bắc nói chung đã gợi lên trong lòng người đọc tình yêu Việt Bắc, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ “nhịp mãi một tấm lòng sử điệp” để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ – Mẫu 15
Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai – tiếng hát ân tình thủy chung.
Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”: mình có nhớ ta không? Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì? Việc Bắc có gì để mà nhớ, đế mà thương? Câu thơ đã trình bày rất rõ?
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong bức tranh thiện nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.
Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi… Núi rừng Việt Bắc như một sinh thế đang biến đổi trong từng khoảnh khắc…
Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hòa nắng ấm, sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao… Hình ảnh con người làm nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ dẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thủy chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc… Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có thể quên nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại…
Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.
*****
Trên đây là 15 bài mẫu Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ lớp 12 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.
Đăng bởi: THCS Bình Chánh
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)