Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 21 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá chi tiết
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
2. Thân bài:
a. Trình bày khái quát về tác giả và tác phẩm:
- Huy Cận (1919 – 2005) là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, có phong cách sáng tác độc đáo, đa màu sắc.
- Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian Huy Cận có chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).
b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên tràn đầy khí thế:
- Không khí khẩn trương, vội vã của một buổi ra khơi khi mặt trời đã xuống biển đỏ rực, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa”.
- Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc con người bắt đầu công việc ra khơi của mình với những câu hát căng buồm tràn đầy nhựa sống.
- Niềm vui, niềm lạc quan của ngư dân trước sự giàu có của biển cả với nhiều loại cá như “cá bạc”, “cá thu”.
- Sự đối lập giữa bóng tối của biển cả và ánh sáng của luồng cá gợi sự trù phú của thiên nhiên, ẩn chứa những mơ ước về mẻ lưới đầy của ngư dân.
- Lời yêu cầu tha thiết, mong chờ đàn cá đến dệt lưới của người lao động.
c. Vẻ đẹp của con người lao động say sưa, khỏe khoắn trên biển dưới trời trăng sao:
- Hình ảnh con thuyền vốn bé nhỏ bỗng trở nên lớn lao, kì vĩ để “lái gió”, “lướt giữa mây cao với biển bằng”.
- Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”, dàn đan như một thế trận hào hùng gợi sự khéo léo của người dân chài với tâm hồn dũng cảm để chinh phục biển cả.
- Biển không chỉ đẹp, thơ mộng mà còn giàu có với nhiều loài cá rực rỡ, lấp lánh như “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” đem lại giá trị kinh tế cao.
- Đêm trên biển được miêu tả như một sinh vật đại dương “Đêm thở”, “sao lùa” hòa quyện với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn đã tạo nên bức tranh đầy màu sắc giữa thiên nhiên và con người.
- Biển ân tình, bao dung, che chở cho những người ngư dân như tấm lòng của người mẹ. Biển nuôi lớn họ “tự buổi nào” cho thấy tình yêu và lòng biết ơn của người ngư dân đối với biển cả quê hương.
- Hình ảnh người lao động trên nền trời đang sáng dần được hiện lên thật khỏe khoắn và cường tráng khi “kéo xoăn tay” vì chùm cá nặng.
- Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh sáng bình minh, đây cũng là sự phối hợp nhịp nhàng giữa nét đẹp lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ: “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.
d. Đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ:
- Câu hát theo suốt cuộc hành trình của người dân chài, nhấn mạnh niềm vui lao động, làm giàu quê hương của người lao động.
- Hình ảnh “mặt trời” được lặp lại như báo hiệu một cuộc sống mới, nó sinh sôi nảy nở những niềm vui, niềm hạnh phúc của người dân chài sau một chuyến hành trình vất vả.
- Con người được sánh ngang với vũ trụ và đã giành phần chiến thắng trong cuộc “chạy đua với mặt trời”.
- Niềm vui đủ đầy của người lao động khi được mùa cá “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
e. Đánh giá:
- Nghệ thuật: Hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo, giàu tính liên tưởng. m hưởng khỏe khoắn, lạc quan.
- Nội dung: Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên tráng lệ có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên với con người. Qua đó, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động.
3. Kết bài:
Khái quát lại nội dung bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
21 mẫu Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 1
Ca ngợi tinh thần lao động không còn là một chủ đề xa lạ với chúng ta, nhưng trong lĩnh vực thơ ca liệu rằng có bao nhiêu tác phẩm làm rung động được tâm hồn độc giả? Có lẽ những ai yêu thơ ca về tinh thần lao động sẽ không thể nào quên được bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – một trong những tác phẩm nổi tiếng của Huy Cận.
Huy Cận viết bài thơ này vào năm 1948 tại vùng biển Quảng Ninh. Bài thơ ra đời trong 1 thời kì sôi nổi: miền bắc nước ta, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa. Cho nên đây là 1 áng thơ hay, nổi bật lên đời sống lao động. Nói lên 1 hành trình khép kín của 1 chuyến ra khơi đánh cá và trở về. Hình ảnh thơ kì vĩ, lớn lao, nhịp điệu khỏe khoắn, vươn dài, giọng thơ lãng mạn tự tin, say sưa, thể hiện được tâm hồn tình cảm của con người lao động xã hội chủ nghĩa mới.Và bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh làm lay động tâm hồn mỗi người:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Điểm nhìn nhà thơ đây là 1 điểm nhìn tưởng tượng, phải ở rất xa bờ mới thấy được vùng biển phía tây nơi mặt trời đang lặn xuống giống như hòn lửa khổng lồ Cảnh này chỉ có thể thấy được trong buổi chiều hè. Giác quan của nhà thơ mở ra trong trí tưởng tượng của người đọc những liên tưởng so sánh bất ngờ thú vị: Vũ trụ bao la huyền bí như 1 cái nhà không là mà đêm tối cánh cửa sập xuống, là những con sóng vỗ rì rầm lúc trời đêm. Cái quang cảnh kết thúc thật thú vị với hình ảnh nhân hoa sóng và đêm này. Chính thời điểm này vũ trụ bao la đã đến giờ đi ngủ. Mọi người đều đang trong những giây phút nghỉ ngơi sau những ngày dài lao động nặng nhọc. Vậy mà đoàn thuyền đánh cá mới bắt đầu khởi hành
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Từ lại cho thấy đây là sự tiếp diễn liên tục nhịp điệu lao động của họ. Cảnh ra khơi khi hoàng hôn xuống này diễn ra rất thường xuyên Cho thấy đời sống lao động thất vất vả. Đời sống nghèo khổ đã đưa họ vào con đường cơ cực. Người người được nghỉ ngơi thì họ phải lao động lại làm việc để đem lại hạnh phúc cho người thân, gia đình và xã hội. Nhưng nếu như thuyền được trang bị những dụng cụ đánh bắt tối tân hiện đại thì việc đánh cá há sợ gì khổ. Vậy mà thuyền ở đây lại rất tồi tàn, lạc hậu. Chỉ có chiếc buồm căng với gió. Buồm căng là 1 hình ảnh rất thực. Thực vì gió mạnh trên biển khơi đã đẩy thuyền đi thông qua cánh buồm. Nhưng ta nghe câu hát căng buồm thi lại hư ảo. Tuy vậy chính cái hư ảo ấy lại biểu hiện được cái gì đó thực, đó là khí thế mạnh mẽ của con người trong lao động tập thể. Tiếng hát đó chính là sự thể hiện niềm vui của những người đánh cá, khi họ cảm nhận rõ ràng sức mạnh vĩ đại của tập thể trong lao động thì nó sẽ nảy sinh lên những điều kì diệu mà 1 vài cá nhân đơn lẻ không thể nào làm được. 1 mùa màng bội thu, cùng nhau chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Nghĩa là cứ mỗi lần ra khơi thì niềm vui lao động lại tới. Có khác chi kiểu nói của Chế Lan Viên.
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ
Chỉ 1 tiếng hát thôi mà đã nói được bao điều về thân phận, về sự tự ý thức của con người qua 2 chế độ. Cũng không còn nữa cái cảm nhận từ nghìn xưa về sự nhỏ bé yếu đuối của con người trước biển cả chứa đầy sức mạnh tàn phá, hủy diệt vô cùng dữ dội. Tiếng hát của họ chính là tiếng hát của con người chinh phụ biển khơi
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi
Biển cá thật đẹp đẽ, giàu có và thân thiết biết bao đối với con người. Trong câu thơ thứ 1 từ “bạc” là 1 định ngữ nghệ thuật, có ý nghĩa số lượng cá rất nhiều, phong phú, quý giá của biển và nhằm tô đậm thêm nét đẹp của câu thư 2. “cá thu biển đông như đoàn thoi”. Anh Tài sử dụng biện pháp so sánh thật tài tình xây dựng trên liên tưởng thực tế: cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên mặt biển như đoàn thoi trên khung cửi dệt vải vậy ! Từ đó ta mới hiểu được 2 câu thơ sau là những nhân hóa rất tinh tế Trong lòng và trong sự tưởng tượng của những người lao động, yêu quí biển cả thân thương thì họ đã cảm nhận rằng chính cá đi trên biển là cá đã dệt biển, cá vào lưới là cá đã làm nên lưới ấy. “Đến dệt lưới ta” vang lên thật tự hào, kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như ngày xưa nữa mà đã là 1 tập thể đầy sức mạnh, đã đạt đến vô hạn tiềm lực của mỗi người. Dường như đó là sức mạnh chính tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền giữa trùng khơi
Thuyền ta lái gió buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển rằng
Đoàn thuyền ấy có gió làm lái, có trăng làm buồm. Dường như thiên nhiên cũng hòa vào không khí lao động khẩn trương của đoàn thuyền. Đoàn thuyền ấy lướt giữa mây cao với biển bằng, lướt giữa 1 không gian bao la và khoáng đạt. Thiên nhiên như mở cửa ra, bát ngát mênh mông, trên là trời cao có trăng sáng tỏ, dưới là biển rộng bao la và ở giữa là đoàn thuyền đang lướt nhanh giữa không gian cao rộng ấy. Con thuyền như đã hòa nhập vào thiên nhiên nhưng ko mất hút. Giữa không gian bao la, con thuyền không hề bị lấn át, không hề trở nên nhỏ nhoi kém cạnh trái lại trở thành 1 hình ảnh trung tâm vừa đẹp vừa khỏe khoắn và thơ mộng. Đoàn thuyền càng đẹp khi được tô điểm thêm những nét giản dị ấy. Và đoàn thuyền này dường như không chỉ của ta, của con người nữa rồi mà nó đã trở thành 1 phần của thiên nhiên. Dường như thiên nhiên đã cùng với con người chỉ huy điều khiển con thuyền lướt nhanh trên mặt sóng. Nếu như ở khổ thơ đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi mặt trời xuống biển, sóng đã cài then, đêm sập cửa. Thì ở đây con người đã đánh thức được cả thiên nhiên, vũ trụ để cùng bước sáng 1 ngày mai mới. 1 ngày lao động mới hứa hẹn sẽ đem lại nhiều thành công. Lòng tin yêu con người, và lòng cảm thương sâu sắc cùng với trí tưởng tượng bay bổng đã giúp nhà thơ xây dựng được 1 hình ảnh tuyệt đẹp giàu ý nghĩa. Trong mối quan hệ giao hòa, thiên nhiên càng huy hoàng, kỳ vĩ bao nhiêu thì càng tôn trọng vẻ đẹp con người lên bấy nhiêu. Tầm vóc của họ đã sánh ngang với trời biển, vũ trụ. Bởi tinh thần lao động hăng say và các công việc vất vả của người đánh cá. Tất cả đã nói đến trong 2 câu thơ tiếp:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Họ được tự do, chủ động tìm đến những vùng biển xa để thăm dò nơi nào nhiều cá. Và giữa biển khơi mênh mông, khi đã tìm được luồng cá, những chiếc thuyền sẽ tỏa ra, thả lưới bủa vây. Đó là những công việc nhưng hoạt động bình thường của người dân chài Nhưng qua cách miêu tả của tác giả ta thấy những hoạt động đó giống những hoạt động chuẩn bị cho 1 trận đánh. Người dân chài bước vào lao động bình thường như bước vào 1 trận chiến sinh tồn với những tấm lưới, đối đầu với thiên nhiên khắc nghiệt trốn biển sâu, với những nguy hiểm ẩn cư dưới lòng nước.
Huy Cận không chỉ phong phú về cảm xúc thẩm mĩ mà còn về vốn sống. Bài thơ đã cho thấy ông hiểu biết khá tường tận về công việc của những người đánh cá, ông cảm nhận được những gì đang diễn ra trong tâm hồn của những con người hồn hậu, bình dị và rất đáng yêu mến ấy. Khi lưới đã bủa vây. Ông hiểu hết tâm tư tình cảm của những người trong lúc ngóng trông này
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
4 câu thơ 28 từ thôi mà đã hiện lên quang cảnh mờ ảo, có sự pha trộn giữa thực tế và ảo mộng làm cho biển đêm có vẻ đẹp thật lãng mạn, huyền ảo. Cái thực là sự đa dạng về muôn ngàn loài cá “cá nhụ cá chim cùng cá đé” xen lẫn với cái ảo những con cá song lấp lánh như những ngọn đuốc hồng giữa biển đêm thăm thẳm. Huy Cận cũng đã từng việc “Cá song đốt đuốc dẫn thơ vào” và bây giờ ông lại việc “cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Câu thơ đủ thấy màu sắc rực rỡ của cá song đặc biệt hình ảnh đuôi cá lại càng độc đáo.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Cá song đã rực rỡ trong muôn ngàn cá đẹp rồi. Đã vậy cá còn cử động vô cùng mềm mại m uyển chuyển như múa tạo nên nét thơ mộng làm tâm hồn nhà thơ rung động và bật lên tiếng em trìu mến. Hình ảnh đã nên thơ rồi mà còn thêm cách gọi em đã biểu hiện niềm say mê cuộc sống thật hồn nhiên và mãnh liệt của những người đánh cá, và trước hết là của nhà thơ. Nhà thơ mở rộng hồn mình để đón nhận bao điều kỳ diệu của cuộc sống, đã thỏa mãn được cái thị giác của mình, để cảm thấy nhịp thơ của biển đêm qua những đợt sóng dân lên và hạ xuống đầy ánh sao. Biển và trời như đã hòa vào nhau và hình thành nên khung trời ước mơ. Con người càng nổi bật lên giữa khung trời lung linh ấy Một lần nữa tiếng hát của họ lại cất lên giữa bao la biển cả
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Có biết bao âu yếm và thân thiết với biển khơi, với vũ trụ mênh mông, huyền diệu trong tiếng hát ấy. Tiếng hát còn biểu hiện niềm vui trong lao động tập thể của họ, biểu hiện niềm mong muốn sẽ bắt được nhiều cá để mang lại thu nhập, cải thiện đời sống gia đình. Cảm xúc thật phóng khoáng, bay bổng, chan chứa niềm yêu đời: Luôn luôn làm việc rất khẩn trương, luôn tay gõ nhịp dồn cá vào lưới mà vẫn không quên đến biển cả, đến vẻ đẹp thiên nhiên kề cạnh “Đã có nhịp trăng cao”. Vầng trăng trên trời cao đã được nhân hóa gây nên cảm giác vô cùng gần gũi, thân thiết. Trăng như đồng cảm với tâm trạng náo nức của con người, trăng đã hòa theo nhịp gõ và nhịp tiếng hát của người đánh cá. Đó thật sự là 1 bài ca lao động vừa hào hùng vừa hào hùng vừa gg Và bài ca say đắm nhất là bài ca về sự giao hòa, xiết bao thân thiết, ưu ái của con người và biển cả “biển cho ta cá như lòng mẹ” 1 so sanh thật đẹp. Mẹ là người sinh ra ta, nuôi nấng dạy bảo ta thành người. Biển cũng vậy. Biển cho ta cá như nguồn sữa mẹ và nuôi lớn đời. Biển luôn luôn ưu đãi cho con người. Ta thấy ở đây toát lên lòng yêu mến, sự khâm phục và biết ơn đối với biển cả của những người đánh cá và của cả nhà thơ trước nguồn tình cảm yêu thương vô hạn đã nuôi dưỡng mỗi con người. Một lần nữa biển lại được khẳng định vai trò của mình. Biển không chỉ đẹp đẽ giàu có mà còn rất ân tình. Biển không chỉ nuôi dưỡng cho con người hôm nay và mai sau mà biển đã “nuôi lớn đời ta từ buổi nào”. Từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất Biển và ta đã gắn bó hòa quyện với nhau như thế. Con người tồn tại được là 1 phần nhờ sự giúp đỡ của biển. Trái đất có sự sống là do biển đã mang lại. Nhưng đêm đã sắp tàn rồi, 1 ngày mới đang đến hứa hẹn nhiều bất ngờ thú vị
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng
Sao mời đi, trời sắp sáng, mẻ lưới cuối cùng đã được kéo lên Công việc không nhẹ nhàng chút nào. với câu chữ gân guốc giàu sức tạo hình “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Chỉ 1 từ xoăn thôi mà tả được những bắp tay rắn chặt, nổi cuồn cuộn khi kéo lưới, đã nói được cái hăm hở, hồ hởi của những người lao động mong muốn thấy được kết quả công việc của mình. Rồi trời không phụ lòng người. Chùm cá nặng. Lưới đã rất nhiều cá đúng với ao ước mong muốn của họ. Và câu thơ thứ 3 miêu tả thật đẹp những con cá đang được kéo lên, đuôi chúng lấp lánh ánh bình minh rạng rỡ. Ở những từ “bạc” “vàng” vừa là những định nghĩa thông thường chỉ màu sắc vừa là những từ ngữ nghệ thuật tượng trưng cho sự quý giá, giàu có của biển cả, đồng thời cho thấy thái độ trân trọng trước thành quả lao động của mình, dường như đó còn là niềm biết ơn của trước sự hào phóng ưu ái của biển cả đối với con người. Trời đã bừng sáng, 1 ngày mới đã đến mang lại nhiều điều tốt đẹp như họ đã nguyện ước. Không ham muốn gì thêm nữa. Thế là quá đủ rồi, công việc đã kết thúc tốt đẹp họ chuẩn bị trở về. Nhưng từ “đón ánh hồng” biểu hiện tâm trạng sảng khoái, phấn chấn của họ, họ như muốn chia sẻ niềm vui của mình với anh bình minh, với mặt trời 1 người bạn thiên nhiên cũng rất thân thiết với con người
Thực ra bài thơ có thể kết thục ở đây vì hình tượng thơ đã phát triển, nâng cao trọn vẹn. Cả đoạn thơ là bức tranh sơn mài rực rỡ sắc màu, màu của trăng sao, sóng nước, màu của những con cá vẩy bạc đuôi vàng, màu của những người lao động xoăn tay kéo lưới, màu của giọt mồ hôi làm việc cực nhọc…. Nhưng dòng cảm xúc của Huy Cận vẫn chưa nguôi. Bởi thuyền đã ra đi thì cũng phải có ngày trở về. Nên tác giả đã viết nên những dòng thơ lắng đọng:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Một lần nữa dòng thơ lay động thấm thía được lặp lại gân như là nguyên văn “câu hát căng buồm với gió khơi”. Có cảm giác đó như 1 điệp khúc trong bài hát, bài hát ca ngợi niềm say mê lao động trên biển quê hương. Đây là lần thứ 3 tiếng hát vang lên trong lòng người dân chài lưới.. Có khác chăng tiếng hát đã biểu lộ cảm xúc của họ. Biểu lộ niềm vui khi thu được thành công rực rỡ sau 1 đêm lao động vất vả. Đó là niềm vui chiến thắng của con người. tất cả đều đang lâng lâng trên niềm sung sướng ấy, và dường như đã lan sang cả con thuyền. Con thuyền như tiếp thêm luồng sinh khí mới và đã sánh vai cùng mặt trời.
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Hình ảnh thật hào hùng. Huy Cận thật tài tình khi 1 lần nữa đã đưa hình ảnh cao cả vào vần thơ giản dị của mình. Mặt trời. Đây là 1 nhân hóa mang tính chất nghệ thuật siêu việt. Những người đánh cá thức suốt đêm để làm việc không mệt mỏi nhưng họ vẫn quyết tâm trở về trước khi trời sáng. Để người dân có cá ăn vào lúc trưa hè. Khí thế lao động của họ thật mạnh mẽ, sức lực thật dồi dào. Họ chạy đua với thời gian không gian. Họ chạy đua với đối tượng thiên nhiên là mặt trời, với đích đến là trước bình minh. Đặt trước 1 tình cảnh như thế, được so sánh với vật thể lớn lao đến thế. Hình ảnh con thuyền càng nổi bật hơn, càng nâng cao tầm vóc của con người trước vũ trụ rộng lớn bao la. Nhưng rồi chuyện gì đến đã sẽ đến. Mặt trời đã đội biển khô máu mới. Lại thêm 1 nhân hóa nữa và đối tượng cũng chính là mặt trời. Nhân hóa này gây cảm giác thật thần thoại, hư ảo. Sức mạnh của mặt trời thật vô cùng mạnh mẽ. Đã đội biển mà lên. Câu thơ đã làm toàn cảnh biển sáng lên 1 màu mới, màu hồng của bình minh, màu hồng của rực rỡ tươi vui, màu hồng như lời chào đón ân cần khi đoàn thuyền khi trở về. Và cái thần của quang cảnh bình minh ấy nổi bật lên ở câu thơ cuối cùng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Đến đây như say trong dòng liên tưởng. Mắt ta như hoa lên giữa 2 hình ảnh trong dòng suy nghĩ của mình. 1 là hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào cũng có cá đầy khoang, hàng triệu mắt cá phản ánh với vầng hào quang của mặt trời rực rỡ. 2 là hàng triệu gợn sóng cùng phản chiếu ánh bình minh sặc sỡ giống như vô vàn mắt cá trên muôn dặm khơi. Dù là hình ảnh thì câu thơ cũng thể hiện được vẻ đẹp bao la, hùng vĩ và sự giàu có, phong phú của biển cả, của thiên nhiên đất nước dưới con mắt của những con người thực sự làm chủ được tổ quốc của mình
Có lẽ khổ cuối là khổ thơ hay nhất trong bài, đã miêu tả đoàn thuyền trở về trong ánh bình minh. 4 câu thơ đã dựng nên quang cảnh kì vĩ về cuộc chạy đua giữa đoàn thuyền đánh cá với mặt trời trên biển cả, qua đó thêm 1 lần nữa Huy Cận khắc họa thật đậm nét vẻ đẹp khỏe mạnh của những người đánh cá và vẻ đẹp giàu có, hùng vĩ của biển trời, của thiên nhiên tổ quốc. ý thơ phảng phất không khí thần thoại anh hùng ca trong lao động
Đoàn thuyền đánh cá mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động làm chủ cuộc đời. Qua bài thơ ta như được sống trong những đêm trăng đẹp Hạ Long. ta tự hào đất nước ta đã có 3000 km đường biển. Biển ta giàu có, dồi dào hải sản, bao la tiềm năng. Nhờ đó đã cải thiện và mang lại thu nhập cho nhân dân nhờ nghề đánh bắt. Cách đánh cá trên biển cũng được miêu tả rất lãng mạn. Lao động thực sự là niềm vui của cuộc đời. Người lao động là người đáng quý nhất trong cuộc sống. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của người có sức sống lớn lao. Cuộc đời họ gắn liền với sóng gió mùa nắng biển khơi. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa. Họ với người nông dân 1 nắng 2 sương đã cho ta bài học về đức tính cần cù và tinh thần lạc quan trong lao động.
Trước kháng chiến nhà thơ Huy Cận thường mang 1 nỗi buồn u uất. Nhưng từ khi trở thành nhà thơ cách mạng Huy Cận đã say sưa ca ngợi con người mới, cuộc sống mới nên thơ ông trở nên ấm áp, đằm thắm và dào dạt niềm vui. Bài thơ đoàn thuyền đánh cá đã ra đời trong mạch cảm xúc ấy nên có thể xem đó là 1 món quà đặc biệt cho vùng mỏ Quảng Ninh là cẩm phả cho vào túi thơ của Huy Cận.
Bằng những câu từ mộc mạc, những hình ảnh quen thuộc nơi biển cả Đoàn thuyền đánh cá đã đưa đến cho người đọc những câu thơ vô cùng ý nghĩa và giá trị. Làm cho ta yêu hơn vùng đất nơi mình sinh ra và lớn lên.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 2
Huy Cận là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước cách mạng tháng, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của con người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng lớn. Nhưng kể từ sau cách mạng tháng 8, đất nước hồi sinh, hồn thơ Huy Cận như sống lại và có nhiều chuyển biến. Thơ ông không còn ưu sầu, ảo não nữa mà chan chứa niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc sống, vào những con người mới. Năm 1958, sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và chứng kiến không khí lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi của nhân dân ta trong những ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhờ thơ vui cùng mừng vui, xúc động. Từ đó ông sáng tác nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản hùng ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên đất nước con người bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp.
Ngay mở đầu bài thơ ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ khoắn trong cảnh đoàn thuyền ra khơi. Đó là cảnh ra khơi trong buổi hoàng hôn thật huy hoàng, tráng lệ, đầy sức sống:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Biện pháp so sánh độc đáo gợi lên hình ảnh mặt trời như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn sâu vào lòng biển cả để lại trên mặt biển những tia sáng đỏ ối, báo hiệu một ngày mới đã trôi qua, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Sang đến câu 2, hình ảnh thơ càng trở nên mới lạ độc đáo, thể hiện một trí tưởng tượng vô cùng phong phú của nhà thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Trong cách cảm nhận của Huy Cận, vũ trụ giống như một ngôi nhà lớn, còn những con sóng lăn tăn trên mặt biển chính là cái then cài khoá chặt cánh cửa của màn đêm. Câu thơ gợi cho ta cảm giác vũ trụ như đang chìm trong trạng thái nghỉ ngơi, và bóng tối bắt đầu bao trùm lên thiên nhiên cảnh vật nhưng đó lại chính là lúc:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Đêm tối vạn vật chìm trong giấc ngủ. Đó cũng là lúc con người lại bắt đầu lao động, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Hình ảnh thơ nói lên sự cần cù nhiệt tình lao động, chịu thương chịu khó của những người dân vùng biển.
Công việc đánh cá nhọc nhằn vất vả, hiểm nguy nhưng đoàn thuyền lại ra khơi trong tiếng hát. Tiếng hát khoẻ khoắn vang vọng khắp cả một vùng sông nước bao la, rộng lớn và cả trong lòng người thể hiện một niềm vui tươi, phấn khởi, đầy lạc quan tin tưởng của người đánh cá lúc ra khơi. Và chính tiếng hát đó không chỉ làm cho công việc lao động đỡ nhọc nhằn vất vả mà nó còn tạo nên một sức mạnh vật chất vô cùng to lớn cùng với gió biển đưa con thuyền lao nhanh về phía trước. Cả đoàn thuyền ra khơi trong một khí thế vô cùng mạnh mẽ đầy tin tưởng trong cuộc hành trình chinh phục biển cả.
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Những câu thơ thể hiện trực tiếp khúc ca say mê của người đánh cá. Họ mong muốn trời yên biển lặng để đánh cá được nhiều, để cuộc sống được đủ đầy no ấm. Biện pháp so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” cho ta cảm nhận biển Đông bao la rộng lớn, trù phú, chất chứa trong mình biết bao nhiêu là cá. Nhìn từng đàn cá thu bơi lội thành từng đàn, những con cá với những chiếc vẩy bạc nối tiếp nhau di chuyển trong nước tạo thành những luồng sáng lấp lánh trên mặt biển tối đen, nhà thơ cảm nhận mặt biển như biến thành khung cửi khổng lồ còn những con cá kia chẳng khác nào những chiếc thoi đưa thoăn thoắt đang ngày đêm âm thầm dệt nên tấm áo choàng rực rỡ cho vũ trụ về đêm.
Cách so sánh vô cùng độc đáo, sự xuất hiện của những đoàn cá thu như làm sáng bừng lên cả một không gian biển cả bao la rộng lớn làm cho cảnh vật ngời sáng, lung linh, lấp lánh. Ánh sáng ấy gieo vào long người một niềm vui mừng, hân hoan khôn xiết cho nên cái cách mà người nông dân gọi cá “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” nghe có gì đó thân thương, trìu mến ẩn chứa trong đó một niềm khát khao, ước vọng mong muốn đánh bắt thật nhiều cá, hải sản quý hiếm để góp phần làm giàu cho quê hương, cho tổ quốc thân yêu.
Cảnh đoàn thuyền đánh bắt cá trong đêm:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
“Lái gió”, “buồm trăng” là những cách nói vô cùng sáng tạo, mới lạ độc đáo đem đến cho câu thơ những hình ảnh vừa lãng mạn, bay bổng vừa nên thơ, kì vĩ, tráng lệ. Đọc câu thơ người ta cảm nhận người, thuyền, thiên nhiên như hoà hợp làm một. Con thuyền ra khơi, lướt đi giữa lớp mây cao, biển bằng thật hùng dũng hiên ngang nó ra khơi không phải chỉ với khí thế hăm hở do người cầm lái mà còn được thiên nhiên nâng đỡ chở che.
Ở đây gió trở thành bánh lái của con thuyền. Chính con thuyền có thể lái cả gió điều khiển nó theo ý muốn của mình. Cánh buồm tuy nhỏ bé nhưng có thể mang theo cả vầng trăng trên cao trong suốt cả một hành trình dài. Ánh trăng lung linh bằng bạc chiếu sáng cả không gian làm cho cảnh vật trở nên nên thơ, huyền ảo. Ở đây ta nhận ra con thuyền tuy ra khơi giữa không gian biển cả bao la rộng lớn mà không hề nhỏ bé. Nó “lướt” đi vun vút như một con tuấn mã băng băng tiến về phía trước mà không hề sợ hãi. Xung quanh nó là gió trăng làm bầu bạn. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng dũng biết bao. Con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, cảnh vật:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Hai câu thơ gợi lên những cuộc đánh bắt cá xa bờ đầy những gian khổ hiểm nguy. Nhưng không vì thế khiến lòng người nao núng. Bởi họ mang trong mình nỗi khát khao chinh phục biển cả, thám hiểm, thăm dò “bụng biển” để tìm kiếm những luồng cá lớn.
Dưới ngòi bút miêu tả tài hoa, sáng tạo, lãng mạn của Huy Cận, cuộc đánh bắt cá của ngư dân trên biển bỗng trở thành những cuộc thuỷ chiến đầy gay go, quyết liệt. Con người dùng chính trí tuệ và sức mạnh của mình để chinh phục đại dương, biển cả. Thế trận con người bày ra bằng những tấm lưới chắc chắn đan vào nhau, bủa vây sẵn sàng chờ đón cá. Vừng bước, từng bước con người dành lấy từ bàn tay vĩ đại của thiên nhiên những nguồn khoáng sản, những gì quý giá nhất để góp phần làm giàu thêm quê hương đất nước, hàn gắn những vết thương của chiến tranh.
Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Biện pháp liệt kê: “cá nhụ, cá chim cùng cá đé / Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” gợi lên sự trù phú, giàu có của biển cả nước ta. Có biết bao loài tôm cá, hải sản quý hiếm mà đâu phải nơi mênh mông làm rực sáng cả một biển trời. Những con cá tung tăng bơi lội, đùa giỡn, tắm mình dưới ánh sáng của vầng trăng và những chiếc đuôi nhỏ bé của nó như đang quẫy đạp vào ánh trăng vàng đang lung linh trong mặt nước.
Một cảnh tượng thiên nhiên thật thơ mộng, ánh trăng bàng bạc chiếu sáng khắp cả không gian lung linh, huyền ảo. Ta ngồi đây mà nghe xung quanh mình những nhịp thở đều đặn màn đêm của đại dương bao la rộng lớn: Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Đêm thở, lại một cách dùng từ rất sáng tạo, độc đáo của nhà thơ Huy Cận. Ngòi bút nhân hoá của ông đã khiến cho màn đêm trở thành một sinh vật khổng lồ, có sự sống như con người. Nhịp thở của màn đêm chính là âm thanh của những cơn sóng tràn bờ đều đặn, liên tục, không ngừng nghỉ.
Đó không chỉ là tiếng sóng, là những âm vang từ ngoại cảnh mà đó còn là những âm vang, những rung động, cảm xúc trong lòng người, thấy mình với vũ trụ không còn ngăn cách. Mỗi bước đi sự chuyển mình của thiên nhiên, trời đất, vũ trụ con người dường như đều cảm nhận được một cách kì diệu, tinh tế. Câu thơ không chỉ gợi lên âm thanh mà tràn đầy hình ảnh, những vì sao lung linh toả sáng như từng bước từng bước xô đẩy con sóng vào bờ, mặt biển lấp lánh ánh trăng sao êm đềm, sáng trong, dịu mát.
Sang khổ thơ thứ 5, con người – chủ thể của bức tranh thiên nhiên nên thơ tươi đẹp được miêu tả trong tư thế lao động miệt mài, thoải mái khoan thai với những lời ca câu hát vút cao, trong trẻo:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào.
Tiếng hát lại một lần nữa vút cao bay bổng, sảng khoái ung dung. Ánh trăng lung linh in xuống dòng nước rồi theo những cơn sóng lăn tăn đánh nhẹ vào mạn thuyền hoà cùng nhịp gõ cá của ngư dân. Hiện thực cuộc sống chỉ thế nhưng qua cách cảm nhận, miêu tả của Huy Cận thì cảnh vật hiện ra bỗng trở nên có hồn. Ánh trăng trên cao như muốn hoà mình, gửi những tia sáng vàng óng ả để nâng đỡ giúp cho công việc đánh bắt của người dân đỡ phần nhọc nhằn vất vả.
Biển cho ta cá như lòng mẹ: câu thơ ví von so sánh như một lần nữa khẳng định tấm lòng bao la của biển cả như người mẹ hiền ngày đêm đem hết sự sống của mình để nuôi dưỡng con khôn lớn trưởng thành. Biển cả đã bao đời nay hào phóng ban tặng cho con người biết bao tài nguyên, hải sản quý hiếm để nuôi dưỡng sự sống của mỗi người chúng ta. Con người cứ ngày đêm khai thác lấy đi từ lòng đại dương biết bao nguồn lợi lớn nhưng biển cả thì giống như người mẹ hiền cứ cho đi mà không hề nuối tiếc. Câu thơ thể hiện lòng trân trọng, biết ơn sâu sắc của con người đối với thiên nhiên, bờ biển quê mình đã nuôi dưỡng đem lại cho con người cuộc sống tốt đẹp, đủ đầy no ấm.
Sau một ngày lao động nhọc nhằn vất vả, giờ đây khi sao mờ đi, bình minh ló dạng, mặt trời vươn mình khỏi mặt biển để đón chào ngày mới cũng là lúc họ khẩn trương xếp lưới, căng buồm trở về nhà:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Từ ngữ gợi tả độc đáo “kéo xoăn tay chùm cá nặng” giúp ta hình dung những thân hình vạm vỡ đang ra sức kéo mẻ lưới cuối cùng. Cá nằm trong lưới nặng đến mức những bắp tay của học nổi lên cuồn cuộn. Cá chi chít san sát nhau như một chùm quả gợi lên trong lòng người biết bao niềm vui mừng hạnh phúc khi nhìn thấy những chùm cá tươi roi rói – kết quả khả quan của một ngày lao động nhọc nhằn vất vả. Họ ra đi trong tiếng hát và trở về với một khoang thuyền đầy cá nặng.
Nhưng có lẽ đẹp nhất là hình ảnh “vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông”. Dưới ánh sáng bình minh loé lên, những con cá mắc vào lưới càng trở nên rực rỡ. Dường như ngoài bản chất nhà thơ, Huy Cận còn mang trong mình tố chất của người hoạ sĩ. Cách phối màu “bạc, vàng” được vận dùng tài tình khéo léo, tô đậm thêm thành quả lao động của người dân vùng biển.
Câu thơ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” với các động từ “xếp, lên, đón” và cách ngắt nhịp 2/2/3 diễn tả mọi công việc diễn ra theo trình tự một cách thành thạo, nhanh chóng để kịp thời trở về đất liền. Hình ảnh lưới xếp và cánh buồm được căng phồng lên trong gió như khép lại một màn đêm mệt mỏi mở ra một buổi sáng đẹp trời với những phiên chợ tấp nập đông vui:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đây là lần thứ 3, Huy Cận nhắc lại câu hát này. Lần đầu là tiếng hát hứng khởi lúc ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Tiếng hát lần thứ hai là tiếng hát say mê lao động: “Ta hát bài ca gọi cá vào”. Và lần cuối cùng chính là tiếng hát của niềm vui thắng lợi: “Câu hát căng buồm với gió khơi”. Câu hát thay ngọn gió làm căng cánh buồm đẩy thuyền về đất liền trong một tư thế mới: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.
Tác giả đã nhân hoá và nói quá hai sự vật “đoàn thuyền và mặt trời” đang chạy đua cùng nhau. Trong cuộc đua không cân sức ấy, con người đã thắng. Đất liền chào đó những đứa con thắng trận trở về với khung cảnh thật đẹp đẽ kì vĩ. Vầng dương bao la toả những tia nắng ấm áp, đẹp lung linh xuống mặt biển. Và mặt trời như từ từ dưới lòng sâu biển cả đang từ từ đội nước nhô lên. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng vĩ, tràn đầy sức sống.
Mắt cá huy hoàng là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một cuộc đời mới vui tươi xán lạn đang chờ đợi con người phía trước. Dưới ánh sáng mặt trời hàng trăm đôi mắt cá li ti đầy ắp dưới khoang thuyền phản chiếu những giọt vàng chan chứa, bỗng chốc tất cả đều lấp lánh rạng rỡ, nhìn về đâu người ta cũng thấy những mắt cá chiếu sáng lấp lánh như hứa hẹn một cuộc sống đủ đầy no ấm.
Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn. “Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm”. Nhưng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá màu sắc buồn bã bi quan đó không còn mà thay vào đó là một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, tràn đầy niềm tin tưởng vào tương lai sức mạnh của con người, quê hương đất nước đang trên đà thay da đổi thịt, tất cả đều toát lên một cái gì đó tràn đầy sức sống, mạnh mẽ hiên ngang, con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình.
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời, biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 3
Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả và biểu cảm. Bài thơ đã thể hiện sự khác lạ, đáng chú ý hơn cả đó là không gian ra khơi khác với lạ thường, không gian được mở rộng, mọi vật thể trong vũ trụ vận động theo sự tuần hoàn. Việc tác giả làm như vậy để thể hiện nội dung chính của bài thơ, nói lên cuộc sống lao động nơi đây thật sôi nổi, khẩn trương.
Tác giả viết theo trình tự ra khơi. Vùng biển Quảng Ninh hiện ra trước mắt người đọc hết sức hùng vĩ qua ngòi bút của Huy Cận;
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Cảnh tượng đoàn thuyền ra khơi thật là đẹp, màu sắc ấm áp, âm thanh rộn ràng Cảnh buổi chiều trên vùng biển được miêu tả qua cái nhìn của dân chài. Đó là hình ảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” tạo ra vẻ đẹp lộng lẫy và huyền ảo. Nhưng điều làm cho bài thơ của Huy Cận đáng chú ý đó là cách nói hết sức độc đáo, mới lạ. Tả mặt biển khi màn đêm xuống “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá để người đọc cảm nhận được biển trở thành ngôi nhà khổng lồ vừa có cửa đóng, then cài thì cũng là lúc “Đoàn thuyền đánh cá ra khơi”. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vừa lạc quan, vui tươi, yêu đời như trở về ngôi nhà ấm áp, an toàn:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Câu hát trở thành ngọn gió thổi căng buồm đưa con thuyền ra khơi băng băng rẽ sóng.
Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Với ngòi bút tinh xảo, bút pháp lãng mạn, tác giả vẽ lên bức tranh biển lãng mạn: lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên, Với bút pháp miêu tả lãng mạn của tác giả, người đọc như cảm nhận thấy con thuyền như đang trôi, lạc vào xứ sở thần tiên. Trời cao, ánh trăng vàng biển như khoác bộ áo vàng, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng cảm nhận sự yên bình, thơ mộng của chốn đây, Sau khi miêu tả cảnh đẹp biển vào ban đêm, tác giả Huy Cận đã vẽ thêm cho bài thơ cảnh đẹp của bình minh:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”
Tác giả Huy Cận đã dùng bút pháp miêu tả để vẽ lên bức tranh cảnh bình minh thật huy hoàng. Tác giả thành công trong việc miêu tả đó là việc sử dụng bút pháp tả vẽ lên ba bức tranh biển mang vẻ đẹp khác nhau. Bức tranh cảnh bình minh tác giả đã miêu tả cảnh mặt trời lên và biển. Khi mặt trời lên, biển đã xoá đi bộ áo vàng của trăng cao thay vào đó là một màu áo đỏ rực. Biển đẹp nhưng với ngòi bút của tác giả còn đẹp hơn. Biển trong cảnh bình minh như nàng tiên cá với vẻ đẹp rực rỡ đang nô đùa vui chơi trên biển.
Huy Cận không những nói về vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động mới.
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”
Tác giả dùng bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc hết sức nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau ở hai câu thơ sau:
“Váy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng”
Quả thực, tác giả Huy Cận đã phải đi và quan sát rất kĩ mới có thể tả như vậy. Hai câu thư trên miêu tả cảnh lưới đã được kéo lên, khoang thuyền đầy ắp cá. Vảy bạc, đuôi vàng chen nhau như “loé sáng” cả rạng đông. Cảnh tượng thật đẹp. Đây chính là thành quả lao động mà những người ngư dân thu được sau một đêm đánh cá vất vả, nặng nhọc. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”
Tác giả đã thấy rõ khi trở về người dân vẫn nguyên vẹn tình yêu cuộc sống. Họ vẫn tiếp tục lao động khẩn trương, chạy đua với thời gian: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Khi ra đi “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, khi làm việc hát bài ca gọi cá vào, bây giờ khi trở về họ cũng hát. Tâm hồn họ tràn đầy niềm vui. Họ yêu mến cuộc sống mới, họ được làm chủ cuộc sống, muốn cố gắng lao động xây dựng cuộc sống mới.
Tác giả còn vẽ lên con người trong cuộc sống mới. Tâm hồn những người đánh cá bay bổng cùng với niềm vui phơi phới:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”.
“Trăng cao” cùng với ta, cùng kề vai sát cánh với “ta”. Để thấy được con người trong cuộc sống mới họ hoà nhập cùng với thiên nhiên trong cảnh lao động. Con người trong cuộc sống mới họ là những người khỏe mạnh khoáng đạt, hết mình vì cuộc sống.
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”
Họ đã thực sự đầy đủ tự tin để làm chủ cuộc sống của mình. Thuyền và con người trở nên kì vĩ, to lớn. Thể hiện cách nhìn cuộc sống mới đầy tự tin, say sưa, hào hứng cùng những ước mơ bay bổng, hoà hợp chinh phục thiên nhiên của tác giả.
Tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” của tác giả Huy Cận mang âm hưởng của bài thơ lao động khoẻ khoắn, bay bổng, Lời thơ dõng dạc, say mê. Cách gieo vần linh hoạt biến hoá luật bằng trắc. Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Tất cả những điều đó thể hiện được ý chí và nguyện vọng của tác giả. Đặc biệt đã thể hiện tài thơ độc đáo của Huy Cận. Độc đáo trong cách miêu tả, trong cách dùng từ đã tạo nên sự hấp dẫn của bài thơ. Tất cả những nghệ thuật đã dẫn dắt, thông suốt làm cho bố cục bài thơ mạch lạc, rõ ý.
“Đoàn thuyền đánh cá” của tác giả Huy Cận là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ tràn ngập niềm vui phơi phới. Đây là bài ca của người lao động. Nói lên họ là những người cần cù, chịu khó nhưng tâm hồn hết sức lãng mạn, làm chủ cuộc sống, biển cả bao la với phong thái ung dung, đĩnh đạc. Bài thơ dưới bút pháp miêu tả còn ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Thể hiện chất thơ của Huy Cận rất độc đáo trong miêu tả và cách dùng từ.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 4
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên cũng như công việc lao động hăng say của người ngư dân.
Trước tiên, Huy Cận đã khắc họa cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sức sống:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hình ảnh so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” gợi ra màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến biển giống như là một căn nhà rộng lớn. Đây là thời điểm mà vạn vật nghỉ ngơi. Nhưng lại là lúc người ngư dân bắt đầu công việc lao động. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” – số nhiều, chỉ một tập thể. Đoàn thuyền ấy “lại ra khơi”, lại tiếp tục lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, sự hy vọng về một vụ mùa bội thu.
Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Con thuyền ấy thật vĩ đại: “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn – tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” – mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Huy Cận không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động trong thời kỳ mới:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Nhà thơ đã sử dụng kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc rất nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau :
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện một niềm tin hướng về tương lai của người ngư dân.
Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 5
Đến trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi.
“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ giống như một bức tranh đầy màu sắc, sự sống:
Trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi”
Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Cách so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực đang. Mặt trời đang dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy màn đêm dần buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát đã ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Vẻ đẹp của biển cả đã làm công việc lao động vơi đi phần nào. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp lao động cùng những người ngư dân:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ đang hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng thấy hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Cũng có thăm dò, cũng có dàn đan thế trận và bủa vây – nhưng là bằng lưới. Người ngư dân sống gắn bó với biển cả, họ đã thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
Màn đêm yên yên tĩnh, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Lúc này không còn là bài ca ra khơi nữa mà là bài ca ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang. Ánh trăng giống như người bạn tâm giao. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy… Đặc biệt là hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, yêu thương của biển cả với con người.
Cuối cùng thì lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng bằng thành quả:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Họ đang dùng sức mạnh của đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi. Từ đó cho thấy tâm trạng phấn khởi của người ngư dân trước.
Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa tả thực mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thói quen lâu đời của người ngư dân, khi phải đem cá về bến trước khi trời sáng. Cũng là tâm thế sẵn sàng của họ trước một chuyến lao động mới.
Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 6
Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, một nửa đất nước được hòa bình và đi lên xây dựng Xã hội chủ nghĩa. Không khí lao động sôi nổi, khẩn trương có tác động sâu sắc lên các nhà văn, nhà thơ. Phong trào đi đến những miền sâu, miền xa, vùng địa đầu của tổ quốc để tìm đề tài sáng tác ca ngợi cuộc sống mới đã mang về nhiều tác phẩm có giá trị. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một trong số những tác phẩm viết về công cuộc đổi mới trong thời kì ấy. Đến với bài thơ, ta không chỉ được đắm mình trong những hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng đẹp và tráng lệ mà còn cảm nhận được sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động cũng như niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước cuộc sống mới.
Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận, là một trong những nhà thơ tiêu biểu của làng thơ hiện đại Việt Nam, đã nổi tiếng từ phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng” (1940). Giữa năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, Huy Cận có dịp đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời lúc đó và được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958) của tác giả. Với thể thơ bảy chữ, bút pháp lãng mạn đan xen với hiện thực, tác phẩm đã đánh dấu sự nảy nở trở lại của hồn thơ Huy Cận trước đất nước, cuộc sống và những con người lao động mới.
Bài thơ lấy thời điểm xuất phát khác với lệ thường – trong buổi hoàng hôn, khi những con thuyền đánh cá bắt đầu chuyến hành trình đêm:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Hai câu thơ đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Cảnh biển vào đêm không hề nặng nề, tăm tối mà đẹp và tráng lệ trong một không gian rất thoáng, rất rộng. Trong cái mênh mông ấy nổi bật lên một vầng thái dương. Mặt trời đang lặn đã bớt đi cái chói chang, gay gắt nhưng vẫn đỏ rực như một “hòn lửa”, tỏa ánh sáng ấm áp ra cả một vùng biển. Phép so sánh “như hòn lửa” đã gợi tả ánh hoàng hôn lung linh, tráng lệ hắt ra từ một mặt trời đang trầm mình xuống biển khơi vô tận. Thực ra, vùng biển Hạ Long, Quảng Ninh – nơi ra đời bài thơ này – không thể thấy được cảnh mặt trời lặn mà chỉ có thể thấy điều đó ở vùng biển tây nam của đất nước. Như vậy cảm hứng của tác giả không chỉ gói gọn trong một vùng biển mà là cảm hứng chung và thống nhất về biển cả mênh mông trải dài theo Tổ quốc. Trong nguồn cảm hứng ấy, nhà thơ đã liên tưởng bóng tối đang buông dần từ trên cao xuống như cánh cửa ngăn cách giữa ngày và đêm, với then là những lượn sóng nhấp nhô như cài vào màn đêm. Những hình ảnh nhân hóa ấy đều theo hướng đưa thiên nhiên đất trời lại gần hơn với con người, tạo cảm giác vũ trụ bao la là một ngôi nhà khổng lồ. Ngôi nhà ấy có mặt trời là bếp lửa sưởi ấm, đêm là cửa và sóng là then – không khác gì ngôi nhà bình thường của con người. Và trong lúc ngôi nhà vũ trụ đang bước vào không gian yên tĩnh để nghỉ ngơi thì con người bắt đầu chuyến hành trình của mình :
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”.
Nhà thơ trở lại với cách tả thực để cân bằng với những hình ảnh tưởng tượng trong hai câu thơ trên. Chữ “lại” ở đây đã gợi ra hai ý nghĩa. Nó cho biết “ra khơi” là công việc thường xuyên, quen thuộc tới mức thành thông lệ hằng đêm của đoàn thuyền. Bên cạnh đó, nó cũng gợi lên sự đối lập với hai câu thơ trên : giữa cảnh ngày dần tàn và đêm đang mở ra, giữa cái tĩnh của vũ trụ, của vạn vật đang chuẩn bị nghỉ ngơi, chìm vào giấc ngủ là cái động của những người ngư dân đang lên đường đi đánh cá đêm. Nghệ thuật tương phản ấy còn được thể hiện qua nhạc điệu đối nhau giữa những vần trắc “lửa” – “cửa” diễn tả nhịp đi của thời gian nhanh, mạnh như đóng lại, khép lại với những vần bằng “khơi” như mở ra, ngân nga, kéo dài. Huy Cận đã rất tài tình khi để người đọc cảm nhận được nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm, để rồi cất lên một câu thơ đầy lạc quan:
“Câu hát căng buồm căng gió khơi”.
Nếu như câu thơ trước chỉ là một câu kể đơn thuần với chất hiện thực thì câu thơ sau lại tràn đầy chất nhạc và cảm hứng lãng mạn của thi sĩ. “Câu hát” ấy chính là khí thế ra khơi, sự hăng say lao động của những người ngư dân. Niềm vui vô hạn ấy như có một sức mạnh vật chất để hòa cùng với “gió khơi” để đẩy thuyền đi, như thể con người đang hòa cùng với thiên nhiên vậy. Chỉ một từ “căng” thôi là đủ để người đọc cảm nhận được khí thế của những người lao động lớn tới chừng nào, kì diệu đến mức nào. Trong ba hình ảnh “câu hát”, “buồm” và “gió khơi”, chỉ có cánh buồm là một sự vật cụ thể, còn gió khơi là một sức mạnh vô hình của thiên nhiên cũng như câu hát là một hình ảnh tượng trưng. Nhưng với sự liên tưởng, tưởng tượng của Huy Cận, những hình ảnh tưởng chừng rất quen thuộc ấy đã được gắn kết lại thành một chi tiết lãng mạn đầy sáng tạo mà cũng rất sống động. Ta thấy phảng phất trong đó chút gì rất giống với thơ Tế Hanh:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
(Quê hương)
Trong cánh buồm no gió, no tiếng hát của Huy Cận còn có sự lạc quan, phấn khởi, còn có niềm hy vọng về một buổi đánh bắt bội thu của những người ngư dân. Hay sâu xa hơn, đó là tiếng lòng của thi sĩ trước chặng khởi đầu của cuộc sống lao động mới. Những hình ảnh so sánh, nhân hóa và liên tưởng đầy sáng tạo của ông đã mở đầu bài thơ bằng bức tranh về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong niềm vui lao động hăng say, lạc quan.
Trong khí thế sôi nổi và tràn đầy nhiệt huyết ấy, nổi bật lên cảnh lao động của đoàn thuyền giữa đất trời bao la:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé đã được cái nhìn đầy cảm hứng lãng mạn và tin tưởng vào người lao động của thi sĩ phóng lên thành con thuyền khổng lồ, hòa vào sự rộng lớn, mênh mông của vũ trụ. Những cặp từ sóng đôi “lái gió” – “buồm trăng”, “mây cao” – “biển bằng” đã vẽ nên bức tranh lồng lộng về biển đêm, mà trong đó chủ thể chính là chiếc thuyền, là con người. Điệp từ “với” ở giữa từng cặp đối ứng ấy càng nối rộng khoảng cách giữa hai tính từ “cao” và “bằng”, làm không gian như càng bao la hơn, mênh mông hơn. Ở đó, mặt biển đêm trong suốt như in cả bầu trời, và con thuyền đi trên biển như lướt giữa không trung. Chính con người đã hợp vào với thiên nhiên bát ngát, lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm.
Sức tưởng tượng kì diệu của Huy Cận đã làm đẹp thêm hình ảnh con thuyền cũng như nâng tầm con người sánh ngang với tự nhiên. Những động từ “lái”, “lướt” gợi lên một vận tốc rất nhanh, rất mạnh mẽ mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát như đang rong chơi. Tư thế ra khơi thoải mái đó chỉ có ở những con người vừa thoát ra khỏi vòng nô lệ, được làm chủ cuộc sống, làm chủ biển cả quê hương mình. Lại một lần nữa, ta nhớ tới những vần thơ của Tế Hanh : “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã / Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.” Nhưng trong lời thơ của Huy Cận ta còn cảm nhận được một sự lâng lâng, sảng khoái lạ thường. Như thể ta đang đứng trên chính chiếc thuyền ấy với những người ngư dân, để lả lướt cùng gió, vui chơi cùng trăng, bồng bềnh với mênh, phiêu lãng với trời… Nhưng đánh cá đâu phải là một chuyến du ngoạn thảnh thơi vô tư như vậy. Nó đòi hỏi tất cả trí tuệ, sức lực và kinh nghiệm nghề nghiệp :
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Con người trong thơ Huy Cận không chỉ muốn hòa mình vào thiên nhiên, lao động cùng thiên nhiên mà còn muốn làm chủ thiên nhiên. Bên cạnh sự ung dung, lạc quan trong tâm hồn người ngư dân, người đọc vẫn cảm nhận được nỗi vất vả của họ. Sự vất vả, thậm chí có phần khô khan và rất đỗi bình thường ấy được miêu tả bằng bút pháp khoa trương trở nên kì vĩ, lớn lao như một cuộc chinh phục, một trận chiến thực sự. Với sự am hiểu sâu sắc về việc đánh bắt cá, Huy Cận đã biến việc thăm dò biển cả ngoài khơi xa để tìm ra bãi cá, bãi tôm thành “dò bụng biển”, đưa việc bủa lưới bắt cá thành “dàn đan thế trận lưới vây giăng” – những câu từ vừa đậm chất thực vừa mang cảm hứng lãng mạn.
Trong cuộc chinh phục biển cả ấy, những người ngư dân là chiến sĩ, ngư cụ là vũ khí, còn mục tiêu không chỉ là một khoang thuyền đầy ắp cá tôm mà còn là cuộc sống lao động mới, là công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa đang hừng hực khí thế khắp miền Bắc lúc bấy giờ. Nhà thơ không chỉ hiểu mà còn có niềm cảm thông vô hạn với những người lao động và nỗi vất vả của họ. Nếu không thì làm sao ông có thể vẽ nên một bức tranh gây ấn tượng mạnh với người đọc với chất hiện thực và chất lãng mạn đan xen như thế được ? Để từ đó, cảm hứng về thiên nhiên đất trời hòa nhập với cảm hứng về cuộc sống lao động để khắc họa nổi bật hình ảnh con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc sống mới trong một không gian giàu chất trữ tình.
Cảm hứng ấy tuôn tràn xuống khổ thơ kế tiếp, để bức tranh lao động được tô điểm thêm bằng vẻ đẹp của biển cả và những loài cá:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”
Nhà thơ dẫn ta vào một thế giới huyền ảo của biển cả với bao sắc màu lung linh của các loài cá dưới ánh trăng. Dân gian có câu: “Chim thu nhụ đé” để nói đến bốn loài cá biển ngon nhất, vậy mà đã đến ba trong bốn loài cá ấy xuất hiện trong câu thơ của Huy Cận, đủ để thấy biển cả nước ta giàu có như thế nào. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với điệp từ “cá” như khắc họa từng đường nét rõ ràng như một bức tranh sơn mài, giúp người đọc cảm nhận được sự phong phú của các loài cá cũng như vẻ đẹp của biển cả. Nơi đó, dường như tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên. Và trong những đường nét của bức tranh biển cả ấy, con cá song là một nét vẽ tài hoa. Cá song mình dài, thân dày, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ đó nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng”. Lúc đầu, Huy Cận dùng từ “lốm đốm”, nhưng sau này ông sửa lại vì không muốn câu thơ bị lệ thuộc vào ấn tượng thị giác. Thật vậy, từ láy “lấp lánh” đã gây được nhiều ấn tượng xúc cảm mạnh mẽ. Nó gợi lên hình ảnh những con cá song như những ngọn đuốc đang soi trong lòng biển khơi một ánh sáng long lanh đến kì diệu. Những ngọn đuốc ấy đang đưa đường dẫn lối cho những người ngư dân đánh bắt được nhiều cá, hay là chúng chính là ngọn lửa của nghệ thuật đã soi rọi cả tấm lòng thi sĩ để ông viết nên những vần thơ hay như thế ? Để từ đó, dựa trên câu thơ của Huy Cận, Chế Lan Viên đã viết: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về” (Cành phong lan bể). Nhưng ấn tượng mà Huy Cận để lại trong lòng người đọc đâu chỉ dừng lại ở đó :
“Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Nhà thơ đã rất tinh trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông không dùng từ “vẫy” mà lại viết là “quẫy” để làm rõ nét từng hoạt động nhỏ của chú cá, khiến câu thơ thêm sinh động. Ông cũng không viết “lóe” mà lại dùng từ “chóe” để ánh sáng từ câu thơ tỏa ra thêm rạng rỡ và lung linh. Ánh trăng phản chiếu lấp loáng trên mặt biển, khiến từng cái quẫy của những chú cá cũng như làm ánh trăng ấy như vỡ tung ra, lóe sáng trong từng giọt nước. Chỉ là những hình ảnh từ sự quan sát bình thường nhưng trí tưởng tượng đã chắp cánh nối dài cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có của tự nhiên. Trong nét thực của muôn vàn loài cá trong câu thơ đầu tiên là vẻ đẹp lãng mạn mà nhà thơ đã khéo léo cảm nhận được. Chẳng vậy mà ông lại dùng một tiếng “em” thật thân thiết và gần gũi để gọi cá ! Vốn biết rằng công việc của những người ngư dân là đánh bắt cá, tước đoạt chúng từ thiên nhiên, nhưng sao trong thơ Huy Cận ta lại thấy giữa con người và thiên nhiên cùng những sinh vật của nó một mối giao cảm kì lạ, gần như là thân thương, trìu mến. Họ cảm nhận được vẻ đẹp trong từng hơi thở của biển đêm :
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Phải là một người có cảm nhận rất tinh tế mới cảm nhận được từng nhịp thở khẽ khàng của “đêm” như thế ! Phép nhân hóa khiến “đêm” không còn chỉ là cánh cửa như ở khổ thơ đầu nữa mà đã trở thành một sinh vật của đại dương, một phần linh hồn của bức tranh. Nhịp thở của nó là tiếng gió, tiếng sóng rì rào không bao giờ ngừng nghỉ của biển. Những vì sao trên bầu trời phản chiếu xuống mặt biển cũng hòa cùng theo nhịp điệu ấy, gợi nên một hình ảnh liên tưởng thật thơ mộng. Là gió – nhịp thở của đêm, là sóng – nhịp nhấp nhô cao thấp như đang thở của biển, hay là “sao” đang hòa vào gió và sóng để lùa nước Hạ Long? Nhịp điệu hòa quyện đầy chất trữ tình ấy không chỉ “lùa nước Hạ Long” mà còn như lùa cả vẻ đẹp của bầu trời (“đêm”, “sao”) và lòng biển. Những động từ “thở”, “lùa” nghe thật nhẹ nhàng, trong đó nhịp điệu dịu êm của biển đối lập với nhịp nhanh và mạnh về người lao động trong hai câu thơ cuối của khổ trước, tạo nên một hòa âm thật nên thơ. Huy Cận đã đưa cả vẻ đẹp của biển khơi vào lời thơ với bút pháp miêu tả vừa đầy màu sắc vừa như ngân nga một nhịp điệu trữ tình.
Trong nhịp điệu đầy chất lãng mạn ấy, nổi bật lên cảnh lao động của con người:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
“Câu hát” đã căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, và bây giờ “bài ca” lại trở thành công cụ lao động để “gọi cá vào”. Nhà thơ không miêu tả trực tiếp việc đánh bắt cá mà chỉ nhấn mạnh vào “bài ca”, không chú ý vào sự vất vả của công việc mà tập trung vào vẻ đẹp, vào sự lãng mạn của nó. Trong đó, một lần nữa, con người với đại từ nhân xưng “ta” lại trở thành chủ thể của bức tranh. “Bài ca gọi cá vào” ấy không chỉ tượng trưng cho sự lạc quan, niềm hăng say lao động của người ngư dân mà nó còn biến lao động nặng nhọc thành niềm vui, giúp tìm ra được chất thơ mộng ngay trong cả một công việc tưởng chừng như bình thường nhất.
Khi những người ngư dân thả lưới thường phải gõ vào mạn thuyền để xua cá vào lưới. Nhưng Huy Cận lại vận dụng thật xuất sắc những hình ảnh phản chiếu của bầu trời vào mặt biển để dệt nên những vần điệu thật độc đáo. Ông cảm nhận được rằng chính vầng trăng đang in bóng xuống mặt biển ấy đã hòa vào sóng nước biển khơi để vỗ vào thuyền, hòa nhịp cùng tiếng hát, vào nhịp gõ thuyền của những người ngư dân. Hợp âm ấy tạo thành một bản hòa ca của niềm vui lao động, một niềm vui say sưa và tràn đầy nhiệt huyết cùng niềm tự hào tới mức nó có thể khiến đoàn cá cũng bị cuốn theo nhịp điệu ngây ngất ấy mà đi vào lưới. Niềm tự hào ấy cũng chính là niềm vui của Tố Hữu trong “Bài ca xuân 61”: “Hỏi núi non đâu sắt đâu vàng / Hỏi biển khơi xa đâu luồng cá chạy”. Trong cái nhìn tươi tắn của Huy Cận, ta thấy lòng mình như cũng đang rộn ràng cất tiếng hòa cùng với sự lạc quan của nhà thơ, vào khí thế lao động hăng say của những người dân chài. Trong nguồn cảm xúc dâng trào ấy, nhà thơ không thể không cất lên lời ca ngợi và tri ân biển cả:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Những người ngư dân đã lớn lên cùng biển, sống dựa vào biển, gắn bó cả cuộc đời với biển. Biển không chỉ đẹp bởi sự giàu có, phong phú tài nguyên mà còn bởi những lợi ích mà biển đem lại cho con người. Nhà thơ đã thấu hiểu và truyền tải điều đó vào những câu thơ đầy xúc cảm. Thay vì ví lòng mẹ với biển cả như ca dao, dân ca và biết bao nhà thơ, nhạc sĩ khác đã làm (“Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” hay “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”), ông đã so sánh biển như lòng mẹ. Biển khơi vốn rất khó lường với mưa bão, sóng gió dữ dội, ầm ĩ như lúc nào chực nhấn chìm con người. Thế nhưng với nhà thơ, con người sống nhờ biển như được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành mang âm hưởng ca dao đã cất lên tiếng hát tri âm, tri kỉ, tri ân của người ngư dân với người mẹ thiên nhiên vĩ đại đã yêu thương, ủ ấp, nuôi lớn người dân chài. Tiếng hát ấy hòa vào với tiếng hát chan chứa tình yêu đời ở hai câu thơ trên để từ đó cho người đọc thấu hiểu được vẻ đẹp từ trong tâm hồn của những con người gắn bó với biển sống lạc quan, có nghĩa có tình. Tiếng hát ấy không mang đến cho thơ Huy Cận một sức truyền cảm mãnh liệt mà còn như truyền lại biết bao thế hệ một bài ca ân tình hòa chung vào bài ca lao động.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” thật sự đã đánh dấu một sự đổi mới lớn trong thơ Huy Cận. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông được khơi nguồn cảm hứng chủ yếu từ vũ trụ, một vũ trụ mênh mông, rộng lớn mà trong đó con người là một thực thể nhỏ bé, cô đơn:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
(Tràng giang – Huy Cận)
Cũng là trời, là nước, là thuyền nhưng vắng lặng và đậm chất buồn sầu thương cảm. Với “Đoàn thuyền đánh cá”, vũ trụ vẫn bao la nhưng lại thân thiết và gần gũi hơn với con người, và con người không còn lẻ loi, lọt thỏm giữa đất trời nữa mà đã trở thành người chủ của biển khơi, là bạn của trăng sao và vẫy vùng cùng mây gió. Cảm hứng lãng mạn hòa quyện với cảm hứng vũ trụ và con người ấy đã tạo nên nhiều liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ và đẹp. Xuân Diệu cũng đã rất tinh khi phát hiện và nhận xét “bài thơ lặp lại năm lần chữ “hát” thực chất là một bài ca sảng khoái, phối hợp nhạc điệu với những động tác dồn dập”. Sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh ấy đã tạo nên một không khí rạo rực tươi vui tràn ngập bài thơ.
Nhà thơ Tố Hữu từng viết rằng : “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”. Những hình ảnh đẹp và hùng vĩ trong bài thơ không chỉ vẽ nên một bức tranh, mà chính chúng đã mang trong mình hơi thở của vũ trụ bao la, của cuộc sống lao động miền Bắc thời kì ấy. Chúng vang xa. Bài thơ cũng chính là bài ca lao động rộn ràng, tươi vui và tràn đầy sức sống được hát lên từ cảm hứng lãng mạn cách mạng của tác giả, mở ra một con đường mới cho một hồn thơ mới nơi Huy Cận.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 7
Huy Cận là mộ cây bút tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám. Nếu như trước cách mạng tháng Tám, những tác phẩm của Huy Cận luôn tràn ngập những nỗi sầu miên man vô tận thì phong cách văn học của ông trong thời kì sau cách mạng tháng Tám lại đối lập hoàn toàn với mầu sắc thơ phong phú tràn ngập niềm vui, thơ ông tập trung ca ngợi thiên nhiên đất nước và niềm vui của con người trong cuộc sống mới. Tiêu biểu có thể kể đến tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá.
Ngay ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã dẫn dắt bạn đọc đến với khung cảnh thiên nhiên lúc con người ra khơi:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngừng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động. Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hòa quyện với nhau. Tiếng hát khỏe khoắn của cả tập thể hòa với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hòa cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Hai khổ thơ mở ra trước mắt bạn đọc thiên nhiên tươi đẹp và hình ảnh con người tràn đầy sức sống. Khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm phong phú, đa dạng hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 8
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam-một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình minh.
Đề tài “ Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Câu thơ mở đầu miêu tả cảnh mặt trời như hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống dưới đáy đại dương để lại trên biển và phía chân trời một màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi tả cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ. Trong khoảng khắc bao sắc màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm. Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ những con sóng giống như chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa.Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà trong trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng cam đảm của con người. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy ta lại bắt gặp hình ảnh: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.” Phép tu từ hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” chỉ những người ngư dân họ đang bắt đầu một ngày lao động mới. Từ “lại” chỉ sự lặp đi lặp lại nhiều lần liên tục đã trở thành thói quen. Đó là tinh thần lao động hăng say quên cả mệ mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của những con người lao động mới của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư dân cất lên. Câu hát hòa cùng với làn gió mát của biển khơi thổi căng cánh buồm để đưa con thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp khoa trương “Câu hát căng buồm” tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Câu hát hòa cùng với gió khơi là muốn nói đến sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng hộ con người. Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá: cá bạc, cá thu… Phép tu từ so sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động.
Với trí tưởng tượng phong phú cùng với ngòi bút thơ đầy lãng mạn bay bổng nhà thơ đã đưa người đọc đến hình ảnh thật là đẹp:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái vầng trăng khuyết trên trời cao đã trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai bộ phận của con thuyền giúp sức cùng ngư dân đưa đoàn thuyền ra khơi. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền đánh cá giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển và in đầy trăng sao. Và giờ đây đoàn thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang“Ra đậu dặm xa dò bụng biển”. Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời, trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại, những con người ra khơi để thăm dò “bụng biển” đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước. Bằng trí tưởng tượng kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh đoàn thuyền đánh cá đang “Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Những con thuyền to lớn, tư thế hùng dũng, hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con người đang thả lưới vây giăng chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận lao động. Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang cùng biển rộng vũ trụ.
Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biểnnhư thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăngvàng. Bài ca “gọi cá ”vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thứccùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như “gõ nhịp” phụ họacho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên con người thật là hòa hợp.
Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chânnghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm “vẩy bạc, đuôi vàng” và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạngđông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ trên chậm rãi, gợi cảm giácthanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
Nếu những người ngư dân ra khơi cất cao tiếng hát thì khi hoàn thành họ cũng cất cao tiếng hát:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Với bút pháp khoa trương lại một lần nữa nhà thơ tưởng tượng câu hát của người ngư dân, câu hát cùng gió thổi căng cánh buồm đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường như thiên nhiên và con người có sự hòa hợp. Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời niềm vui trước thành quả lao động của những ngày vất vả trên biển. Câu hát xuất hiện ở khổ đầu giờ lại lặp lại ở khổ cuối tạo cho bài thơ đầu cuối tương ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng tượng nhà thơ đã hình dung trước mặt mình là khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt biển rộng lớn trở thành trường đua với hai đối thủ là con người và mặt trời. Và chắc hẳn con người sẽ thắng bởi họ đã một lần chiến thắng biển khơi với những khoang thuyền đầy cá. Đặt con người trong cuộc tranh tài với thiên nhiên là nhà thơ khẳng định tầm vóc của con người có thể sánh ngang thiên nhiên. Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượngcủa mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, “Mặt trời đội biển nhômàu mới” một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người.
Bài thơ đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 9
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như “hòn lửa”. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan toả. Với nghệ thuật nhân hoá “sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài:
Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi
Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét snags tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa may cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơi là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh: mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “Lái gió” “buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hang hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuộc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long
Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao: “cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi: “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.
Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đinh những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “cho ta cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.
Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng đáng:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chum cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hang hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lơn “chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.
Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nàh thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình.
Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài Đoàn thuyền đánh cá ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 10
Đến thơ trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi.
“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ giống như một bức tranh đầy màu sắc, sự sống:
Trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi”
Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Cách so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực đang. Mặt trời đang dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy màn đêm dần buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát đã ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Vẻ đẹp của biển cả đã làm công việc lao động vơi đi phần nào. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp lao động cùng những người ngư dân:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ đang hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng thấy hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Cũng có thăm dò, cũng có dàn đan thế trận và bủa vây – nhưng là bằng lưới. Người ngư dân sống gắn bó với biển cả, họ đã thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
Màn đêm yên yên tĩnh, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Lúc này không còn là bài ca ra khơi nữa mà là bài ca ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang. Ánh trăng giống như người bạn tâm giao. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy… Đặc biệt là hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, yêu thương của biển cả với con người.
Cuối cùng thì lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng bằng thành quả:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Họ đang dùng sức mạnh của đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi. Từ đó cho thấy tâm trạng phấn khởi của người ngư dân trước.
Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa tả thực mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thói quen lâu đời của người ngư dân, khi phải đem cá về bến trước khi trời sáng. Cũng là tâm thế sẵn sàng của họ trước một chuyến lao động mới.
Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 11
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.
Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên cũng như đoàn thuyền lúc ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời, gợi thời gian của hoàng hôn. Cùng với đó là hình ảnh nhân hóa biến không gian đại dương là một căn nhà rộng lớn, ở đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển chính là then cài. Thiên nhiên đã bắt đầu khoảng thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ trạng thái bình yên.
Trong khi đó, đây mới là lúc con người bắt đầu công việc lao động. “Đoàn thuyền” – không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn – một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi lao động. Cách viết “lại ra khơi” cho thấy đây là công việc đã quá quen thuộc với họ. Đặc biệt là hình ảnh “câu hát căng buồm” gợi ra khung cảnh người lao động cùng nhau cất vang tiếng hát, tạo ra một nguồn sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi. Khi vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi, những người ngư dân mới bắt đầu hành trình lao động của mình.
Đến khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã khắc họa nổi bật lên hình ảnh người ngư dân:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Câu hát của những người đi biển không chỉ thể hiện được tâm hồn lạc quan, không khí khẩn trường mà còn nói lên mong ước của họ. Công việc đánh cá vất vả là vậy nên người ngư dân mong muốn trời yên, biển lặng và gặp được nhiều luồng cá để có thể đánh bắt được nhiều. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa được sử dụng khiến cho người đọc có một cảm nhận thú vị về con người lao động.
Tiếp đó, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Toàn bộ khổ thơ giống như một bức tranh lộng lẫy. Các hình ảnh: gió, trăng, mây vẽ nên bức tranh ấy bằng một thứ ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng như đóng góp một phần vào công cuộc lao động của người ngư dân. Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn – tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” – mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.
Nhà thơ đã dành riêng một khổ thơ để nói về sự giàu có của biển cả:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng triệt để, một loạt tên gọi của các loài cá quý hiếm của biển cả được kể ra: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi ra màu sắc của loài ca song. Đặc biệt nhất là cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật thơ mộng. Người đọc có thể tưởng tượng được rằng ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” – màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống. Thế mới thấy, Huy Cận phải là người có lòng yêu đối với biển như thế nào mới có được những câu thơ tinh tế như vậy?
Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ lao động xua đi những mệt mỏi. Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Biển trong khổ thơ được nhà thơ miêu tả với sự bao dung từ đó thể hiện tấm lòng biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” – biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.
Cuối cùng sau một đêm lao động mệt nhọc, họ cũng đã thu được những thành quả xứng đáng:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng – lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy đó là những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá – thành quả lao động của người dân chài. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả thật đẹp: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.
Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.
Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc từng câu thơ, chúng ta có thể cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. Cũng như chia sẻ với niềm tự hào về khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 12
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông viết tại vùng biển Hòn Gai. ngày 1.10.1958, in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn gồm có 7 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu; đoạn thơ trong sách Tiếng Việt 4, chỉ trích 5 khổ thơ. Tác giả tả đoàn thuyền đánh cá một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ca ngợi tinh thần lao động hăng say và lạc quan yêu đời của những người dân chài trong chế độ mới.
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi “Mặt Trời xuống biển”. Mặt Trời đỏ rực “như hòn lửa” vừa “xuống biển” thì chỉ thấy những con sóng như then cài “sập cửa” ngôi nhà vũ trụ. Chính lúc đó, đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của ngư dân vang xa hòa với gió khơi đã làm căng cánh buồm. Tiếng hát và cánh buồm căng gió biển thể hiện khí thế ra khơi đã phấn chấn của đoàn thuyên đánh cá.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Khổ thơ thứ hai nói lên lời cầu mong của người dân chài: ra khơi sóng yên biển lặng, may mắn gặp luồng cá thu “như đoàn thoi”, đánh bắt được nhiều cá. Lời cầu mong tha thiết ngọt ngào:
“Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! “.
Khổ thơ thứ ba tả cảnh đánh cá. Những ngư dân vừa gõ thuyền đuổi cá, vừa cất tiếng hát ngợi ca biển như người mẹ nhân hậu. Trăng trên trời cao chiếu xuống biển xanh như vỗ vào mạn thuyền, cùng gõ nhịp đuổi cá. Những vần thơ ngọt ngào và có hình ảnh đẹp mang màu sắc lãng mạn:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Cảnh kéo lưới diễn ra lúc “sao mờ” trời sắp sáng. Câu thơ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” vừa tả cá biển từng chùm mắc vào lưới, vừa thể hiện vẻ cường tráng, dẻo dai của những ngư dân lúc kéo lưới. Cá tươi ngon đầy khoang thuyền hiện lên dưới ánh hồng rạng đông:
“Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”.
Màu “bạc” của vảy cá, sắc “vàng” của đuôi cá đều “lóe” dưới ánh đông trong niềm vui của bao người. Nghệ thuật dùng từ và phối sắc của Cận thật tài tình.
Khổ thơ cuối bài gợi tả đoàn thuyền đánh cá trở về. Mừng vui phấn khởi trước một chuyến ra khơi may mắn, các thủy thủ lại cất cao tiếng hát. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa đầy khí thế:
“Đoàn thuyền chạy đua cùng Mặt Trời
Mặt Trời đội biển nhô màu mới”.
Và những mắt cá lấp lánh trong khoang thuyền góp phần làm cho cảnh biển một sớm bình minh thêm phần huy hoàng, tráng lệ:
“Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Hình ảnh mắt cá ở đây tượng trưng cho cuộc sống mới ấm no, yên vui của bà con dân chài trên vùng biển quê hương.
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay. Hình tượng đẹp, giọng thơ ngọt ngào, nó là bài ca lao động của người dân chài khi quê hương đất nước “trời mỗi ngày lại sáng”.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 13
Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng cùa thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cẩt lên từ nhịp sống lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả. Đoạn thơ sau trong bài thơ tiêu biểu cho điều đó:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Bài thơ được sáng tác trong chuyến đi công tác của Huy Cận tại vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Ninh năm 1958 và được bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc tự do độc lập. Với ý nghĩa đó, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.
Ba khổ thơ trên nằm giữa bài thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh hoàng hôn trên biển và những con thuyền đánh cá ra khơi. Người dân chài đến với biển lớn bằng một tinh thần lao động hăng say và tâm hồn khỏe khoắn “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Và biển cả bao la giàu có phóng khoáng dang tay đón họ:
“Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Những khổ thơ trên nối tiếp mạch cảm xúc đó.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển thu hẹp lại để con người “ra đậu dặm xa”, “dàn đan thế trận” và “dò bụng biển” để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.
Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ giàu mà biển còn rất đẹp:” Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới ngọn đuốc. Hình ảnh ấy cũng từng gợi hứng cho nhà thơ Chế Lan Viên viết nên câu thơ kì tài: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Có thể nói, với hình ảnh cá song, hai nhà thơ không chỉ gặp nhau ở sức liên tưởng mà còn “cùng chí hướng” ở cảm hứng sáng tác: nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực, từ đời sống lao động của quần chúng nhân dân.
Đoạn thơ mang nhiều sắc ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu. Trong niềm xúc động, nhà thơ như thấy đâu đây hình ảnh những nàng tiên cá thần kì và do đó, Huy Cận đã viết một câu thơ thật thi vị, hữu tình: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Hình ảnh ấy càng được tôn lên bội phần bởi một liên tưởng tài tình:
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thủy triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng triều đập vào bãi cát được ví như: “lùa nước Hạ Long”. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kỳ ảo.
Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền dã có nhịp trăng cao
Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cám xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biển, vỗ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá từ nặng nhọc bỗng trở nên thi vị lãng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với “lòng mẹ”. Biển cả dữ dội và bao la và lòng biển thẳm sâu không còn là điều kì bí, đáng sợ. Với nhà thơ, lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.
Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung.
Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 14
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới.Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.”
Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: Ra khơi đánh cá !Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, công việc, và con người:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, ” mây cao”, ” biển bằng “phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng. Cũng thăm dò, cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng. . . lưới! Đã bao đời nay, ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.”
Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang: lúc náo nức, lúc lại thật tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy.Với ngư dân, biển cả bao la “như lòng mẹ”, bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp, nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, sôi nổi khi bóng đêm dần tàn, ngày đang đến:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Bao công lao vất vả đã được đền bù, dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao!Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng “chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người.”Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 15
Đến thơ trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi.“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ giống như một bức tranh đầy màu sắc, sự sống:Trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi”
Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Cách so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực đang. Mặt trời đang dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy màn đêm dần buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát đã ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Vẻ đẹp của biển cả đã làm công việc lao động vơi đi phần nào. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp lao động cùng những người ngư dân:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ đang hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng thấy hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Cũng có thăm dò, cũng có dàn đan thế trận và bủa vây – nhưng là bằng lưới. Người ngư dân sống gắn bó với biển cả, họ đã thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
Màn đêm yên yên tĩnh, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Lúc này không còn là bài ca ra khơi nữa mà là bài ca ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang. Ánh trăng giống như người bạn tâm giao. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy… Đặc biệt là hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, yêu thương của biển cả với con người.Cuối cùng thì lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng bằng thành quả:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Họ đang dùng sức mạnh của đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi. Từ đó cho thấy tâm trạng phấn khởi của người ngư dân trước.Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa tả thực mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thói quen lâu đời của người ngư dân, khi phải đem cá về bến trước khi trời sáng. Cũng là tâm thế sẵn sàng của họ trước một chuyến lao động mới.Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 16
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai” được phát động ở miền Bắc để vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường miền Nam. Mọi người ở khắp mọi nơi làm việc ngày đêm, làm việc chăm chỉ. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã tiếp cận cuộc sống của người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Tác phẩm gây ấn tượng mạnh mẽ nhất có lẽ là “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh những con thuyền đang ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Bằng giọng thơ cảm khái, nhà văn với con mắt quan sát nhạy bén đã chọn một thời điểm rất đặc biệt, đó là lúc hoàng hôn. Tác giả so sánh mặt trời đang dần lặn xuống đáy biển với một “quả cầu lửa”. Với sự so sánh này, một trạng thái huy hoàng và tráng lệ mở ra trước mắt người đọc. Nhưng trạng thái tươi đẹp này chỉ tồn tại trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm bao trùm. Nhân hoá “Sóng đã cài then đêm sập cửa” đã thể hiện một cách dứt khoát về sự chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ nghỉ ngơi, thư giãn. Trong tình huống này, mọi người quay trở lại làm việc. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng những biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian tuyệt vời khơi gợi bao cảm xúc nơi người đọc.
“Đoàn tàu đánh cá lại ra khơi” thể hiện rõ đây không phải lần đầu ra khơi nhưng công việc được lặp đi lặp lại thường xuyên, đều đặn. Phải nói rằng, việc ra khơi đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn tàu. Họ bắt tay vào làm việc với tinh thần đoàn kết, nhiệt tình, lạc quan và khẩn trương. Tinh thần ấy được thể hiện qua lời ca khỏe khoắn, lời ca của họ như hòa vào như hòa vào ngọn gió thổi căng cánh buồm, đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.
Ở khổ thơ tiếp theo, nhà văn miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp của làng chài:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”
Khúc hát người đánh cá, nó không chỉ gợi một tinh thần lạc quan, khẩn trương mà còn nói lên khát vọng của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì thế ta đọc được những điều ước của họ trong câu thơ. Họ mong trời yên biển lặng, gặp luồng cá sẽ đánh bắt được nhiều. Hình ảnh con cá được so sánh, ẩn dụ là những sáng tạo độc đáo gợi cho người đọc về thứ vị của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội miền bắc.
Trong khổ thơ thứ ba có hình ảnh con thuyền trên biển với cảnh đánh cá:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Có thể nói rằng toàn bộ Khổ thơ là một bức tranh tuyệt vời. Tất cả những hình ảnh: mây, nước, sao, trời đều được vẽ bằng ngôn ngữ lung linh, giàu sức tưởng tượng. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền thật hiện thực và lãng mạn. “Lái gió” “buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm giác thiên nhiên cũng tham gia đánh cá. Trăng sao như hiện ra rõ hơn để người đánh cá nhận diện được luồng cá. Giữa bao la biển trời, trời và biển như hòa làm một. Đối với những người hàng chài, tác giả mô tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ năng động, sáng tạo trong công việc, tổ chức đánh cá ra trận. Với tinh thần làm việc hăng say và lạc quan như vậy, chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành nhiều tâm huyết để miêu tả sự giàu có của biển cả:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”
Nếu cả bài thơ là một hình ảnh sáng tạo về không khí lao động của những người đánh cá thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo độc đáo, các biện pháp nghệ thuật ở đây được vận dụng linh hoạt khiến người đọc cảm nhận được sự trù phú của biển cả. Trong sự giàu có này, ta nghe thấy hơi thở của biển: “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”. Chỉ khi thực sự yêu biển, yêu những người dân lao động, nhà thơ mới thể viết nên những hình ảnh đẹp và những bài thơ đẹp như vậy.
Khổ thơ tiếp theo thể hiện sự bao dung của biển cả:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Nếu mở đầu bài thơ có tiếng căng buồm ra khơi thì ở đây là khúc hát gọi cá. Bài hát làm xua tan đi những mệt nhọc của người lao động và khích lệ tinh thần làm việc của họ. Biển trong đoạn thơ này được miêu tả rất bao dung, nhân hậu “cho ta cá như lòng mẹ”.
Sau một đêm vất vả khẩn trương, họ đã được đền đáp xứng đáng cho công lao của mình:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài làm việc vất vả nhưng tinh thần của những người đánh cá không hề nguôi. Họ thu thập những mẻ cá đầy khoang một cách hăng hái.Tại sao vậy? Có thể là sau một đêm khó khăn, vất vả họ đã giành được một mẻ cá lớn. Hình ảnh đàn cá trong thuyền được miêu tả rất đẹp với “vảy bạc, đuôi vàng lấp lánh trong ánh bình minh”. Phải chăng đây là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính tay họ tạo nên.
Đoạn cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Một điều làm người đọc ấn tượng nhất là câu hát được hát từ lúc ra đi đến lúc trở về. Những bài hát được nghe trên đường trở về nhà thể hiện rõ niềm vui và sự phấn khích. Khung cảnh bình minh và mặt trời đội biển từ từ nhô lên thật tuyệt vời. Và tuyệt vời nhất, đội tàu trở về với những khoang đầy cá. Hình ảnh đoàn thuyền trở về được miêu tả mạnh mẽ như lúc ra đi: “đoàn thuyền chạy đứa cùng mặt trời m”. Những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt đánh cá tiếp theo. Bởi chưa hài lòng với kết quả đạt được nên họ phải chạy đua với thời gian để tạo ra nhiều của cải cho đất nước. Bình minh rực rỡ, nhưng những người lao động đang bận bịu không có thời gian để nhìn thấy vẻ đẹp ấy, hầu hết tâm trí của họ đều tập trung vào công việc. Đây là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bằng giọng thơ hùng tráng kết hợp với biện pháp nghệ thuật nhân cách hóa, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thật đẹp về đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã kết thúc. Nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” dường như ta lại thấy một tinh thần lao động cháy bỏng, tràn đầy khí thế ở những con người không quản ngày đêm để tạo ra nhiều của cải cho đất nước.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 17
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Sau cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào cuộc kháng chiến trường kỳ, vĩ đại của dân tộc. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận sưởi ấm tinh thần vươn lên của cuộc sống. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được hoàn thành vào năm 1958 trong một chuyến ra Hòn Gai dài ngày. Bài thơ thực sự là khúc ca ngợi ca cuộc đời của những người lao động mới.
Bằng con mắt quan sát nhạy bén, trí tưởng tượng phong phú, cùng trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt chúng ta khung cảnh lao động vất vả trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp với những gam màu hư ảo, vô cùng quyến rũ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.”
Thuyền rời bến lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực chìm vào lòng đại dương bao la, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển trở nên kín đáo như không gian của một căn phòng lớn đã được đóng kín “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Khi đó, những ngư dân bắt đầu công việc quen thuộc: Ra khơi đánh cá! Biển đêm không lạnh mà được sưởi ấm bởi tiếng hát vang vọng, náo nức của những ngư dân bày tỏ niềm vui sướng tột độ. Tiếng hát hững người lao động được giải phóng, tiếng hát hòa cùng tiếng gió, thổi căng những cánh buồm đưa những con thuyền ra khơi. Bài hát ca ngợi sự giàu có, trù phú của biển cả và vẻ đẹp lung linh, diệu kỳ của nó về đêm:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Vẻ đẹp của biển đã giảm bớt những nhọc nhằn, khó khăn của việc đánh cá, mang lại cho ngư dân niềm vui và sức mạnh. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như hòa mình vào thiên nhiên, công việc và con người:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Trước biển lớn, chiếc thuyền chài bé nhỏ đã trở thành một con thuyền lớn, khổng lồ, hòa vào với sự bao la của thiên nhiên, vũ trụ. Con tàu này đã bay qua không gian trong một đêm thủy tinh tuyệt đẹp. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất hương vị thơ nhưng vẫn chân thực. Chuyến đánh cá như một trận thư hùng thực sự. Ngư dân bao đời nay gắn bó với biển cả, họ rành biển như lòng bàn tay, biết tên từng loài cá, thậm chí là cả hình dáng, thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.”
Trên mặt biển đêm ánh trăng bàng bạc, đàn cá vẫy đuôi dưới ánh trăng vàng, tiếng “em” vang lên tự nhiên, nhẹ nhàng. Bài hát gọi cá vẫn vang lên: lúc hào hứng, lúc tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng và sóng vỗ mạn thuyền như hòa nhịp với một bản nhạc, trăng như kéo đầy mẻ cá cho người dân chài.
Với người đánh cá, biển cả rộng lớn như lòng mẹ nên thiên nhiên và con người hòa hợp nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, hào hứng khi bóng tối buông xuống, bình minh ló rạng:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Sự vất vả đã được đền đáp, hình ảnh người ngư dân duỗi chân, cúi xuống dồn hết sức lực vào đôi tay quay tròn để kéo những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Những chiếc vảy lấp lánh ánh bạc, những chiếc đuôi vàng óng của nhiều loài cá tô điểm thêm cho buổi bình minh. Nhịp điệu của khổ thơ chậm rãi, gợi sự yên bình, hân hoan và thể hiện sự hài lòng của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
Khổ thơ cuối miêu tả đoàn thuyền đánh cá trở về:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Tiếng ca hùng tráng của người thợ đánh cá lành nghề trỗi dậy làm chủ cuộc đời. Tiếng hát trong gió, thổi căng buồm đón đoàn người ra khơi đêm trước và con thuyền đầy cá vui vẻ trở về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất chân thực mà cũng vô cùng hào hùng. Điều này phản ánh thói quen lâu đời của ngư dân là mang cá ra bến trước bình minh, đồng thời cũng cho thấy khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong việc xây dựng bờ cõi. Trước sự vui mừng của mọi người, nhà thơ đã chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình. Con thuyền căng buồm trên biển, giữa màu hồng tươi trong trẻo và ánh nắng phản chiếu qua muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến muôn ngàn ông mặt trời bé nhỏ đang tỏa sáng hân hoan. Ở đây hình ảnh biển cả tràn đầy màu sắc tươi sáng và tràn đầy sức sống trong mọi khung cảnh.
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động sôi nổi và hào hùng. Bài hát này là để ca ngợi biển cả, cá ngợi những con người cần cù và dũng cảm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được sử dụng trong bài thơ của tác giả đã thực sự làm say lòng người đọc. Chúng ta chia sẻ niềm vui lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường tương lai tươi sáng.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 18
Trong phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Huy Cận là một trong những tác gia vô cùng tiêu biểu. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ mới với tập thơ “Lửa Thiêng” (1940). Và sau năm 1945, Huy Cận cũng là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn học cách mạng. Nếu trước khi cách mạng tháng 8, Huy Cận mang một hồn thơ của “cái tôi” ảo não sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thanh) thì sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hoà hợp riêng – chung, thể hiện niềm vui và sự thích nghi với cuộc sống mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” cũng tiêu biểu cho cảm hứng này của Huy Cận và là một bước ngoặt trong cuộc đời cầm bút của ông. Tác phẩm được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày đều sáng” (1958) . Qua bài thơ, chúng ta thấy được nét đẹp tinh tế, hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động của ngư dân miền biển khi đứng trước cuộc sống mới, ngày hoà bình lập lại. Bài thơ được viết đầu năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta được giải phóng và đang từng bước xây dựng kinh tế, xây dựng đời sống mới trong bầu không khí hồ hởi, phấn chấn. Giữa năm 1958, trong chuyến công tác thực tiễn dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, Huy Cận tận mắt chứng kiến sự đổi thay của đất nước, của cuộc sống, của con người lao động đang cố gắng dựng xây làm giàu trên quê hương mình. Từ đó mà Huy Cận có cảm hứng viết lên bài thơ. Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của nhà thơ thông qua việc xây dựng hình ảnh với những liên tưởng và tưởng tượng mới mẻ, hấp dẫn. Âm hưởng chung của toàn bộ tác phẩm: khoẻ khoắn, vui tươi, sôi nổi và lạc quan mãnh liệt. Trước hết là Cảnh đoàn tàu ra khơi thể hiện sự háo hức của con người lao động ở hai khổ thơ đầu. Đó là một bức tranh thiên nhiên vào lúc hoàng hôn buông xuống rất nguy nga, tráng lệ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”.
Hình ảnh “mặt trời” đã được nhân hóa (xuống biển) và so sánh (như hòn lửa) trở nên sống động, huy hoàng. Đó là tín hiệu của sự vận động, chảy trôi của thời gian, báo hiệu thời khắc của ngày tàn đêm đến. “Sóng” và “đêm” cũng được nhân hóa với hành động “cài then”, “sập cửa”. Vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn đang vào đêm với động tác như con người: tắt lửa, cài then, sập cửa. Màn đêm như là tấm cửa khổng lồ đã sập xuống, còn những con sóng lượn là cái then cài. Thiên nhiên như dọn dẹp để nghỉ ngơi sau một chu trình hoạt động. Giữa lúc thiên nhiên chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì đó lại là thời gian con người bắt đầu cuộc sống lao động:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Từng đoàn, từng con thuyền lần lượt nhổ neo đẩy thuyền ra khơi. Phụ từ “lại” này vừa phải diễn tả sự tương phản giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của con thuyền; mặt khác cũng toát lên thái độ tích cực, hết sức phấn khởi, hăng hái, nhiệt tình trong công việc vốn hằng ngày vẫn xảy ra lặp đi lặp lại của người dân đánh cá: “lại ra khơi”. Tuy nhiên, khí thế ra khơi của ngư dân rất hăm hở, phấn khởi, rộn ràng tiếng nói và tiếng hát vui đùa. “Câu hát căng buồm” là một hình ảnh ẩn dụ về tinh thần lạc quan, niềm tin vào sức mạnh của cuộc sống lao động. Và con người lao động như hiện lên làm chủ biển, làm chủ bầu trời. Chính tiếng hát đã hòa cùng với gió trời nâng cánh buồm và đưa con thuyền vươn ra ra khơi xa. Tâm tư của người ngư dân gửi gắm trong tiếng hát: lạc quan, hăng say với công việc và niềm hy vọng rằng sẽ đánh bắt được nhiều tôm cá để mang về làm giàu cho đất nước.
“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Với hình thức liệt kê hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người ta thấy sự giàu có của biển Đông. Biển Đông có rất nhiều cá lớn đang đợi mọi người tới đánh bắt. Cá được nhà thơ ví von “như đoàn thoi”. Đoàn thoi hoạt động rất nhanh và nhộn nhịp trên bến phà. Và cá ở biển Đông cũng nhiều và đi về nhanh như thoi đưa vậy. Câu thơ cất cao giọng ca, thể hiện sự vui mừng và phấn chấn với những ưu đãi của thiên nhiên dành cho người dân làng chài. Vì thế ở hai câu thơ cuối, Huy Cận đã nhập thân với người lao động để thể hiện sự mong ước của người nông dân là đánh bắt thật nhiều cá tôm. Họ hi vọng, các đàn cá “đêm ngày dệt biển” ấy sẽ trở thành “dệt lưới” của con tàu. Vần “ơi” kết hợp với dấu chấm cảm ở câu thơ cuối cùng làm cho hình ảnh của các loài cá hiện lên thật sống động và rất gần gũi, thân thiện với con người. Với tài quát sát miêu tả tinh tế, đi cùng với cảm xúc vũ trụ thật mạnh mẽ, Huy Cận đã tái hiện nét đẹp của con thuyền ra khơi huyền ảo, nên thơ giữa đêm trăng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Dưới sự hình dung và tưởng tượng bay bổng, hình ảnh con thuyền đánh cá hiện lên thật đẹp, thật độc đáo, mang tầm vóc vũ trụ: người lái thì là gió trời; cánh buồm thì là vầng trăng và con thuyền đang bay giữa không trung (lướt giữa mây cao), như có thể chạm vào mây trời. Nó khác hẳn với con thuyền cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không cùng trời đất mênh mang trong bài thơ “Tràng Giang” trước cách mạng:
“Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Còn ở đây, con thuyền không hề bé nhỏ, cô độc mà lại vô cùng to lớn, làm chủ cả biển khơi mênh mông, bao la. Bức tranh không gian của biển cả được chia làm ba chiều: chiều cao của mây, chiều sâu của đáy đại dương, chiều rộng của biển mênh mông có tác dụng tôn thêm tầm vóc to lớn của con thuyền và con người lao động. Các động từ được sử dụng nhiều: “lái – lướt – đậu – dò – dàn đan – vây giăng” có tác dụng mô tả hành động đánh cá rất nhanh chóng, hết sức khẩn trương của những con thuyền đánh cá trên biển. Hình ảnh: “dàn đan thế trận” là một hình ảnh ẩn dụ về cách đánh cá của ngư dân. Đánh cá nhưng cũng cần phải biết bày binh bố trận, có kế hoạch và chiến lược thì mới có thể kiếm được nhiều tôm cá. Chính vì vậy, họ đã đưa con thuyền đi ra tận khơi sâu để tìm đáy biển mong kiếm được nhiều tôm cá tốt. Và rồi con thuyền hiện lên như là những con thiên nga khổng lồ đang băng trôi trên sóng nước để chinh phục đại dương. Và ngư dân thì làm việc với sự nhiệt tình, say mê và trí tuệ cao với một tâm hồn phơi phới của người làm chủ thiên nhiên, đại dương. Sau khi đã cho con thuyền đi ra xa và thả lưới bủa vây thì mọi cảnh đẹp tuyệt vời của biển cả thu lại vào tầm mắt của những ngư dân đánh cá:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa: nước Hạ Long”.
Biển đẹp và giàu có đã tô điểm cho màu sắc của biển cả và giúp cho bức tranh thiên nhiên trở nên rực rỡ, tươi vui. Nghệ thuật liệt kê các loài cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song có tác dụng khẳng định sự phong phú của biển cả. Biển cả rất phong phú thuỷ hải sản, nhiều loài cá quý và cá ngon (chim, thu, mè, kình là tứ quý của biển Đông) đang chờ con người tới khai thác. Biển không những giàu mà còn rất sạch và vô cùng nên thơ. Điều đó được tạo ra từ việc kết hợp màu sắc của thiên nhiên với sắc màu của các loài cá trên biển: óng ánh, đen hồng, lấp lánh. Những con cá song hiện lên như những ngọn đuốc đen hồng đang bơi lội trong làn nước biển dưới ánh trăng đêm. Những đàn cá tung tăng, bơi lội quẫy đuôi làm cho vầng trăng phản chiếu trên mặt nước như vừa vỡ ra từ biển trăng “vàng chóe”. Không gian biển cả chao nghiêng vừa như thực, vừa như mơ, đậm chất lãng mạn bay bổng. Câu thơ cuối cùng thông qua phép ẩn dụ, khiến cho không gian vũ trụ nổi lên như một người khổng lồ và biển cả như một cái lồng ngực đang phập phồng từng hơi thở đều đặn. Những ánh sao đêm in trên mặt nước, thuỷ triều xô bóng sao dưới mặt nước để tạo nên sao xua nước Hạ Long. Và theo tưởng tượng của thi sĩ, ấy chính là hơi thở của đêm, của biển cả. Tiếp tục đến khổ năm, cảnh đánh thuyền lùa cá vào lưới:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Nhà thơ cảm nhận thấy tiếng hát của người ngư dân làng chài dường như đang hòa cùng với âm thanh của biển cả tự nhiên. Dưới màn đêm, ánh trăng sáng lấp lánh trên bầu trời in hình xuống mặt nước rồi đến biển trăng, sóng vỗ bóng trăng như đập vào mạn thuyền tạo nên nhịp trăng để lùa cá vào lưới. Vì thế tiếng hát của con người hòa cùng với thiên nhiên trời đất, tạo cảm giác để người ta thấy rằng, công việc đánh bắt cá tưởng chừng rất là gian nan, vất vả song chất giọng tiếng hát đã biến cái khó khăn, vất vả đó trở thành lời ca lao động đầy mãnh liệt, say mê và sung sướng một cách lạ thường. Đặc biệt theo cảm nhận của tác giả, biển được ví như người mẹ của thiên nhiên: “Biển cho ta cá như lòng mẹ/Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Nghệ thuật so sánh và nhân hoá đã cho thấy rõ tình yêu thiêng liêng, to lớn, cao quý của người mẹ biển cả tự nhiên; cũng đồng thời thể hiện lòng biết ơn vô hạn của mỗi ngư dân về người mẹ thiên nhiên, vũ trụ. Cảnh buông lưới, đánh bắt cá của ngư dân được mô tả vừa sinh động, vừa đậm chất thơ:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.
“Sao mờ” là khoảng thời gian chuẩn bị trời đã bắt đầu rạng sáng, đó cũng chính lúc công việc của người ngư dân càng trở nên khẩn trương, mau lẹ để kéo lưới cho kịp trời sáng. Cảnh lao động hiện lên như một bức tranh sống động, với những nét tạo hình đầy khỏe khoắn, gân guốc với hình ảnh trung tâm là con người lao động. Cụm từ “kéo xoăn tay” không chỉ cho thấy những mẻ cá bội thu, nặng trĩu mà đây còn là một nét vẽ tạo hình với những bắp thịt săn chắc của những chàng thanh niên ngư dân cuồn cuộn nổi lên để kéo cá vào khoang thuyền. Từ đó khiến ta chợt nhớ tới câu thơ của nhà thơ Tế Hanh trong bài thơ “Quê hương” khi cũng viết về dân chài lưới quê mình:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”.
Ánh nắng hồng của bình minh hoà lẫn với màu sắc của kim loại: “bạc”, “vàng” có tác dụng tô thắm thêm sự giàu sang như những “rừng vàng bể bảng” của tạo hoá mà thiên nhiên ban tặng cho loài người. “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” gợi tả công việc nhịp nhàng của con người với sự chuyển động của vũ trụ. Khi lưới đậu lên khoang cũng là lúc đoàn thuyền quay lại đón ánh bình minh để chấm dứt một ngày làm việc căng thẳng và mệt mỏi. Hình ảnh “nắng hồng” ở cuối bài thơ biểu tượng cho niềm hạnh phúc, lòng lạc quan tin tưởng vào tương lai, sự phát triển tốt đẹp của đất nước sau chiến tranh. Bài ca lao động khép lại trong đoạn thơ cuối cùng với hình ảnh đoàn tàu trở về trong thắng lợi lúc bình minh dậy:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Mở đầu bài thơ lúc ra khơi bắt cá là câu hát và kết lại bài thơ khi đoàn thuyền đánh cá trở về cũng là câu hát của con người lao động ngư dân làng chài, điều đó cho thấy cả hành trình đánh bắt hải sản của họ đã trở thành bài ca lao động. Nếu tiếng hát mở đầu khi ra khơi là tiếng hát biểu trưng cho sự phấn khởi, niềm hy vọng và tin tưởng rằng ngư dân khi trở về sẽ đánh bắt được nhiều tôm cá để làm giàu cho đất nước thân yêu thì câu hát ở cuối bài thơ lại biểu tượng cho niềm vui mừng, hạnh phúc với thành quả lao động mà họ đã đạt được qua một đêm kéo lưới vất vả. Hình ảnh mặt trời cũng là hình ảnh được nhắc đến khi mở đầu và cuối bài thơ. Tuy nhiên, sắc thái ý nghĩa của nó gần như hoàn toàn. Nếu như hình ảnh mặt trời ở khổ đầu là khoảng không gian và ánh sáng của buổi chiều hoàng hôn. Nó báo hiệu thời khắc của chiều hoàng hôn, biểu tượng cho sự kết thúc của “bóng tối” của màu đen. Ngược lại, mặt trời ở khổ cuối chính là khoảng không gian và thời gian của buổi sáng ban mai. Nó báo hiệu thời khắc của một ngày mới, biểu tượng cho ánh sáng mới, sức sống mới và niềm vui, hạnh phúc của con người ngư dân sau những vất vả, gian nan, nguy hiểm. Trong bức tranh ấy, con người ngư dân xuất hiện trong trạng thái sáng ngang với mặt trời, với thiên nhiên, vũ trụ: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền là hình ảnh ẩn dụ về con người ngư dân. Nếu thơ xưa, con người thường chìm khuất trước thiên nhiên thì nay, dưới góc nhìn của những chiến sĩ cộng sản trong thời kỳ mới, con người hiện lên thật hiên ngang, dũng cảm trong tư thế “chạy đua” với vũ trụ, trời đất. Và sự thật thì con người đã chiến thắng. Bởi khi mặt trời loé rạng đông thì cũng là lúc đoàn thuyền đã trở về bến cảng. Ánh mặt trời đã điểm tô cho thành quả lao động thêm lấp lánh. Mặt trời chiếu rọi vào những mắt cá khiến muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa sáng lấp lánh. Như vậy khổ thơ cuối đã khắc hoạ thành công hình ảnh chiếc thuyền và con người ngư dân hiện lên rất to lớn, hùng vĩ, thể hiện niềm vui sướng, niềm tự hào với thành quả lao động, niềm hy vọng vào cuộc sống mới, vào ngày mai tương sáng của Tổ quốc. Nét nghệ thuật độc đáo và nổi trội của “Đoàn thuyền đánh cá” là hình ảnh thơ. Cả bài thơ được thể hiện bởi những hình ảnh phong phú, đa dạng, phức tạp và tinh tế với nhiều màu sắc. Hầu như ở khổ thơ nào cũng có nhiều hình ảnh độc đáo và mới lạ. Nhà thơ đã sáng tạo hình ảnh từ những trải nghiệm, cảm nhận thực tế của sự vật cộng với sự liên tưởng và trí tưởng tượng mạnh mẽ kết hợp với cảm hứng lãng mạn bay bổng. Phương thức nghệ thuật chủ đạo và phổ biến khi sử dụng hình ảnh trong bài thơ chính là so sánh và ẩn dụ, liên tưởng, thêm vào đó là lối cường điệu, phô trương đã phát huy được hiệu quả thẩm mỹ và tạo nên dấu ấn riêng cho tác phẩm. Bên cạnh hình ảnh thì các yếu tố về lời thơ, nhịp điệu, vần cũng tạo được âm hưởng giọng điệu mạnh mẽ, niềm hân hoan, mãnh liệt góp phần làm nên một bức tranh lao động thật đẹp và thật ấn tượng.
Tóm lại, bài thơ được coi là một bản anh hùng ca lao động xuất sắc, phản ánh sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người. sáng tạo, thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của nhà thơ về sự hồi sinh của dân tộc và cuộc sống mới khi hoà bình lập lại. Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới. Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động. Qua đó tác giả khẳng định sự hồi sinh của thiên nhiên, đất nước và con người sau chiến tranh, họ đứng lên xây dựng cuộc sống mới, ấm no, hạnh phúc.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 19
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám ta bắt gặp một “nỗi sầu vạn cổ” trong “Tràng Giang” của hồn thơ Huy Cận thì sau Cách mạng tháng Tám hồn thơ ảo não, sầu muộn ấy đã đem đến một làn gió vui tươi, mới mẻ cho phong trào Thơ mới của Việt Nam qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ chính là “khúc tráng ca” hào hùng của ngư dân vùng biển trong cuộc chạy đua với thiên nhiên để sánh ngang tầm với vũ trụ.
Huy Cận (1919 – 2005) là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam góp phần đưa phong trào Thơ mới phát triển lên đến đỉnh cao. Ông có phong cách sáng tác độc đáo, đa màu sắc và có sự thay đổi rõ rệt ở những sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian Huy Cận có chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).
Đọc những dòng thơ đầu tiên, ta không khỏi bất ngờ bởi cảnh đoàn thuyền đánh cá tràn đầy khí thế ra khơi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Huy Cận đã sử dụng những ngôn từ hết sức mộc mạc và gần gũi với cuộc sống con người để miêu tả thiên nhiên trong thời gian sắp kết thúc một ngày. Không khí khẩn trương, vội vã của một buổi ra khơi là điều mà người đọc có thể cảm nhận được ngay từ những dòng thơ đầu tiên. Có lẽ, Huy Cận đã thực sự trở thành một ngư dân đúng nghĩa thì mới có thể cảm nhận được không khí khẩn trương, vội vã đến vậy. Khi mặt trời đã xuống biển đỏ rực, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa” thì công việc ra khơi quen thuộc của ngư dân vùng biển lại được diễn ra. Nếu như cuộc sống ở trong đất liền dần khép lại một ngày với những bữa cơm gia đình đầy đủ thì cuộc sống của những ngư dân vùng biển mới bắt đầu. Đằng sau hình ảnh những con thuyền đầy ắp cá kia là sự chờ mong của người vợ, của những đứa con thơ đang chờ bố trở về cho nên không vội vã sao được. m nhạc vốn là món ăn tinh thần bổ dưỡng không thể thiếu trong cuộc sống, với những ngư dân vùng biển cũng vậy, họ luôn vui tươi, tràn đầy năng lượng với những “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
“Lao động là vinh quang”, công việc đánh bắt cá không chỉ là để phục vụ cuộc sống mưu sinh của người dân vùng biển mà đây còn là niềm vui to lớn của họ khi được hưởng sự ưu ái của thiên nhiên. Họ lạc quan trước sự giàu có của biển cả khi chúng ban tặng cho con người rất nhiều loại khác nhau:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Muốn tìm được kho báu ẩn sâu trong lòng đất thì nhất định chúng ta phải có một niềm tin mãnh liệt vào chúng. Dù bóng tối trên biển cả bao la có bủa vây những ngư dân của chúng ta đi chăng nữa thì ở họ luôn có ánh sáng của niềm tin giúp họ tìm được nhiều cá hơn. Biển Đông dồi dào, giàu tài nguyên và sẵn sàng cho đi với vô vàn loài cá như “cá bạc”, “cá thu”. Tác giả đã vẽ nên một bức tranh có sự đối lập giữa bóng tối của biển cả và ánh sáng của luồng cá để gợi sự trù phú của thiên nhiên và những mơ ước về mẻ lưới đầy của ngư dân. Biển cả rộng lớn còn con người thì bé nhỏ như được hòa chung vào cùng một dòng chảy để dệt thành những mẻ lưới đầy ắp cá. Họ tha thiết, mong chờ đàn cá đến “dệt lưới” với lời gợi mời vô cùng thân thiết “đoàn cá ơi!”.
Bức tranh thiên nhiên chỉ trở nên sinh động và trọn vẹn khi có sự xuất hiện của con người. Vẻ đẹp của con người lao động say sưa, khỏe khoắn trên biển dưới trời trăng sao được Huy Cận nhắc đến bằng giọng điệu vô cùng vui tươi và hào hùng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Hình ảnh con thuyền vốn bé nhỏ bỗng trở nên lớn lao, kì vĩ để “lái gió”, “lướt giữa mây cao với biển bằng”.Con thuyền vốn chỉ là công cụ để giúp người dân tìm kiếm nguồn sống nhưng dưới ngòi bút của Huy Cận thì con thuyền ấy bỗng trở nên lớn lao lạ thường để chinh phục thiên nhiên hùng vĩ. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”, khám phá vẻ đẹp ẩn chứa bên trong biển khơi mà mẹ thiên nhiên ban tặng cho con người. Những con thuyền dàn đan như một thế trận hào hùng gợi sự khéo léo của người dân chài với tâm hồn dũng cảm để chinh phục biển cả. Họ mang trong mình một khí thế của người chiến binh ra trận dũng cảm nhưng đầy khôn khéo tạo ra một thế trận đầy biến ảo để thực hiện mục tiêu chở đầy cá về của mình.
Biển không chỉ đẹp, thơ mộng mà còn giàu có với nhiều loài cá rực rỡ, lấp lánh như “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” đem lại giá trị kinh tế cao:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Biển Đông giàu có với biết bao loài cá quý hòa chung cùng dòng nước biển tươi mát tạo nên thứ ánh sáng “lấp lánh đuốc đen hồng” trông thật huyền ảo. Giờ đây, khung cảnh trên biển buổi đêm không còn tĩnh lặng vô tri vô giác nữa mà nó bỗng trở thành một sinh vật đại dương với những từ ngữ như “Đêm thở”, “sao lùa” hòa quyện với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn đã tạo nên bức tranh đầy màu sắc giữa thiên nhiên và con người. Chắn hẳn Huy Cận phải sở hữu một tâm hồn tràn đầy nhựa sống thì mới có thể cảm nhận được hơi thở của đêm tối tĩnh lặng.
Biển ân tình, bao dung, che chở cho những người ngư dân như tấm lòng của người mẹ sẵn sàng cho đi mà không cần nhận lại:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Biển nuôi lớn những người dân vùng biển “tự buổi nào” cho thấy tình yêu và lòng biết ơn của họ đối với biển cả quê hương. Họ từng ngày lớn lên trên vùng biển quê hương, trưởng thành nhờ cái nắng, cái gió của biển nên họ coi biển như một người mẹ bao la hết lòng vì đứa con. Phải chăng, mẹ biển cũng hiểu những điều vất vả của những đứa con vùng biển nên muốn chúng trở về đất liền sớm trước khi trời sáng.
Thời gian sao trôi thật nhanh, người đọc trước đó còn đang sống trong khung cảnh huyền ảo của biển cả thì giờ đây một ngày mới lại chuẩn bị bắt đầu:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Hình ảnh người lao động trên nền trời đang sáng dần được hiện lên thật khỏe khoắn và cường tráng khi “kéo xoăn tay” vì chùm cá nặng. Công việc kéo cá không hề khiến họ mệt moier mà ngược lại họ còn rất phấn khích khi thu được mẻ cá đầy. Thế rồi một ngày mới vô cùng ngọt ngào với “nắng hồng” được bắt đầu. Đối với họ, cá là cả một gia tài đáng quý “vảy bạc”, “đuôi vàng” vì đó là thành quả của những giọt mồ hôi, của những đêm lênh đênh trên biển không được chợp mắt. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh sáng bình minh, đây cũng là sự phối hợp nhịp nhàng giữa nét đẹp lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ: “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.
Bài thơ kết thúc bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ đã tạo nên một bức tranh bình minh vô cùng vui tươi và tràn đầy năng lượng.
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Câu hát theo suốt cuộc hành trình của người dân chài, nó xuất hiện từ khi nhổ neo ra khơi và trở nên rộn ràng khi khoang tàu đầy ắp cá trở về. Câu hát còn là cách để nhà thơ nhấn mạnh niềm vui lao động, làm giàu quê hương của người lao động. Có bình minh thì không thể mặt trời, mặt trời vốn là biểu tượng của sự sống sinh sôi. Hình ảnh “mặt trời” được lặp lại như báo hiệu một cuộc sống mới với những niềm vui, niềm hạnh phúc của người dân chài sau một chuyến hành trình vất vả. Đoàn thuyền nhanh chóng “căng buồm” lướt sóng để trở về đất liền vì hậu phương vững chắc của họ cũng đang mong chờ họ. Sức mạnh của lao động khiến cho con người được sánh ngang với vũ trụ và đã giành phần chiến thắng trong cuộc “chạy đua với mặt trời”. Hình ảnh “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là một hình ảnh hoán dụ vô cùng đặc sắc đã cho thấy nét lãng mạn trong ngòi bút Huy Cận. Muôn triệu mắt cá li ti lóng lánh đã kết hợp lại để tạo thành chặng dài “muôn dặm phơi” và đó cũng là niềm vui đủ đầy của người lao động khi được mùa cá.
Nhà thơ Huy Cận đã đem đến cho người đọc một bức tranh sống động bằng những hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo, giàu tính liên tưởng với âm hưởng khỏe khoắn, lạc quan. Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên tráng lệ có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên với con người. Qua đó, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một “khúc tráng ca” hào hùng đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ kết thúc trong niềm vui hân hoan của những người dân vùng biển khiến cho những âm thanh vui tươi ấy vẫn luôn còn đọng mãi trong tâm trí người đọc.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 20
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam – một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình minh.
Đề tài “Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Câu thơ mở đầu miêu tả cảnh mặt trời như hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống dưới đáy đại dương để lại trên biển và phía chân trời một màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi tả cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ. Trong khoảng khắc bao sắc màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm. Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ những con sóng giống như chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa.Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà trong trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng cam đảm của con người. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy ta lại bắt gặp hình ảnh: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.” Phép tu từ hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” chỉ những người ngư dân họ đang bắt đầu một ngày lao động mới. Từ “lại” chỉ sự lặp đi lặp lại nhiều lần liên tục đã trở thành thói quen. Đó là tinh thần lao động hăng say quên cả mệ mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của những con người lao động mới của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư dân cất lên. Câu hát hòa cùng với làn gió mát của biển khơi thổi căng cánh buồm để đưa con thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp khoa trương “Câu hát căng buồm” tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Câu hát hòa cùng với gió khơi là muốn nói đến sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng hộ con người. Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá: cá bạc, cá thu… Phép tu từ so sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động.
Với trí tưởng tượng phong phú cùng với ngòi bút thơ đầy lãng mạn bay bổng nhà thơ đã đưa người đọc đến hình ảnh thật là đẹp:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái vầng trăng khuyết trên trời cao đã trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai bộ phận của con thuyền giúp sức cùng ngư dân đưa đoàn thuyền ra khơi. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền đánh cá giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển và in đầy trăng sao. Và giờ đây đoàn thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang”Ra đậu dặm xa dò bụng biển”. Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời, trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại, những con người ra khơi để thăm dò “bụng biển” đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước. Bằng trí tưởng tượng kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh đoàn thuyền đánh cá đang “Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Những con thuyền to lớn, tư thế hùng dũng, hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con người đang thả lưới vây giăng chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận lao động. Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang cùng biển rộng vũ trụ.
Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biểnnhư thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăngvàng. Bài ca “gọi cá “vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thứccùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như “gõ nhịp” phụ họacho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên con người thật là hòa hợp.
Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chânnghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm “vẩy bạc, đuôi vàng” và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạngđông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ trên chậm rãi, gợi cảm giácthanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
Nếu những người ngư dân ra khơi cất cao tiếng hát thì khi hoàn thành họ cũng cất cao tiếng hát:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Với bút pháp khoa trương lại một lần nữa nhà thơ tưởng tượng câu hát của người ngư dân, câu hát cùng gió thổi căng cánh buồm đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường như thiên nhiên và con người có sự hòa hợp. Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời niềm vui trước thành quả lao động của những ngày vất vả trên biển. Câu hát xuất hiện ở khổ đầu giờ lại lặp lại ở khổ cuối tạo cho bài thơ đầu cuối tương ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng tượng nhà thơ đã hình dung trước mặt mình là khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt biển rộng lớn trở thành trường đua với hai đối thủ là con người và mặt trời. Và chắc hẳn con người sẽ thắng bởi họ đã một lần chiến thắng biển khơi với những khoang thuyền đầy cá. Đặt con người trong cuộc tranh tài với thiên nhiên là nhà thơ khẳng định tầm vóc của con người có thể sánh ngang thiên nhiên. Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượngcủa mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, “Mặt trời đội biển nhômàu mới” một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người.
Bài thơ đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Mẫu 21
Quê hương và nét đẹp lao động của con người Việt Nam chính là nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân trong văn học hiện đại. Tế Hanh đã nhớ da diết về cái làng chài “nước bao vây cách biển nửa ngày sông” của mình. Đến với Huy Cận ta lại bắt gặp hình ảnh những ngư dân khỏe mạnh, hăng say lao động trên nền biển cả mênh mông. Với sự liên tưởng phong phú và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Huy Cận đã tái hiện không khí đất nước trong giai đoạn xây dựng Xã hội chủ nghĩa thông qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ là tiếng hát ca ngợi người dân lao động đánh cá trên biển, ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả hùng vĩ, bao la.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
….”
Bài thơ được sáng tác năm 1958 trong chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ rút ra từ tập thơ “Trời mỗi ngày một sáng”. Cả bài thơ là một dòng chảy liên tục của thời gian từ lúc hoàng hôn khi đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi đến tận khuya và chuyển dần về ánh bình minh ngày mới. Mỗi thời điểm đều mang nhiều ý nghĩa biểu tượng vừa gợi mở không gian biển cả khoáng đạt cũng vừa truyền tải niềm vui của ngày mới đã đến trên quê hương.
Ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã mở ra một bức tranh biển hoàng hôn đầy sức sống, với vẻ đẹp mang tầm vóc to lớn, kỳ vĩ, hình ảnh người dân chài hiện ra rõ nét.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hoàng hôn là thời điểm biển rực rỡ, huy hoàng hơn bao giờ hết. Hình ảnh mặt trời lặn trên biển được so sánh với hòn lửa đã gợi cho người đọc một không gian đẹp đẽ, tráng lệ. Câu thơ “sóng đã cài then đêm sập cửa” chính là sự chuyển giao của thời gian. Khi mặt trời lặn dần, cũng là lúc bóng đêm lan tỏa khắp nơi tạo thành một tấm màn được tác giả so sánh như một cánh cửa mà con sóng chính là then cài. Chỉ với ba hình ảnh “biển”, “sóng” và “đêm” đã tạo ra một bức tranh sinh động, kỳ bí muôn thuở của biển cả. Đây có lẽ là thời khắc đẹp nhất của biển, vừa khép lại thế giới của ánh sáng lại mở ra thế giới của bóng đêm. Hai động từ “cài then, sập cửa” cùng với phép nhân hóa thực chất là chỉ hành động chuẩn bị kết thúc để đưa mọi thứ vào trạng thái nghỉ ngơi, tạm ngừng. Thế mà khi đọc câu thơ chúng ta lại cảm giác đó mới là sự khởi đầu. Khi mọi vật đã chìm vào trong tĩnh lặng thì đúng lúc biển cả thức giấc cùng với những hoạt động của con người.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Trong bóng tối của biển cả, không chỉ một con thuyền lẻ loi, đơn độc mà là cả đoàn thuyền nối đuôi nhau ra khơi. Không khí tưng bừng, nhộn nhịp như một cuộc đời đang đi lên phía trước. Vén màn đêm để tìm đến lẽ sống đời mình, lẽ sống ấy chính là lao động. Với một từ “lại” đã diễn tả được công việc đánh cá là công việc thường xuyên, đều đặn của người dân chài. Đó không chỉ là nghề mà còn là nghiệp là niềm vui và cuộc sống của người dân vùng biển. Tuy công việc nặng nhọc và hiểm nguy nhưng chẳng bao giờ làm cho họ nản chí vì tình yêu và lòng say mê với biển cả rất lớn trong họ. Cũng như gió với cánh buồm, cánh buồm chỉ thật sự là mình khi đón gió, và gió biết mình mạnh hay yếu cũng nhờ vào sức đẩy buồm. Cánh buồm căng hết sức mình để đón gió ra khơi cùng câu hát.
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
(Quê Hương – Tế Hanh)
Người dân chài ra khơi với tinh thần hăng say và tràn đầy hy vọng về một chuyến ra khơi bội thu. Câu hát khỏe khoắn, hào hùng như hòa vào trong gió, tiếp sức cho cánh buồm, đẩy con thuyền vượt sóng ra khơi.
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Câu hát được cất lên bằng giọng điệu tha thiết và tinh thần hăm hở như cánh buồm no gió. Người lao động dù ở công việc nào kéo chài, cấy lúa, giã gạo…dù ở nơi nào biển cả, đồng ruộng hay trên sân trước thì vẫn để tâm hồn mình hòa quyện vào âm nhạc, mượn âm nhạc tiếp thêm động lực. Vì thế mà hiếm có một dân tộc nào lại có nhiều điệu hò điệu lý gắn liền từng công việc: hò giã gạo, lý kéo chài, hò kéo pháo…Có thể nói bài hát lao động là cội nguồn đầu tiên của âm nhạc. Ngư dân trên biển cũng mượn bài hát để thổ lộ ước mơ, khát vọng được làm chủ biển khơi, được thiên nhiên ưu đãi. Phép liệt kê “cá bạc, cá thu” cùng với phép so sánh “cá thu biển Đông như đoàn thoi” đã tái hiện sự giàu có của biển cả đồng thời cũng vẽ nên một bức tranh sinh động mà ở đó thiên nhiên luôn vận động theo quy luật riêng của nó. Không chỉ đẹp bởi hiện thực biển khơi tôm cá nhiều mà đoạn thơ còn sáng bừng bởi muôn luồng sáng mà những đàn cá mang lại “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”. Phép nhân hóa này đã cho chúng ta một trải nghiệm thú vị khi mà những đợt sóng mềm mại giống như từng sợi tơ đan vào nhau, từng đàn cá đóng vai trò như con thoi trên khung dệt ấy. Trong ánh sáng bàng bạc của đêm, sóng cứ vỗ, cá cứ bơi, tấm thân mềm mại uốn lượn theo nhịp sóng tạo thành hàng trăm nghìn tia sáng chao đi lượn lại trên mặt nước. Cảnh vật sao mà thơ mộng và thi vị đến thế.
Các khổ thơ tiếp theo là cảnh đoàn thuyền giữa một đêm trăng đẹp. Đến đây, cảm hứng lãng mạn được phát huy trong niềm phấn khởi của con người được hòa mình vào biển cả.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
So với biển cả bao la thì con thuyền thật nhỏ bé. Thế mà khi đọc đoạn thơ ta cảm nhận được con thuyền là trung tâm của biển cả với kích thước lớn lao và tầm vóc kỳ vĩ. Con thuyền ra khơi lấy gió làm bánh láy và mảnh trăng như một cánh buồm. Trong không gian bao la, ranh giới giữa mặt nước và bầu trời dường như bị xóa nhòa. Bầu trời và ánh trăng lấp lánh, những gợn mây êm ả chẳng khác gì mặt biển nhấp nhô phản chiếu ánh trăng rọi. Có lẽ vì thế mà con thuyền lướt nhẹ trên mặt biển cũng giống như bồng bềnh giữa mây trời. Trông con thuyền thong dong thế kia nhưng nó lại mang một nhiệm vụ lớn lao. Bằng biện pháp nhân hóa con thuyền “đậu” và “dò” biển cả tác giả đã đưa hình ảnh con người hòa hợp với hình ảnh con thuyền để thông qua sự chủ động của con thuyền nói lên tư thế làm chủ của con người trước biển. Con người là chủ nhân của con thuyền và cũng là vị trí trung tâm của biển cả. Với những am hiểu và sự tinh tường, người ngư dân nắm bắt được luồng cá để chuẩn bị bủa lưới. Đoạn thơ đã gợi mở một hình ảnh thật đẹp, vừa thực tế lại vừa thơ mộng về công việc của những con người làm chủ thiên nhiên và chinh phục được biển cả.
Bức tranh thiên nhiên được điểm tô phong phú bằng sự giàu có của biển cả, sự đa dạng về các loài cá.
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long?”
Mỗi loài cá đều mang một vẻ, mang một sắc màu khác nhau “đen hồng, vàng chóe”. Những cái tên được liệt kê: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song”..đều là những loài cá quý, có giá trị kinh tế cao góp phần vào cho đời sống người dân được cải thiện đồng thời cũng là nguồn lợi quý làm giàu đất nước. Tuy nhiên trong cái nhìn của một nhà thơ, cá không chỉ phong phú mà còn mang nét đẹp rất thi vị “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Câu thơ mang sự sáng tạo và sức gợi hình khi những chiếc vảy cá đen và hồng lấp lánh không khác gì ngọn lửa nổi trên mặt biển. Không chỉ có vậy, hình ảnh thơ còn vẽ một nét rất đẹp về bóng trăng đang soi trên mặt nước, để rồi một chú cá quẫy đuôi tạo ra những gợn sóng lấp lánh ánh trăng. Gợn sóng mang ánh sáng vàng chóe xua đi màu đen huyền bí của đêm tạo nên cảnh tượng thơ mộng, đầy cảm xúc. Trong sự tĩnh lặng của biển, nhà thơ còn nghe được tiếng thở của đêm “đêm thở: sao lùa nước Hạ Long?” Từ cái nhìn nhân hóa, nhà thơ thấy được bóng tối cũng có suy nghĩ và tình cảm. Tiếng thở của bóng tối chính là sự chuyển động của các vì sao, sự dịu dàng của ánh trăng và vẻ nhấp nhô của từng đợt sóng.
Đối với người lao động, biển đâu chỉ là nguồn sống mà còn là nơi ân tình. Tình cảm của biển cả đối với người lao động bao la, vô tận.
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ra cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Khổ thơ đã mở ra một hình ảnh phấn chấn của người ngư dân yêu lao động, yêu cuộc sống qua tiếng hát lạc quan. Mặc dù “gõ thuyền” là công việc của người đánh cá nhưng với cái nhìn nhân hóa nó lại trở thành hoạt động của ánh trăng cao. Trăng không chỉ đem ánh sáng chan hòa vạn vật, không chỉ soi sáng tuổi thơ và dõi theo từng bước chân hành quân của các anh chiến sĩ, trăng còn hòa mình vào lao động. Ánh trăng kia soi mình xuống mặt biển như thúc giục những con sóng ào ạt vỗ vào mạn thuyền. Câu thơ nhịp trăng cao gõ thuyền có sức liên tưởng độc đáo đã thổi hồn vào vạn vật để thấy được người lao động am hiểu về biển cả và xem thiên nhiên giống như người bạn. Bao đời nay biển nuôi con người, biển đem đến nguồn lợi dồi dào. Thế nên không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ so sánh biển như lòng mẹ. Đất nước ta có giàu đẹp cũng nhờ một phần của biển, và biển đó chính là người mẹ thiên nhiên có tấm lòng sâu thẳm và bao la. Nào ai có thể đo được lòng mẹ, những điều người mẹ mang đến cho các con, cũng không thể đo lường được sự hi sinh, tình yêu diệu kỳ của mẹ. Biển cũng thế, dù con thuyền đi hoài, đi mãi vẫn không vượt hết ranh giới của mênh mông. Cách nói này còn cho chúng ta thấy được lòng biết ơn của con người đối với người mẹ biển cả. Đặc biệt là ngư dân cả cuộc đời gắn bó với biển họ lại càng trân trọng những điều tuyệt vời biển đem đến.
Sau một đêm lao động vất vả, ngư dân đã có được niềm vui khi thu hoạch được mẻ cá to.
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông.
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Bóng đêm đã lùi dần, nhường chỗ cho bình minh ló dạng, những người dân chài kéo lưới để kịp trở về. cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả đầy chân thực lại mang đậm chất thơ trong không khí khẩn trương, gấp gáp. Những cánh tay hăng hái chờ mẻ cá đã lâu nên “kéo xoăn tay” bằng những động tác dứt khoát, khỏe mạnh, nhịp nhàng. Thành quả của họ những những con cá vẫy bạc đuôi vàng. Đến đây, chúng ta cảm nhận được chiếc đuôi cá không chỉ quẫy trăng vàng chóe mà còn lấp lánh ánh sáng của mặt trời. “Vẫy bạc đuôi vàng lóe rạng đông” là sự biến chuyển của thời gian. Mặt trời đã mọc, ngày mới đang đến, rạng đông lóe sáng ánh hồng, niềm vui phơi phới ngập tràn như mẻ cá đầy trong khoang thuyền. Đã đến lúc xếp buồm lên, đón nắng.
Khổ thơ cuối đã khắc họa được sinh khí đoàn thuyền trở về trong ánh bình minh cùng với câu hát ngân vang kết thúc một chuyến hành trình.
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Cũng câu hát ấy nhưng không chỉ là điệp khúc ước mong cá nhiều, cầu trời cho mưa thuận gió hòa, biển Đông lặng sóng, mà là khúc ca hào hứng khi đã hoàn thành một đêm đánh cá bội thu. Càng về cuối khúc ca dường như mang âm hưởng mạnh mẽ, du dương, bay vút trong gió và cuộn trào trong từng lớp sóng. Phép nhân hóa kết hợp phóng đại “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” đã khắc họa được tầm vóc lớn lao của con người sánh ngang vũ trụ. Đây được xem là nét thay đổi trong phong cách sáng tác Huy Cận từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kỳ miền Bắc đã giành hòa bình, đang xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không còn một Huy Cận để cái tôi của mình chìm vào trong mênh mông trời đất mà buồn cô lẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng”, thay vào đó tâm hồn nhà thơ đã quyện vào thiên nhiên mà vẫn làm chủ được cảm xúc, làm chủ được cuộc đời. Sức sống mới ẩn vào trong đôi mắt cá. Đôi mắt mang vị mặn của biển khơi, mang khát khao của một chặng đường đang rộng mở phía bình minh.
Đoàn thuyền đánh cá miêu tả con người giữa biển cả cao rộng trong màn đêm dày đặc nhưng bài thơ lại đầy ánh sáng và tiếng hát lấn át cả không gian, thời gian, trở thành một khúc hát ngợi ca lao động của những người ngư dân trên biển. Bài thơ lặp lại bốn lần từ “hát”, cả bài như một khúc ca sảng khoái, giọng thơ khỏe khoắn, âm hưởng phơi phới hào hùng, cảnh lao động miêu tả với tất cả vẻ đẹp của đất trời và sự hào hứng sáng tạo của thi nhân. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh sống động, nô nức, hối hả nhịp sống mới của thời đại mới.
Không chỉ ca ngợi những con người biết làm chủ cuộc đời, làm chủ biển cả, làm chủ thiên nhiên và tài nguyên đất nước, “Đoàn thuyền đánh cá” còn là một bản hùng ca thể hiện sự tự hào về quê hương với biển cả bao la, giàu có và đẹp đẽ. “Thiên nhiên đã vận động theo một vòng quay của mặt trời và con người đã hoàn thành trách nhiệm của mình trong lao động. Không có gì vui bằng lao động có hiệu quả”.
Trên đây là nội dung bài học Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Cảm nhận khổ 3, 4 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (4 mẫu)
- Cảm nhận của em về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá (7 mẫu)
- Phân tích 3 khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (14 mẫu)
- Phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá (16 mẫu)
- Phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá (20 mẫu)
- Phân tích khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (11 mẫu)
- Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (22 mẫu)
- Phân tích khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (21 mẫu)
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)