Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 21 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân.
Dàn ý Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân lớp 12
Dàn ý Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Số 1
I. Mở bài
Bạn đang xem: Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân ngắn gọn, hay nhất (21 Mẫu)
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …
- Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …
*Tâm trạng và hành động
Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
– Trên đường về:
- Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
– Khi về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
III. Kết bài
- Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Dàn ý Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Số 2
1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
– Giới thiệu về nhân vật Tràng
2. Thân bài:
a. Gia cảnh, ngoại hình của Tràng
– Gia cảnh: Nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư cùng với người mẹ già.
– Ngoại hình: thô kệch, xấu xí “cái mặt thô kệch”, “đôi mắt nhỏ tí”, “bước đi ngật ngưỡng”, …
– Tính cách: ngờ nghệch, vô tư “vừa đi vừa tủm tỉm cười”, thích chơi với đám trẻ con.
=> Tràng là điển hình của người lao động nghèo, những người nông dân chất phác trong thời kì nạn đói 1945.
b. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ
– Bối cảnh:
+ Giữa nạn đói năm 1945, khi Tràng kéo xe thóc thuê cho liên đoàn, gặp Thị đang ngồi bên đường chờ nhặt hạt rơi vãi.
+ Sau hai lần gặp và bốn bát bánh đúc cùng câu nói đùa vu vơ, thị đã đồng ý theo Tràng về nhà, làm vợ hắn.
c. Tâm trạng của Tràng trên đường trở về:
– Trên đường về nhà Tràng rất vui vẻ, hạnh phúc “đôi mắt sáng lên lấp lánh”
– Niềm vui ấy khiến hắn quên hẳn hoàn cảnh trước mắt.
=> Thứ cảm giác hạnh phúc lần đầu Tràng được biết, hắn không biết tên của nó là gì, chỉ thấy niềm vui sướng ngập tràn trong lòng.
d. Tâm trạng của Tràng khi về đến nhà:
– Hắn ngượng nghịu, lúng túng ngay trong căn nhà của mình.
– Lần đầu tiên, hắn ngoan ngoãn đáp lời mẹ, rồi “cười khì” vui vẻ.
=> Niềm hạnh phúc ngập tràn trong tâm hồn hắn, hắn không thể tin được niềm khao khát của hắn đã thành hiện thực một cách ngẫu nhiên như thế.
– Sáng hôm sau:
+ Lần đầu tiên, Tràng nhận ra ngôi nhà của mình thực sự là một tổ ấm, khác lạ hơn, ấm áp hơn so với ngày thường.
+ Tràng đột nhiên trở nên sâu sắc, có trách nhiệm hơn, Tràng đã nghĩ đến những việc xa xôi hơn, về lúc Tràng có con cái, gia đình đầm ấm, yên vui.
– Tiếng trống thúc sưu vang lên, trong đầu Tràng hiện lên lá cờ đỏ cùng đoàn người đói đi trên đê khộp.
=> Đây là những nhem nhóm đầu tiên về ý thức Cách mạng mà Kim Lân muốn đưa vào trong tác phẩm của ông.
e. Đặc sắc nghệ thuật:
– Tình huống truyện đặc sắc, bất ngờ, hợp lý.
– Miêu tả tâm lí nhân vật sinh động, sâu sắc.
– Tái hiện chân thực về nạn đói năm 1945 =>giá trị nghệ thuật và nhân đạo sâu sắc.
3. Kết bài:
– Khẳng định lại vấn đề.
21 Bài mẫu Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 1
Số phận người nông dân trong xã hội luôn là nguồn cảm hứng sáng tác cho những nhà văn. Ở người nông dân luôn có những nét bình dị chất phác lại vừa thay mặt đại diện tiêu biểu cho tính cách con người Việt Nam – chịu thương, chịu khó, cần cù và nhân hậu. Tuy vậy, họ lại là đối tượng người sử dụng chịu nhiều áp bức bất công. Cũng bởi vậy, không biết từ bao giờ người nông dân đã nhận được được sự quan tâm của những người dân nghệ sĩ. Đó là hình ảnh chị Dậu tuy rơi vào hoàn cảnh khốn khó nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp nhân cách trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, là Chí Phèo rơi vào thảm kịch tha hóa nhưng vẫn còn chút lương tri khát khao hướng thiện trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Và đó còn là một anh Tràng ngờ nghệch nhưng giàu tình yêu thương trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Tràng là người dân ngụ cư nghèo. Nghĩa là Tràng thuộc tầng lớp mặt đáy xã hội, thuộc hạng cùng đinh lúc bấy giờ. Tràng cũng không có công việc ổn định, anh làm nghèo đẩy xe bò mướn. Từ công việc ấy, ta cũng thấy được cuộc sống của Tràng cũng vất vả, không khấm khá được bao nhiêu.
Không có vị thế xã hội, không có công việc ổn định, trong cả ngoại hình của không khởi sắc nổi bật. Tràng có ngoại hình bình thường nếu không muốn nói là thô kệch. Nhà cửa luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”. Cảm nhận về nhân vật Tràng ta còn thấy sau tấm phên rách rưới nát là “niêu bát, sống áo vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất”, cuộc sống cập kênh hiện nay đang bị cái đói rình rập đe dọa.
Nhà văn Kim Lân qua tình huống truyện đặc sắc đã “ đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết ” (Nguyễn Đăng Mạnh) để nhân vật tự tỏa sáng từ chính hoàn cảnh éo le của mình. Cuộc đời Tràng là một số không tròn trĩnh, mọi thứ diễn ra mang tính tạm bợ, qua ngày qua tháng. Hoàn cảnh ấy còn bi thảm hơn trong những ngày đói. Một không khí u ám tiêu điều. Xung quanh nơi xóm ngụ cư, Tràng trong nhà cửa thì “úp úp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”, “tối sầm lại vì đói khát” . Trong “không khí vẩn lên vì mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi ngây của xác người” , thì những thanh âm đáng sợ thê lương vang lên.
Đó là tiếng quạ “ cứ gào lên từng hồi thê thiết ”, tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Người đói khắp nơi “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, “nằm ngổn ngang khắp liều chợ”. Người “chết như ngả rạ”, không sáng nào “không lại gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, “bóng những người dân đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma ấy”.
Cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy cuộc sống của nhân vật này vốn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn gấp bội bởi nạn đói. Tràng cũng như những người dân dân khác trong xóm ngụ cư vẫn tiếp tục lê lết từng ngày từng ngày trong nạn đói ấy. Họ đang mong đợi cái chết hay mong đợi một tươi lai tương lai, ta cũng không biết nữa. Hoàn cảnh ấy đã tô đậm hiện thực cuộc sống người dân nghèo trong nạn đói 1945, thể hiện sự cảm thông thâm thúy của nhà văn dành riêng cho những kiếp người nghèo khổ lầm than. Thế nhưng, hoàn cảnh ấy còn góp phần thể hiện vẻ đẹp của Tràng – giàu tình yêu thương và lòng vị tha.
Nhà văn Thạch Lam từng nhận định rằng “ Cái đẹp nằm trong cuộc sống. Cái đẹp len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, cái đẹp ở những chỗ không có bất kì ai ngờ tới, và cái đẹp tiềm tàng che lấp đi sự vật ”. Phân tích và cảm nhận về nhân vật Tràng, người đọc cũng nhận ra bên lề sự ngờ nghệch, bên lề cuộc sống túng quẫn khi bị cái đói rình rập đến tận cùng thì Tràng cũng như những người dân nông dân khác vẫn luôn ánh lên vẻ đẹp của sự việc chất phác, giàu niềm tin và hi vọng.
Giữa lúc đói, anh vẫn sẵn sàng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc khi chỉ biết người đàn bà ấy qua vài câu nói đùa tầm phơ tầm phào mà thôi. Tràng đã quyết định nuôi nấng cô gái cưới cô về làm vợ. Tràng còn đưa cô ra chợ mua vài thứ lặt vặt rồi dắt cô về nhà.
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy Tràng đã đồng ý nuôi người phụ nữ, dù lúc đầu anh nghĩ “đến cái thân tôi cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, dù vẫn có những lo sợ cho cuộc sống quá cập kênh, khó khăn nhưng cuối cùng anh chỉ “tặc lưỡi một chiếc: Chậc, kệ!” – cái chậc lưỡi muốn đánh cuộc một lần với cái đói để giành được một cuộc sống bình thường như bao người, cái chậc lưỡi sẵn sàng nuôi nấng người khác trong cơn hoạn nạn.
Việc Tràng lấy vợ vốn đã là một điều kỳ lạ. Kỳ lạ hơn, Tràng lại quyết định lấy vợ trong hoàn cảnh gia đình đang khốn khó vì nghèo vì đói. Bản thân anh cũng phải làm lụng chạy vạy từng bữa tiệc, nay lại còn “đèo bòng” thêm người vợ nhặt. Họ sẽ sống thế nào và liệu có thể vượt qua được nạn đói đang rình rập đe dọa tính mạng của tất cả xóm ngụ cư hay là không?
Tuy ý thức được điều đó, nhưng Tràng vẫn bỏ qua mọi suy nghĩ về hiện tại nghèo khó về tương lai mịt mờ mà đi đến một quyết định không nhiều người làm được – nuôi nấng người phụ nữ xa lạ. Nếu không phải là một người dân có tấm lòng nhân hậu, sao Tràng có thể hào phóng đãi người đàn bà mới quen ấy một bữa tiệc, sao Tràng có thể đồng ý người đàn bà kia về chung sống với mình.
Tràng sống trong hoàn cảnh nghèo khó, túng thiếu, bị xem thương nên hơn ai hết Tràng hiểu được cảm giác của người vợ nhặt lúc bấy giờ – đồng ý bỏ qua danh dự chỉ bản thân để được một bữa tiệc no. Thấu hiểu và thông cảm cho tất cả những người phụ nữ là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành động có vẻ lạ lùng này của Tràng. Nếu người ta đến với nhau bằng tình yêu nam nữ, thì trước hết Tràng và người phụ nữ xa lạ này lại đến với nhau bằng tình thương, tình người trong cơn hoạn nạn.
Nói theo một cách khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy nhân vật này như một chiếc phao cứu sinh cho tất cả những người vợ nhặt. Tràng đã làm một điều tốt mà ít người dân có thể làm được trong lúc mạng sống luôn bị rình rập đe dọa bởi nạn đói này nhưng Tràng không vênh váo vì điều đó hay cũng không cần báo đáp. Đó mới đây là vẻ đẹp của người nông dân nghèo. Tuy họ không có gì cả nhưng vẫn sẵn sàng cứu giúp người khác. Họ không cần ai tuyên dương vì việc làm tốt của mình. Tràng là hiện thân chân thật nhất của vẻ đẹp ấy.
Cảm nhận về nhân vật Tràng ta cũng thấy, câu nói nửa đùa nửa thật của anh với những người vợ nhặt đã và đang ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình và anh đã đánh liều đưa một người đàn bà xa lạ về làm vợ. Tràng tuy ngờ nghệch nhưng đã có ý thức chăm sóc gia đình ngay từ khi chưa đưa vợ về nhà. Trước lúc đưa thị về, Tràng “đưa thị vào chợ tỉnh ném tiền ra mua cho thị vài cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”.
Từ trong sâu thẳm tiềm thức, con người ấy vẫn khát khao được niềm sung sướng bất chấp sự rình rập đe dọa của cái đói cái chết đang chực chờ cướp đi tính mạng con người. Niềm khát khao ấy cũng đây là một nguồn động lực to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Trên đường về nhà, xen lẫn với tâm trạng vui sướng là những hành động vụng về, lóng ngóng “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường”, “tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng ta cũng nhận thấy, từ khi ý thức thực được mình có vợ, Tràng như một con người khác. Nụ cười có vợ đã khiến Tràng quên đi nỗi lo lắng, không yên tâm với cuộc sống hiện tại. Nếu thường ngày, cái đói khiến bước tiến Tràng trở nên nặng nhọc và mệt mỏi thì hôm nay vẫn trên tuyến đường quen thuộc, vẫn lúc nạn đói đang diễn ra nhưng Tràng lại vô tư yêu đời hơn bao giờ hết… Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, Tràng không hề lúng túng bối rối mà ngược lại Tràng “thích lắm, cái mặt cứ vênh vênh như tự đắc với chính mình”. Tràng hãnh diện, niềm sung sướng với mình của hiện tại.
Tràng được tận hưởng thú vui mà trước đó chưa bao giờ anh dám nghĩ tới. Bởi lẽ, khi phân tích kĩ cũng như cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy không có cô gái nào lại đồng ý lấy một chàng trai ngờ nghệch không có nghề nghiệp ổn định lại là người dân xóm ngụ cư kia chứ. Nhưng những điều tưởng chừng không bao giờ diễn ra ấy lại xảy ra, cứ như trong một giấc mơ. Khi chờ mẹ về, anh ngượng nghịu lúng túng “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, rồi chợt hắn thấy sờ sợ”.
Thậm chí là anh chưa dám tin chắc là tôi đã có vợ, khi niềm sung sướng đến quá bất ngờ thường khiến cho con người cảm thấy không chân thật “nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến thời điểm này hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đó ư?”. Khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ “kìa nhà tôi nó chào u” nghe như có cái gì nỏ ruột nở gan, như một sự xác nhận rành rọt, một lời khẳng định chắc chắn về việc Tràng đã có vợ.
Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, khi thức dậy Tràng thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Ngôi nhà đã có những thay đổi – nhà cửa được dọn dẹp thật sạch tinh tươm “hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tanh bành ngay lối đi đã được hót sạch.”, mấy chiếc áo quần rách rưới bướm đã được đem ra phơi.
Mẹ thì rạng rỡ tươi tỉnh, vợ thì không còn vẻ chao chát, đanh đá. Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy khi đứng trước những sự thay đổi ấy, Tràng cảm thấy thấm thía vô cùng, cảm động yêu thương và muốn gắn bó với gia đình đồng thời cũng thấy mình cần có trách nhiệm với gia đình “Bỗng nhiên hắn lại thấy hắn yêu thương và gắn bó với cái nhà đất của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ ở cái nơi ấy. Cái nhà như cái tổ ấm, che mưa che nắng. Lúc bấy giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận là phải lo lắng cho vợ con sau này.”.
Tràng đã xúc động vô cùng trước sự thay đổi của tòa nhà và vào giây phút ấy Tràng thấy mình trưởng thành nên người. Nụ cười sướng ấy còn gắn với ý thức về bổn phận trách nhiệm với gia đình nhỏ bé của mình. Từ một con người chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để cho khỏi đói, làm thế nào sống qua được hết ngày hôm nay, Tràng đã bắt đầu suy nghĩ đến tương lai.
Tràng cũng nghĩ tới những sự đổi thay trong tương lai cho dù vẫn chưa tồn tại ý thức thật đầy đủ khi trong đầu hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới cùng với đoàn người phá kho thóc. Quả thật, tuy Tràng lấy vợ không có hình thức trang trọng nhưng lại rất nghiêm túc trong suy nghĩ về trách nhiệm, bổn phận của mình so với gia đình.
Vợ nhặt không chỉ phản ánh tình cảnh bi thảm của người dân lao động trong nạn đói khủng khiếp 1945, mà còn thể hiện tấm lòng của Kim Lân so với cuộc đời. Kim Lân đã đồng cảm xót thương cho số phận những người dân nghèo khổ, thấu hiểu và trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khát khao niềm sung sướng và niềm tin vào tươi lai tươi sáng của họ. Nhân vật Tràng chính vì vậy mà dễ dàng và đơn giản đi vào lòng người, để lại dấu ấn thâm thúy cho tất cả những người đọc về một chàng trai nhà nghèo, có vẻ khờ khạo nhưng giàu lòng yêu thương và đầy tốt bụng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 2
Nói đến các nhà văn trong nền văn học hiện đại thì không thể không nói đến Kim Lân. Và khi nói đến Kim Lân thì người đọc sẽ nhớ ngay đến “Vợ nhặt”. Tác phẩm được xem là một trong những tác phẩm điển hình của văn học Việt Nam. Với “Vợ nhặt” Kim Lân đã làm nổi bật nhân vật Tràng- hình tượng người nông dân hiền lành chất phác, giàu lòng yêu thương trong hoàn cảnh hết sức éo le ngang trái.
Dẫn dắt vào tác phẩm, thoạt tiên nhà văn Kim Lân đã cho ta biết được một vài nét về thân phận và địa vị của nhân vật. Tràng vốn là người dân nghèo trong xóm ngụ cư sống cùng người mẹ già trong một căn nhà xiêu quẹo, rách nát. Hằng ngày anh phải ra sức đẩy xe bò chở thóc mướn. Anh có vẻ ngoài xấu và thô kệch: đôi mắt nhỏ tí, thân hình vậm vạp. Trong xã hội cùng cực đau thương tủi nhục, với thân phận và địa vị như thế chắc chắn rồi cuộc đời của Tràng sẽ kết thúc trong sự cô đơn, tủi nhục.
Nhưng trong diễn biến của câu chuyện Tràng lại có vợ, có một gia đình hạnh phúc mà đến chính anh cũng ngỡ ngàng như đó không phải là sự thật. Nói cho đúng hơn là chính lòng thương người không đắn đo, toan tính đã trao tặng anh món quà “hạnh phúc”. Kim Lân đã xây dựng một tình huống hết sức độc đáo: Tràng đã “nhặt” được vợ qua hai lần gặp gỡ. Lần thứ nhất khi anh đẩy xe bò lên dốc. Anh hò chơi một câu cho đỡ mệt “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”.
Chủ tâm của anh không phải để chọc ghẹo cô nào, nhưng không ngờ có một chị lại cong cớn chạy ra và giúp Tràng đẩy xe lên dốc. Lần thứ hai khi đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì người đàn bà xuất hiện và mắng Tràng “điêu”. Trong tình huống đó anh không biết làm sao cho hợp tình hợp lí. Anh mời chị ăn trầu nhưng chị không ăn trầu mà đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều “muốn ăn gì thì ăn” thế là thị sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc. Ăn xong, Tràng nói một
câu mà như nói tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi” Chậc kệ!”. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.
Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt hắn có một vẻ gì hớn hở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dường như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.
Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.
Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràn ngập. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…
Có thể nói truyện ngắn “Vợ nhặt” đã xây dựng thành công nhân vật Tràng-một anh nông dân nghèo nhưng giàu lòng yêu thương. Đồng thời qua Tràng nhà văn còn cho thấy sức sống mãnh liệt, diệu kì của con người Việt Nam trong khó khăn cuộc sống. Dường như càng đau khổ, mất mát người ta lại yêu thương nhau nhiều hơn. Và cũng lí giải vì sao dân tộc ta làm làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 3
Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Kim Lân đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm neo đậu mãi trong trái tim của bạn đọc về hình tượng nhân vật anh cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Anh là một người nông dân nghèo khổ, xấu xí nhưng mang một tấm lòng ấm áp tình yêu thương và lòng nhân hậu.
Có nhà văn từng nói “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con người cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan trọng nhất của văn học. Nhân vật văn học là một khái niệm không còn quá xa lạ đối với chúng ta. Đó là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Và mỗi nhà văn sẽ tập trung tất cả những hình họa nghệ thuật, những quan niệm cuộc sống và nhân vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc. Để từ đó khi chúng ta tìm hiểu một nhân vật, chúng ta cũng thấy được khía cạnh bức tranh xã hội lúc bấy giờ và nỗi niềm của người nghệ nhân khi đứng trước nó. Chẳng hạn như trong Chí Phèo của Nam Cao, ta thấy được bản chất lương thiện của một con người lưa manh trong xã hội thực dân nửa phong kiến, qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố then chốt góp phần tạo nên thành công của một tác phẩm, như “xương sống của một con người vậy”. Viết đề tài người nông dân, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lao động nghèo khổ, chân lấm tay bùn nhưng mang một phẩm chất đẹp đẽ như nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.
Kim Lân là một cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân chất phác, thật thà và đậm tình người ở những làng quê Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên mỗi trang viết. Với cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý nhân vật thiên tài, ông đã để lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về người dân quê – những con người gắn bó rất tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm được xây dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm mà người ta vẫn nhắc đến như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời dựa trên một cốt truyện cũ với nhau để “Xóm ngụ cư”, được in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm kể về anh cu Tràng – một thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo xe bò thuê. Dù trong tình cảnh đói kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Sự việc khiến cả xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng – bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên và lo lắng. Nhưng qua đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào cách mạng, vào tình người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào
Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi” , đó là thân phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng – một nhân vật điển hình như thế với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ cư – tầng lớp người bị coi thường nhất lúc bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “túp lều tranh nằm rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói này. Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng cũng cực nhọc vô cùng. Sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến biết bao là xác chết nằm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy yếu tố của một loại người đáng bị coi khinh.Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó được ví như “sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất hiện đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời, chửi đất…” thì Kim Lân lại đưa vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi ngất ngưởng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại ngửa mặt lên cười khành khạch”. Tác giả khi xây dựng nhân vật này không tập trung miêu tả ngoại hình mà chỉ chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai cũng thấy, ngoại hình ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau chuốt của xã hội văn minh. Bên cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ nét hơn khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng trước mặt cứ gằm lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưỡng trước đây ở Tràng. Tạo hóa đã ban cho anh cái xấu mà không hề thương xót. Phải chăng cách xây dựng nhân vật có số phận như thế là dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân?! Để từ đó người nghệ sĩ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên trong của con người Tràng!
Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hào hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm ra vây lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã sẵn sàng cưu mang người đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh cũng là tầng lớp đang bị cái đói hoành hành. Tuy nhiên “Thương người như thể thương thân”, anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết, sẵn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ. Tình thương người với người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người tưởng chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu thương con người của Tràng. Đó cũng chính là dụng ý của nhà văn Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu mang người khác, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn anh đánh rơi tình người ở đâu mất rồi?. Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân chính, những nhà nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng, văn chương là vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!
Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình huống Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến anh không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người cùng cảnh ngộ “quần áo rách như tổ đỉa trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Cái đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô thiển, trơ trẽn bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Vẻ đẹp tình người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm của nạn đói. Và cũng chỉ một câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về mà thị đã theo Tràng về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất nỗi lo sợ về cái đói, cái chết, “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng có nuôi nổi hay không mà còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là cái thời đói kém như thế này. Nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”. Kệ ở đây không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà là cái kệ trong niềm tin mãnh liệt vào tương lai, cái “kệ” trong hành động của con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang cận kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã chứng kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để nuôi những đứa con khác, duy chì miếng sinh nhai, một anh Đĩ Chuột phải tự tử để nhường lại miếng cơm cho vợ và con mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang người khác. Tình thương đã cho anh quyết định dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó còn tiềm ẩn cái khao khát hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước. Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá thành công những vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân như Tràng – giàu tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang những kiếp người khổ hơn mình.
Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở thành một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia đình. Ta nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người bạn đời của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “mua cho thị cái thúng con đựng lặt vặt”, đưa vào hàng cơm “đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”. Chăm sóc từng cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con không chỉ đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ giống như những người khác, để thị có thể tự tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà bằng tay không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi” khi chi hẳn hai hào mua dầu để thắp sáng cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn cười lại vừa xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn đêm tân hôn của mình sáng lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi thân trong buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẵn sàng đánh đổi cho niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng như cho hy vọng của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!
Ai đó đã từng nói rằng “Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người thay đổi một cách kỳ lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi đầu lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phở khác thường”, “tủm tỉm cười”, “hai mắt sáng lên lấp lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi bên vợ. Bởi vốn dĩ anh chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ có được hạnh phúc giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không chỉ mang đến một luồng sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Phải chăng sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự thay đổi của con người khi người ta nâng niu và ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn! Từ câu chuyện của hai con người dưới đáy của xã hội dường như đã mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến nhẹ nhàng và bình yên. Nó như nhắn nhủ với chúng ta một điều “Trong những hoàn cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người thì chắc chắn sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường”.
Khi đem thị về nhà, Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống như một đứa trẻ. Trong lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu. Tràng vui vì hạnh phúc quá lớn, “Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia đình. Nhưng rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy vào sân. Khi thấy mẹ, “Tràng reo lên như một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho chĩnh chện rồi mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà Tràng còn là một người con hết mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu với mẹ, “Kìa nhà tôi nó chào u đấy”. Kim Lân quả thật rất tài tình trong việc xây dựng lời thoại rất ít chữ nhưng chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái người mà Tràng gọi “nhà tôi” ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà nhặt được theo không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ như tổ đỉa. Tuy nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết sức thân thương, trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín chắn về việc hệ trọng cả đời người. Đến với nhau chỉ bằng bốn bát bánh đúc nhưng Tràng đã dành trọn tình thương, tình yêu cho người đàn bà xấu số kia, mở ra những ngày tháng hạnh phúc đang chờ phía trước. Như nhà văn Kim Lân đã chia sẻ “Tôi muốn họ vào trong sự sống, sự yêu thương nhau… dù trong hoàn cảnh cùng đường, bế tắc nhất”.
Song song với niềm hạnh phúc vừa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở Tràng một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ đi ra”. Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh chóng, niềm vui sướng ngập dâng trong lòng,… bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn bó với căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành, từ vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc lứa đôi. Từ trách nhiệm với cá nhân gia đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào tương lai phía trước. Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên bờ vực thẳm, anh vẫn đi tìm sự sống “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”.Và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay vào đó là những ngày vui, ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm được tỏa sáng hơn bao giờ hết, tình thương, tình yêu giữa người với người đã thắp lên hy vọng, niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp!
Với tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng tạo và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, cái lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó phỏng theo, giản dị nhưng ánh lên một vẻ hào hoa lạ kỳ của nhà văn. Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là cách nhìn đời, nhìn người đầy xót xa, thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua thiên truyện ngắn. Tràng không may mắn khi tạo hóa ban cho ngoại hình chẳng mấy ưa nhìn, bị cuộc sống bùi dập đến đường cùng nhưng anh vẫn luôn khát khao được sống hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai trong cái tối tăm, đói kém của xã hội bấy giờ. Viết về nạn đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào chính đáng bằng khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù cuộc đời có bi thảm đến đâu thì vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.
Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn trước năm 1945. Đó là Nam Cao với hình ảnh “Chí phèo” bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng vẫn khát khao được làm người, nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh chị Dậu phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho gia đình. Điểm chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm nhưng vẫn khát khao vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị Dậu, Chí Phèo…. đều phải bước vào đường cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn Tràng, khi được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng của cách mạng, của Đảng. Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho nhân vật, đó là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm thía nhiều bài học quý giá. Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón nhận nhiều điều tốt đẹp, vậy chẳng có lý do gì mà chúng ta không yêu thương lẫn nhau? Chưa nói đến làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ như quan tâm sức khỏe bố mẹ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện…. Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt đẹp hơn, yêu thêm cuộc sống này hơn. Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta được làm thêm nhiều việc tốt! Và thấm thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn người, nhìn đời – cái nhìn đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và lạc quan, tin tưởng. Chúng ta chỉ được sống có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!
Mỗi lần đọc trang văn của Kim Lân, ta lại cảm thấy như đang đón nhận một bài học nhân đạo sâu sắc qua từng nhân vật mà ông xây dựng. Thành công trong cách xây dựng nhân vật đã đưa Vợ nhặt đứng vào hàng kiệt tác của truyện ngắn Việt Nam hiện đại, đưa tên tuổi của Kim Lân lên một tầm cao mới – trở thành một tượng đài trong làng văn học Việt Nam. Và đặc biệt Kim Lân sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc yêu văn chương, yêu thêm những giá trị bất diệt trong cuộc sống – đó là tình người!
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 4
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê , lam lũ hồn hậu , chất phác mà giàu tình yêu thương . Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương , luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị , biết hướng tới tương lai tươi đẹp.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng.
Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường . Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dường như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh .
Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy ” ngượng nghịu” rồi cứ thế ” đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.
Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràn ngập. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…
Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo , dở khóc , dở cười giữa Tràng và Thị , một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 5
Kim Lân – một nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam vào giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Ông là một người yêu quê hương đất nước, giàu lòng thương người. Kim Lân đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói năm Ất Dậu, nạn đói lịch sử của nước ta năm 1945 qua tác phẩm truyện ngắn “Vợ nhặt”. Đặc biệt là qua hình ảnh nhân vật Tràng, một người nông dân nghèo đói, bất hạnh nhưng trong anh lại có một tấm lòng giàu tình thương người, giàu khát vọng hạnh phúc. Tất cả được thể hiện qua câu chuyện đầy bất ngờ của Tràng – câu chuyện nhặt vợ giữa ngày đói.
Tràng một thanh niên chất phác, anh chính là người đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư nuôi mẹ già, công việc hằng ngày kiếm sống chính là đẩy xe bò mướn. Người ta thường nói cuộc đời vốn dĩ công bằng, nhưng có lẽ đối với người thanh niên Tràng thì lại quá bất công, số phận khổ cực bần cùng của chàng trai đi đôi với ngoại hình xấu xí, thô kệch với cái đầu trọc lóc, cái lưng to bè như lưng gấu, đôi mắt thì nhỏ tí gà gà. Tính tình Tràng thì lại dở hơi nhưng cũng vô cùng tốt bụng, và rất mực yêu trẻ con, chàng thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm. Một người vô cùng bất hạnh và tội nghiệp.
Nhưng run rủi sao, một con người thấp hèn ấy, một hoàn cảnh cơ cực như thế lại trở thành một chú rể, đây có phải là một sự may mắn, là hạnh phúc của Tràng không. Bỗng dưng có vợ – Tràng nhặt được vợ chỉ sau hai lần gặp gỡ, chỉ qua vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. Có thể nói, chuyện lấy vợ của Tràng giống như là một điều lạ nhưng thú vị, giống như đùa nhưng cũng là thật. Mới ban đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới là thị đồng ý lấy không Tràng, lúc đó, người thanh niên này cũng thấy hơi chột dạ, cũng biết chợn vì “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.
Nhưng rồi Tràng chặc lưỡi và suy nghĩ đến đâu hay đến đó. “Chậc, kệ!” – câu nói như đồng ý, như chấp nhận số phận, như bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống có vợ. Việc hai người này đến với nhau tuy ngẫu nhiên nhưng cũng là điều tất nhiên, Tràng cần một người vợ để biết đến hạnh phúc còn Thị – người đàn bà nghèo ấy cần một chỗ dựa để qua khỏi hoàn cảnh đói kém, một sự chở che. Đây chính là cuộc sống thường nhật trên đời.
Trên đường Tràng đưa thị về nhà, Tràng thật sự rất vui và hạnh phúc, Tràng quên đi hết cuộc sống cơ cực của mình với cảnh sống nghèo đói, tăm tối, đang đe dọa từng ngày, ở Tràng lúc này có một cái gì đó mới mẻ và lạ lẫm mà chưa bao giờ cảm thấy trước đây. Kim Lân đã hơn hai mươi lần nhắc đến và miêu tả niềm vui nụ cười thường trực trên môi của Tràng khi có vợ, ông sử dụng những từ ngữ vừa gợi tả vừa gợi cảm như: mặt phớn phở, mắt sáng lấp lánh, miệng cười tủm tỉm… Và sau một đêm tân hôn, nên vợ nên chồng, Tràng cảm thấy trong người đổi khác, êm ái, lửng lơ như bừng tỉnh từ giấc mơ, cảm thấy thương yêu và gắn bó với ngôi nhà của mình… Và cái thay đổi lớn nhất đó chính là Tràng cảm thấy mình cần phải làm gì đó, phải nên người để lo cho vợ con sau này, cảm thấy được trách nhiệm và bổn phận lớn lao của mình.
Đọc tác phẩm, chúng ta cảm thấy được một tình cảm chân thành và cảm động ở Tràng, một người vui vẻ như vừa bước ra từ giấc mơ. “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Tràng đã khác so với ở đầu tác phẩm. Cưới Thị giống như một bước ngoặt quan trọng thay đổi cả cuộc đời lẫn tính cách Tràng, từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang vui vẻ yêu đời, từ một con người khờ khạo sang ý thức được trách nhiệm. Đây chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc, một sự phục sinh tâm hồn.
Ở cuối tác phẩm, ta thấy trong suy nghĩ của Tràng xuất hiện cảnh những người nghèo đói khổ đang kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp, ở đằng trước là một lá cờ đỏ sao vàng. Đoàn người đang đi phá kho thóc Nhật. Đây là một hiện thực và cũng là ước mơ tin về tương lai, tin về Đảng và cách mạng của Tràng cũng như của những người như Tràng. Kim Lân rất xuất sắc và thành công khi có thể lột tả được sự thay đổi cũng như miêu tả được tâm lí nhân vật bằng ngòi bút nhân đạo vô cùng sâu sắc của tác giả.
Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo đó chính là tình người và hi vọng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 6
Vợ Nhặt là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân, tác phẩm xuất sắc cho văn học Việt Nam được sáng tác năm 1945 giữa nạn đói khủng khiếp, thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc trong từng câu văn, hình ảnh, chi tiết của tác phẩm. Qua đó, người đọc ấn tượng với nhân vật Tràng, từ ngoại hình tính cách, gia cảnh, đến việc quan trọng nhất đời người là lấy vợ.
Truyện xoay quanh tình huống anh Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khát. Ở nhân vật này, nhà văn đã miêu tả với nhiều chi tiết nói về ngoại hình, tính cách, gia cảnh nhưng gần như tạo hóa không cho anh ta một điểm đáng tự hào nào cả: người thô kệch, lưng rộng như lưng gấu, đầu trọc, nhà nghèo, dân ngụ cư, nghèo kiết xã, thô. Điểm ấn tượng nhất về bề ngoài là sự ngờ nghệch có cái tật vừa đi, vừa nói, vừa cười tủm tỉm một mình. Hơn nữa, Tràng sống với mẹ, nghèo đến nỗi cái nhà hắn ở “rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” mẹ góa con côi.
Tuy nhiên ở Tràng cũng có điểm đáng quý: vui vẻ, dễ gần, tốt bụng đối với lũ trẻ con trong xóm vẫn xúm lại trêu đùa. Anh ta không bao giờ dám nghĩ đến chuyện mình có thể lấy nổi vợ; tức là anh ta đã ế vợ và không có khả năng lấy được vợ. Hơn nữa đang trong thời điểm tất cả mọi người đều rơi vào nạn đói thê thảm. Thế mà anh ta lại nhặt được vợ một cách rất dễ dàng ngay giữa đường, giữa chợ chỉ qua vài câu nói tầm phơ tầm phào.
Đã có người theo không về làm vợ, điều đó thật bất ngờ nhưng là niềm vui, hạnh phúc tột đỉnh trong cuộc đời của Tràng. Hoàn cảnh nạn đói ghê gớm, bản thân Tràng lại rất nghèo, không biết mình có nuôi nổi mình không cho nên sau lời nói đùa cho vui, Tràng cảm thấy “chợn”, sợ đèo bòng. Tuy nhiên anh ta lấy vợ bằng một cái tặc lưỡi: “chậc,kệ!”. Cái tặc lưỡi vừa thể hiện sự buông xuôi cho số phận, vừa thể hiện cái liều lĩnh của một kẻ không biết sợ là gì. Đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát của một kẻ lần đầu tiên có niềm vui hạnh phúc.
Tràng dẫn vợ về trong niềm vui khác lạ: ” Mặt hắn có vẻ gì hớn hở khác thường, hắn tủm tỉm cười nụ một mình, hai mắt thì sáng lên lấp lánh “. Lần đầu tiên có được niềm vui trong cuộc đời cho nên Tràng quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói đang đe dọa trước mắt cũng không sợ những ngày tháng đói khổ, ghê sợ ở phía trước…Có cái gì đó mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy.
Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc của người đàn ông được biết thế nào là hạnh phúc: “Tràng thích lắm, từ cha mẹ sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế. “Tràng nói đùa…ai ngờ Thị về thật”. Đúng là dẫu có cực khổ, cùng quẫn đến đâu, dẫu đói khát đến mấy người ta cũng luôn luôn khao khát hạnh phúc và chỉ nghĩ đến nó thôi đã thấy nó lấn lướt tất cả nỗi sợ hãi, kể cả lưỡi hái tử thần. Chính vì thế dù biết rằng” Thóc gạo này đến cái thân mình còn không biết mình có nuôi nổi không nhưng hắn vẫn chậc kệ đưa Thị về làm vợ.
Khi Thị về nhà hắn, hắn mới thực sự thấy lo, tâm trạng bỗng thiếu tự tin, bối rối như một đứa trẻ. Tràng nóng lòng, sốt ruột, mong mẹ về, khi mẹ về hắn mừng rỡ như đứa trẻ lật đật chạy ra đón. Lúc này tâm trạng của Tràng phức tạp, đan xen rất nhiều cảm xúc: vừa mừng lại vừa lo. Sau phút bối rối khi biết mẹ đã đồng ý. Như vậy, Tràng đã thay đổi hẳn khi Thị theo về làm vợ.
Sáng hôm sau Tràng tỉnh dậy muộn nhưng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng: “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Lần đầu tiên trong đời Tràng nhận thấy niềm hạnh phúc thật giản dị đang hiện hữu ngay trong ngôi nhà của mình, vẫn là căn nhà ấy nhưng lâu nay nhếch nhác, bừa bộn nay được mẹ và vợ sắp đặt ngăn nắp, gọn gàng. Hắn nhận thấy ngôi nhà mới thực sự là tổ ấm của mình, lâu nay hắn vẫn ở trong ngôi nhà ấy nhưng hôm nay: “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.” Đó chính là một gia đình, một nguồn vui sống, phấn chấn khi hắn cảm nhận được hạnh phúc một gia đình. Bấy giờ hắn mới nhận thấy hắn “nên người”, hắn nhận thấy hắn có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này.
Như vậy, niềm vui, hạnh phúc làm cho con người ta thay đổi, sự cưu mang, đùm bọc, yêu thương nhau làm cho con người cảm nhận cuộc đời trở nên có ý nghĩa, trở nên tốt đẹp hơn và dẫu cùng đường thì con người ta vẫn luôn yêu đời, nhân hậu, có trách nhiệm hơn, sống tốt hơn trong niềm hạnh phúc.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 7
Kim Lân thuộc tốp những nhà văn viết ít, trong khi một số tác giả như Tô Hoài có đến hàng trăm tác phẩm, thì số tác phẩm của Kim Lân có thể đếm được trên đầu ngón tay. Nhưng những gì mà ông để lại nhớ nhiều , nhớ mãi. Chỉ một “vợ nhặt”, một “làng” cũng đủ để đưa ông lên hàng những tác giả nổi tiếng.
“Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật, mà nhân vật nào cũng có ấn tượng. Có những nhân vật không tên nhưng lại có khả năng lưu danh muôn thuở. Nói vậy là để thấy tài sáng tạo của Kim Lân và sức sống tiềm tàng của tác phẩm.
Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết.
Mẹ Tràng đã già lại yếu “đôi mắt nhòe”, “đôi tai nghễnh đãng, dáng đi lỏng thỏng, cử chỉ lập cập, lóng ngóng”. Nói cách khác, bà trụ lại với đời như thể đang chờ đợi tử thần đến rước đi. Trong cái đói khủng khiếp năm Ất Dậu -1945, mẹ con Tràng lê lết cầm hơi, tồn tại từng ngày nhờ vào công việc kéo xe của Tràng. Tính tình của Tràng ngay cả trẻ con cũng bỡn cợt, trêu chọc chứng tỏ anh có lớn mà trí khôn không lớn. Trong mắt mọi người Tràng luôn luôn có thể bị khinh thường, giễu cợt.
Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ.
Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn tếu táo, tự trào, cần biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật. Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến với nghĩa cử hào hiệp trong cơn đói khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng một điểm tựa suốt đời. Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cỗ cưới chăng? Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lúng túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc.
Thú vị thay, con đường từ chợ về nhà vốn dĩ là con đường tử thần ngự trị, con đường của sự chết chóc, nay đã trở thành một con đường xôn xao, rạo rực của ái tình. Mà Tràng là một nửa làm nên sự xôn xao, rạo rực ấy.
Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng. Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.
Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 8
Nhắc đến nhà văn Kim Lân thì nhiều người sẽ nghĩ ngay tới “Vợ nhặt” – một tác phẩm nổi tiếng của ông. Bạn đọc biết đến “Vợ nhặt” như là một minh chứng chân thực nhất cho cuộc đời và số phận của con người trong nạn đói 1945 lịch sử. Trong tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã khắc họa nhân vật Tràng – một người đàn ông nghèo khổ tiêu biểu cho những người nghèo khổ và qua đó để làm nổi bật tinh thần nhân đạo nhân văn về tình yêu thương con người.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, và cụ thể là ở một xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Tình huống truyện ở đây là việc anh cu Tràng có vợ, nhưng không phải được cưới hỏi đàng hoàng mà là vô tình “nhặt” từ ngoài đường về. Qua sự kiện mang tính độc đáo và bất ngờ này, nhà văn đã đi sâu vào tâm lí từng nhân vật và qua cho làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp bên trong những con người thấp cổ bé họng nghèo đói, bần cùng.
Để làm nổi bật tư tưởng ấy, Kim Lân đã lựa chọn mà khắc họa nhân vật Tràng xuyên suốt trong tác phẩm. Tràng là một anh con trai nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò thuê, sống với mẹ già ở một cái “nhà” đứng rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại cuối xóm ngụ cư. Chính vì là dân ngụ cư cho nên Tràng bị coi khinh, chẳng ai buồn nói chuyện, trừ lũ trẻ hay trêu chọc mỗi khi anh đi làm về.
Chỉ với nét miêu tả của nhà văn, người đọc đã thấy được hình ảnh một người đàn ông xấu xí, thô kệch. “Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của bắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn…”. Cái điệu “vừa đi vừa tủm tỉm cười” khiến cho hình tượng nhân vật trở nên cô độc, lẻ loi giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều, xơ xác.
Thế nhưng, Tràng dường như chẳng hề thấy buồn, thấy cô độc. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm “ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên”. “Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Chính vì thế cho nên anh chơi đùa với chúng, làm “cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút”.
Không những thế, Tràng cũng chẳng biết tính toán, suy nghĩ cũng giản đơn. Ngay cả chuyện trọng đại của đời người như lấy vợ cũng được anh quyết định rất nhanh chóng. Có lẽ từ trước nay chưa có ai lấy vợ nhanh như Tràng. Chỉ cần một câu hò và bốn bát bánh đúc, Tràng đã có một cô ả theo về làm vợ chồng. Một người xấu xí, nghèo đói và thô kệch như Tràng mà cũng có được vợ, nhất lại là trong lúc “chết đói” thì quả đúng là đám cưới có một không hai.
Thực ra ban đầu, Tràng chẳng chủ tâm đưa tình đẩy ý với cô nào trong đám con gái bên đường hôm ấy. Chẳng ngờ, chỉ vì một câu hò vui cho đỡ nhọc mà thị lon ton đến đẩy xe bò cho anh và đòi trả công. Thấy người đàn bà đói, Tràng cũng hào phóng mời thị ăn rồi ngỏ ý mời về cùng. Chỉ sau bốn bát bánh đúc và lời mời của Tràng, thị đã trở thành vợ của anh ta. Tràng có vợ, lấy được vợ trước hết là vì lòng thương nhân hậu đối với một con người cùng cảnh ngộ với mình, thậm chí đói khát hơn mình.
Lấy nhau không phải vì tình yêu, mà là vì bốn bát bánh đúc và hai câu nói bông đùa nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ mình. “Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê”. Anh còn mua hai hào dầu thắp để “vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí”. Tràng cũng cảm thấy hạnh phúc, có điều gì đó kì lạ và mới mẻ chưa bao giờ anh thấy được: “Tràng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.
Kể từ lúc anh biết mình đã có vợ, anh như thể trở thành một con người khác. Tràng đon đả, ngoan ngoãn với mẹ, với vợ anh trìu mến yêu thương. Sáng hôm sau trở dậy, Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra”. Việc có vợ với Tràng cho đến sáng hôm sau vẫn như là một giấc mơ. Nhưng nhìn thấy cửa nhà sạch sẽ tinh tươm, nhìn thấy mẹ và vợ mình, Tràng thấy mình cần có trách nhiệm hơn. “Hắn đã có một gia đình”. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Hắn muốn sửa lại căn nhà để sau này “hắn cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”.
Có thể thấy rằng, từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết sống vô tư, chơi đùa cùng lũ trẻ, Tràng đã trở thành người biết quan tâm đến người khác, đến những chuyện khác ngoài xã hội. Khi tiếng trống thúc thuế vang lên dồn dập, “Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi”. Hình ảnh về đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới xuất hiện trong tâm trí anh như thể một tia sáng về những điều tốt đẹp đang chờ sẽ đến.
Trong nạn đói 1945, Tràng không phải là một cá biệt mà có rất nhiều những “anh cu Tràng” khốn khổ như vậy. Cuộc đời Tràng là một minh chứng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Nghèo đói nên bị người ta coi thường, khinh rẻ, nghèo đến nỗi không lấy được vợ mà khi lấy vợ thì hẳn là “nhặt vợ” chứ không phải là “cưới vợ”. Lấy vợ giữa cái đói quay đói quắt, cả anh cu Tràng cho đến vợ và bà cụ Tứ đều cảm thấy hạnh phúc đan xen lẫn chua xót. Bởi “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”.
Cũng như Tràng hay bất cứ người nghèo nào khác, nếu không có một sự thay đổi mang tính cách mạng thì có lẽ sẽ phải sống mãi trong sự tăm tối, đói rách. Ở nhân vật Tràng tuy chưa có sự thay đổi lớn lao đó, nhưng trong ý nghĩ của anh đã xuất hiện những tia sáng cho hướng đi mới của cuộc đời. Hình ảnh đoàn người vùng lên phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ sao vàng chính là con đường Tràng sẽ đi, và trong thực tế lịch sử người nông dân Việt Nam đã đi theo con đường cách mạng đó.
Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Kim Lân đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc về một anh cu Tràng nghèo đói nhưng thật thà nhân hậu với đầy đủ những hành động, diễn biến tâm trạng phức tạp, đan xen. Anh chợn nghĩ, đôi chút lo lắng lẫn hãnh diện khi nhặt được vợ. Có lúc lại đon đả, lúng túng đi theo người đàn bà. Có khi lại hạnh phúc mơ màng quên hết những cảnh tăm tối trước kia. Anh vô tư nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngịu, chín chắn, biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.
Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong nạn đói 1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng với con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên trong họ. Đó là tình yêu thương con người, là ý thức trách trách nhiệm của mình đối với gia đình và và xã hội. Trên cái nền đen tối ấy, con người đã vượt lên và tỏa sáng những vẻ đẹp rực rỡ nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến bạn đọc.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 9
Kim Lân là nhà văn lão làng trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Ngòi bút của ông hướng đến những mảnh đời bất hạnh, làng quê Việt Nam, những người nông dân chân chất mộc mạc, nghèo đói nhưng tràn đầy tình yêu. Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một trong những kiệt tác tái hiện lại chân thực nhất hình ảnh người nông dân sống trong nạn đói năm 1945. Đặc biệt tác giả đã khắc họa thành công diễn biến tâm lý của nhân vật chính: anh cu Tràng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói thê thảm, người chết như ngả rạ tại một xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Nhan đề của tác phẩm đã làm toát lên tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, nhan đề cũng chính là tình huống truyện độc đáo, đặc sắc làm đòn bẩy đề tác giả có thể vẽ lên được tâm lý của từng nhân vật. Thành công của Kim Lân chính là việc khắc họa được những phẩm chất cao quý bên trong những con người nông dân nghèo đói, bần cùng.
Tràng là nhân vật chính xuyên suốt tác phẩm, Kim Lân đã mượn hình ảnh anh cu Tràng để lột tả lên được diễn biến tâm lý của nhân vật từ chuyển biến này đến chuyển biến khác. Tràng là người đàn ông nghèo khổ, rách rưới, sống với mẹ già. Tràng xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm bằng vài nét chấm phá của tác giả “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của bắn lúc nào cũng nhấp nhô những ý nghĩ thú vị…”. Chỉ với những chi tiết đó, Kim Lân đã khéo léo vẽ lên một hình tượng anh nông dân nghèo, cô quạnh giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều.
Anh cu Tràng dường như khiến người đọc liên tưởng đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao khi xuất hiện ở đầu tác phẩm với điệu bộ “Hắn vừa đi vừa chửi, hắn chửi trời, chửi đất, chửi cái đứa nào đẻ ra hắn…”. Người nông dân trong xã hội phong kiến đều có chung một số phận, chung một điều kiện sống, nhưng họ khác nhau ở cách nghĩ, cách lựa chọn làm người. Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội khắc nghiệt, dở khóc dở cười như vậy Kim Lân đã xây dựng nên tình huống truyện có thể xem là mở nút của mọi vấn đề. Anh cu Tràng “nhặt” được vợ, là nhặt được chứ không phải cưới được mới lạ chứ. Một kẻ xấu xí, nghèo đói, bần cùng, thô kệch như Tràng mà cũng có được vợ trong tình cảnh thê thảm của xã hội như thế này, lại còn được vợ theo. Quả đúng là đám cưới có một không hai trong xã hội hiện nay. Nạn đói đã đưa những con người chung cảnh ngộ, nghèo đói đến với nhau.
Có thể nói rằng tình huống truyện này cực kỳ đắt giá, làm đòn bẩy để Kim Lân có thể qua đó bộc lộ, lột tả được hết tính cách và nhân phẩm của người đàn ông nghèo vừa nhặt được vợ này. Đặc biệt hơn nữa diễn biến tâm lí nhân vật Tràng thay đổi từ khi “nhặt” được vợ, lúc đó hắn không nghĩ gì hơn ngoài việc nghĩ đến người đàn bà đi bên cạnh “Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chè, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mắt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Những rung động và cảm xúc rất đời thực của một người đàn ông. Hắn trở nên hiền lành và đáng mến, không phải tình yêu có thể con người ta vui vẻ, có khi chỉ là chút tình nghĩa cỏn con cũng khiến cho bản thân thay đổi theo hướng tích cực.
Diễn biến của anh cu Tràng cứ thể chuyển biến đột ngột, đến khi về đến ngôi nhà, khi thấy một người đàn bà ngồi ngay giữa nhà, hắn mới “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Chính hắn cũng không tin nổi là mình đã có vợ, mọi thứ đến nhanh và bất ngờ quá khiến cho cả hắn và thị đều không định hình nổi có phải là sự thật. Một sự “ngờ ngợ” rất đáng yêu và đáng trân trọng. Đặc biệt trong đoạn thoại Tràng trò chuyện với mẹ, người ta nhận ra kẻ nông dân nghèo đói này lại có một trái tim và tấm lòng sáng, vẹn tròn, dung dị như vậy. Anh vừa xót thương cho thân phận người đàn bà xa lạ nghèo khổ ấy, nhưng duyên số đưa đẩy hai người đến với nhau nên hắn đón nhận như một điều trời ban.
Thế là hắn có vợ rồi, đến buổi sáng hôm sau hắn vẫn cảm thấy mình như đang ở trong mơ “Trong người êm ái lơ lửng như vừa ở trong giấc mơ đi ra. Hắn vẫn chưa tin việc mình có vợ. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ…”. Một cuộc sống mới đã đến với hắn trong niềm vui lạ và phấn khởi. Hắn chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả.
Cái cách vợ chồng Tràng cùng ăn bữa cơm đầu tiên sau đêm tân hôn thực sự khiến người đọc cảm động. Mặc dù “nồi cháo cám” không ngon, đắng chát và khó ăn nhưng hắn vẫn ăn rất ngon lành. Vì hắn biết, hắn hiểu gia cảnh, hiểu xã hội, hiểu thời thế đang trong cảnh bần hàn. TRàng là một người giàu tình cảm, với mẹ, với vợ. Cái đói nghèo khắc nghiệt dường như không thể ngăn cản được con người chúng ta yêu nhau nhiều hơn là vì thế.
Bằng bút pháp tả thực cùng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, tái hiện diễn biến tâm lý nhân vật một cách cụ thể sắc nét nhất. Kim Lân đã vẽ lên hình ảnh một người nông dân nghèo đói, bần hàn nhưng có cái tâm sáng, giàu tình yêu thương.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 10
Nhà văn Nga I.Bônđarep từng có ý tưởng rằng “Nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột”. Ý kiến này quả đúng khi bàn về truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với tác phẩm Vợ Nhặt nhà văn đã làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sinh động về hiện thực thê thảm ấy và lạ thay, giữa khoảng trống lay lắt,tối tăm của cuộc sống đói nghèo nhà văn đã cho ta thấy được tấm lòng của những con người đói khổ dù đang bị cái đói, cái chết rình rập nhưng họ vẫn cưu mang, đùm bọc, yêu thương và san sẻ, cùng hướng về sự sống, về hạnh phúc và tương lai. Nó được thể hiện như thế nào qua hình tượng nhân vật Tràng?
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết không lâu sau nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhà văn đã tái hiện lại thời khắc lịch sử ghê rợn thê lương, nó hòa nhập giữa cõi âm và cõi trần , giữa sự sống và cái chết , giữa người và ma. Tất cả hình ảnh, âm thanh, con người hiện lên đều rất chân thực, không một chút cường điệu. Qua truyện ngắn, người đọc mang đầy đủ những xúc cảm vừa độc đáo, éo le lại đầy cảm động và tin yêu. Đi sâu vào nhân vật Tràng ta sẽ thấy tất cả hiện thực và nhân đạo mà tác giả gửi gắm.
Nhắc đến Tràng là nhắc đến nhân vật được hóa công đẽo gọt quá sơ sài. Tràng- nhân vật chính của truyện được Kim Lân cho xuất hiện trên nền của cái đói với bóng người “xanh xám như những bóng ma”, người sống “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Tràng có cái tên đặc biệt, một thứ đồ của thợ mộc- cái tràng. Anh được ngòi bút Kim Lân vẽ sơ sài với “hai con mắt gà gà, nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, mặt thì thô kệch, thân hình “vập vạp”. Không những vậy đến nơi ở của anh thì cành dong dấp cổng, tấm phên vách che nhà, mảnh vườn lổn nhổn là cỏ dại. Hơn hết, Tràng lại là dân ngụ cư, một loại người mà lúc bấy giờ bị ruồng bỏ như một thứ cỏ rác của hương thôn. Rõ ràng, trong hoàn cảnh ấy Tràng chỉ có thể cùng mẹ già nương tựa nhau qua nạn đói mà khó có thể lấy một cô vợ.
Mang ngoại hình thô kệch, xấu xí nhưng Tràng có trái tim nhân hậu, phóng khoáng. Bản thân dù đói nhưng không ngần ngại bỏ tiền mời người đàn bà hai bát bánh đúc. Anh vui vẻ đưa ba câu hò trêu chọc mà cô Thị sẵn sàng theo về làm vợ. Tràng có vợ, như một anh chàng tốt số đào hoa, chỉ buông đôi lời tán tỉnh mà đã có cô nàng vội vã theo không. Giữa cảnh trời đất tối sầm vì đói khát, những ngày nghèo đói, hai thân phận bọt bèo đã đạt đến với nhau vì khát vọng hạnh phúc lứa đôi, vì mong hơi ấm gia đình. Dẫn người vợ nhặt về nhà, Tràng ngổn ngang những suy nghĩ thời buổi này còn đèo bòng, không biết nuôi nổi không rồi lại tặc lưỡi cho qua và gương mặt hiện rõ niềm vui. Trong tác phẩm, hơn một lần nhà văn nói về hạnh phúc, nụ cười của Tràng từ e lệ cười tủm tỉm đến bật cười đầy thỏa mãn, khi thì hai mắt sáng lên lấp lánh, có lúc mặt vênh lên tự đắc với mình. Dường như anh quên hết cảnh sống ê chề hàng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang rình rập.
Từ khi có vợ, Tràng nhận ra trách nhiệm của bản thân với gia đình. Anh biết chăm lo cho đêm tân hôn có chút dầu đèn cho sáng sủa để hạnh phúc không tối xùm trong hoàn cảnh bi đát. Ta thấy Tràng hết sức trân trọng hạnh phúc của mình. Đặc biệt trong buổi sáng đầu tiên khi đã nên vợ nên chồng, nhìn người vợ mới quét dọn sân nhà, Tràng cảm thấy ngập tràn niềm yêu thương và thấy bản thân như “lớn hẳn”, cũng như trách nhiệm cùng lớn dần lên.
Trong bữa cơm đầu tiên, Tràng nghe chuyện vui mẹ kể về tương lai, biết được việc nhân dân phá kho thóc Nhật và khi ấy hình ảnh lá cờ đỏ bỗng phấp phới trong óc Tràng. Đây không phải một ước mơ viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà nó cơ sở hiện thực, chính nhà văn đã nhìn thấy mà mở ra cho nhân vật của mình một hướng đi. Rõ ràng, Tràng đã có được hạnh phúc gia đình, có hơi ấm của tình thương. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.
Tràng cũng chính là chân dung của những người lao động sống trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Họ nghèo mà không hèn, nghèo bạc chứ không nghèo tình. Họ luôn sống với nhau bằng chữ “tình”, bằng chân thành, bằng yêu thương, san sẻ và đùm bọc. Con người là biểu trưng của hy vọng, lạc quan, hướng về ánh sáng, nhìn đến tương lai và tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 11
Kim Lân là một cây bút nằm trong danh sách những nhà văn viết truyện ngắn tài hoa của nền văn học đương đại Việt Nam. Ông thường viết về cuộc sống nông thôn và những người dân quê chất phác, giản dị nhưng chan chứa tình thương. “Vợ nhặt” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc họa thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo nhưng hiền lành, nhân hậu, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị và biết hướng tới tương lai tươi đẹp.
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân bộc lộ quan điểm nhân văn sâu sắc của mình. Tác giả tìm thấy vẻ đẹp kì diệu của người lao động giữa cảnh đói khổ cùng cực, trong mọi hoàn cảnh éo le họ vẫn vượt qua cái chết, tìm đến cuộc sống. Tiêu biểu trong đó chính là nhân vật Tràng của Kim Lân.
Tác giả đã mượn bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945 để khắc hoạ nổi bật lên hình tượng nhân vật Tràng. Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Không gian mà nhà văn Kim Lân xây dựng lên trong bối cảnh ấy thật khủng khiếp. Cả không gian dường như chỉ ảm đạm một màu u ám vì cái đói, cái chết, sự tang thương đang bủa vây. Tuy nhiên chính trong không gian u ám đến đáng sợ ấy, tác giả lại có thể vẽ lên một chuyện tình khá độc đáo. Đó là một mối tình táo bạo, dở khóc dở cười giữa Tràng và thị, một câu chuyện tình bắt đầu từ bốn bát bánh giữa một ngày đói. Đây được coi là tình huống truyện rất độc đáo, tưởng chừng như vô lý nhưng lại hợp lý vô cùng. Tình huống truyện này đã gợi ra một dòng tâm lí rất tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng.
Anh cu Tràng ngốc nghếch, ngờ nghệch, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng niềm hạnh phúc quá lớn, lại đến quá đột ngột khiến Tràng rất đỗi bất ngờ “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Đó là niềm hạnh phúc mà hắn và cả mẹ hắn hay tất cả người dân xóm ngụ cư đều coi là chỉ có trong cổ tích. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng đẹp đẽ và đáng quý đến mức không gì có thể sánh nổi. Người thanh niên ấy chợt thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Nhắc đến vợ, chúng ta vẫn hiểu đó là người phụ nữ sẽ gắn bó với gia đình cả đời, là người phụ nữ được cưới hỏi đàng hoàng và là người được hết mực trân trọng, yêu thương. Vì vậy, dù người vợ là do Tràng “nhặt” về, chẳng có cưới xin, dạm ngõ, nhưng Tràng cũng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thị và xây dựng hạnh phúc gia đình với thị là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói “đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi “kệ” cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ. Tâm lý và suy nghĩ của Tràng được tác giả xây dựng theo một diễn biến rất hợp lý. Tràng đưa thị về làm vợ không phải xuất phát từ suy nghĩ bốc đồng của một anh chàng ngờ nghệch. Tràng cũng đã thoáng lo về cái đói, lo lắng bản thân mình phải đèo bòng. Nhưng vì niềm khao khát hạnh phúc gia đình quá lớn nên Tràng đã gạt bỏ hết những nỗi lo ấy để tiến tới tương lai.
Sau khi lấy vợ, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn không ngờ rằng bản thân đã có một gia đình. Hắn nghĩ ra viễn cảnh tương lai sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người và cần phải có trách nhiệm với gia đình nhiều lắm. Một nguồn vui rạo rực bỗng dâng tràn trong lòng. “Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” đã thể hiện sự thay đổi lớn trong chính con người Tràng, là một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng. Từ một chàng trai ngờ nghệch, vụng về, Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”.
Dường như câu chuyện đã có thể kết thúc tại thời điểm Tràng thực sự trưởng thành, nhận ra trách nhiệm của mình, nhưng với ngòi bút tài hoa của Kim Lân thì câu chuyện đã có một cái kết sâu sắc hơn. Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu tích cực về một sự đổi thay trong xã hội, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Chi tiết này rất mới mẻ bởi những tác phẩm của nền văn học hiện thực vào thời điểm trước Cách mạng tháng Tám không thể nhìn thấy được. Đó là sự đổi thay và giác ngộ rất lớn trong tư tưởng cách mạng. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Có thể nói, Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo, là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ dù có những nét ngốc ngếch, ngờ nghệch nhưng tâm hồn vẫn đẹp như một viên ngọc sáng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 12
Văn là đời. Chuyện văn là chuyện đời. Qua một cảnh ngộ, một tình huống, một nỗi lòng của nhân vật, nhà văn muốn mang đến cho bạn đọc những vấn đề nhân sinh. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thế. Tất cả những gì nhà văn muốn gửi gắm có chăng đều được sáng ngời qua nhân vật Tràng- một gã nông dân nghèo, thô kệch nhưng nhân hậu và luôn giàu khát khao sống.
Tôi nhớ nhà thơ Buy-phông ở đâu đó từ nhận định: “Phong cách chính là người”. quả thật vậy. Kim Lân là con người mang đậm cốt cách dân tộc. Đó là lí do vì sao văn ông luôn chan chứa một mùi quê hương, giản dị, hồn hậu, dân dã như chính cuộc đời bụi bặm hàng ngày của những người dân thuần phác. Tô Hoài cũng từng nhận xét Kim Lân là “nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu, nguyên thủy của làng quê Việt Nam”. Với tư cách là một nhà văn, ông không chen lấn ai và cũng không phải đỏ mặt với bất kỳ người nào. Kim Lân giống như một loại đồ cổ quý hiếm cất giữ trong đó nhiều bụi vàng văn hoá thẳm sâu của nền văn minh sông Hồng.Và thực tế, các tác phẩm của ông đã minh chứng rõ nét nhất cho điều đó.
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám, nhưng bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), tác giả dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn. Ta đã từng bắt gặp một ông Hai trong “Làng”, một con người đậm chất “Kim Lân”, đậm chất làng quê. Nhân vật Tràng trong “Vợ nhặt” cũng là một con người như thế.
Có thể nói, Kim Lân đã rất tài tình khi “đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết” (Nguyễn Đăng Mạnh). Bối cảnh là một xóm ngụ cư những năm nạn đói năm 1945. Khi mà cái chết hiện lên thành hình những người chết “nằm còng queo, nằm ngổn ngang, đi lại dật dờ”, cái chết vẫn lên thành mùi “ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người. mùi khét lẹt khi đốt đống rấm”. Cái chết hiện hình trong cả những âm thanh người hờ khóc tỉ tê, tiếng quạ trên cành cây gạo… Thậm chí là trong cả màu “xanh xám”, gợi cái cảm giác “heo hút, ngăn ngắt”, lạnh lẽo trong cảm nhận của mỗi người. Đặc biệt hơn cả là cảm quan hiện thực sắc sảo của nhà văn khi miêu tả “những người sống đi lại dật dờ như những bóng ma”. Ta thấy ở đó rùng rợn một bức tranh mà ranh giới giữa sự sống và cái chết vô cùng mỏng manh, cõi âm nhập nhòa trong cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ.
Giữa cái nền ấy xuất hiện anh cu Tràng. Như bao nhân vật khác trong truyện ngắn Kim Lân, Tràng là một gã nông dân “khố rách áo ôm”. Hắn sống với mẹ già trong một “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đã nghèo, nhưng bên trong nhà còn bừa bãi, lộn xộn: một tấm phên rách, những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, mấy cái quần rách như tổ đỉa vắt khươm mươi niên, cái ang nước khô cong, đống rác mùn không buồn quét… Kim Lân đã thật tài tình khi chọn lọc một loạt những chi tiết đắt giá làm nổi bật tình cảnh éo le nhà Tràng, chắt chiu từng “hạt bụi vàng” làm nên “bông hồng vàng” danh giá.
Tràng không có người yêu, nói một cách hóm hỉnh, Tràng “ế vợ”. Không chỉ bởi nhà hắn nghèo, cái đáng nói ở chỗ hắn là một gã ngờ nghệch, thô kệch và hết sức xấu xí. “Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, quai hàm bạnh ra, cái đầu trọc nhẵn cứ chúi về phía trước”. Đã vậy, hắn còn hay lẩm bẩm một mình. Cuộc đời của một người đàn ông còn gì éo le hơn thế? Nam Cao cũng từng gửi nỗi niềm tâm sự ấy trong lời nói của Chí Phèo, giãi bày nỗi bất hạnh của giới trượng phu: “Tỉnh dậy, hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Đói rét, ốm đau và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau” (Chí Phèo).
Tôi nhớ Thạch Lam từng nói: Cái đẹp nằm trong cuộc sống, “cái đẹp len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, cái đẹp tiềm tàng che lấp sự vật”. Và quả thật như vậy. Bề ngoài đói rách, khó ưa không có nghĩa là tâm hồn héo úa. Đến người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn” như Thị Nở còn có lúc động lòng thương đối với một con quỷ mất hết tính người, huống chi Tràng? Và ta nhận thấy khuất lấp đằng sau cái vẻ ngờ nghệch, thô kệch của hắn là một trái tim nóng bỏng yêu thương, một tấm lòng nhân hậu vô bờ cho người, cho đời.
Sở dĩ tôi có thể chắc chắn được như thế là bởi giữa cái năm “đói mòn đói mỏi” ấy (Bằng Việt), đến cái ăn cái mặc của mình Tràng còn không lo được, nhưng hắn lại sẵn sàng dang rộng đôi bàn tay của mình để cưu mang, giúp đỡ một người phụ nữ hoàn toàn xa lạ, lại thêm cái tính “Chao chát, cong cớn, chỏng lỏn”. Nói một cách công bằng, Tràng không hề có chủ ý muốn cưới người “vợ nhặt”, tất cả chỉ là bông đùa. Một lời mời chào xã giao (“muốn ăn cơm trắng mấy giò này, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!), một lời hứa hẹn xuông, một lời rủ rê “chưa chính thức”. Thế là có vợ thật.
Ban đầu hắn xông xênh bỏ hẳn tiền túi ra mua một chập bốn bát bánh đúc cho người đàn bà khốn khổ kia. Rồi từ một câu nói tầm phơ tầm phào: “này đùa chứ có về ở với tớ một nhà cho vui”. Ấy vậy mà người “vợ nhặt” đồng ý thật. Hắn cũng đã thấy “chợn” bởi hắn lo sợ cho tương lai, đến bản thân mình còn không nuôi nổi mình huống chi cưu mang người khác? Tôi nghĩ, nếu lúc này gã đàn ông kia bỏ mặc người “vợ nhặt” thì cũng là dễ hiểu. Nhưng tình người trong gã thì chắc mất mát đi nhiều lắm, và Tràng cũng chẳng khác một thứ “bèo bọt” là bao. Nhưng rồi hắn đã “Chậc, kệ!”. Cái tặc lưỡi ấy nghe có vẻ bất cẩn, vô tâm và nguội lạnh quá. Nhưng thực chất đằng sau cái vẻ bỗ bã, tạm bợ ấy luôn nóng bỏng một tình yêu thương vô bờ. Đến nỗi, dẫu cho có biết bao đôi mắt đang nhìn chằm chằm vào đôi tình nhân mới “cưới”, họ rì rầm, bàn tán, chê bai: “chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?”. Nhưng Tràng vẫn mặc kệ, giờ đây với hắn chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”, hắn “tủm tỉm cười, hai mắt sáng lấp lánh”… Đó chính là niềm hạnh phúc vô bờ Tràng hằng ao ước bấy lâu. Có được nó, hắn sẵn sàng từ bỏ tất cả.
Nảy nở từ một trò đùa nhưng bên trong thực chất là một cái mầm nghiêm túc xây đắp hạnh phúc. Trên đường về, còn bao nhiêu tiền hắn dồn hết vào ba việc: đãi người vợ một bữa cơm, mua cho vợ cái thúng đựng mấy đồ lặt vặt và mua lấy ba hào dầu. Hai hành động đầu tiên nghe có vẻ thiết thực. Nhưng hành động thứ ba xem chừng xa xỉ, bởi lẽ không có đèn dầu, cuộc sống vẫn tốt, Hơn nữa, giữa cái thời buổi chết dần chết mòn vì đói ấy ai lại thèm để tâm đến chút ánh sáng nhỏ nhoi? Nhưng Tràng thì không thế, Dẫu cho có “nhặt” được vợ giữa đường giữa chợ như nhặt một cái rơm, cái rác nhưng không vì thế mà hắn thấy kinh thường người đàn bà đi kế bên. “Vợ mới vợ miếc thì cũng phải sớm sủa cái chứ chẳng nhẽ chưa tối mà đã rúc ngay vào?”. Ngọn đèn dầu chính là minh chứng cho trái tim nhân hậu, tấm lòng trân trọng của mình đối với một người đàn bà nghèo khổ. Ngọn đèn đã thắp lên tình yêu, hạnh phúc cho cặp vợ chồng son.
Đã là người, ai chẳng có bản năng ham sống? Nhưng tôi thấy ở Tràng, đó không chỉ là bản năng, đó còn là khát vọng. Khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Hành động nhặt vợ chính là một biểu hiện như thế. Không khao khát, làm sao hắn dám dẫn một người đàn bà không tên không tuổi về làm vợ? Nhất là ở buổi sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao bằng con sào, hưởng đêm trăng mật đầu tiên, lòng hắn thấy “êm ái, lửng lơ” lạ thường. Tràng thấy như không tin vào mắt mình. Ra là hắn đã có vợ đấy ư? Cái hạnh phúc nó tìm đến bất ngờ quá mà chưa kịp cảm nhận. Thấy mẹ và vợ đang cần cù quét tước, dọn dẹp nhà cửa, hắn thấy “thấm thía, cảm động”, như thêm “gắn bó với cái nhà hắn hơn”. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng” Ngôi nhà mà hắn đã từng gắn bó rất lâu, giờ đây đã thực sự trở thành tổ ấm nhờ bóng dáng người vợ hiền lành kia.
“Nhà”- chỉ một từ ấy thôi nhưng vô cùng ý nghĩa. “Nhà” không đồng nghĩa với “bình yên”, nhưng chúng ta ai cũng mong nó gắn với “bình yên” dẫu phải đánh đổi mọi thứ. Và Tràng cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Khao khát hạnh phúc lớn lao thúc giục hắn có ý nghĩa muốn làm một cái gì đó cho tổ ấm của mình. Quả thật, người vợ luôn có ý nghĩa đối với mỗi người chồng. Như một nhà vĩ nhân xưa từng nói: “Tôi sẵn sàng đánh đổi toàn bộ sự nghiệp nếu biết ở đâu đó trong ngôi nhà kia, có một người vợ luôn chờ tôi về ăn bữa tối”.
Khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc, và giờ đây Tràng đã có được. Ai bảo cứ Rô-mê-ô và Ju-li-ét mới là tình yêu? Dẫu cho người đàn ông kia có thô kệch, nghèo nàn, dẫu cho người đàn bà kia có rách nát “như tổ đỉa” thì đó vẫn là tình yêu. Họ vẫn lo lắng, quan tâm nhau, tôn trọng nhau đó thôi. Người có khao khát hạnh phúc xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Chính niềm khao khát cháy bỏng ấy đã xua tan đi mọi “u tối, hốc hác, bủng beo” của cuộc sống bụi bặm, xua đi cái lạnh lẽo của nạn đói tử thần năm 1945.
Xây dựng thành công nhân vật Tràng, Nhà văn đã vận dụng thành công đặc trưng thể loại truyện ngắn: Cốt truyện đơn giản nhưng nhiều chi tiết nghệ thuật sắc nét, đa nghĩa. Bút pháp miêu tả tâm lý tài tình, bắt nhạy từng chuyển biến trong tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ cá thể hóa cao độ mang đến sự giản dị, gần gũi của làng quê Việt Nam… Qua “vỏ mỏng” nhưng Kim Lân đã dựng được một lớp “lõi dày” cho tác phẩm. Hình tượng nhân vật Tràng chính là tấm chìa khóa mở ra tư tưởng của toàn bộ câu chuyện, nhà văn như muốn nói: Dẫu cho hoàn cảnh có đè nén, có “bèo bọt hóa” con người, nhưng con người vẫn không chịu làm kiếp bèo bọt mà vẫn kiên nhẫn làm Người. Những người đói, họ không nghĩ đến cái đói mà nghĩ đến cái sống. Xuất thân trong cái cảnh chết chóc nhưng sự sống vẫn kiên định chống chọi. “Sự sống chưa bao giờ chán nản” (Xuân Diệu), sự sống vươn lên trên cái chết, sự sống chiến thắng cái chết. Đó chính là thông điệp nhân sinh sâu sắc nhất mà Kim Lân muốn mang đến cho chúng ta qua nhân vật Tràng.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên từng nói: “Thời gian có thể phủ bụi một số thứ, Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp”. Tôi cho rằng “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thế. Ra đời cách đây gần nửa thế kỉ nhưng sức sống của nó vẫn sẽ tồn tại đến muôn đời.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 13
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ban đầu có tên là Xóm ngụ cư. Truyện được Kim Lân viết sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng mãi đến khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân mới sửa lại và đưa in chính thức. Truyện ngắn Vợ nhặt vừa tố cáo xã hội đẩy con người đến nạn đói khủng khiếp, khiến mạng người trở nên rẻ rúng như rơm rác; vừa có ý nghĩa nhân bản sâu sắc.
Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân muốn nói với chúng ta một vấn đề, đó là người dân lao động trong bất kì tình huống nào cũng khao khát tình yêu thương, khao khát hạnh phúc gia đình và vẫn tin vào cuộc sống tương lai Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của câu truyện, thể hiện khá sâu sắc chủ đề của truyện ngắn này.
Truyện ngắn Vợ nhặt kể về một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư tên là Tràng. Một buổi chiều kia trong không khí thê lương, ảm đạm “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, bởi “người chết như ngả rạ” vì đói khát, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh – người vợ mà.
Tràng nhặt được trong cảnh đói kém, do mời ăn bốn bát bánh đúc, kèm theo lời nói đùa vui mà thuận theo anh về nhà, làm vợ anh. Bà cụ Tứ – mẹ Tràng – lúc đầu không ngờ con lấy vợ nên không hiểu người đàn bà ở trong nhà mình là ai, vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình làm sao lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng khiếp này. Nhưng khi biết con mình “nhặt” được vợ về thì lòng bà mẹ nchèo khổ “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”: buồn lo, tủi cực, ai oán xót thương. Bà cụ thương con nên cũng thương dâu. Bà đã nhận người đàn bà ấy làm con dâu trong nỗi đau đớn và thương cảm. Để động viên hai con, bà nói toàn về những chuyện vui.
Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ niềm vui đến nỗi lo âu và Tràng thấy mình cần phải có trách nhiệm trong cuộc sống gia đình hiện tại và tương lai, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng trẻ qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai.
Bà mẹ Tràng đãi hai con ít cháo và “nồi chè đặc biệt”. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng mọi người đều thoáng thấy có một niềm vui. Cả mẹ con đều bắt tay vào việc dọn dẹp, quét tước nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc Tràng hiện ra đám người phá kho thóc của Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phất phới.
Tràng là một con người lao động nghèo khổ, hởi bất bình thường lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Cuộc sống lao động vất vả, nghèo đói đã in hằn dấu ấn trên từng bước đi của hắn đè nặng xuống cái lưng to nặng của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng, như lưng gấu của hắn”. Trong hoàn cảnh ấy, Tràng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện mình sẽ có vợ. Nhưng rồi một hôm “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…
Thế mà lại có một người phụ nữ ra đẩy xe với hắn. Rồi mấy hôm sau gặp lại, hắn đãi người phụ nữ ấy bốn bát bánh đúc và người phụ nữ ấy đồng ý theo hắn về làm vợ hắn. Và “việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng”.
Trước tình cảnh ấy, lúc đầu Tràng đâm lo, đâm sợ nhưng rồi cái khát vọng về một mái ấm gia đình, một cuộc sống hạnh phúc bừng dậy mãnh liệt trong lòng Tràng, xua tan bao nỗi lo sợ ấy. Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
Tràng đã tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc bên người “vợ nhặt” của mình. Khuôn mặt của Tràng bây giờ tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù cái đêm đầu tiên với người “vợ nhặt” ấy đi qua trong “tiếng hờ khóc tỉ tê” và “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” như tiếng gọi của thần chết. Và sáng ra, Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng nhìn người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, nhìn vợ quét lại cái sân. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đã gợi lên trong lòng Tràng một sự thấm thía cảm động.
Tràng như chợt hiểu ra thế nào là hạnh phúc? Trong lòng Tràng lại dậy lên một lòng yêu thương, gắn bó với người vợ Tràng, với gia đình Tràng. Tràng lại nghĩ về tương lai và thấy rõ cái bổn phận và trách nhiệm của mình trong việc tạo lập cuộc sống hạnh phúc cho tương lai: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưu che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này…”.
Bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Tràng cảm thấy một nỗi xót xa tủi hờn len vào trong tâm trí, nhưng rồi “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới”. Điều đó cho ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn, đói kém, niềm khao khát về một cuộc sống hạnh phúc gia đình vẫn không hề mờ đi trong tâm hồn Tràng và vẫn bùng lên mãnh liệt.
Tóm lại, Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai. Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Tràng. Ông đã mô tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc. Ông đã đi sâu vào bên trong tâm hồn của mỗi nhân vật trong truyện nói chung và đối với nhân vật Tràng nói riêng, để phát hiện và mô tả những tình tiết cảm động và khát vọng mãnh liệt của những con người nghèo khổ về một cuộc sống hạnh phúc. Những tình tiết xoay quanh hình tượng nhân vật Tràng được nhà văn sắp xếp một cách chặt chẽ hợp lí, tập trung biểu hiện rõ chủ đề của câu chuyện.
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn khá thành công của Kim Lân. Truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 14
Sinh thời, nhà văn Kim Lân đã từng tâm sự về những tác phẩm của mình: “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”. Tâm niệm ấy đã được ông gửi gắm vào những đứa con tinh thần của mình, trong đó có “Vợ nhặt”. Tác phẩm viết trên cái nền u tối của nạn đói thảm khốc năm 1945 nhưng lại ngời sáng lên những vẻ đẹp, khát khao và những tình cảm cao cả của con người – trong đó nổi bật là nhân vật Tràng.
Nhân vật Tràng được ngòi bút Kim Lân khắc họa trong bối cảnh làng quê Việt Nam vào những ngày đói “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”. Kim Lân đã lựa chọn những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu giàu chất hiện thực về nạn đói: không gian là một xóm chợ nghèo xơ xác, tối om trong thời khắc ánh chiều chạng vạng; hình ảnh của những người sống “lũ lượt bồng bế. dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma … nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì những bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Bầu không khí được miêu tả bởi “mùi ẩm thối của rác rưởi và mui gây của xác người” – một không khí ảm đạm, chất chứa sự chết chóc đang bao trùm lên cái không gian sống nơi đây, bao trùm những người đã chết, những xác chết và bao trùm lên cả những con người còn sống. Thêm vào đó là âm thanh của bầy quạ không biết từ đâu bay về đậu kín ở cây gạo ngoài bãi chợ đang “gào lên từng hồi thê thiết” như đưa tiễn buổi hoàng hôn của đời để bước vào đêm tối của địa ngục. Với những chi tiết trên, Kim Lân đã tạo nên một phông nền xã hội của nông thôn Việt Nam trước sự đe dọa của cái đói, cái chết – một hiện thực kinh hoàng về nạn đói năm 1945. Đặt nhân vật vào bối cảnh ngày đói, Kim Lân là rõ hơn thân phận và diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng.
Là một trong ba nhân vật chính của truyện ngắn, cũng là chủ thể của hành động nhặt vợ hi hữu và cảm động, Tràng đã được Kim Lân khắc họa tương đối đậm nét trong cả ngoại hình, dáng vẻ, tâm trạng và tính cách. Anh có tên là Tràng (một dụng cụ trong nghề mộc) – một tên gọi giản dị, mộc mạc, là dân ngụ cư có địa vị thấp kém trong xã hội. Dân ngụ cư là những người từ nơi khác đến, không có ruộng đất, lại bị phân biệt đối xử, thường phải ở bìa làng hoặc nơi hẻo lánh:
“Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư”
Nhà Tràng có 4 người nhưng bố và em gái đã mất, Tràng sống cùng mẹ trong một căn nhà “vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và Tràng làm nghề kéo xe thóc thuê cho Liên đoàn – công việc bấp bênh, nặng nhọc, vất vả. Tất cả những hình ảnh đó gợi ra gia cảnh tột cùng nghèo khó của Tràng. Tràng xuất hiện ngay từ đầu truyện ngắn với dáng vẻ thô tháp, vụng về của một anh chàng xấu trai và hơi dở tính với khuôn mặt thô kệch, đôi mắt gà gà đắm vào bóng chiều. Sự ám ảnh của cái đói đã hiện rõ trong mỗi buổi chiều về khi Tràng “vừa đi vừa ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch nữa, bây giờ, hắn đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước”.
Tính cách nhân vật Tràng được thể hiện rõ nhất qua tình huống “nhặt vợ”. Từ việc chia sẻ miếng ăn với một người đàn bà đang đói khát đến việc nhặt vợ bị động, bất ngờ, Tràng đã thể hiện những nét tính cách đầu tiên của con người liều lĩnh, chất phác, nhân hâu và hào hiệp. Thoạt nhìn, việc mời một người đàn bà xa lạ giữa đường ăn bốn bát bánh đúc ngay khi bản thân mình đang đói khổ có vẻ như bốc đồng và việc đưa thị về nhà làm vợ có vẻ như liều lĩnh; nhưng cũng có thể thấy sâu xa trong sự bốc đồng là một tấm lòng nhân hậu, một tính cách hào hiệp và sâu xa trong sự liều lĩnh không chỉ là tình thương mà còn là những khát vọng âm thầm về một tổ ấm gia đình. Tràng đã hoàn toàn ý thức được hoàn cảnh của mình quá đói nghèo, biết có nuôi được thân mình không và thậm chí khi nghĩ đến sự đèo bòng, Tràng cũng thấy chợn, nhưng rồi sau cái tặc lưỡi là một quyết định bất chấp tất cả để có một cuộc sống lứa đôi, một mái ấm gia đình, một người vợ – dẫu có là vợ nhặt.
Sau quyết định bất ngờ, đột ngột của chính mình, “Tràng vẫn ngờ ngợ… sờ sợ…”, không tin nổi mình đã lấy được vợ một cách quá dễ dàng, chóng vánh đến thế, lại trong một tình cảnh đói khát éo le đến thế, không thể tin nổi mình – một anh chàng từng nói một cách thản nhiên: “Làm đếch gì có vợ”, nay bỗng nhiên lại có một người vợ thực sự, thậm chí tới sáng hôm sau tỉnh dậy, Tràng vẫn “ngỡ ngàng như đang trong một giấc mơ”. Cảm giác ngạc nhiên đến mức tội nghiệp ấy là nét tâm lí chân thực của một người đàn ông quá nghèo khổ, bất hạnh đến mức không dám tin vào hạnh phúc bất ngờ của mình.
Sau sự ngạc nhiên, lo lắng, Tràng bay bổng trong cảm giác hạnh phúc: Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng như trở thành một con người khác hẳn: “Mặt hắn có vẻ gì phớn phở khác thường”, “hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” – hạnh phúc như một thứ ánh sáng kì diệu từ bên trong tâm hồn Tràng, rạng ngời trên khuôn mặt đang nở ra vì sung sướng, trong ánh mắt lấp lánh không kiềm chế được niềm hân hoan, xúc động. Trước những tò mò, ngạc nhiên phỏng đoán của dân làng, Tràng càng hãnh diện, sung sướng “hắn lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc”.
Hạnh phúc đã làm Tràng biến đổi sâu sắc – anh con trai vô tâm, ngộc nghệch trước đây nay đã nên người, đã trở thành một người đàn ông sống có trách nhiệm, nghĩa tình. Sự biến đổi đầu tiên của Tràng được thể hiện trong thái độ đối với người vợ nhặt. Khi dẫn vợ về nhà, Tràng đã thấy trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên… Với Tràng, người đàn bà khốn khổ, đói khát, lăn xả vào hắn để kiếm miếng ăn, bám chặt lấy hắn để chạy trốn cái đói tuyệt nhiên không phải vợ theo, vợ nhặt mà là người vợ thực sự theo đúng ý nghĩa thiêng liêng nhất. Vì thế, dù nghèo khổ, Tràng cũng muốn đánh dấu cái ngày đặc biệt trọng đại trong cuộc đời mình, muốn thể hiện sự trân trọng với vợ bằng một lần được coi thường đồng tiền, một lần được xa xỉ với hai hào dầu cho sáng sủa trong ngày đón vợ về. Từ việc làm có vẻ hơi bốc đồng khi mua cho vợ cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê trước khi về nhà, đó là thái độ trân trọng cuộc sống, cũng là sự trân trọng hạnh phúc của chính mình, đó cũng là cách ứng xử chu đáo, nghiêm túc của một con người đã thực sự trưởng thành.
Vốn vô tâm, bộc tuệch, vậy mà bây giờ, Tràng cứ băn khoăn, áy náy đến xót xa vì vẻ buồn bã của vợ khi thị ngồi bần thần trong gian nhà lạ rúm ró. Có tới hai lần. Tràng tự hỏi: Sao nó buồn thế nhỉ? Sao hôm nay nó buồn thể nhỉ? Có lẽ sâu xa trong lòng mình, Tràng cũng phần nào hiểu được nguyên nhân nỗi buồn tủi, chua xót của người vợ mới đang thất vọng, bẽ bàng khi nhận thức sâu sắc tình cảnh thê thảm của cả hai người. Nỗi xót xa của Tràng vì thế không chỉ là tình thương và sự quan tâm mà đã hàm chứa cảm giác có lỗi của một người chồng ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình, vợ con mà lực bất tòng tâm. Tràng đã bồn chồn lo lắng chờ mẹ về, đã giới thiệu người vợ nhặt với mẹ một cách trân trọng, thậm chí hàm ơn: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi…, Tràng đã thở phào nhẹ nhõm trước câu nói đầu tiên của mẹ, câu nói chấp nhận người vợ mình nhặt về một cách đường đột, éo le – đó là những trạng thái tâm lí chân thực và cảm động thể hiện thái độtrân trọng cùng tình thương yêu của Tràng với người đàn bà mới sáng nay vẫn còn xa lạ, còn từ bây giờ gắn bó với hắn suốt đời.
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy”. Anh vẫn còn đọng lại cảm giác êm ái, lửng lơ như “người trong giấc mơ đi ra”, anh vẫn còn “ngỡ ngàng như không phải” với việc mình đã có vợ – bởi niềm hạnh phúc ấy thật quá lớn lao, anh chưa thể tin vào mắt mình. Thế rồi, Tràng “lững thững bước ra sân”, một vệt nắng dài của mùa hè sáng lóa, xóa đi những u tối của đói khổ. Qua luồng sáng ấy, Tràng chợt nhận ra xung quanh mình có gì đấy thật khác lạ. Khác lạ không chỉ trong suy nghĩ mà còn trong những đổi thay từ nhà cửa, sân vườn đến không khí đầm ấm, tươi mới của gia đình mình.
Trong buổi sáng hôm ấy, Tràng đã thấm thía cảm động trước cảnh tượng đầm ấm của gia đình khi nhìn thấy mẹ và vợ cùng thu dọn nhà cửa, sân vườn. Ngôi nhà sạch sẽ, quang quẻ, những đống rác mùn trong sân đã được hót gọn, dây quần áo vắt khươm mươi niên được phơi hong khô ráo, hai cái ang khô cong bây giờ nước đầy ăm ắp… đó là hình ảnh của sự sống, là cái sinh khí mới mẻ của một mái ấm gia đình mà lần đầu tiên Tràng được cảm nhận. Không khí ấy khiến Tràng thấy mình như trưởng thành, với những ý thức sâu sắc về tình cảm, bổn phận, trách nhiệm: Bỗng nhiên, hắn thấy hắn thương yêu gắn bó… lạ lùng với cái tổ ấm nơi hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái…bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Từ anh Tràng vô tư, ngờ nghệch đã trở thành người đàn ông biết gánh vác, anh “xăm xăm” chạy ra giữa sân, muốn góp sức để phụ mẹ và vợ tu sửa lại căn nhà cho tươm tất, sạch đẹp đón chào cuộc sống mới. Bước chân “xăm xăm” ấy chính là bước chân của sự trưởng thành, trách nhiệm của người đàn ông biết yêu thương gia đình.
Biến đổi lớn lao, mới mẻ nhất của Tràng được Kim Lân miêu tả trong chi tiết: khi nghe vợ kể về những đoàn người đói rách đi theo Việt Minh phá kho thóc Nhật, Tràng có cảm giác tiếc rẻ vẩn vơ – cảm giác của Tràng cho thấy từ nay, khi có một gia đình phải lo, chắc chắn Tràng sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội đến với cách mạng, đi theo cách mạng để lo miếng cơm, manh áo cho vợ con. Và ở cuối truyện, ngay khi Tràng đang cố nuốt miếng cháo cám đắng chát vào miệng thì hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới trong tâm trí Tràng vẫn đem lại niềm tin sâu sắc cho người đọc: những người như Tràng sẽ đến với cách mạng một cách tích cực, nhanh chóng, triệt để nhất bởi chỉ có cách mạng mới có thể giúp họ thay đổi cuộc đời, mới có thể đem lại hạnh phúc và cuộc sống ấm no cho gia đình, vợ con họ.
Cuộc đời Tràng tiêu biểu cho số phận của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám, nhưng Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc khắc họa cái đói nghèo khiến cuộc đời con người ta thê thảm, ông đã tạo ra tình huống nhân đạo để nâng đỡ, mở cho họ những con đường đi mới tràn ngập ánh sáng của niềm tin, hạnh phúc và cách mạng. Nhà văn đã dành cho nhân vật của mình tấm lòng nhân đạo sâu sắc, niềm yêu thương len lỏi vào từng hành động, suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật. Tất cả đã được Kim Lân thể hiện qua tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh thế và lối ngôn ngữ nhuần nhị, rất mực tự nhiên.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 15
Kim Lân nhà văn thường viết về người nông dân, truyện ngắn Vợ nhặt mang giá trị tư tưởng nhân đạo lớn dù cuộc sống nghèo khổ, cơ cực nhưng vẫn yêu thương đùm bọc nhau. Trong đó nhân vật Tràng là một trong những con người tốt bụng, nhân hậu.
Truyện Vợ nhặt được tác giả viết vào thời điểm khi mà nạn đói đang hoành hành dữ dội và cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Tràng và gia đình của mình cũng đang vật lộn để mưu sinh.
Trong truyện nhân vật Tràng được tác giả miêu tả với bề ngoài xấu xí, thô kệch, nghèo khó, rách rưới. Anh Tràng làm nghề kéo xe bò thuê. Tràng có đủ các yếu tố để trở nên ế vợ. Điều làm cả xóm bất ngờ đó chính là Tràng có vợ mà là vợ nhặt, ai cũng ngạc nhiên và xen lẫn lo lắng khi thời buổi này nuôi thêm người sẽ túng quẫn hơn.
Tràng và gặp người vợ của mình khi thấy cô ta sắp chết đói, với lòng nhân hậu Tràng cho ăn và quyết định cưu mang về làm vợ. Bắt đầu từ đây diễn biến tâm lý của nhân vật có nhiều thay đổi từ suy nghĩ ăn uống không có mà còn đèo bòng cho đến “chậc, kệ”, anh mong muốn một mái ấm gia đình nhiều hơn là lo sợ về cái đói trước mắt.Lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc của nhân vật này đã lấn áp nghịch cảnh đen tối.
Từ một kẻ xấu xí, thô kệch nay đã có vợ, Tràng có nhiều sự thay đổi đáng kể, “Tràng quên hết cảnh sống ê chè, tăm tối phía trước”, “trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”, sau khi cưới trong lòng thấy khác lạ nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, mẹ và nàng dâu cùng nhau làm lụng sự đoàn kết yêu thương nhau làm cậu ấm lòng. Giờ đây nhân vật Tràng thấu hiểu được giá trị của tình cảm gia đình trọn vẹn, Tràng càng yêu vợ và thấy có trách nhiệm với mẹ. Trong cảnh ngặt nghèo của cuộc sống những con người như Tràng vẫn hướng đến tình cảm gia đình, đùm bọc, che chở người thân vượt qua ranh giới sống chết.
Hình ảnh cảm động nhất có thể kể đến là cả nhà cùng ăn nồi cháo cám đắng ngắt, khó nuốt nhưng cả nhà vẫn vui vẻ ăn ngon lành. Tràng hiểu rõ tình cảnh hiện tại và bằng lòng với nghèo khổ để hướng đến hạnh phúc, sự nghèo đói không thể ngăn con người khát khao hạnh phúc.
Nhân vật Tràng được tác giả tập trung miêu tả trước trong và sau khi lấy vợ, diễn biến tâm lý thay đổi thể hiện nhân phẩm của nhân vật dù nghèo đói, bần hàn nhưng vẫn yêu thương,đùm bọc nhau và khát khao hạnh phúc gia đình như bao con người khác.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 16
Tác giả Kim Lân là một nhà văn tiêu biểu cho nền văn học hiện đại của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đều đi sâu vào đời sống của những người nông dân có hoàn cảnh éo le, khổ cực, bị cái nghèo, cái đói trong xã hội bủa vây. Thông qua những lời văn chân thành và mộc mạc của mình tác giả muốn tố cáo tội ác của giặc, của xã hội cũ, đề cao cuộc sống của con người.
Tác phẩm “Vợ nhặt” của tác giả được viết trong những năm 1945 khi mà nạn đói đang hoành hành tại miền Bắc nước ta làm chết 2 triệu đồng bào. Ngòi bút của ông hướng tới những người nông dân vì hoàn cảnh chiến tranh phải từ bỏ quê hương mình đi tản cư ở nơi khác. Những xóm làng mới tập hợp những người ngụ cư vì thế mà được hình thành. Từ mảnh đất mới này nhiều mảnh đời đã ghép lại với nhau trở thành những người thân, gắn bó thân thiết với nhau.
Vợ nhặt xoay quanh nhân vật Tràng một con người lao động chất phác, hiền lành, nhưng nghèo đói. Anh sống với một bà mẹ già yếu tại xóm ngụ cư toàn những cư dân mới từ khắp nơi đổ về đây. Ngày ngày Tràng làm nghề kéo xe bò chở hàng thuê cho người khác để kiếm ngày hai bữa. Cuộc sống mưu sinh vô cùng khốn khó, khiến anh không lấy nổi vợ, và chẳng cô nào muốn lấy anh bởi anh nghèo quá. Nhưng rồi một ngày tình cơ Tràng nhặt được một cô vợ xinh xắn.
Câu chuyện tưởng đùa mà hóa thật. Chỉ một câu nói bông đùa của Tràng với cô gái hoàn toàn xa lạ rằng “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì lại đây đẩy xe bò với anh” chỉ một câu nói bông đùa vu vơ như vậy mà Trang đã nhặt được vợ. Cô gái không có người thân thích, sống bơ vơ một mình ngoan ngoãn ra đẩy xe cho anh rồi theo anh về nhà chung sống đời sống vợ chồng. Không có một đám cưới, không có một bữa tiệc ra mắt gia đình hai bên, không có giấy đăng ký kết hôn được chính quyền xác nhận. Họ đã thành vợ thành chồng như thế, đơn giản, mộc mạc.
Qua những lời văn đầy cảm động của mình nhà văn Kim Lân muốn thể hiện sự xót xa cảm thông của mình với những con người thiệt thòi, bất hạnh. Chuyện hệ trọng trăm năm mới có một lần nhưng trong hoàn cảnh đất nước quá nghèo khó, giặc giã triền miên nên tất cả đều phải làm qua loa đại khái.
Nhân vật Tràng chính là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm, thông qua nhân vật Tràng tác giả miêu tả những diễn biến tâm lý của nhân vật này từ những trạng thái này đến trạng thái khác. Tràng nghèo khổ, làm công việc nặng nhọc, gia cảnh thì mẹ góa con côi. Trang xuất hiện băng vài chi tiết “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến… hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra…bộ mặt thô kệch …”
Thông qua những chi tiết miêu tả về ngoại hình tính cách của Tràng khiến cho người đọc cảm nhận được Tràng là người xấu xí về ngoại hình, thô kệch về vóc dáng và là người có suy nghĩ khác người, không phải là người có học thức, ít nho nhã. Hắn nghèo, gia đình thì chẳng có của ăn của để nào của ông cha đời trước. Hoàn cảnh gia đình thì éo le, chỉ có hai mẹ con nương tựa vào nhau. Phải nói là Tràng đã nghèo lại còn xấu, không văn hay chữ tốt một người đàn ông như vậy làm sao mà có nổi vợ trong thời kỳ đất nước thái bình, không có chiến tranh, chạy loạn thì chắc chắn Tràng ế vợ cả đời.
Hình ảnh của Trang khiến cho người ta liên tưởng tới nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Nhưng Tràng có ưu điểm hơn Chí Phèo ở chỗ dù cuộc sống nhiều khó khăn, vất vả những Tràng vẫn lao động kiếm miếng ăn từ mồ hôi công sức mình bỏ ra. Không như Chí Phèo làm cái nghề ai cũng coi thường mình là “Rạch mặt ăn vạ”
Người đọc có thể cảm nhận được một điểm chung của hai người đàn ông này là họ đều rất cô quạnh, bị xã hội nghèo đói xô đẩy. Cuộc sống khốn khổ đã khiến họ trở thành những con người khô cằn chai sần về mặt cảm xúc của con người.
Tuy nhiên, trong tác phẩm của mình, trong bối cảnh éo le, bần cùng đó Kim Lân đã mở ra những tình huống truyện tươi sáng, có lối thoát và có những mầm hy vọng mới cho người nông dân Việt Nam thời đó. Không như trong tác phẩm của Nam Cao số phận của người nông dân thường vô cùng bế tắc, cùng cực và có kết thúc bi thảm làm người đọc nghẹn lời.
Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của mình giữa thời kỳ đói khổ, tranh tối tranh sáng đó những con người bần cùng, xấu xí, thô kệch như nhân vật Tràng lại lấy được vợ mà chẳng tốn một đồng xu nào, chẳng phải mất thời gian tán tỉnh, cưa cẩm,…Anh ta có được vợ như nhặt một viên sỏi ngoài đường mang về. Tình huống nhặt được vợ của nhân vật Tràng là tình huống truyện vô cùng đắt giá, nó là cho câu chuyện của Kim Lân trở nên có sức sống thu thu hút người đọc. Và tạo niềm tin sống cho những con người khốn khổ.
Chính những nghèo khó, cơ cực đã đẩy những con người cô đơn xích lại gần nhau gắn bó với nhau tạo thành những tổ ấm mới, xây dựng tương lai trong hoàn cảnh bần cùng của mình. Tác giả đã vô cùng tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lý Trang thay đổi trước và sau khi nhặt được vợ.”Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.
Khi có vợ rồi Tràng trở nên hiền lành, dễ thương hơn, hắn vui vẻ phởn phơ khác ngày thường. Khi nhìn thấy bóng dáng người đàn bà vợ của hắn ngồi giữa nhà hắn còn chưa tỉnh cơn mà, cứ tưởng nằm mơ “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Sự thật là hắn đã có vợ dễ dàng thế sao, đến chính hắn người trong cuộc mà còn chẳng thể nào tin đó là sự thật, thì người ngoài đúng là khó lòng mà tin nổi. Nhưng rồi hắn thấy lâng lâng trong lòng, cảm thấy có một nguồn sinh khí mới thổi vào trong tâm hồn héo úa bao nhiêu ngày tháng của mình. Hắn cười và cảm thấy ngập tràn cảm giác mới mẻ.
Người vợ của Trang cũng thế, cô nàng không có một cái tên nên cứ tạm gọi tên là thị. Trước khi làm vợ Tràng, nhân vật Thị cong cớn, có chút chua ngoa của một người phụ nữ trải qua nhiều khốn khổ, nhiều thăng trầm trong cuộc sống. Thị có chút bất cần, chút liều lĩnh, bởi nếu không bất cần, liều lĩnh thì Thị sẽ không vì một câu nói bông đùa mà theo không một người đàn ông về nhà làm vợ như thế. Nhưng có lẽ cuộc sống của Thị cũng rất đáng thương, sự nghèo đói, cô đơn của xã hội lúc đó khiến Thị không có sự lựa chọn. Nên thị theo Tràng về làm vợ người ta dù không có một tiệc cưới, một mâm cơm ra mắt họ hàng, không nhẫn cầu hôn, không đăng ký. Sự nghèo đói cô đơn đã tước đi của thị quá nhiều sự ưu ái mà bất kỳ một người con gái nào khi theo chồng đều muốn có và cần có.
Duyên trời đã định đã xô đẩy những con người nghèo khổ đến với nhau. Bữa cơm đầu tiên sau đêm thành vợ thành chồng của Tràng và cô gái lạ cũng khiến người đọc phải rơi nước mắt. Một bữa cơm quá giản dị nó chỉ là một nồi cháo cám, đắng chát trong mồm, nhưng hắn vẫn ăn ngon lành tâm trạng hắn phấn khởi lắm
Người phụ nữ làm vợ hắn cũng dịu dàng đoan trang hơn rất nhiều, hai mảnh đời ghép lại với nhau để cùng hướng tới một tương lai tươi sáng. Hình ảnh kết thúc chuyện là lá cờ Việt Minh cướp kho thóc Nhật chia cho dân nghèo, là con đường ánh sáng, niềm tin vào tương lai mới cho những số phận người nông dân nghèo khổ.
Bằng ngòi bút chân thực, mộc mạc, giản dị, tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn tác giả Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Qua tác phẩm người đọc thấy được tinh thần nhân văn của tác giả trước những số phận người nông dân nghèo khó.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 17
Độc giả biết nhiều hơn tới Kim Lân với những tác phẩm gắn liền với những truyện ngắn tài năng của Văn học Hiện đại Việt Nam. Những nhân vật của ông thường là những con người nghèo khổ và bần cùng. Nhưng ở họ vẫn luôn tồn tại một nét đẹp tâm hồn bất diệt. Nhà văn đã khai thác triệt để vẻ đẹp đó và viết nên những trang truyện mà khiến cho người đọc xúc động và rút ra nhiều bài học ý nghĩa. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị.
Tác phẩm Vợ Nhặt ra đời trong hoàn cảnh đất nước rơi vào nạn đói kinh hoàng thời kì 1945, khi mà nhân dân ta chịu cảnh chết đói như ngả rạ, người người nhà nhà rơi vào cảnh khó xử. Không khí của những làng quê được miêu tả là “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí bốc lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm”. Xóm nghèo ấy cũng là xóm ngụ cư,mọi người tứ phương đổ về ai cũng mong muốn tìm được cái ăn để đỡ đói qua ngày.
Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràn ngập. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng… Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…
Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt hắn có một vẻ gì hớn hở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dường như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.
Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.
Sáng hôm sau Tràng tỉnh dậy muộn nhưng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng: “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Lần đầu tiên trong đời Tràng nhận thấy niềm hạnh phúc thật giản dị đang hiện hữu ngay trong ngôi nhà của mình, vẫn là căn nhà ấy nhưng lâu nay nhếch nhác, bừa bộn nay được mẹ và vợ sắp đặt ngăn nắp, gọn gàng. Hắn nhận thấy ngôi nhà mới thực sự là tổ ấm của mình, lâu nay hắn vẫn ở trong ngôi nhà ấy nhưng hôm nay: “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.” Đó chính là một gia đình, một nguồn vui sống, phấn chấn khi hắn cảm nhận được hạnh phúc một gia đình. Bấy giờ hắn mới nhận thấy hắn “nên người”, hắn nhận thấy hắn có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này.
Ở cuối tác phẩm, ta thấy trong suy nghĩ của Tràng xuất hiện cảnh những người nghèo đói khổ đang kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp, ở đằng trước là một lá cờ đỏ sao vàng. Đoàn người đang đi phá kho thóc Nhật. Đây là một hiện thực và cũng là ước mơ tin về tương lai, tin về Đảng và cách mạng của Tràng cũng như của những người như Tràng. Kim Lân rất xuất sắc và thành công khi có thể lột tả được sự thay đổi cũng như miêu tả được tâm lý nhân vật bằng ngòi bút nhân đạo vô cùng sâu sắc của tác giả.
Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo đó chính là tình người và hi vọng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 18
Kim Lân viết văn từ trước Cách mạng, ông chuyên viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã cho ra đời tác phẩm “Vợ nhặt” để cho thấy sự cùng cực, nghèo đói cũng như niềm hạnh phúc bình dị của người nông dân đương thời. Trong đó, cách miêu tả tâm lý nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân hoàn thành được một nửa ý đồ của mình và gửi đến người đọc bao thế hệ những giá trị nhân văn sâu sắc, có sức sống trường tồn cùng thời gian và không gian.
Tràng là một trong hai nhân vật chính của truyện (ngoài Tràng còn vợ nhặt), anh chính là người “nhặt” được vợ. Qua nhân vật này, ta hiểu hơn về người nông dân nơi làng quê ngày xưa về những phẩm chất tốt đẹp và suy nghĩ giản đơn, chân chất vốn có.
Kim Lân miêu tả khiến Tràng như một gã đàn ông được đẽo gọt sơ sài: cặp mắt ti hí, quai hàm bạnh ra, lưng vậm vạp như lưng gấu, đầu trọc nhẵn lại vừa đi vừa nói lảm nhảm những điều chỉ có anh ta hiểu. Đã thế lại còn nghèo và là dân ngụ cư (ngày xưa dân ngụ cư thường bị khinh rẻ) nên không ai thèm để ý cả. Vậy mà trong nạn đói 1945 lại có người theo không về nhà. Kim Lân đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật trước biến cố ấy của cuộc đời.
Khi người đàn bà vợ nhặt biến lời nói đùa của Tràng thành lời nói thật “…có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.” thì Tràng lo lắng (chợn nghĩ) “thóc gạo đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” vì dẫu có vô tư đến mấy thì chàng cũng không thể vô lo. Xác chết đầy đường, Tràng nuôi mình và mẹ đã khó, nay thêm người là thêm một miệng ăn. Nhưng rồi Tràng lại tặc lưỡi:”Chậc, kệ!” rồi quyết định dắt người đàn bà về, đó chính là khao khát về một gia đình hạnh phúc cách cháy bỏng của Tràng.
Trên đường dắt vợ về nhà, Tràng tỏ ra khoái chí lắm vì vừa có vợ cách nhưng không, lại vừa nhận được cái nhìn ngạc nhiên lẫn ngưỡng mộ của bao nhiêu người hàng xóm, anh “tủm tỉm cười” còn đôi mắt thì “sáng lên lấp lánh”. Tác giả mượn điểm nhìn là người dân xóm ngụ cư vì chỉ có họ mới phát hiện được sự khác lạ hôm nay của Tràng, mọi hôm hắn về có một mình nhưng hôm nay lại dắt thêm một người đàn bà khác về chung.
Mạch truyện “Vợ nhặt” là một chuỗi ngạc nhiên, khi Tràng dắt vợ về thì cả xóm ngạc nhiên, tiếp đó là bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên đến mức không tin nổi vào mắt mình. Song đáng nói hơn cả là Tràng, người trong cuộc mà không khỏi ngạc nhiên, dắt vợ về rồi mà vẫn còn “đứng tây ngây giữa nhà một lúc”, đến sáng hôm sau vẫn còn “ngỡ ngàng”.
Khi đã có vợ và một gia đình thực thụ thì Tràng được sống trong tâm trạng lâng lâng sảng khoái như từ giấc mơ đi ra. Mái ấm gia đình đã nhen lên trong Tràng khát vọng tốt đẹp của con người: sống có trách nhiệm hơn với gia đình, nghiêm túc như một người đàn ông thực thụ, một người chủ gia đình.
Bằng cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ nhưng hợp lý, nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo và sử dụng khẩu ngữ trong truyện, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật Tràng để thể hiện chất riêng của mình.
Nảy sinh trên mảnh đất chết chóc nhưng sự sống không bao giờ bị tuyệt diệt, vẫn vươn ra phía trước cách mạnh mẽ, Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Tô Hoài là bài ca về sự sống. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn sâu sắc của truyện ngắn này. Thời gian có chảy trôi, vạn vật có đổi thay, nhưng những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ còn mãi với bạn đọc muôn đời, vượt qua mọi quy luật băng hoại của tạo hóa. Truyện ngắn này đã làm được điều đó và cũng chính vì lẽ đó mà chúng ta, bạn đọc ngày hôm nay, vẫn không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đón đọc những đứa con tinh thần của người truyền lửa – Tô Hoài.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 19
Kim Lân là cây bút thành công về đề tài nông thôn và người nông dân, có một số tác phẩm có giá trị về đề tài này. Thấp thoáng trong các tác phẩm của Kim Lân là cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khó, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, hóm hỉnh, thông minh. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông để lại khối lượng tác phẩm khá đồ sộ.
Nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm “ Vợ nhặt”. Qua tác phẩm, tác giả không chỉ khắc họa thành công diễn biến tâm lí nhân vật Thị mà còn khắc họa thành công diễn biến tâm lí nhân vật Tràng.
Truyện “Vợ nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết xóm ngụ cư, tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng tám nhưng còn dở dang và mất bản thảo. Hòa bình được lập lại ( 1954) dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện “ Vợ nhặt”.
Tác phẩm được in trong tập “ Con chó xấu xí” năm 1962. Tràng là một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, tốt bụng, chân thành và cởi mở. Tràng có ngoại hình thô kệch, xấu xí và xoàng xĩnh với “thân hình to lớn, lưng to như gấu”, cái mặt ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tý gà gà”. Là người không bình thường ăn nói thì cộc cằn, thô lỗ “làm đếch gì có vợ”.
Tràng là người hiền lành, vui vẻ hay gần gũi với trẻ con và được bọn chúng yêu quý, nên tính cách có phần trẻ con. Anh là dân ngụ cư làm nghề đánh xe bò thuê. Sống cùng với mẹ già trong một căn nhà rúm ró, xiêu vẹo. Tràng là người cởi mở và tốt bụng, Tràng đùa vui với các cô gái xa lạ, xưng hô thân mật cũng là người nhân hậu, giữa lúc đói, anh sẵn sàng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Tràng cho thị ăn không phải vì để trả ơn mà đơn giản là sự cảm thông.
Tràng nhặt vợ về rất đơn giản, chỉ bằng câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Câu nói ấy ẩn chứa niềm khao khát tổ ấm gia đình. Trước cái cười tít mắt của thị, Tràng thích lắm và cảm nhận được niềm vui sướng và hạnh phúc.
Lúc đầu thì có ý định đưa người đàn bà xa lạ về nhà Tràng cũng có chút phân vân, anh nghĩ “ thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng”. Thế mà cuối cùng anh vẫn quyết định dắt thị về nhà, phải chăng sự khát khao hạnh phúc gia đình bấy lâu nay ẩn dấu trong tâm hồn hôm này được thực hiện.
Trên đường về nhà thái độ của Tràng có nhiều khác lạ: “ mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường, hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Đó là niềm vui mộc mạc của người đàn ông nghèo, lần đầu được đi bên một người phụ nữ.Mặc dù người vợ được hắn nhặt về nhưng Tràng không hề rẻ rúng,khinh miệt thị.
Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng coi chuyện lấy Thị là một điều nghiêm túc nên đã đưa Thị vào chợ mua cho Thị cái thúng, đãi một bữa cơm và mua hai hào dầu.Trước con mắt tò mò của dân xóm ngụ cư thì vênh vênh tự đắc. Anh rất vui, lòng lâng lâng khó tả.
Khi về đến nhà, Tràng ăn nói có văn hóa hơn, biết quan tâm đến Thị, thắc mắc “quái, sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng sốt ruột “ chạy ra chạy vào”, ngóng chờ lúc mẹ về. Tràng hồi hộp lo lắng mong chờ câu trả lời của mẹ. Khi mẹ đồng ý thì thở phào một cái như nhẹ hẳn đi.
Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, nhận ra mọi thứ xung quanh thay đổi, thấy mình trưởng thành, hạnh phúc và có trách nhiệm với vợ con “bỗng hẳn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Với Tràng căn nhà này sẽ là cái “ tổ ấm che mưa che nắng… anh cùng vợ sinh con ở đây” và anh cảm thấy “ bây giờ Tràng nên người, có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này”.
Qua diễn biến tâm lí của nhân vật Tràng trong tác phẩm “ Vợ nhặt” tác giả không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về nghệ thuật khi xây dựng được tình huống truyện độc đáo. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động có nhiều chi tiết đặc sắc, ngôn ngữ mộc mạc giản dị nhưng có sự chắt lọc kỹ lưỡng và giàu sức gợi kết hợp với nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng thể hiện tâm lí nhân vật tinh tế.
Nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật Tràng và tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 và khẳng định ngay trên bờ vực cái chết vẫn luôn hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Hình ảnh nhân vật Tràng sẽ sống mãi trong lòng người đọc.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 20
Kim Lân là nhà văn có sở trường về những người nông dân, nông thôn trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến tác phẩm Vợ nhặt. Vợ nhặt là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, thế nhưng, giữa sự lay lắt đói khát ấy, người ta lại thấy le lói thứ ánh sáng của sự yêu thương, đùm bọc, của sự san sẻ, khát khao hạnh phúc cùng hướng về sự sống của con người. Thông qua hình tượng nhân vật Tràng, ta có thể thấy được vẻ đẹp của tình thương cùng sức sống mãnh liệt bên trong con người trong nạn đói.
Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí năm 1962, nghĩa là sau nạn đói 1945 không lâu. Thiên truyện là sự dung hòa của giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, tất cả được biểu hiện qua nhân vật Tràng.
Nói tới Tràng, người ta nhắc tới một con người mà cả ngoại hình hay tính cách, gia cảnh đều thuộc hạng “cùng đinh”. Về ngoại hình, người ta thấy Tràng là một anh chàng vừa thô kệch vừa xấu xí “cái mặt thô kệch”, “đôi mắt nhỏ tí”, “thân hình to lớn vập vạp”, “cái lưng to rộng như lưng gấu”. Không chỉ thế, Tràng còn là người dân xóm ngụ cư sống bằng nghề kéo thóc thuê, ngôi nhà của mẹ con Tràng lụp xụp, rách nát xung quanh mọc đầy cỏ dại . Đến tài ăn nói, Tràng cũng không có, Tràng chỉ biết nói thô lỗ, cộc cằn, lại còn cái tật “vừa đi vừa nói”, “lảm nhảm những điều hắn nghĩ”. Với những điều này, thật khó để Tràng có được một người vợ ngay cả trong điều kiện thường, càng trở nên xa vời khi nạn đói xảy ra.
Thế nhưng, cuộc đời không khỏi có những bất ngờ, Tràng nghèo đến vậy, lại xấu xi đến thế, lại đang giữa những năm tháng đói khát ấy thế mà Tràng lại có “vợ”, thậm chí là “nhặt” được vợ. Thật quá bất ngờ!
Tình huống ấy xảy ra khi Tràng kéo xe thóc đi qua và gặp Thị đang ngồi bên lề đường chờ “nhặt hạt rơi vãi”. Lúc ấy, hắn chỉ chợt “hò một câu cho đỡ nhọc” rằng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”, dứt câu thì Thị đã “ton ton” chạy ra đẩy xe với Tràng, còn “liếc mắt, cười tít” với hắn. Chính điều đó đã làm Tràng ấn tượng với Thị, bởi “từ cha sinh mẹ để đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ thế”.
Qua thời gian sau, hắn gặp lại Thị, nhưng lúc ấy Thị đã gầy guộc, tiều tụy hơn” áo quần tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị đã “sưng sỉa” lên với Tràng, đòi Tràng mời ăn, nhận được sự đồng ý của Tràng, Thị đã “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Trong cuộc gặp gỡ tình cờ ấy, Tràng đùa với Thị rằng: “Này nói đùa có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Ấy vậy mà Thị theo Tràng về thật. Chỉ với hai lần gặp, bốn bát bánh đúc, cùng câu nói nửa đùa nửa thật của hắn, hắn đã có “vợ”.
Câu nói của Tràng là đùa, nhưng ẩn chứa trong đó là khao khát có được mái ấm của riêng mình, khao khát tình yêu và hạnh phúc, và Thị có lẽ chính là người giúp hắn được điều ấy.
Hắn nói đùa mà Thị thì đồng ý thật, đến lúc ấy hắn mới “chợn” nghĩ: “Thóc gạo này đến thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế nhưng “sau không biết nghĩ thế nào”, liệu có phải là cái khao khát hạnh phúc trong lòng hắn bừng lên mà hắn “chặc lưỡi một cái: chậc, kệ” hay chăng?
Tràng và Thị đến với nhau giữa lúc cái đói đang hoành hành khắp nơi, “người chết như ngả rạ”. Biết rõ rằng đến với nhau là một gánh nặng giữa lúc đói khát này, thế nhưng anh chàng Tràng lại rất vui vẻ đón nhận, sẵn sàng san sẻ sự sống vốn đã ít ỏi cho Thị. Bởi trong lòng anh luôn khao khát hạnh phúc, khao khát về mái ấm đã len lỏi trong anh từ rất lâu rồi, và giờ đây, nó có thể đã trở thành hiện thực.
Trên đường Tràng và Thị trở về, niềm vui hiện rõ trên mặt Tràng, hắn hớn hở “có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, khác hẳn với hình ảnh “đi từng bước mệt mỏi” như ngày trước. Trong niềm vui ấy, Tràng đã quên đi hết tất cả, “quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những ngày tháng trước mắt”, bởi trong lòng hắn chỉ có niềm hạnh phúc và “tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên”. Cái cảm giác ấy mơn man da thịt hắn, “tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng” hắn, mà hắn chưa bao giờ cảm nhận được. Tràng không định nghĩa được nó, nhưng niềm vui sướng thì hiện rõ trên gương mặt, tràn ngập trong tâm hồn hắn, khiến hắn “thích chí ngửa cổ cười khanh khách”. Cái cảm giác hạnh phúc, niềm vui khi có gia đình, có được một người vợ để yêu thương, hắn chưa từng được hưởng cái cảm giác sung sướng, hạnh phúc ấy một lần.
Đến khi về tới nhà, lần đầu tiên trong đời, ở chính trong căn nhà mình, hắn lại trở nên ngượng nghịu, lúng túng, hắn gắt lên khi bà cụ Tứ – mẹ hắn đi đâu về muộn. Hắn còn cảm thấy “sờ sợ”, mà “chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ”. Ở người đàn ông này, ta cảm nhận được những thái cực trái ngược sau khi anh ta “nhặt” vợ. Cảm giác vui sướng, nhưng cũng lo sợ, hạnh phúc nhưng cũng lo lắng, anh vui bởi lẽ cái niềm khao khát bấy lâu của mình đã thành hiện thực, còn lo lắng bởi lẽ anh không biết cái đói sẽ còn hành hạ con người ta đến bao giờ, liệu họ có còn sống qua cái giai đoạn này chăng?
Bao nhiêu lo lắng, hỗn độn trong tâm trí người đàn ông ấy, hắn còn chưa thật sự tin rằng hắn đã có vợ. Hắn còn đang mơ màng, còn “ngờ ngợ như không phải thế”. Phải chăng niềm vui quá bất ngờ khiến Tràng chưa thể nào tin ngay được điều đó? Đến khi nói chuyện với mẹ, được bà cụ dặn dò, Tràng cũng vâng dạ vô cùng ngoan ngoãn – những điều mà lần đầu tiên có được trong ngôi nhà ấy.
Kim Lân đã khéo léo dựng lên một tình huống éo le nhưng cũng thật bất ngờ, rất hợp lý, bao hàm cả giá trị nhân đạo và giá trị nội dung sâu sắc. Đây chính là sự yêu thương mà Kim Lân dành đến cho những người nông dân nghèo, những người lao động chất phác.
Sáng hôm sau, hắn tỉnh dậy khi “mặt trời lên bằng con sào”, thế nhưng, hắn không thấy sự mệt mỏi mà chỉ thấy “trong người êm ái, lơ lửng như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Niềm hạnh phúc với hắn dường như vẫn còn mơ hồ, niềm vui có vợ, có gia đình khiến hắn “vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
Lần đầu tiên Tràng nhận ra ngôi nhà của mình thực sự là một mái ấm chở che cuộc đời con người, hắn chợt thấy mình có trách nhiệm hơn, trở nên thâm trầm sâu sắc hơn “Bỗng nhiên hắn thấy cần có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Từ bao giờ, Tràng đã nghĩ tới những việc xa hơn, có con cái, có gia đình êm ấm, hạnh phúc? Điều ấy càng khiến trong lòng hắn vui hơn bao giờ hết!
Bữa cơm đầu tiên của nhà ba người, hắn bỗng trở thành đứa con ngoan khi bà cụ Tứ nhắc tới tương lai, một tương lai mà họ có đàn gà, tương lai sáng sủa, tốt đẹp hơn. Lúc ấy, “Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm , hoà hợp như thế”. Sự xuất hiện của Thị trong đời Tràng đã biến đổi con người hắn, biến hắn trở thành một người con ngoan, một người chồng có trách nhiệm. Mặc dù là bữa cơm đầu của người con dâu, thể nhưng cùng chỉ là cháo loãng, là món “chè khoán” bằng “cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”.
Tiếng trống thúc thuế vọng lại khiến Tràng giật mình, hắn “thần mặt ra nghĩ ngợi” khi thấy vợ nói rằng “ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu”. Hắn cũng nghĩ tới những người đi phá kho thóc Nhật mà hắn đã từng gặp trên đường đi kéo thóc, “tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu”. Đây phải chăng là những nhem nhó đầu tiên của ý thức Cách mạng mà Kim Lân muốn đưa vào trong tác phẩm của mình?
Kim Lân đã dựng lên hình tượng người lao động nghèo trong nạn đói 1945 vô cùng xuất sắc. Ông đã tái hiện bức tranh chân thực nhất về nạn đói khiến hai triệu đồng bào ta phải chết, những người sống phải vật vờ như những bóng ma. Diễn biến nhân vật Tràng cũng được thể hiện rất sinh động, rất chân thật.
Tràng là nhân vật điển hình cho những người lao động nghèo trong nạn đói 1945. Họ nghèo đói về vật chất, nhưng không hề nghèo đói về tình thương. Họ sẵn sàng san sẻ cho người khác, đùn bọc những người yếu đuối hơn để cùng nhau hướng tới một tương lai tươi sáng hơn.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân – Mẫu 21
Viết về người nông dân không phải là đề tài mới hay hiếm gặp mà nó nhiều nhan nhản. Cái cốt của một tác phẩm có thành công với đề tài này hay không là do sức hấp dẫn của những cây bút. Nếu như Nam Cao thành công khi khắc họa thành công nhân vật Chí Phèo nhằm nói lên sự tha hóa bần cùng của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến thì Kim Lân cũng khắc họa thành công người nông dân tên Tràng trong truyện ngắn Vợ Nhặt của ông. Vẫn là đề tài nông dân ấy nhưng Kim Lân đã khơi được cái chưa ai khơi là thân phận rẻ rúng bị coi như rơm rác của con người. Đặc biệt một lần nữa qua nhân vật Tràng nhà văn lại khẳng định những nét đẹp trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
Đọc truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân ta không thể nào quên nhân vật anh Tràng này. Anh chính là hiện thân cho những người đàn ông nông dân có những phẩm chất tốt đẹp. Hoàn cảnh sống của Tràng là sống trong một xóm ngụ cư, đó là tập thể những con người sống không định cư một chỗ mà chỉ sống cho qua ngày. Đặc biệt họ là những người ở nơi khác dạt đến chứ không phải người dân chính gốc ở đây. Hoàn cảnh sống của Tràng là sống trong nạn đói năm 1945. Gia đình chỉ còn mẹ già là bà cụ Tứ, em gái thì đi lấy chồng còn cha thì đã mất. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để mà sống sót qua nạn đói này.
Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói. Sáng nào Tràng đi làm cũng chứng kiến biết bao nhiêu là xác người chết, rồi những người sống thì lại bồng bế dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma. Không khí vẩn lên những mùi hôi thối tanh tủa của xác người. Tràng làm, ăn, ngủ trong tiếng quạ kêu trên những gốc đa và tiếng người khóc khi nhà có người chết đói. Tóm lại Tràng sinh ra trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của đất nước.
Trước hết là ngoại hình của Tràng, khi nạn đói chưa đến xóm ngụ cư, Tràng xuất hiện với dáng đi ngật ngưỡng, mắt một mí lại gà gà đắm vào bóng chiều. Thân hình thì to lớn vập vạp quai hàm bạnh ra, lưng to như thân một con gấu lớn. Qua những nét ngoại hình ấy ai trong chúng ta cũng biết Tràng không hề đẹp nếu không nói là quá xấu. Tràng giữ cho mình một nét thô kệch nông dân chính gốc. Thế nhưng Tràng lại quá xấu, cái xấu ấy phải chăng tạo hóa đã ban cho anh mà không hề thương xót. Ngoại hình của Tràng còn được nói đến khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Khi ấy Tràng không còn ngất ngưởng vui vẻ được nữa, thay vào đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì về đằng trước mặt cúi gằm lại.Cái đói đã làm mụ mị cả con người Tràng.
Với tất cả hoàn cảnh gia đình và ngoại hình như thế thì nguy cơ ế vợ của Tràng là rất cao.Ai lại đi lấy một người xấu xí thô kệch đến thế đã vậy lại còn là dân ngụ cư nữa. Ở đây người ta khinh những người dân ngụ cư lắm. Thế mà trong nạn đói ấy, Tràng lại lấy được vợ hay nói như trong văn bản thì là Tràng nhặt vợ về. Ô hóa ra con người trong nạn đói cứ như rơm rác hay mớ rau ngoài chợ có thể lựa mà nhặt mang về nhà. Điều thứ ba ta thấy ở nhân vật này đó chính là nét đẹp về tâm hồn. Hoàn cảnh có khó khăn, ngoại hình có xấu xí nhưng lại có một tấm lòng vàng.
Chẳng là Tràng gặp người vợ nhặt của mình trong một lần kéo xe thóc lên tỉnh. Lên đến dốc kéo xe nặng anh mới cất lên mấy câu trêu đùa mấy cô gái ngồi nhặt hạt rơi ở đường. Mấy cô ả đẩy người vợ nhặt ra. Khi ấy cô này còn cong cớn lắm. Thế rồi một lần nọ cô ả ở đâu chạy đến và trách Tràng thất hẹn nói phét. Thị bữa ấy nhìn mặt gầy hẳn đi như cái lưỡi cày vậy. Thương lòng Tràng bảo thị ngồi ăn trầu nhưng Thị từ chối và đòi ăn cái khác. Vậy là Tràng cũng chiều lòng cho Thị ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong Thị còn lấy đũa quẹt ngang mồm cất lên một tiếng “chà ngon”. Cái đói đã làm cho người vợ nhặt không còn chút duyên dáng e thẹn nào của người con gái. Thật ra thì Tràng cũng chẳng có mà để hào phóng với thị mà cái thời buổi ấy lo ăn cho gia đình chẳng xong nữa là cho người ngoài. Thế nhưng chính tấm lòng vàng thương người của anh đã khiến cho anh để cho thị ăn thoải mái một bữa.
Không những thế khi ăn xong Thị lại còn không ngần ngại đi theo Tràng. Thị muốn về nhà cũng Tràng, thế là Tràng có vợ. Tràng phân vân bởi thời buổi này đến thân mình còn chưa lo xong lại còn đèo bòng. Nhưng nhìn thấy Thị chẳng có chỗ nào để đi nữa thì Tràng không nỡ bỏ người đàn bà ấy giữa đường. Đó chẳng phải là tấm lòng vàng hay sao. Con người ta dù có gặp khó khăn thế nhưng vẫn dang tay cứu vớt lấy cuộc đời của những con người còn khó khăn hơn mình. Sau cái tặc lưỡi của Tràng là biết bao nhiêu khó khăn phía trước phải đương đầu.
Tràng đưa vợ về trong không khí hôi tanh của nạn đói. Những tiếng khóc tiếng quạ kêu cất lên. Thế nhưng Tràng thay đổi tâm trạng Tràng thấy vui hơn. Khuôn mặt rạng rỡ hơn ánh mắt cũng lấp lánh. Đó là tình yêu sao?. Hay là khát vọng được sống an lành yên ổn. Tràng đưa vợ về trước sự ngạc nhiên của bao nhiêu người xóm ngụ cư. Trong số họ người thì mừng cho anh Tràng người lại thương vì đưa nhau về trong cái trời đất này chỉ thêm khổ. Đến sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ nữa nhưng rồi tất cả vẫn chấp nhận cho hai người ở với nhau.
Không những thế Tràng còn là một người đàn ông trưởng thành và có trách nhiệm khi sau một đêm có vợ. Trong buổi sáng thức dậy Tràng vẫn còn mơ màng không tin là mình đã có vợ rồi. Nhìn thấy cảnh tượng mẹ chồng nàng dâu dọn dẹp lại căn nhà và chuẩn bị cho một bữa ăn đón con dâu mới . Tràng thấy trong lòng mình khoan khoái, thành cần có trách nhiệm với gia đình nhỏ của mình. Đặc biệt trong bữa cơm đầu tiên trong đầu Tràng phấp phới về hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cùng những người cướp kho thóc Nhật đi trên đê bột đã thể hiện quy luật tìm đến cách mạng của người nông dân.
Nhà văn Kim Lân quả thật đã khai thác khám phá được những vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Trong khó khăn khốn khổ như thế nông dân ta vẫn phát huy truyền thống lá lành đùm lá rách. Tràng đại diện cho những người thanh niên nghèo xấu xí nhưng lại giàu tình thương người và sẵn sàng cưu mang những kiếp người khốn khổ hơn mình. Đồng thời nhà văn còn phát hiện được quy luật tìm đến cách mạng của những người nông dân.
*****
Trên đây là 21 bài mẫu Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)