Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta (17 Mẫu)
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta bao gồm hướng dẫn kể, dàn ý cùng 17 bài văn mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ là nguồn tài liệu hữu ích giúp các em lớp 5 trau dồi thêm vốn từ, rèn luyện kỹ năng viết văn ngày một hay hơn.
Đề bài: Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta
Dàn ý Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta
Các em lựa chọn câu chuyện về một vị anh hùng, danh nhân của nước ta mà em muốn kể rồi kể câu chuyện theo trình tự như sau:
Bạn đang xem: Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta (17 Mẫu)
I. Mở bài: Giới thiệu câu chuyện về vị anh hùng dân tộc mà em đã được nghe, được đọc
– Câu chuyện em được nghe kể hay đọc qua sách báo?
– Câu chuyện kể về vị anh hùng dân tộc nào?
II. Thân bài:
– Khái quát về tiểu sử của vị anh hùng dân tộc:
- Tên
- Tuổi
- Quê quán
– Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc
- Những hoạt động và đóng góp
- Vinh danh anh hùng dân tộc
– Kể lại câu chuyện nổi bật về vị anh hùng dân tộc
III. Kết bài: Cảm nghĩ của em về câu chuyện đó
– Em cảm thấy vị anh hùng đó như thế nào?
– Vai trò của các vị anh hùng dân tộc đối với đất nước?
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 1
Nam dược trị Nam nhân
(Thuốc Nam chữa bệnh người nước Nam)
Ngày xưa ở nước ta vào cuối thời nhà Trần ở cẩm Giàng, Hải Dương có ông Nguyễn Bá Tĩnh, pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Sáu tuổi, chú bé Tĩnh đã vào chùa học chữ và đọc kinh Phật, nổi tiếng thần đồng. Năm 22 tuổi thi đậu Tiến sĩ, nhưng ông không ra làm quan. Ông đi tu, làm thuốc chữa bệnh bằng thuốc nam cho dân, lấy vườn chùa làm nơi trồng cây thuốc. Ông viết sách thuốc và nghiên cứu cây thuốc – toàn là cây cỏ nước Nam.
Năm 55 tuổi, Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều Minh (Trung Quốc). Ông đã chữa khỏi bệnh cho Tống Vương phi (vợ của vua Minh) nên được trọng dụng phong là Đại y Thiền sư. Lúc ông mất, vua nhà Minh cho mai táng ở gần hoàng thành, dựng bia kỉ niệm. Trên tấm bia đá có khắc dòng chữ: Sau này có ai ở cố quốc sang, nhờ đem hài cốt tôi trở về”.
Tuệ Tĩnh để lại nhiều tác phẩm y dược rất có giá trị, tiêu biểu nhất là cuốn “Nam dược thán hiệu” giới thiệu trên 500 vị thuốc là “cây cỏ nước Nam” với đủ tính vị và công dụng.
Hiện nay, trên khắp đất nước ta, những cơ sở chữa bệnh đặt tại các chùa dược thống nhất mang tên Tuệ Tĩnh đường. Và ngọn cờ của Tuệ Tĩnh giương cao “Nam dược trị Nam nhân” mãi mãi tỏa sáng trong nền y học dân tộc và trong tâm hồn nhân dân ta.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 2
Vua Quang Trung đại phá quân Thanh
Nghe tin quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương và các tướng sĩ bàn việc đem quân ra đánh. Các tướng sĩ đều xin vua dẹp giặc để yên lòng người và danh nghĩa rõ rệt.
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân 1788, Bắc Bình Vương làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.
Vua Quang Trung liền đó tự đem quân thủy bộ tiến ra Bắc. Đến Nghệ An lại 10 ngày tuyển thêm binh, cả thảy được 10 vạn và hơn 100 con voi.
Ngày 20 tháng Chạp ra tới núi Tam Điệp, Ngô Văn Sở ra mắt tạ tội. Vua Quang Trung an ủi mọi người rồi truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán để ngày 30 tháng Chạp thì cất quân, định ngày mùng 7 tháng Giêng ra Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
Vua Quang Trung chia đại quân ra làm ô đạo:
– Hai đạo theo đường biển, vào sông Lục Đầu để tiếp ứng mặt hữu và chặn quân Thanh chạy về.
– Hai đạo đi đường núi để tiếp ứng mặt tả và đánh vào phía tây quân địch.
– Đạo trung quân do vua Quang Trung điều khiển tiến theo quan lộ thẳng Thăng Long.
Qua sông Giản Thủy (địa giới Ninh Bình và Hà Nam), quân lính vua Quang Trung phá tan tiến đến Phú Xuyên, bắt sống đám quân do thám nhà Thanh đóng ở đó, không để một người nào chạy thoát được để báo tin với các đồn lân cận.
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng năm Kỉ Dậu (1789), vua Quang Trung vây kín đồn Hà Hồi, rồi bắc loa gọi hàng. Quân Thanh sợ hãi xin hàng, giao nộp cả quân lương, khí giới.
Mờ sáng ngày mồng 5, vua Quang Trung cho lệnh tiến đánh đồn Ngọc Hồi, quân Thanh bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai lấy ván ghép lại thành mảnh to và quấn rơm cỏ ướt, cứ 20 người khiêng một mảnh, mang dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới núp theo sau. Đến trước cửa đồn, quân sĩ bỏ ván xuống rút dao xông vào chém. Quân đi sau cũng lăn xả vào đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn. Quân ta thừa thế đánh tràn tới lấy được các đồn. Xác quân Thanh nằm ngổn ngang khắp nơi, các tướng Thanh như Hứa Thế Hanh đều tử trận.
Trong lúc vua Quang Trung kịch chiến ở Ngọc Hồi, Đô đốc Long đem cánh tả quân đánh dồn Khương Thượng, gần gò Đống Đa. Sầm Nghi Đống chống không nổi, thắt cổ chết. Đô đốc Long tiến đánh Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín chạy qua sông để lên mạn Bắc. Quân sĩ tranh nhau qua cầu, cầu đổ, chết đuối thây đầy sông. Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng ở miền Sơn Tây vội vã chạy về.
Trưa hôm ấy, vua Quang Trung áo ngự bào đẫm đen thuốc súng, hiên ngang tiến vào Thăng Long giữa muôn tiếng hoan hô của quân sĩ và dân chúng.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 3
Vua Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông là con vua Lê Thái Tông và bà phi Ngô Thị Ngọc Dao.
Ông lên làm vua năm 18 tuổi, đã trị vì đất nước 38 năm, hai lần đổi niên hiệu. Quang Thuận và Hồng Đức.
Lê Thánh Tông là bậc minh quân, thánh đế. Nước Đại Việt dưới thời Lê Thánh Tông trở thành một quốc gia thịnh trị, thái bình. Được mùa liên tiếp nhiều năm, nhân dân sống ấm no, yên vui, hạnh phúc:
“Nhà nam nhà bắc đều no mật
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
(Vịnh năm canh)
Vua chia nước ta thành 12 đạo, sau gọi là 12 thừa tuyên; mỗi thừa tuyên có nhiều phủ, huyện, châu, tổng, xã. Việc quốc phòng, quân đội được đặc biệt: coi trọng. Thủy quân được đóng mới chiến thuyền, bộ binh được tăng cường thêm nhiều voi trận và chiến mã. Quân đội được chia thành 5 phủ đô đốc và 1 đạo: ngoại và nội. Quân đội vừa thay phiên nhau cày ruộng và tập luyện. Năm nào cũng tổ chức diễn tập trên quy mô lớn.
Nhà vua khuyến khích nghề nông, nghề chăn nuôi, phát triển nghề trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa và nhiều nghề thủ công khác. Sưu thuế được giảm nhẹ.
Dưới triều đại Lê Thánh Tông, việc học được coi trọng và mở mang.
Các khoa thi Tiến sĩ kén chọn được nhiều nhân tài lỗi lạc.
Tên tuổi Lê Thánh Tông gắn liền với Bộ luật Hồng Đức. Vua nói: “Pháp luật là phép công của Nhà nước, ta và các ngươi phải cùng tuân theo”. Năm 1464, vua hạ chiếu minh oan cho vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi là một con người “lòng sáng tựa sao Khuê”.
Lê Thánh Tông là một ông vua rất hiếu học và siêng năng, cần mẫn:
“Trống dời canh, còn đọc sách,
Chiêng xế bóng, chửa thôi chầu”.
Vua để lại nhiều thơ văn chữ Hán và chữ Nôm rất đặc sắc. Vua đã sáng lập ra Hội thơ gọi là Tao Đàn, gồm có 28 thi sĩ, tôn vinh là “nhị thập bát tú” (28 ngôi sao) do nhà vua đứng đầu, tự xưng là “Tao Đàn nguyên súy”.
Lê Thánh Tông là ông vua vĩ đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài diễn ca “Lịch sử nước ta” có viết:
“Vua hiền có Lê Thánh Tôn,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành”.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 4
Ngày xưa, ở làng Gióng có một cậu bé kì lạ, đã lên ba tuổi mà vẫn không biết đi, không biết nói, chỉ đặt đâu nằm đấy trơ trơ.
Giặc Ân từ phương Bắc tràn sang xâm lấn bờ cõi nước ta. Nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi, cầu người hiền tài đứng ra cứu nước. Nghe tiếng loa rao, cậu bé bỗng nhiên biết nói. Cậu nhờ mẹ gọi sứ giả vào rồi bảo: “ông hãy về tâu với nhà vua, đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một chiếc nón sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc”.
Kể từ khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng chẳng no, quần áo vừa may xong đã chật. Mẹ cậu không đủ thóc gạo, cả làng phải góp lương thực để nuôi cậu.
Khi nhà vua cho mang các thứ tới, Gióng vươn vai vụt trở thành một tráng sĩ dũng mãnh. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, đội nón sắt, cầm roi sắt, cưỡi lên lưng ngựa sắt. Ngựa sắt hí vang, phun lửa, lao ra trận. Tráng sĩ dùng roi sắt quất túi bụi vào kẻ thù. Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ từng bụi tre bên đường đánh tiếp. Giặc chết như ngả rạ.
Dẹp xong giặc nước, Gióng cởi áo giáp sắt, nón sắt, bỏ lại dưới chân núi, lưu luyến nhìn lại quê hương một lần cuối rồi cưỡi ngựa từ từ bay lên trời. Nhân dân trong vùng ghi nhớ công ơn to lớn của Gióng, lập đền thờ và suy tôn là Thánh Gióng.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 5
Năm 34 sau tây lịch, nhà Đông Hán sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định là một người tham lam tàn bạo. Dân chúng vô cùng oán hận, Lạc hầu, Lạc tướng cũng căm hờn. Còn Lạc tướng huyện Châu Diên là Thi Sách, mưu tính việc chống quân Tàu. Tô Định hay được bèn giết Thi Sách đi. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc nổi lên đánh Tô Định để báo thù cho chồng, rửa hận cho nước.
Trưng Trắc là con gái Lạc tướng Mê Linh, nay thuộc tỉnh Phúc Yên. Khi bà cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa thì các Lạc tướng và dân chúng hưởng ứng rất đông. Chẳng bao lâu, quân Hai Bà Trưng tràn đi khắp nơi, chiếm được 65 thành trì. Tô Định chống cự không lại trốn chạy về Tàu. Hai Bà lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh (năm 40 sau tây lịch). Dân chúng vui mừng độc lập.
Trưng Nữ Vương trị vì được hơn một năm thì nhà Đông Hán sai danh tướng là Mã Viện đem binh sang đánh. Quân của Mã Viện là quân thiện chiến, quân ta thì mới nhóm lên, nhưng nhờ sự dũng cảm, quân ta thắng được mấy trận đầu. Quân giặc phải rút về đóng ở vùng Lãng Bạc (tức gần Hồ Tây ở Hà Nội bấy giờ). Sau đó, Mã Viện được thêm viện binh, dùng mưu lừa quân ta kéo lên mạn thượng du rồi đánh úp. Hai Bà thua trận nên rút quân về giữ Mê Linh.
Mùa thu năm 43, Mã Viện đem binh vây đánh thành Mê Linh. Quân ít, thế cùng. Hai Bà phải bỏ chạy. Mã Viện xua quân đuổi theo. Hai Bà nhảy xuống sông Hát (chỗ sông Đáy đổ ra sông Hồng Hà) trầm mình để khỏi sa vào tay giặc.
Hai Bà Trưng làm vua không được bao lâu nhưng là hai vị anh thư cứu quốc đầu tiên của nước ta nên được hậu thế sùng bái đời đời.
Hiện nay, ở làng Hát Môn, thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây và làng Đồng Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ Hai Bà, hàng năm, đến ngày mồng sáu tháng hai âm lịch là ngày hội để nhớ ơn hai vị nữ tướng.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 6
Vua Lý Thái Tổ (Lý Công uẩn)
Lý Công Uẩn người làng cổ Pháp thuộc Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay ở làng Đình Bảng vẫn còn có lăng và đền thờ các vua nhà Lý.
Tục truyền rằng Công uẩn không có cha; mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiên Sơn (làng Tiên Sơn, phủ Từ Sơn), đêm về nằm mộng thấy “đi lại” với thần nhân, rồi có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi, đứa bé càng khôi ngô tuấn tú; gia đình đem cho nhà sư ở chùa cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi. Lý Công uẩn được học hành chữ Nho, kinh Phật và võ nghệ từ nhỏ, lớn lên dưới mái chùa, trở thành một tài trai văn võ siêu quần.
Ngoài 20 tuổi, Lý Công uẩn đã làm võ tướng dưới triều vua Lê Đại Hành, từng lập công to trong trận Chi Lăng (981) đại phá quân Tống xâm lược, chém đầu tướng giặc Hầu Nhân Bảo. Về sau, ông giữ chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, nắm trong tay toàn bộ binh quyền. Đức trọng tài cao, ông được quần thần và tướng sĩ rất kính phục.
Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà. Ngôi vua được truyền cho Lê Long Việt. Chỉ 3 ngày sau, Lê Long Đĩnh giết anh, giành lấy ngai vàng. Lê Long Đĩnh là một tên vua vô cùng bạo ngược khác nào Kiệt, Trụ ngày xưa. Hắn hoang dâm vô độ, nên mắc bệnh không ngồi được; đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Vua Ngọa Triều. Cuối năm 1009, Lê Ngọa Triều chết.
Năm đó, Lý Công uẩn đã 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm rồi; quân thần và tầng lớp tăng lữ suy tôn ông lên ngôi báu, mở đầu triều đại nhà Lý (1010-1225).
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế vào đầu xuân 1010, tức là vua Lý Thái Tổ nhà Lý. Nhà vua trị vì được 19 năm, thọ 55 tuổi, băng hà năm 1028.
Vua Lý Thái Tổ tăng cường binh bị, ra sức đánh dẹp nội loạn phản nghịch. Các hoàng tử đều là võ tướng, được phong vương, trấn giữ các nơi hiểm yếu. Việc bang giao với nhà Tống ở phương Bắc, với Chân Lạp, Chiêm Thành ở phương Nam được coi trọng, biên cương được giữ vững, đất nước thái binh, trăm họ yên vui. Vua chia nước ta ra làm 24 lộ và 2 trại (Hoan Châu và Ái Châu), định ra 6 loại thuế, khuyến khích nông nghiệp và các nghề thủ công. Đạo Phật trở thành quốc giáo. Việc học hành được mở mang. Việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, rồi đặt tên là Thăng Long năm 1010 được coi là công hiến to lớn nhất trong sự nghiệp xây dựng quốc gia Đại Việt của vua Lý Thái Tổ.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 7
Bấy giờ, ở đất Mê Linh, có hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị là con gái Lạc tướng thuộc dòng dõi vua Hùng. Đã từ lâu, Mê Linh rộn rã tiếng trống. Đó là những chiếc trống lớn đúc toàn bằng đồng, rực rỡ sắc vàng, rền vang những âm thanh hùng tráng. Đó cũng là báu vật có từ thời vua Hùng bắt đầu dựng nước.
Bỗng giặc Hán tràn sang xâm lược nước ta. Chúng chiếm đóng ngay trên mảnh đất Mê Linh. Giáo sắt, gươm thép của chúng tua tủa khắp nơi. Tướng giặc là Tô Định tham tàn và bạo ngược. Ngày ngày, chúng lăm lăm gươm giáo trong tay để ra sức vơ vét sản vật. Chúng lùa ép dân vào rừng săn tê giác, ngà voi, lên núi cao tìm mỏ quý, khiến bao người chết mất xác. Thế là trên mảnh đất Mê Linh tắt lịm tiếng trống đồng.
Trưng Trắc đau lòng trước cảnh đất nước bị giày xéo, muôn dân lầm than. Bà bàn với chồng là Thi Sách mưu việc khởi nghĩa, đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Người em là Trưng Nhị cũng hăm hở cùng chị ngày đêm lo việc rèn luyện binh dân. Trống đồng Mê Linh sắp sửa vang lên những hiệu lệnh xung trận.
Giữa lúc ấy, tướng giặc Tô Định nghe ngóng tình hình. Nó rắp tâm dập tắt cuộc khở nghĩa ngay từ khi nhen nhóm. Nó cho người mời Thi Sách đến rồi trở mặt, thét quân lính trói ông về tội chống lại chúng. Nó ra lệnh chém đầu Thi Sách để đe dọa những người khác.
Vừa nghe tin dữ, lòng người khắp nước Việt bừng bừng căm giận. Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị càng nung nấu lòng căm thù, quyết định ra lệnh khởi nghĩa. Trống đồng gầm lên như sấm. Những âm thanh ầm vang giục giã mọi người cầm vũ khí đứng lên chông giặc. Đó là mùa xuân năm 40. Dân Mê Linh và cả mọi nơi ùn ùn kéo theo hai chị em Bà Trưng với giáo gươm vang lên sáng lóa. Giặc Hán cuống cuồng tháo chạy. Tướng giặc Tô Định vô cùng hoảng sợ phải cắt râu, thay áo, giả làm người dân thường đế lẩn trốn. Tiếng trống đồng cũng vang lên đuổi thù. Chẳng bao lâu, đất nước sạch bóng quân thù.
Thế là Hai Bà Trưng đã giành lại non sông, trả xong thù nhà. Quê hương thanh bình trở lại. Tiếng trông đồng lại dõng dạc vang lên trên đất Mê Linh và trên khắp non sông hùng vĩ của nước Việt ta.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 8
Nữ tướng Lê Chân
Ngày nay, du khách gần xa đến tham quan thành phố Hải Phòng sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng nữ tướng Lê Chân đặt tại dải vườn hoa Trung tâm nội đô. Tượng bằng đồng cao 6m vô cùng tráng lộ, kì vĩ. Thanh bảo kiếm bên mình, Lê Chân uy nghiêm hướng về biển Đông với cặp mắt sáng ngời đầy uy dũng.
Sử sách còn ghi rõ: Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nhân đức nổi tiếng khắp vùng. Bà quê ở làng An Biên (tục gọi là làng vẻn) thuộc phủ Kinh Môn, nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh.
Năm 16 tuổi, Lê Chân nổi tiếng tài sắc, giỏi võ nghệ, có chí lớn phi thường. Thái thú Giao Chỉ lúc ấy là một tên cực kì tham tàn, bạo ngược. Không ép được bà làm tì thiếp, hắn đã khép ông Lê Đạo vào tội phản nghịch đem giết đi! Lê Chân phải trốn về vùng ven biển An Dương nung nấu mối thù nhà nợ nước, quyết không đội trời chung với giặc Hán xâm lược.
Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, cùng với bao anh hùng nữ kiệt khắp nơi nổi dậy hưởng ứng, Lê Chân chỉ huy đội nghĩa binh làng An Biên tiến về Luy Lâu vây đánh quân Đông Hán. Lửa cháy rực trời, ngựa hí quân reo, chiêng trống dậy đất của nghĩa quân làm cho bọn giặc bạt vía kinh hồn. Chính quyền đô hộ tan vỡ, sụp đổ tan tành; Thái thú Tô Định vội bỏ thành trì, ấn tín, cắt tóc, cạo râu, lẻn trốn về phương Bắc. Đó là giữa tháng 3 năm 40. Lê Chân chiêu mộ trai tráng, di dân lập ấp. Một vùng duyên hải dọc ngang trấn giữ được đặt tên là An Biên, đúng như tên quê cha đất tổ của bà. Nghề nông trang, nghề chài lưới đánh cá, đóng thuyền ngày một phát triển. Lương thảo được tích trữ, cung tên giáo mác được tập rèn, chỉ mấy năm sau, Lê Chân đã có hàng nghìn dũng sĩ chờ đợi thời cơ, mưu đồ đại sự.
Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, 65 thành trì được giải phóng, Hai Bà lên làm vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Nước ta giành được độc lập.
Gần một trăm anh hùng nữ tướng được phong thưởng, được giao nhiều trọng trách. Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng giữ mặt bắc, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân phòng vệ mặt nam, nữ tướng Lê Chân được phong ‘Chưởng quản binh quyền nội bộ” đóng bản doanh ở Giao Chỉ, v.v..
Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện mang đại binh sang xâm lược nước ta. Bà Trưng cùng các chiến tướng đem quân ra cự địch. Nhiều trận đánh lớn đã diễn ra ở Lãng Bạc, cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5-43, Hai Bà Trưng thất thế phải gieo minh xuống sông Hát Giang tự tận. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã anh dũng hi sinh. Nữ tướng Lê Chân đã lấp suối, ngăn sông, chẹn đánh quyết liệt thủy binh giặc. Mãi đến cuối năm 43, Lê Chân anh dũng hi sinh tại chiến trường vùng Lạt Sơn, Kim Bảng (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay) nêu cao khí phách anh hùng của người phụ nữ Việt Nam.
Để ghi nhớ công ơn to lớn của nữ anh hùng Lê Chân, nhân dân An Biên đã lập đền thờ gọi là đền Nghè, một trong những di tích lịch sử cổ kính, trang nghiêm của thành phố Cửa Biển.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 9
Nữ tướng Nguyễn Thị Chiên
Nước Việt Nam ta là một đất nước của rất nhiều những anh hùng, trong đó, những nữ anh hùng cũng rất nhiều và xuất sắc. Trong đó, người mà em ấn tượng nhất là bà Nguyễn Thị Chiên.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong phong trào du kích ở vùng tạm chiếm, những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp bà vừa là người phụ nữ duy nhất được giữ chức vụ bí thư, vừa là chỉ huy một trung đội du kích ở xã. Năm 1950, bà giật mìn tiêu diệt một tiểu đội địch đi tuần tra trên đường 39. Sau này, trong một lần hoạt động, bà không may bị giặc bắt được. Chúng đã tra tấn bà dã man, đến chết đi sống lại nhiều lần, nhưng bà vẫn nhất quyết không chịu khai. Thế là cuối cùng giặc buộc phải thả bà ra. Sau khi được thả, bà trở về quê. Tại đây, bà lại được chi bộ bố trí nhiệm vụ trong đội du kích. Ngoài việc luyện tập canh gác chống giặc quấy rối và tấn công địch, bà còn lãnh đạo chị em khai hoang, cấy lúa, chăn nuôi gà để có lượng thực và bàn lấy tiền mua sắm vũ khí.
Năm 1951, bằng tay không, bà đã dùng mưu bắt một tiểu đội địch ngay giữa chợ, thu được bảy khẩu súng. Sau đó bà lại dùng mưu bắt tên sĩ quan Pháp chỉ huy trong một trận càn quét của chúng ở xã. Năm 1952, trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, bà được Hồ Chủ Tịch tặng một khẩu súng ngắn, được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, huân chương Quân công hạng Ba và chị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bà Nguyễn Thị Chiên là một vị nữ anh hùng kính trọng. Khiến cho em và rất nhiều người ngưỡng mộ. Em sẽ noi gương bà, học tập, rèn luyện hết sức mình để cống hiến cho tổ quốc.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 10
Anh hùng, danh nhân của nước ta – Nguyễn Viết Xuân
Trong công cuộc chống Mĩ cứu nước, Bác Hồ chúng ta thường nói: ”Ra ngõ gặp anh hùng”, chắc chắn câu chuyện mà tôi kể cho các bạn nghe sẽ giới thiệu đầy đủ về một nhân vật anh hùng tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam.
Anh Nguyễn Viết Xuân sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú. Năm bảy tuổi, anh di ở bế em cho một người bà con xa để kiếm sống. Đoạn đời đi ở ấy kéo dài tới mười năm liền.
Năm 18 tuổi, từ vùng tạm chiến, anh vượt ra vùng giải phóng xin vào bộ đội. Đó là năm 1952, anh trở thành chiến sĩ quân đội nhân dân và được bổ sung vào một trung đoàn cao xạ. Ở chiến, dịch Điện Biên Phủ, đơn vị anh đã bắn rơi hàng chục chiếc máy bay của giặc Pháp. Lần đầu bắn được loại máy bay B.24 tại chỗ, anh vui sướng quá, nói với anh Nguyễn Khắc Vĩ là chỉ huy của mình: “Em tưởng bắn B.24 khó lắm, thế mà nó cũng phải rơi anh nhỉ.” Người chỉ huy nói: “Dũng cảm mà bắn thì nhất định máy bay nào của địch cũng phải rơi!”.
Trong một trận đánh, hàng dàn máy bay giặc bổ nhào xuống trận địa. Bom rơi như sung rụng. Anh Vĩ hiên ngang đứng trên hầm pháo chỉ huy, dõng dạc hô: “Nhắm thẳng vào máy bay bổ nhào, bắn!”- Nhưng sau đó, anh hi sinh oanh liệt.
Hình ảnh người chỉ huy dũng cảm với tiếng hô đanh thép ấy dã dể lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Nguyễn Viết Xuân. Noi gương, anh luôn luôn phấn đấu và được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam. Anh trở thành chính trị viên phó đại đội, rồi chính trị viên đại đội. Năm 1964 thiếu úy Nguyễn Viết Xuân đưa đơn vị cao xạ của mình lên đóng ở miền tây Quảng Bình để bảo vệ vùng trời biên giới của Tổ quốc.
Ngày 18 tháng 11 năm 1964, giặc cho máy bay xâm phạm vùng trời miền Bắc ở phía tây Quảng Bình, hết đợt này đến đợt khác. Trên các khẩu pháo, các chiến sĩ dũng cảm bắn tỉa máy bay địch. Tiếng Nguyễn Viết Xuân hô vang:
– Nhắm thẳng quân thù mà bắn!
Hai máy bay phản lực F.100 tan xác.
Lần thứ tư, máy bay địch lại tới, anh vội chạy về sở chỉ huy để truyền lệnh chiến đấu. Ba chiếc F.100 lao tới liên tiếp nhả đạn. Không may, anh bị đạn bắn trúng đùi. Anh ngã nhào trong hầm, một chân giập nát. Chiến sĩ Tình nhìn thấy định báo tin cho đồng đội, anh Xuân nghiến răng chịu đau, ra hiệu im lặng. Rồi anh dặn: “Đồng chí không được cho ai biết tôi bị thương. Đồng chí hãy giúp tôi truyền lệnh chiến dấu.”
Y tá Nhu tới, thấy máu chính trị viên ra nhiều, vội lấy băng, nhưng anh gạt đi và nói: “Đi băng cho anh em bị thương khác đã…” Và anh yêu cầu cắt chân để khỏi bị vướng. Y tá trù trừ, anh giục: “Cứ cắt đi… và giấu chân vào chỗ kín hộ tôi…”
Chân cắt xong, Nguyễn Viết Xuân bảo đưa khán để anh ngậm. Người y tá quá thương cảm, vùng dứng dậy thét vang:
– Tất cả các đồng chí bắn mạnh lên, trả thù cho chính trị viên.
Các khẩu pháo nhất loạt rung lên, tạo thành lưới lửa quất vỡ mặt kẻ thù khi chúng vừa lao tới. Khói lửa mịt mù. Một chiếc F.100 nữa đâm đầu xuống núi kéo theo vệt lửa dài. Cả bọn hoảng hôt cút thẳng về hướng đông.
Khi bầu trời trở lại quang đãng, mọi người ùa tới bên người chiến sĩ, nhưng anh đã hi sinh.
Khẩu lệnh của người anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân “Nhắm thẳng quăn thù mà bắn!” đãtrở thành bất diệt. Khẩu lệnh tấn công ấy đã luôn luôn làm bạt vía, kinh hồn lũ giặc lái máy bay Mĩ khi chúng xâm phạm bầu trời miền Bắc của Tổ quốc mến yêu.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 11
Trần Quốc Toản Bóp nát quả cam.
Lịch sử dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có biết bao câu chuyện về các anh hùng dân tộc với lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm giết giặc cứu nước. Tiêu biểu như Trần Quốc Toản trong câu chuyện Bóp nát quả cam.
Vào thời nhà Trần, giặc Nguyên-Mông sang xâm lược nước ta. Thế giặc quá mạnh. Vua Thiệu Bảo họp các vương hầu trên bến Bình Than bàn kế hoạch cứu nước.
Trần Quốc Toản lúc này chưa đầy mười sáu tuổi cũng muốn đến bến Bình Than tham gia luận bàn việc nước nhưng quân lính bảo vệ không cho chàng xuống bến. Chờ mãi, không chịu được, Quốc Toàn xăm xăm xuống bến. Một viên tướng hốt hoảng chạy tới, níu áo lại, Toản liền tuốt gươm, mắt trừng lên một cách điên dại :
– Không buông ra ta chém !
Lính liền ập đến. Thực ra vì nể chàng là một vương hầu, nay làm quá, viên tướng nói :
– Quân pháp vô thân, Hầu không có phận sự ở đây nên trở ra cho anh em làm việc. Nhược bằng khinh thường phép nước, anh em tất phải chiếu theo thượng lệnh.
Quốc Toản đỏ mặt bừng bừng thét lớn :
– Ta chỉ xuống bến xin bệ kiến quan gia hai tiếng “Xin đánh”, kẻ nào giữ ta lại hãy nhìn lưỡi gươm này !
Viên tướng tái mặt, hô .quân sĩ vây kín Quốc Toản. Chàng liền vung gươm múa tít, không ai dám tới gần. Tiếng kêu, tiếng thét làm náo động cả bến sông. Vừa lúc ấy, cuộc họp ở dưới thuyền tạm nghỉ. Nghe tiếng ồn ào trên bến, thấy Hầu Văn đang giằng co với đám lính, Hưng Đạo Vương lật đật lên bờ hỏi cháu :
– Cháu không sợ tội chết hay sao mà đến đây ? Ai bảo cháu đến đây ?
Hoài Văn thưa :
– Cháu nghe tin vương tử họp các vương hầu bàn việc nước nên cháu đến xin góp sức.
– Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước. Cháu tự tiện đến đây đã là không phải, lại gây sự với quân lính, đây là tội chết.
Hoài Văn cúi đầu thưa :
– Cháu biết là mang tội lớn. Nhưng cháu trộm nghĩ, khi quốc biến thì đến đứa trẻ cũng phải lo huống hồ cháu đã lớn. Cháu chưa đến tuổi bàn việc nước nhưng cháu không thể ngồi yên được ! Vua lo thì thần tử cũng phải lo !
Nói xong, Quốc Toản chạy xồng xộc xuống bến, quỳ xuống tâu vua :
– Xin bệ hạ cho đánh ! Cho giặc mượn đường là mất nước !
Nói rồi, Hoài Văn run bắn, tự đặt thanh gươm lên gáy xin chịu tội. Vua Thiệu Bảo gật đầu, mĩm cười nhìn Hưng Đạo Vương, ôn tồn nói :
– Hoài Văn làm trái phép nước, tội ấy đáng lẽ không dung.
Nhưng Hoài Văn còn trẻ, tình cảnh cũng đáng thương, lại biết lo cho dân, cho nước, chí ấy đáng trần trọng.
Vừa lúc ấy, người nội thị bưng một mâm cỗ đi qua, Thiệu Bảo cầm một quả chín mọng, bảo nội thị thưởng cho Hoài Văn. Chàng đỡ lấy quả cam, tạ ơn vua, lủi thủi bước lên bờ. Lên đến nơi, Quốc Toản xòe bàn tay phải ra. Quả cam đã nát chỉ còn trơ bã.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 12
Năm đó, giặc Nguyên cho sứ thần sang giả vờ mượn đường để xâm chiếm nước ta. Thấy sứ giặc ngang ngược đủ điều, Trần Quốc Toản vô cùng căm giận.
Vào một buổi sáng, biết Vua họp bàn việc nước ở dưới thuyền rồng, Quốc Toản quyết đợi gặp Vua để nói hai tiếng “xin đánh”. Đợi từ sáng đến trưa, vẫn không gặp được, cậu bèn liều chết xô mấy người lính gác ngã chúi, xăm xăm xuống bến. Quân lính ập đến vây kín. Quốc Toản mặt đỏ bừng bừng, tuốt gươm, quát lớn:
– Ta xuống xin bệ kiến Vua, không kẻ nào được giữ ta lại.
Vừa lúc ấy, cuộc họp dưới thuyền rồng tạm nghỉ, Vua cùng các vương hầu ra ngoài mui thuyền.
Quốc Toản bèn chạy đến, quỳ xuống tâu:
– Cho giặc mượn đường là mất nước. Xin Bệ hạ cho đánh!
Nói xong, cậu tự đặt thanh gươm lên gáy, xin chịu tội.
Vua truyền cho Quốc Toản đứng dậy, ôn tồn bảo:
– Quốc Toản làm trái phép nước, lẽ ra phải trị tội. Nhưng xét thấy em còn trẻ mà đã biết lo việc nước, ta có lời khen.
Nói rồi, Vua ban cho Quốc Toản một quả cam.
Quốc Toản tạ ơn Vua, chân bước lên bờ mà lòng ấm ức: “Vua ban cho cam quý nhưng xem ta như trẻ con, vẫn không cho dự bàn việc nước”. Nghĩ đến quân giặc đang lăm le đè đầu cưỡi cổ dân mình, cậu nghiến răng, hai bàn tay bóp chặt.
Thấy Quốc Toản trở ra, mọi người ùa tới. Cậu xòe bàn tay phải cho họ xem cam quý Vua ban. Nhưng quả cam đã nát từ bao giờ.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 13
Ông Trạng Nguyễn Hiền
Ông cha ta vẫn thường dạy “Có chí thì nên”. Những người có ý chí, vượt qua những gian khổ đều sẽ gặt hái được thành công. Ông Trạng trong câu chuyện “Ông Trạng thả diều” chính là một người như vậy. Câu chuyện như sau:
Vào đời vua Trần Thái Tông, có một gia đình nghèo sinh được một cậu con trai. Cha mẹ cậu đặt tên là Nguyễn Hiền. Chú bé rất ham thả diều. Lúc còn bé, chú đã biết làm lấy diều để chơi.
Lên sáu tuổi, chú học ông thầy trong làng. Thầy phải kinh ngạc vì chú học đến đâu hiểu ngay đến đó và có trí nhớ lạ thường. Có hôm, chú thuộc hai mươi trang sách mà vẫn có thì giờ chơi diều.
Được ít lâu, vì hoàn cảnh nghèo quá, chú đành phải bỏ học. Ban ngày, những khi chú đi chăn trâu, dù trời có mưa gió thế nào, chú cũng đứng ngoài lớp nghe giảng nhờ. Tối tối, chú đợi bạn học thuộc bài mới mượn vở về học. Khi học, chú cũng đèn sách như ai. Nhưng sách của chú là lưng trâu, nền cát, bút là ngón tay hay mảnh gạch vỡ; còn đèn là vỏ trứng thả đom đóm vào trong. Dù chú bận làm, bận học như thế mà cánh diều của chú vẫn bay cao, tiếng sáo vẫn vi vút tầng mây. Mỗi lần có kì thi ở trường, chú làm bài vào lá chuối khô và nhờ bạn xin thầy chấm hộ. Bài của chú chữ tốt văn hay, vượt xa các học trò của thầy.
Vài năm sau, nhà vua mở khoa thi. Chú bé thả diều lên kinh làm sĩ tử, chú đỗ Trạng nguyên. Ông Trạng khi ấy mới có mười ba tuổi. Đó là Trạng nguyên trẻ nhất của nước Nam ta.
Ông Trạng Nguyễn Hiền mãi là một tấm gương sáng mà bao thiếu niên nước Nam ta cần học tập. Dù nghèo khó, thiếu thốn, chú vẫn học tài và trở thành Trạng nguyên. Tài năng của ông Trạng đã bay cao như chính những cánh diều mà ông đã thả lên vòm trời vậy.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 14
Tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện có tựa đề là: Thần Siêu luyện chữ mà tôi đọc được trên báo Thiếu niên Tiền phong 12-9-1975. Chuyện kể như sau:
Ở thế kỉ trước, có một đôi bạn học rất nổi tiếng, một người tên là Cao Bá Quát sức học như Thánh nên được người đời tôn là Thánh Quát. Một người nữa có tên là Nguyễn Văn Siêu, học giỏi lạ thường, gọi là Thần Siêu.
Thần Siêu nổi tiếng thần đồng ngay từ thưở nhỏ. Những người hay chữ thời ấy thường muốn được tận mắt nhìn thấy đôi câu đối chữ Hán rất khó mà mới mười hai tuổi cậu đã nghĩ được và dán ở nơi cậu ngồi học. Đại ý:
Đạo học xưa nay không dường tắt
Nhà tranh vẫn xuất hiện người tài
Suy nghĩ khác thường như thế, cậu miệt mài học tập và trở thành một người học rộng biết nhiều.
Nhưng đến năm cậu đi thi, các vị giám khảo thích thú phát hiện được một bài làm rất xuất sắc. Thí sinh ấy xứng đáng đỗ đầu hàng cử nhân. Đáng tiếc là chữ viết của anh ta quá xấu nên bị đánh tuột xuống hàng thứ hai. Đó chính là Thần Siêu. Chữ xấu còn làm hại anh ta một phen nữa. Sau khi đỗ cử nhân, ông vào kinh đô thi tiến sĩ. Cũng lại vì chữ xấu mà ông chỉ đỗ ở hạng phó bảng mặc dầu bài của ông đáng được đỗ đầu khoa thi. Bởi vậy mới có câu chê giễu:
Thần đâu mà chữ xấu như ma
Lọ lem cho người chẳng ngó ra.
Cái hại chữ xấu là như thế. Ông hiếu ra điều đó nên ngày đêm khố công luyện chữ. Cuối cùng cũng như Thánh Quát, Thần Siêu nổi tiếng văn hay chừ tốt. Ngày nay, ai có dịp di thăm Hồ Gươm, vào chơi đền Ngọc Sơn sẽ có dịp ngắm những hàng chữ đẹp của Thần Siêu còn lun giữ lại đấy.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 15
Phạm Ngũ Lão
Phạm Ngũ Lão là danh tướng trăm trận trăm thắng đời Trần. Ông đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên.
Phạm Ngũ Lão quê ở làng Phù ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Ông xuất thân trong một gia đình mấy đời làm nghề nông. Người cao to vạm vỡ, có sức khỏe phi thường, văn võ kiêm toàn, giàu chí khí, khao khát lập công danh của đấng tài trai thời loạn, giúp vua cứu đời.
Một hôm, ông ngồi dưới gốc đa đầu làng để vót nan đan sọt. Khi ấy, Trần Quốc Tuấn kéo binh mã từ Vạn Kiếp về Kinh đô Thăng Long đi qua làng Phù ủng. Quân tiền vệ quát tháo dẹp đường, nhưng ông vẫn ngồi im không cựa quậy. Một sĩ tốt lấy giáo đâm vào đùi, ông vẫn ngồi yên như không hề có chuyện gì xảy ra. Rồi xe Đại Vương đến. Ngài lấy làm lạ hỏi. Ông kính cẩn thưa:
– Xin Đại Vương tha tội. Tôi đang mải nghĩ một việc nên không để ý đến.
Nhìn gương mặt tuấn tú, tướng mạo oai phong của chàng trai, Vương càng lạ. Hỏi đến học hành, kinh truyện, binh thư,… chàng trai ứng đối đâu ra đấy. Vương cả mừng, sai người rịt thuốc rồi cho ngồi lên xe sau đưa về Thăng Long sung vào quân cấm vệ, coi giữ binh quyền. Một số tướng tá, sĩ tốt không phục, tâu xin được cùng Phạm Ngũ Lão đọ sức đua tài. Ông đã xin phép Triều đình được về quê một thời gian ngắn để thăm mẹ già và thu xếp việc gia đình. Phạm Ngũ Lão tập phi ngựa, bắn cung, phóng lao, múa giáo. Ông đắp một cái gò lớn ngoài đồng để nhảy qua. Không đầy một tuần trăng, ông luyện nhảy đã làm cho cái gò to trụt thấp xuống quá nửa. Ông còn mang những bao cát lớn nhảy qua mái nhà. Hết hạn nghỉ, ông trở lại Kinh thành. Cuộc đại tỉ thí đã diễn ra tại võ trường Giảng Võ. Các môn côn quyền, phóng lao, phi ngựa, bắn cung… không người nào địch nổi ông. Tay đấm, chân đá, đi lại vùn vụt như bay, đội quân cấm vệ mấy nghìn người phải cúi đầu khâm phục. Tiếng tăm ông lừng lẫy về võ nghệ cao cường. Ông luyện tập quân sĩ ngày một thiện chiến, đặc biệt tướng sĩ coi nhau như cha con, anh em. Sử sách gọi đó là “Phu tử chi binh” đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử có nhau. Ông đã tham dự nhiều trận đánh lớn tại ải Nội Bàng, tại Tây Kết, Vạn Kiếp, Hàm Tử Quan, Bạch Đằng Giang, v.v.v. xông pha giữa rừng gươm giáo, lập nên bao chiến công hiển hách, từng làm cho Toa Đô, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp,… bạt vía kinh hồn.
Khi vua Vạn Tượng dùng hàng nghìn con voi chiến đưa quân sang xâm lấn, đánh phá miền tây Nghệ An vua đã sai ông đem binh mã đến đánh. Phạm Ngũ Lão đã cho quân mai phục, đào hầm cắm chông, chỉ huy tướng sĩ dùng gộc tre, gậy tre quật làm gãy ngà voi, đập nát chân voi, tiêu diệt đội tượng binh của quân xâm lược.
Phạm Ngũ Lão được triều đình phong làm Điện súy Thượng tướng quân, được Hưng Đạo Vương gả con gái cho. Khi ông qua đời, được đúc tượng đồng thờ tại Kiếp Bạc đặt phía dưới bên phải tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Phạm Ngũ Lão hiện còn để lại hai bài thơ chữ Hán, một bài nói về Hưng Đạo Vương, một bài nhan đề là ‘Thuật hoài” được nhiều người truyền tụng. Đây là bài thơ dịch:
Tỏ lòng
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Bài thơ đã thể hiện khẩu khí và cốt cách phi thường của một trang anh hùng Đại Việt thuở “bình Nguyên’.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 16
Khi nói đến Hoàng đế Quang Trung, người ta thường nghĩ đến một vị vua bách chiến bách thắng, mưu trí dũng lược vô song với những chiến công oai hùng, với nghệ thuật quân sự thần tốc… Tuy nhiên, cũng giống như các vị “thiên tử” khác, xung quanh vị hoàng đế này có nhiều giai thoại huyền ảo, lạ lùng. Câu chuyện “Chữ hiện trên lá cây làm điềm báo” do cô giáo em kể đã để lại trong em nhiều ấn tượng khó phai. Thời anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mới khởi nghĩa, bỗng người dân khắp vùng đất Tây Sơn khi vào rừng kiếm củi, săn bắt thì thấy một chuyện lạ, trên các lá cây rừng lớn xuất hiện nhiều chữ. Những người có học đọc được thành câu: “Nguyễn Nhạc vi vương, Nguyễn Huệ vi tướng” (Nghĩa là: Nguyễn Nhạc làm vua, Nguyễn Huệ làm tướng), ai cũng cho là điềm lạ trời báo sự xuất hiện chân chúa cứu đời.Chuyện lạ đó nhanh chóng được lan truyền, dân chúng khắp vùng Tây Sơn thượng đạo, Tây Sơn hạ đạo cho đến các nơi khác rủ nhau nô nức đi theo anh em họ Nguyễn.Thực ra đây là một mẹo của Nguyễn Huệ, để thu hút quần chúng và lấy uy tín dựa trên những điềm báo thần kỳ mà người đương thời tin tưởng, ông đã lập kế học theo cách của vua Lê Thái Tổ khi xưa, bí mật sai người dùng mỡ viết chữ lên lá rừng, kiến ăn mỡ đục lá thành điềm trời báo để quần chúng kính phục. Chính vì thế ngày nay ở vùng Tây Sơn, Bình Định vẫn lưu truyền câu ca:
“Nguyễn Nhạc vi vương,
Nguyễn Huệ vi tướng”
Kiến trổ lá rừng
Trời trưng gươm báu…”.
Đây là một cách thu phục lòng dân rất đặc biệt, lá được kiến đục trổ thành chữ khi rụng xuống, theo dòng suối chảy về xuôi làm điềm trời báo cho dân. Nguyễn Huệ còn cho người thân tín dùng dao vạt các thân cây cổ thụ rồi khắc trên đó 8 chữ này cũng như để làm điềm trời báo về thiên mệnh đế vương của anh em nhà Tây Sơn vì thế cũng có câu rằng:
“Ai vô rừng cấm
Thấy tấm biển đề:
“Nguyễn Nhạc vi vương,
Nguyễn Huệ vi tướng”
Đồn đại bốn phương
Tây Sơn dấy nghĩa”.
Câu chuyện đơn giản song hết sức hấp dẫn không chỉ giúp em có thêm những kiến thức mà còn thêm khâm phục trí tuệ và sự thông minh của vua Quang Trung- người đã lãnh đạo quân và dân ta chiến thắng 29 vạn quân Thanh.
Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta – Mẫu 17
Tuần trước, trong giờ sinh hoạt lớp, cô em đã kể cho bọn em nghe rất nhiều những câu chuyện về những vị anh hùng và những danh nhân của nước ta. Nhưng trong số đó, em thích nhất là câu chuyện về Trần Quốc Toản.
Trần Quốc Toản là một quý tộc nhà Trần, sống ở thời vua Trần Nhân Tông. Ông là người có công trong Kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện “ Bóp nát quả cam” về Trần Quốc Toản. Lúc ấy, Trần Quốc Toản mới chỉ là một thiếu niên, mắt thấy giặc Nguyên cho sứ giả mượn đường xâm chiếm nước ta, nghênh ngang đi lại, Trần Quốc Toản vô cùng căm tức.
Vào một buổi sáng, Trần Quốc Toản nghe tin vua cho họp bàn việc nước ở dưới thuyền Rồng liền quyết đợi được vua để nói hai tiếng “Xin đánh”. Vậy nhưng đợi từ sáng đến trưa vẫn chưa thể gặp được vua Trần Nhân Tông, Trần Quốc Toản liều chết xô mấy người lính rồi xăm xăm bước xuống thuyền Rồng. Lính gác thấy thế ập đến ngăn lại, Trần Quốc Toản mặt đỏ bừng bừng rút gươm quát lớn : “
– Ta xuống xin bệ kiến Vua, không kẻ nào được giữ ta lại!
Vừa lúc đó, cuộc họp dưới thuyền Rồng tạm nghỉ, vua cùng các quan đại thần bước ra mui thuyền. Thấy vậy, Trần Quốc Toản chạy đến, quỳ xuống tâu:
– Cho giặc mượn đường là mất nước, xin bệ hạ cho đánh!
Sau đó, Trần Quốc Toản tự đặt thanh gươm lên gáy, xin chịu tội. Vua truyền Trần Quốc Toản đứng dậy, ôn tồn bảo:
– Quốc Toản làm trái phép nước, lẽ ra phải trị tội. Nhưng ta thấy ngươi còn nhỏ mà đã có lòng yêu nước, ta có lời khen.
Sau đó ban cho Trần Quốc Toản một quả cam. Trần Quốc Toản tạ ơn vua, bước lên bờ mà lòng vẫn ấm ức vì bị vua xem là trẻ con, không cho dự bàn việc nước.Nghĩ đến việc quân giặc đang lăm le đè đầu cưỡi cổ dân mình, ông nghiến răng, hai bàn tay siết chặt. Lúc ông trở ra, mọi người đều ùa đến hỏi thăm, Trần Quốc Toản xòe tay ra cho mọi người xem quả cam quý vua ban thì nó đã nát từ bao giờ. Sau đó, ông trở về huy động gia nô và người dân sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, thêu lên cờ sáu chữ “Phá cường địch, báo hoàng ân”.
Qua câu chuyện trên chúng ta đã thấy tinh thần yêu nước của Trần Quốc Toản. Ông đã không ngần ngại phạm vào phép nước để có thể xin vua cho dự bàn việc nước. Trần Quốc Toản khi ấy tuổi còn nhỏ nhưng đã có lòng yêu nước, căm thù quân giặc. Đó là một phẩm chất rất đáng quý ở con người ông.
Em rất thích câu chuyện này bởi nó ca ngợi người anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản cùng tấm lòng vì dân, vì nước của ông. Câu chuyện cũng giáo dục chúng ta về lòng yêu quê hương đất nước.
*****
Trên đây là 17 bài mẫu Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta lớp 5 hay, ngắn gọn do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng, dựa vào đây các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình.
Bài học được biên soạn bởi thầy cô trường THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học Tập
- Hãy viết một bài văn (khoảng 400 chữ) kể lại một trải nghiệm giúp tâm hồn em trở nên phong phú hơn (35 mẫu)
- Viết một đoạn văn khoảng 5 câu Tả một buổi chiều tối hoặc một đêm yên tĩnh ở vùng biển hoặc ở một làng quê (20 mẫu)
- Viết một đoạn văn khoảng 5 câu Tả một đám trẻ đang chơi đùa hoặc đang chăn trâu, chăn bò (15 mẫu)
- Hãy kể lại một câu chuyện em đã nghe hoặc đã đọc nói về truyền thống hiếu học hoặc truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam (17 mẫu)
- Em hãy lập chương trình cho hoạt động Thăm các chú công an giao thông hoặc công an biên phòng (5 mẫu)
- Em hãy lập chương trình cho hoạt động Phát thanh tuyên truyền về phòng cháy, chữa cháy (7 mẫu)