Học TậpLớp 12

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên bao gồm hướng dẫn viết cùng 7 bài mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn sẽ là tài liệu hữu ích cho các em học sinh lớp 12 trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết đoạn văn ngày một hoàn thiện hơn.

Đề bài: Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương [...] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên.
Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên.

Mục lục

Hướng dẫn Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12

Bài làm cần có các nội dung sau:

Bạn đang xem: Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)

– Phân tích lí giải hai loại văn chương: “Chỉ chuyên chú ở văn chương” và loại “Chuyên chú ở con người”.

+ Thế nào là văn chương “Chỉ chuyên chú ở văn chương”?Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý đến nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống,vân mệnh con người, không có trách nhiệm đối với xã hội.

+ Thế nào là văn chương “chuyên chú ở con người”? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết đến cuộc sống con người vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương ở chỗ nó có ích cho cuộc đời.

– Nêu ý kiến về quan niệm của Nguyễn Văn Siêu:

+ Vì sao loại đáng thờ là loại “Chuyên chú ở con người” chứ không phải loại “Chuyên chú ở văn chương”?

Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến chân giá trị của văn chương . Nếu văn chương không quan tâm đến con người thì văn chương sẽ tự đánh mất mình. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Cái tâm thường nuôi dưỡng, phát huy cái tài.

– Liên hệ đến các nhà văn có cùng quan điểm như Nguyễn Văn Siêu

Dàn ý:

1. Mở bài: Giới thiệu Nguyễn Văn Siêu đã nêu lên một quan niệm văn chương xác đáng và thuyết phục: ““Văn chương … là loại chuyên chú ở con người”

2.Thân bài:

a. Giải thích ý kiến của Nguyễn Văn siêu

  • Văn chương có hai loại: loại “đáng thờ” và loại “ không đáng thờ”
  • Văn chương “không đáng thờ” là loại văn chương chỉ chuyên chú ở “văn chương”, nghĩa là chỉ quan tâm đến việc gọt đẽo ngôn từ, chạy theo cái đẹp hình thức…
  • Văn chương “đáng thờ” là loại văn chương “chuyên chú ở con người”, quan niệm “văn học là nhân học”, văn chương là cuộc đời…

b. Bình luận, đánh giá, để xuất ý kiến

  • Trong thực tế một tác phẩm văn học nghệ thuật luôn luôn có hai mặt không thể tách rời nhau: nội dung và hình thức. Không thể nào khác được.
  • Quan niệm của “Thân Siêu”còn đề cao “chữ tâm” của người cầm bút đúng như Nguyễn Du từng nhấn mạnh: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Truyện Kiều).
  • Ngày nay, cần xác định rõ khái niệm “con người’ – đối tượng phục vụ của văn chương phải là con người lao động, nhân dân lao động chứ nhất định không thể là con người chung chung, trừu tượng, siêu hình.

3. Kết bài:

  • Khẳng định lại quan niệm của Nguyễn Vãn Siêu về văn chương
  • Quan niệm đó vẫn còn giữ nguyên giá trị tới hôm nay. Chúng ta tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn học chuyên chú ở con người với nhiều tác phẩm, không chỉ có nội dung và tư tưởng sâu sắc mà còn có hình thức nghệ thuật hấp dẫn lôi cuốn.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên – Mẫu 1

Sách là một nguồn tri thức quý báu của nhân loại nhưng cũng có loại sách xấu và loại sách tốt, con người sống ở đời cũng có người xấu và người tốt. Văn chương cũng vậy, nó cũng có loại đáng tôn thờ và loại không đáng tôn thờ. Bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu từng nhân định rằng: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”.

Xét nhận định trên ta có thể thấy rằng tác giả muốn thể hiện quan niệm của mình về văn chương. Không phải cứ văn chương là nên tôn thờ, không phải một tác phẩm văn chương nào cũng hướng cho con người ta đến những giá trị tốt đẹp. Nếu như người viết chỉ chú trọng vào những câu văn xáo rỗng, để ý tới nghệ thuật nhiều hơn là nội dung, câu văn mỹ miều nhưng lại không hề có ý nghĩa thì đó không phải là tác phẩm mà ta đáng tôn thờ. Trái lại những tác phẩm văn chương mà chú trọng đến con người, lấy nghệ thuật và nội dung để chuyển tải những triết lí sống, những cuộc đời của con người thì đó mới là văn chương đáng tôn thờ.

Văn chương chuyên chú ở văn chương là loại văn chương không có nhiều ý nghĩa đối với con người. Những tác phẩm kiểu này giống như một bài hát nghe thì có vẻ bắt tai đấy nhưng ngôn từ của nó thì lại chẳng có ý nghĩa gì, chỉ một vài ba câu chữ ghép lại chẳng có ý nghĩa mấy. Sức mạnh của văn chương đã được rất nhiều người khẳng định, Thạch Lam từng nói văn chương là “một thứ khí giới thanh cao mà đắc lưc” nó khiến cho tâm hồn con người thanh lọc và cũng vạch trần xã hội giả dối. Thế nhưng khi văn chương không chuyên chú đến con người thì đó không còn là văn chương thực sự nữa. Vì văn chương có chức năng giáo dục, nhận thức mà thẩm mỹ đối với con người. Thực tế cho thấy, khi xã hội phát triển những câu chuyện ngắn trên mạng được đăng tràn lan. Ở đó ta có thể bắt gặp những câu chuyện về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình. Nhưng với cách viết chú trọng vào hình thức văn bản mà không chú trọng đến nội dung ý nghĩa của nó. Vả lại trước khi viết một tác phẩm hay làm bất cứ một việc gì việc đầu tiên chúng ta cần xác định chính là đối tượng của tác phẩm ấy là ai. Nếu không xác định được điều đó thì một tác phẩm văn chương viết ra chẳng dành cho ai, chẳng biết là dành cho độ tuổi nào thì đó không phải là loại văn chương đáng để con người ta tôn thờ.

Trái lại, những tác phẩm văn chương đáng tôn thờ là những tác phẩm biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội dung và nghệ thuật, lấy cái nghệ thuật để làm nổi bật nội dung, ý nghĩa và tư tưởng cảm quan của mình. Một tác phẩm văn chương đáng tôn thờ bao giờ cũng xác định được đối tượng trước khi viết. Những tác phẩm văn chương ấy phải hướng đến con người, không văn hoa sáo rỗng, không mơ mộng, không dùng những câu văn mỹ miều mà chẳng có ý nghĩa gì. Trong nền văn học Việt Nam ta có biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đáng tôn thờ vì nó luôn chú trọng đến con người. Ví dụ như Vợ Nhặt của Kim Lân là văn chương đáng tôn thờ vì  tác phẩm ca ngợi được vẻ đẹp tình thương mến lá lành đùm lá rách của nhân dân ta luôn tỏa sáng kể cả trong hoàn cảnh khó khăn của nạn đói. Đó còn là vẻ đẹp đất nước, sự tự hào về truyền thống văn hóa, về tinh thần yêu nước và căm thù giặc, về tự tôn dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Du với tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều cho đến Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu… đều lấp lánh những áng văn chương đáng tôn thờ đến ngàn đời.

Như vậy có thể thấy, nhận định của Nguyễn Văn Siêu về văn chương thật đúng đắn và chính xác. Văn chương cũng có loại tốt và loại không tốt, loại đáng tôn thờ và loại không đáng tôn thờ. Một tác phẩm văn chương đáng tôn thờ phải là một tác phẩm để lại cho đời, cho người nhiều giá trị tốt đẹp, nhiều ý nghĩa khuyên răn con người sống hướng thiện.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên – Mẫu 2

Nguyễn Văn Siêu nổi danh chính là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ lên thành “Thần Siêu, Thánh Quát”. Trong văn chương thì Nguyễn Văn Siêu cũng là một trong những văn sĩ thật tài năng, ông có nhiều những cống hiến để đời. Và kho bàn luận về văn chương thì ông cũng đã đưa ra quan điểm của mình về văn chương một cách khá rõ ràng “Văn chương có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Quan niệm này thực sự cũng tốn nhiều giấy mực, tranh cãi của nhiều người.

Đầu tiên ta cũng cần phải hiểu được vì sao Nguyễn Văn Siêu nói được “Văn chương chuyên chú ở văn chương”. Ý của câu nói này đó chính là để chỉ loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, và nhà văn luôn luôn cố gắng để có thể tìm những chữ thật “kêu”, những chữ thật “đắt” sử dụng các điển tích cổ bí ẩn…nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, và đồng thời cũng chính là nói đến loại “văn” không cần biết nội dung. Còn xét về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức mà chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Bên cạnh đó thì ý của câu “Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương mà tác giả cũng đã cố gắng viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người sao cho con người chính là chủ thể, là tung tâm của tác phẩm văn học.

Nói một cách khác thì nó cũng lại còn có tác dụng đó là “làm cho người gần người hơn”. Nói tóm lại ta có thể hiểu được rằng ý của cả câu nói mà Nguyễn Văn Siêu như nói rằng văn chương chỉ có giá trị khi nó được lấy nguồn cảm hứng từ chính con người. Từ con người, và cũng lại vì con người thì thức văn chương đó mới có giá trị. Và người ta vẫn luôn luôn tự nhủ rằng “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Nguyễn Văn Siêu dường như cũng lại thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người cà và loại văn chương như thế là loại “không đáng thờ”. Đã không đáng thờ tức là không đáng để đọc, để học hỏi và nó còn không được coi là văn chương nữa. Văn chương cũng luôn cần đến khối óc của những vị kỹ sư tâm hồn chứ đâu cần những “người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho”.

Thực sự nếu như không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bất đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương mà dường như nó cũng chỉ “một tấc đến trời” mà thôi. Người nghệ sĩ cũng làm sao có thể sáng tác được một tác phẩm có giá trị không thể nào có thể ngồi trong cung điện mà viết về đời sống kham khổ của những người dân trong xã hội kia. Và như ai đó đã nói câu “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Bởi “Nhà văn chính là người hư ký trung thành của thời đại” cho nên nhà văn phải đi ra mà chứng kiến để có thể viế về cuộc sống, viết về con người. Văn học luôn luôn phải ánh những biến cố, những điều mới lạ, lịch sử,… và đích đến nó chính là con người. Mỗi bài học, mỗi tác phẩm văn học hay “đáng thờ” phải luôn luôn hướng đến con người và cũng vì con người. Vì nếu tác phẩm không viết về con người, không hướng đến con người không mang lại những giá trị chân – thiện – mỹ thì chắc chắc rằng tác phẩm văn học đó dường như cũng nhanh chóng đi vào quên lăng mà thôi. Còn ngược lại những tác phẩm kinh điển như vẫn còn tồn tại với thời gian năm tháng, hết thế hệ này đến thế hệ kia thì nó lại luôn lấy cảm hứng từ con người và vì con người.

Nếu như mà văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ cơ chứ? Nói như Ngô Thi Sĩ thì “Văn chương phải có quan hệ với đời”, làm sao có thể tách bạch cuộc đời với nghệ thuật được. Người ta cũng nhận thấy được nhà văn L. Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì ông cũng đã thấu hiểu được cảnh chinh chiến, ông cũng đã từng một thời xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Chắc chắn nếu như người thi sĩ mà lại “đóng cửa phòng văn hì hục viết thì làm sao một tác phẩm “Chiến tranh và hoà bình” được trở thành một tác phẩm kinh điển được cơ chứ? Và nếu như mà không gắn bó, đau đời Nguyễn Du có một “Đoạn trường tân thanh” nức tiếng không? Văn chương không thể cứ đóng phòng văn mà tìm được những mỹ từ hay, thật nghệ thuật thì đã thành văn chương được. Nó chỉ là những từ sáo rỗng và thậm chí người ta đọc cũng cảm thấy sự khó hiểu, khó chịu. Làm sao có thể viết lên được những lời lễ mà mang được sự tin cậy khi chính bản thân nhà văn còn chưa được trải quan, chưa được biết đến.

Người đọc cũng có thể thấy được chính quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào chính giai đoạn văn học 1930-1945. Ở giai đoạn văn học này cũng đã lại lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người và như vậy tác phẩm viết ra mới chiếm được nhiều tình cảm của mỗi người. Bởi sáng tác văn chương cũng như một tấm gương vậy, người ta có thể nhìn thấy chính họ trong đó, những tác phẩm văn chương nói lên được nỗi lòng của chính họ và đây mới thực sự là “văn chương đáng thờ”

Thực sự để mà nói thì nhắc đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu dường như cũng đã muốn nói đến cái giá trị của văn chương. Giá trị của nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì chúng ta cũng có thể nhận thấy được chính văn chương phải vì con người, văn chương cũng phải vì cuộc sống con người. Văn chương luôn luôn phải hướng đến Chân – Thiện- Mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái. Văn chương phải hoàn thành nhiệm vụ của chính nó đó là cũng có nhiệm vụ là phải đem đến cho con người một cái nhìn thật mới từ trong những cái đã quá quen thuộc.

Trong các tác phẩm văn chương thì làm sao mà có một thứ văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng cơ chứ? Nói như nhà văn M.Gorki đã khẳng định : “Văn học là nhân loại” cho nên chúng ta cũng cần phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng văn chương như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó được. Đã là văn chương thì nó cũng phải mang vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật trước đã, nó phải là một tác phẩm nghệ thuật trước thì mới có thể truyền tải được nội dung. Giống như một cái chai rượu vậy, phải có cái vỏ thì rượu – nội dung bên trong mới được chứa đựng. Và hình dạng vỏ như nào thì nội dung cũng chịu tác động ít nhiều.

Một nhà văn giỏng là một nhà văn biết hòa quyện được mặt nội dung cũng như hình thức của tác phẩm văn học với nhau. Viết về con người nhưng phương thức biểu đạt ra như thế nào để người đọc tiếp nhận được mới là cái tài của nhà văn. Chính vì thế mà chúng ta không nên xem nhẹ nội dung hay hình thức quá. Tuy nhiên đánh giá chung của Nguyễn Văn Siêu cũng vẫn còn đúng đắn khi nói như muốn nhắn nhủ những nhà văn hãy mở lòng ra, đi thực tế và viết những tác phẩm hướng đến con người.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu như cũng nhận được đông đảo những phản ứng trái chiều của nhiều giới văn sĩ với hai trường phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh”. Và một tác phẩm có thể đạt đến đỉnh cao, tác phẩm “đáng thờ” thì nó phải mang đến sự hai hòa về cả hai phương diện này. Dù sao đi chăng nữa ý kiến của văn sĩ cũng thật đáng học hỏi cho thế hệ người nghệ sĩ sáng tạo ngôn từ nay và mai sau học tập.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên – Mẫu 3

Mỗi người nghệ sĩ tùy theo phong cách nghệ thuật cá tính sáng tạo và tư tưởng thẩm mĩ mà có những quan niệm riêng về văn chương. Có người cho rằng văn chương không phải từ người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, mà văn chương phải là sự khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Hay có người lại cho rằng văn chương phải là sự thoát ly hay lãng sự lãng quên, nhưng cũng có người cho rằng văn chương phải là những sự thật ở đời,phải là những tiếng đau khổ phát ra từ những kiếp lầm than. Với Nguyễn Văn Siêu, ông cho rằng “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loai chuyên chú ở con người”. Nguyễn Văn Siêu đã bày tỏ quan điểm của mình về văn chương. Theo ông thì văn chương có hai loại là văn chương đáng thờ và văn chương không đáng thờ. Văn chương không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú văn chương, còn văn chương đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.

Vậy chúng ta hiểu như thế nào về văn  chương chỉ chuyên chú ở  văn chương? Văn chương chuyên chú ở văn chương là loại văn chương không có nhiều ý nghĩa đối với con người. Những tác phẩm kiểu này giống như một bài hát nghe thì có vẻ dễ nghe, bắt tai nhưng ngôn từ của nó thì lại chẳng có ý nghĩa gì, chỉ một vài ba câu chữ ghép hết sức giản đơn và tẻ nhạt.  Sức mạnh của văn chương đã được rất nhiều người khẳng định, Thạch Lam từng nói văn chương là “một thứ khí giới thanh cao mà đắc lưc” nó khiến cho tâm hồn con người thanh lọc và cũng vạch trần xã hội giả dối. Thế nhưng khi văn chương không chuyên chú đến con người thì đó không còn là văn chương thực sự nữa. Vì văn chương có chức năng giáo dục, nhận thức mà thẩm mỹ đối với con người. Thực tế cho thấy, khi xã hội phát triển những câu chuyện ngắn trên mạng được đăng tràn lan. Ở đó ta có thể bắt gặp những câu chuyện về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình. Nhưng với cách viết chú trọng vào hình thức văn bản mà không chú trọng đến nội dung ý nghĩa của nó. Vả lại trước khi viết một tác phẩm hay làm bất cứ một việc gì việc đầu tiên chúng ta cần xác định chính là đối tượng của tác phẩm ấy là ai. Nếu không xác định được điều đó thì một tác phẩm văn chương viết ra chẳng dành cho ai, chẳng biết là dành cho độ tuổi nào thì đó không phải là loại văn chương đáng để con người ta tôn thờ.Thể loại văn chương này chỉ chạy theo thị hiếu của con người, nó sáo rỗng vô cùng.

Ngược lại chúng ta có thể hiểu rằng văn chương đáng được tôn thờ là văn chương chuyên chú ở con người. Đó là những tác phẩm thực sự có giá trị nghệ thuật , giá trị nhân văn sâu sắc.  Nguyễn Văn Siêu đã rất đúng đắn khi đặt ra một yêu cầu cho văn chương  chân chính đó phải là tiếng nói hơi thở của cuộc sống đời thường đưa ra nhiệm vụ phản ánh hiện thực cho văn chương. Yêu cầu này đòi hỏi ở nhà văn một sự tinh tế nhạy cảm thức nhận  các giác quan rất cao để có thể quân sự cuộc sống nhập thân vào cuộc sống để khám phá tìm tòi. Một tác phẩm ưu tú “không đem đến một cách cho người đọc sự thoat ly hay sự quên” nó đem đến cho người đọc hơi thở nhịp đạp của chính cuộc đời cho người đọc những “bài học trông nhìn và thưởng thức” (Theo dòng). “Tác phẩm văn nghệ phải thể hiến sự sống thật hơn là sự sống bình thường cô đọng hơn khái quát hơn cao hơn cuộc sống mà văn là cuộc sống” (Trường Chinh). Người nghệ sĩ phải nhận thức phản ánh cuộc sống có lý tưởng chứ không phải mình họa lý tưởng cuộc sống. Lý tưởng nằm ngay trong cuộc sống chứ không tách ra khỏi cuộc sống không khiến người ta toát ly  hay quên lãng. Văn chương chân chính không phải là công thức sao chép nô lệ hiện thực mà phải thể hiện sự sáng tạo độc đáo nghiêm túc của ngời nghệ sĩ. Quá trình sáng tạo ấy là quá tình nhà văn gom góp nhặt nhạnh chắt chiu những mảnh đời những số phận thu nhận vào mình muôn vẻ của cuộc sống ngoài kia để trải nghiệm chúng. Chỉ có công phu và sáng tạo như vậy tác phẩm văn chương mới chở đi được linh hồn của cuộc sống bắt người đọc phải hướng về cuộc đời mà tìm kiếm khám phá say mê. Văn chương chân chính nhất định không phải là thứ  văn dễ dãi người đọc không hiểu gì. Trong nền văn học Việt Nam ta có biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đáng tôn thờ vì nó luôn chú trọng đến con người. Ví dụ như Vợ Nhặt của Kim Lân là văn chương đáng tôn thờ vì  tác phẩm ca ngợi được vẻ đẹp tình thương mến lá lành đùm lá rách của nhân dân ta luôn tỏa sáng kể cả trong hoàn cảnh khó khăn của nạn đói. Đó còn là vẻ đẹp đất nước, sự tự hào về truyền thống văn hóa, về tinh thần yêu nước và căm thù giặc, về tự tôn dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Du với tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều cho đến Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu… đều lấp lánh những áng văn chương đáng tôn thờ đến ngàn đời.

Như vậy, có thể thấy Nguyễn Văn Siêu thật tinh tế và đưa ra được quan điểm đúng đắn về văn chương. Để rồi, người viết cũng như người đọc biết cách sáng tạo, lựa chọn những tác phẩm văn chương thực sự hữu ích, có ý nghĩa, những tác phẩm văn chương đáng được tôn thờ.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên – Mẫu 4

Vào thế kỷ trước, dưới sự thay đổi hoàn cảnh đất nước, hệ tư tưởng mới, hiện đại dần thay thế những tư tưởng lạc hậu, phong kiến, đó là kết quả của sự du nhập nền văn hóa tư sản, vô sản một cách nhanh chóng, sự tiến bộ mang tính toàn thế giới ấy đã nhanh chóng khiến nền văn hóa phong kiến trung đại bị vượt mặt vì sự chậm nhiệt và tính chất khu vực của nó. Điều ấy đã diễn ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi và gay gắt giữa các nhà làm nghệ thuật về quan niệm cái mới và cái cũ, nổi bật có thể kể đến phong trào thơ Mới nổi lên như một hiện tượng làm khuynh đảo nền văn học Việt Nam những năm 1932-1941 với nhiều tác giả tên tuổi như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,… Không chỉ có sự đấu tranh trong phong cách làm nghệ thuật, mà giai đoạn này còn nổi lên cuộc bút chiến không nhân nhượng giữa hai trường phái “nghệ thuật vị nhân sinh” do Hải Triều đứng đầu và “nghệ thuật vị nghệ thuật” do Hoài Thanh khởi xướng, cuộc tranh luận đã diễn ra trong một khoảng thời gian tương đối dài (1935-1939). Tuy nhiên việc tranh luận về tư tưởng văn học là một cái gì đó rất phức tạp khó có thể phân định thắng hay thua, chỉ đến khi cách mạng thành công, các hệ tư tưởng Mác – Lênin xâm nhập vào tư tưởng nhân dân, thì lúc này đây người ta mới chính thức nhận định quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh” là đúng đắn, còn “nghệ thuật vị nghệ thuật” là sai lầm, làm cho nền văn học nước nhà kém phát triển cũng như có hại cho cách mạng, thì cuộc chiến mới hoàn toàn kết thúc. Sớm nhận ra được tính đúng đắn của văn chương hàng trăm năm, trước cả khi cuộc bút chiến trên xảy ra, trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương có loại đáng thờ, có loại ko đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”.

Thế nào là văn chương? Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì “Văn chương là một hình thái tư tưởng nghệ thuật bằng ngôn ngữ của con người”, hay theo S. Langer: “Văn chương là sự sáng tạo hình thức ký hiệu tình cảm nhân loại”, hoặc cũng có thể nói văn chương bằng một quan niệm rộng rãi hơn “Tác phẩm văn chương là một sinh thể tinh thần của con người và xã hội”. Chung quy lại người ta sẽ không bao giờ định nghĩa được hoàn toàn văn chương chỉ bằng đôi ba câu nói bởi văn chương không phải là một phạm trù nhỏ lẻ, mà nó là tổng hòa của rất nhiều hệ tư tưởng, ý thức khắp nơi trên thế giới cùng tụ lại, ai cũng có thể đưa ra một quan niệm về văn chương cho riêng mình, thế nhưng chẳng ai có thể khẳng định đó là quan niệm duy nhất và đúng nhất.

Đó là về văn chương, vậy thế nào là văn chương đáng thờ và không đáng thờ theo lời của Nguyễn Văn Siêu, “thờ” ở đây là tôn thờ, theo nghĩa cung kính, trân trọng, hết sức nâng niu một thứ quý giá, có ý nghĩa to lớn. Như vậy có thể hiểu văn chương đáng thờ là tác phẩm phải có giá trị, có ý nghĩa xứng đáng được xem trọng, tôn thờ và ngược lại văn chương không đáng thờ thì tôi nghĩ rằng đó là thứ văn không tồn tại bao nhiêu ý nghĩa, hoặc không hướng đến những giá trị có lợi, hoặc không có vai trò làm phát triển nền văn học nước nhà. Nguyễn Văn Siêu cũng bổ sung và nhấn mạnh tính đáng thờ của văn chương ở chỗ chuyên chú ở con người mà ta có thể hiểu đó là tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh”, còn không đáng thờ nghĩa là chỉ nhắm vào thứ nghệ thuật trừu tượng, chỉ chuyên chú ở văn chương, nhưng không mang lại những giá trị nhân văn, phục vụ cho cuộc sống tinh thần của con người. Quan niệm này của Nguyễn Văn Siêu là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp trong hoàn cảnh đất nước hiện tại, một đất nước của dân, do dân, vì dân, một đất nước với hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí đến cả Hoài Thanh, chủ soái của trường phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong bài Nhìn lại cuộc tranh luận về nghệ thuật hồi 1935 – 1936 in trên Tập san Nghiên cứu văn học số 1 tháng 1-1960, cũng tỏ rõ một thái độ tự phê vừa rất chân thành vừa rất gay gắt, với những câu như: “Phái vị nghệ thuật trước sau cố từ chối không chịu nhận cái danh hiệu ấy…Nhưng thái độ của họ trên thực chất là một thái độ thoát ly chính trị mà thoát ly chính trị không vị chính trị thì còn vị gì? Cho nên gọi họ là phái nghệ thuật vị nghệ thuật cũng là phải”. Không chỉ vì hoàn cảnh đất nước, hay bất kỳ một tư tưởng buộc phải gò ép cho là đúng nào khác mà tôi nghĩ rằng, nghệ thuật xuất phát từ khối óc và nội tâm của con người thì trước tiên nó phải nên “ích kỷ” là vì con người chứ không phải là bất kỳ một điều gì khác, và giống như M. Gorki nói “Văn học là nhân học”.

Văn chương đáng thờ chính là văn chương chuyên chú và tập trung vào con người, nó xoay quanh cuộc sống của con người, từ chính những điều tưởng dung dị và tầm thường mà làm nên nghệ thuật, một thứ nghệ thuật quý báu, chân thực chứ không phải là cung trăng, chị Hằng hay một cõi thần tiên, bát quái xa xôi. Văn chương không cần phải trau chuốt, chọn lọc những thứ quá ư hoàn mỹ, bởi thú thực rằng văn chương viết ra để cho con người bình thường đọc thì chí ít cũng nên viết những cái gì họ có thể hiểu, có thể thấm thía thì mới có giá trị. Như nhà văn Nam Cao đã từng nói “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”. Văn chương khi lấy con người làm trung tâm, khắc họa số phận của con người, hoàn cảnh đất nước trong những giai đoạn lịch sử khác nhau thì thực sự là vô cùng quý giá, đâu phải tự dưng Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du lại được xem là tác phẩm kinh điển của cả nền văn học Việt Nam từ xưa tới nay. Ở Truyện Kiều cái cốt yếu đi vào lòng người đọc chính là lòng nhân đạo của tác giả đối với số phận bất hạnh của kiếp hồng nhan trong xã hội cũ, từ đó tố cáo sự bất công, ngang trái của chế độ phong kiến, hơn thế nữa chính về tập trung vào con người thế nên Nguyễn Du mới có thể gợi mở hầu hết những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nàng Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn. Phải nói rằng từ xưa tới nay hiếm có tác phẩm nào lại đạt được những nội dung và giá trị nhân văn sâu sắc, đi sâu vào lòng người đến mức nhắc tới văn học Việt Nam thì phải kể đến Truyện Kiều trước tiên. Đó là xưa Truyện Kiều đã nổi lên như một tác phẩm vị nhân sinh vĩ đại bậc nhất, thì ngày nay lại càng có nhiều tác giả nhận ra điều đúng đắn ấy, ví như Nguyễn Huy Tưởng trong tác phẩm Vũ Như Tô với câu nói “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”, Cửu Trùng Đài tuy đẹp đấy, lý tưởng đấy thế nhưng nó đã để lại gì ngoài sự khốn khổ và phẫn nộ cho nhân dân, đó là một bài học sâu sắc về cái gọi là “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Rồi đến nhiều nhà văn hiện thực giai đoạn trước cách mạng, người ta lại càng thấy rõ vai trò và vị trí của những tác phẩm “nghệ thuật vị nhân sinh”, người ta thấy một xã hội thần quyền, cường quyền tàn ác thông qua Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, người ta thấy một xã hội thượng lưu đáng ghê tởm, mục nát với cái vẻ ngoài hào nhoáng thông qua Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Rồi người ta cũng lại nhìn thấy cái bất hạnh của những con người dưới đáy xã hội cũ trong các tác phẩm của Nam Cao, đó cái bi kịch bị tước đi quyền sống, quyền làm người của Chí Phèo, hoặc cái nạn đói khủng khiếp năm 45 trong Vợ nhặt đã hành hạ, dằn vặt con người ta đến mức khốn khổ, hoặc là cái bi kịch “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất” trong Đời thừa của người trí thức nghèo,…

Nhưng văn chương đáng thờ có phải chỉ dừng lại ở việc phản ánh một xã hội hiện thực hay không? Dĩ nhiên là không mà theo như ý của Thạch Lam “Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn chương vừa phơi bày, ghi lại những gì đã diễn ra ở xã hội người như một cuốn nhật ký đầy cảm xúc, đồng thời văn chương cuối cùng là cốt đến sự thay đổi thế giới loài người, đó mới là cái mà văn chương đáng thờ đang làm và đã làm một cách xuất sắc. Từ Truyện Kiều, đến Số đỏ, Chí Phèo, Đời Thừa, Vợ nhặt, Sống mòn, Lão Hạc,… và rất nhiều tác phẩm khác đều có một mục tiêu duy nhất chính là phải thay đổi cái xã hội bất công này, thúc giục, khai mở trong tâm hồn con người những quan niệm, tư tưởng mới, hướng con người đến với cách mạng để có một tương lai tốt đẹp hơn. Không chỉ dừng lại ở đó văn chương đáng thờ còn phải “gây cho ta những tình cảm ta không có luyện những tình cảm ta sẵn có”, nó phải tập trung vào xây dựng nhân cách, đạo đức và tâm hồn của con người như tình cảm gia đình, tình cảm với quê hương, đất nước, dân tộc, lòng bao dung, bác ái,… Đó phải kể đến những tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, của Hồ Chí Minh và các tác giả viết về đề tài kháng chiến như Tố Hữu, Tô Hoài, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi,… đều làm rất xuất sắc vấn đề này.

Trên đây là một số quan điểm về văn chương đáng thờ, còn văn chương không đáng thờ, thực tế tôi nghĩ rằng đó là thứ văn chương đơn thuần chỉ để thưởng thức mà không có ý nghĩa gì thêm nữa. Tác giả không đặt con người làm trọng tâm, thay vào đó họ thích lấy những tiêu chuẩn, chuẩn mực hoàn mỹ nhất định để trau chuốt cho tác phẩm của mình, nhưng cái hậu quả của việc chăm lo bề ngoài quá đó chính là phần nội dung rỗng tuếch thiếu thiếu thuyết phục. Đọc một lần có thể người ta thấy hay, người ta sẽ khen đôi lời như là văn hay, chữ tốt, hoặc nhịp văn mạch lạc, nhưng tuyệt chẳng có bao giờ người ta nói gì về nội dung, bởi có chi đâu mà nói. Một tác phẩm mà không khiến người ta suy ngẫm, trăn trở, không khiến con người ta thấm thía hay nhận ra một cái gì đó thì thực tế không có bao nhiêu giá trị cả. Trong lúc bút chiến với nhóm Tự lực văn đoàn Vũ Trọng Phụng cũng từng phát biểu quan điểm của mình rằng: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”, mà thực tế thì những cái gì đi quá xa tầm với của con người thường người ta không mấy mặn mà, quan tâm, bởi nó không khơi gợi được cho họ những cảm xúc thật, những rung động tự trong tâm hồn, Vũ Trọng Phụng và nhiều nhà văn đã nắm rất rõ điều ấy. Ví như Cửu Trùng Đài trong Vũ Như Tô, mặc dầu nó không phải là một tác phẩm văn chương, thế nhưng tôi muốn lấy nó làm ví dụ để mọi người có thể hiểu được cái “nghệ thuật vị nghệ thuật” nó tai hại đến mức nào. Xuất phát điểm nó là lý tưởng của nhân vật chính, lý tưởng về một công trình kiến trúc hoàn hảo”bền như trăng sao”, có thể “tranh tinh xảo với hóa công” cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện”, thế nhưng chính vì cái mù quáng “nghệ thuật vị nghệ thuật” của Vũ Như Tô đã khiến cho tòa lâu đài tráng lệ ngày càng xa vời với nhân dân, một tòa kiến trúc tráng lệ mọc trên xương máu, mồ hôi và sự nghèo đói của nhân dân thì dẫu đẹp cũng có ý nghĩa gì. Kết cục về sự diệt vong của Vũ Như Tô và tòa lâu đài cũng chính là kết cục của tư tưởng “nghệ thuật vị nghệ thuật”.

Nguyễn Văn Siêu dù phủ nhận thứ văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương, chuộng hình thức, thế nhưng một tác phẩm văn chương đáng thờ, có giá trị thì hình thức nghệ thuật của nó cũng không thể tầm thường được. Có thể rằng nhiều nhà văn viết về cùng một chủ đề ấy, nhưng chính những nét nghệ thuật, sự sáng tạo trong cách xây dựng, hệ thống tác phẩm đã làm nên phong cách của người nghệ sĩ, làm nên những giá trị riêng cho từng tác phẩm. Ví như Nguyễn Du với bút pháp tả cảnh ngụ tình, tài sử dụng thể thơ lục bát xuất sắc đã làm nên Truyện Kiều kinh điển cả về nội dung lẫn hình thức, đi sâu vào lòng người đọc, Thạch Lam với lối viết truyện không cần cốt truyện lại trở thành một nhà văn tinh tế có tài quan sát và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Hoặc một Vũ Trọng Phụng với giọng văn châm biếm, không nhân nhượng, một Nam Cao với giọng văn giản dị, chân thực, xót xa, một Nguyễn Khoa Điềm với tư tưởng triết luận trữ tình sâu sắc gắn liền với chất liệu văn hóa dân gian, hoặc một Xuân Diệu say mê cuồng nhiệt, một Huy Cận say mê, nồng nhiệt,… Tất cả các nhà văn, nhà thơ trên đều khiến những tác phẩm của mình trở nên độc đáo thu hút theo những cách rất riêng, không phụ thuộc vào một khuôn mẫu nào cả. Đó mới thực là văn chương chân chính, văn chương đáng thờ.

Văn chương từ trước tới nay vẫn luôn là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người, văn chương xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan của con người, văn chương ghi lại những biến đổi trong xã hội tựa như những trang nhật ký quý giá và giàu cảm xúc. Thế nhưng không phải thứ văn chương nào cũng có thể làm tốt vai trò ấy, bởi suy cho cùng văn chương cuối cùng vẫn là để phục vụ con người, thì văn chương đáng thờ chỉ có thể là những tác phẩm hướng về cuộc sống, hướng về con người mới có thể thỏa mãn tất thảy, vừa thỏa mãn về giá trị nội dung sâu sắc mang tính nhân văn vừa có những giá trị nghệ thuật đẹp đẽ, riêng biệt của từng tác phẩm.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên – Mẫu 5

Mục đích và ý nghĩa của sáng tác văn chương là gì? Giá trị thật sự của văn chương là ở đâu? Những câu hỏi ấy thường đặt ra đối với người cầm bút xưa và nay.

Vào giữa những năm ba mươi của thế kỉ XX, văn học nước ta đã nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi về chính vấn đề đó: “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”? Thực ra, không phải tới bây giờ, vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu của lí luận văn học đó mới được đặt ra và mới có những câu trả lời khác nhau của hai phải có hai quan điểm văn chương khác nhau. Từ xưa, cha ông ta đã từng suy nghĩ và phát biểu ý kiến về vấn đề này. Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872) – một danh sĩ đời Nguyễn, văn chương nổi tiếng như Cao Bá Quát và được nhiều người đương thời gọi là “thần Siêu, thánh Quát” – đã nói rất rõ quan điểm của ông: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.”

Thế nào là văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương”? Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống, đến vận mệnh con người, không có trách nhiệm xã hội nào.

Biểu hiện của khuynh hướng này cũng đa dạng với những mức độ nặng nhẹ, mức độ tự giác khác nhau, trong những thời đại văn học khác nhau, thuộc những trào lưu khác nhau…

Đối với những văn nhân, thi nhân thời xưa thì “chuyên chú ở văn chương” có nghĩa là chỉ chăm chú gò câu đẽo chữ, tìm chữ cho kêu, đặt câu cho khéo, đối cho thật chỉnh, âm điệu thật réo rắt… Hoặc chỉ miệt mài với những trò tiểu xảo cầu kì, như dùng điển tích lắt léo, gieo vần oái oăm, nghĩ ra những kiểu thơ rắc rối kì khu. Hoặc chỉ biết ngâm vịnh phù phiếm, thơ chỉ toàn có Máy, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Hồ Chí Minh đã từng nhận xét loại “thơ xưa” thiên về yêu cảnh thiên nhiên đẹp mà không chuyên chú đến cuộc đời, đến vận mệnh con người đó…

Quan điểm “nghệ thuật vì nghệ thuật” của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945 là biểu hiện tự giác của loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương” nói trên. Các nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam tuyên bố “văn chương là văn chương”nghĩa là văn chương không dính dáng đến cuộc sống, đến xã hội, nó chỉ biết đi tìm cái đẹp và nó chỉ là nó. Một nhà thơ lãng mạn đã viết:

Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi

Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi?

Tôi chỉ là một khách tình

Ham cái đẹp có muôn hình muôn vẻ.

                                                                (Li Tao – Thế Lữ)

Đoạn thơ đã đặt ra một định nghĩa về người nghệ sĩ: đó là người khách tình si ham cái đẹp, chỉ có một thiên chức: đi tìm cái đẹp và phụng sự nghệ thuật, chứ không bận tâm đến một trách nhiệm xã hội nào. Có điều là trên thực tế, các cây bút lãng mạn đó không phải chỉ biết săn tìm cái đẹp và dửng dưng trước niềm vui, nỗi buồn của con người đương thời và vì thế, văn học lãng mạn 1930 – 1945 vẫn có những yếu tố tích cực, nhưng đó lại là chuyện khác.

Thái độ “chuyên chú ở văn chương” không dừng ở đó. Sau đó, nó còn được đẩy tới cực đoan, trở thành chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa hình thức. Đó là loại văn chương coi hình thức là tất cả, phủ nhận hoàn toàn nội dung của văn chương. Chẳng hạn, nó cho rằng thơ chẳng những không được nói đạo đức, chính trị, xã hội, mà cũng không được tả cảnh; tả hình và không cần nói về bất cứ cái gì, và bảo rằng như thể thơ mới “thuần túy”, mới thật là thơ! Nó khẳng định rằng thơ không cần có nghĩa, thơ chỉ là âm thanh, là hình ảnh… mà thôi. Thứ thơ ấy trở thành bí hiểm, “hũ nút”, không ai hiểu nổi.

Thế nào là loại văn chương “chuyên chú ở con người”? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết tới con người, luôn hướng tới cuộc sống và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương không phải ở câu hay từ đắt mà ở chỗ có ích cho cuộc đời. Đó chính là quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi Goóc-ki nói: “Văn học là nhân học” thì cũng với tinh thần cơ bản là như vậy. Nhà thơ Tố Hữu cũng phát biểu xác đáng về quan điểm này: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”.

Quan niệm văn chương “chuyên chú ở con người” cũng có những biểu hiện rất đa dạng. Khi Nguyễn Đình Chiểu viết:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,đâm mấy thằng gian bút chẳng tà,thì với nhà thơ mù, đạo là nhân nghĩa, là yêu nước thương dân, văn chương phải chở đạo và đâm gian tức phải là vũ khí phò chính trừ tà, cứu đời cứu nước.

Các nhà thơ, nhà văn cách mạng thì quan niệm một cách dứt khoát với sự tự giác sâu sắc rằng văn chương phải là vũ khí chiến đấu cải tạo xã hội và văn nghệ sĩ phải là người chiến sĩ đứng trong đội ngũ đấu tranh cách mạng. Đó là biểu hiện cao nhất, triệt để nhất của quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người”.

Vì sao theo Nguyễn Văn Siêu loại văn chương “đáng thờ” là loại “chuyên chú ở con người” chứ không phải loại “chuyên chú ở văn chương”? Nói văn chương “đáng thờ” là Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến chân giá trị, đến cái cao quý của văn chương. “Thần Siêu” đã khẳng định: chính loại văn chương “chuyên chú ở con người” mới thật sự có giá trị, mới “đáng thờ”. Có thể nói, đó là ý kiến chẳng những xác đáng về lý lẽ mà còn có căn cứ trong thực tiễn văn học. Phải chăng nếu “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì văn chương sẽ tự đánh mất mình, sẽ không còn là nó và không mấy giá trị văn chương, nghệ thuật?

Để trả lời câu hỏi này chỉ cần trở lại mệnh đề nổi tiếng dẫn ở trên của Goóc-ki: “Văn học là nhân học”. Con người là trung tâm chú ý, thể hiện của văn học, chứ đâu phải là cái ngoài văn học.

Mặt khác, trong văn chương nghệ thuật, hình thức bao giờ cũng gắn liền với nội dung, hình thức – đó là hình thức của nội dung, không có nội dung thì không có hình thức. Xét đến cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm văn chương chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung của tác phẩm một cách nghệ thuật như thế nào. Đành rằng văn chương là một bộ môn nghệ thuật, tức là nó phải tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp. Nhưng “cái đẹp chính là sự sống”, không có cái đẹp “thuần túy”, trừu tượng, không dính dáng đến cuộc sống con người. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cái đẹp cũng muôn màu muôn vẻ.

Vậy thì “chuyên chú ở con người” đâu phải quay lưng với cái đẹp, văn chương đi ra ngoài con đường của mình? Đâu phải văn chương vì không còn là văn chương, sẽ không có giá trị nghệ thuật? Một tác phẩm văn học có giá trị thì tất nhiên phải có giá trị nghệ thuật, tức là phải hay, phải có văn có nghệ, một nhà văn thật sự phải có tài năng. Nhưng xét đến cùng, cái chủ yếu làm nên giá trị của văn chương lại không phải là hình thức nghệ thuật. Bởi vì, như Nguyễn Du đã viết: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!. Cái tâm — đó là tấm lòng, là tình người, tình đời của người cầm bút — mới là cái gốc, làm nên giá trị chân chính của văn chương. Một áng văn thật sự có giá trị thì trước hết là vì nó chứa đựng cái tâm đó của người viết. Những câu thơ Truyện Kiều có sức lay động mạnh mẽ đến thế trước hết là vì đã đọng nỗi đau nhân tình (Tố Hữu) của một nghệ sĩ lớn, một trái tim lớn là Nguyễn Du. Câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà! (Nguyễn Du) có tân kỳ, có “văn chương” gì đâu, nhưng ai bảo nó không hay, không thuộc loại “đáng thờ”?

Vậy là “chuyên chú ở văn chương” mà văn chương chưa chắc đã hay, còn “chuyên chú ở con người” thì văn chương lại thường hay. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Tâm huyết người viết là cái chủ yếu làm nên sức truyền cảm nghệ thuật, sức lay động của tác phẩm văn chương. Cái tâm thường là nguồn nuôi dưỡng, phát huy cái tài. Còn nhà văn dù tài năng đến dâu, chăm sóc văn chương công phu đến đâu, nhưng không hề quan tâm đến đồng loại, dửng dưng trước số phận con người thì cũng không thể nào sáng tác nên những áng văn có giá trị thật sự được, kể cả giá trị nghệ thuật.

Lịch sử văn học đã từng ghi lại hiện tượng dường như vô lý: có những nhà văn lớn đã tuyên bố những lời giống như phủ nhận văn chương, nhưng họ vẫn thật sự là lớn, với sự nghiệp sáng tác bất hủ; lại có không ít cây bút có tài, coi văn chương là trên hết, nhưng không có nổi những sáng tác có giá trị. Hồ Chí Minh lúc thiếu thời từng tâm đắc câu thơ cổ: Lập thân tối hạ thị văn chương (lặp thân bằng văn chương là thấp kém nhất), nhưng Người vẫn trở thành nhà “văn chương” lớn.

Thực ra, những nhà văn lớn ấy không coi thường văn chương, mà chỉ vì mang nỗi đau nhân tình to lớn, sâu sắc, họ thất vọng về việc văn chương đã không có hiệu quả trực tiếp, thiết thực trong việc làm thay đổi số phận đau thương của con người.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu về hai loại văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ” trên đây rất tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật đẹp đẽ, trở thành truyền thống của cha ông ta. Chính với quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người” mà cha ông ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo với những biểu hiện đa dạng, phong phú, được nền văn học mới kế thừa và phát huy trong thời đại mới hôm nay.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên – Mẫu 6

Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà ngay ở thế kỉ XIX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn: “Văn chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì được chứ không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào cho đúng.

Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ là “thần Siêu, thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào? ‘

“Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn… Nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là “văn” không cần biết nội dung, tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức.

“Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết nên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu” (Lỗ Tấn).

Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người.

Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại “không đáng thờ”, không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì liệu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đâu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉ như những đóa hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:

Đáng phàn nàn cho ta đóng cửa mà gọt giũa câu văn

 Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ 

Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?”

(Đề sát viện Bùi Công, Yên đài anh ngữ khúc hậu)

Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến trời”, chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩ ngông cuồng, muốn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo, có chăng chỉ là những đồ lạ mắt! Họ Cao cho đó là “đồ con trẻ” là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng tuếch và giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động:

Bài thơ anh làm chi một nửa mà thôi 

Còn một nửa do mùa thu làm lấy.

(Chế Lan Viên)

Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mỹ làm đích thì thử xem có đáng thờ chăng? “Văn chương phải có quan hệ với đời” (Ngô Thì Sĩ) và “Cuộc đời là nơi đi tới cùng là điểm khởi đầu của văn chương” (Tố Hữu). Nếu L.Tônxtôi trở nên vĩ đại bởi kiệt tác Chiến tranh và hòa bình thì cũng chính là kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hòa bình có ra đời không? Nếu không gắn bó, đau đời thì Nguyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không?

Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính chứ không phải văn chương hũ nút mà người ta có thể kính nhi viễn chi. Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng Từ đạt nhi dĩ hí (nghĩa là văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi), điều quan trọng là cái tâm của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như quan niệm của phần lớn các nhà văn thuộc dòng văn học hiện thực Việt Nam vào giai đoạn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người.

Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập vào con người, vào nhân loại, là lương tâm của mọi thời đại (Balzac). Văn phải chứa đạo, phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là văn đáng thờ. Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng: “Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lí trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chương mà thôi”.

Nói đến văn chương đáng thờ, Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến cái giá trị của văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến chân – thiện – mỹ, phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao ước một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy được thế giới tâm hồn của A.Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một thằng gù cực kì xấu xí như Quazimôđô dành cho Exmêranđa chưa? Đọc Số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo ai mà không nghe dâng lên một chút xốn xang, một niềm thương yêu nghẹn ngào… Và ta khẳng định rằng: Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng người mới là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn từ để người ta xem như một trò giải trí, đọc rồi quên ngay sau lúc đọc đấy chỉ là thợ đào với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối sống sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đường khoa bảng, theo yêu cầu của họ, ông ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc: “Sông Nhị hà sâu ba mươi sáu thước, Chim ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vấn. Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quàng, tổng bất ngoại bò vàng chỉ liếm lá”. Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất thâm thuý hay thay.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của Thạch Lam – thế hệ hậu bối của Thần Siêu – thì có lẽ nhà văn trẻ này phát biểu toàn diện hơn: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết:

Thiện căn ở tại lòng ta 

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

(Truyện Kiều)

Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ tài. Nếu coi văn học là một cái cây thì chữ tài là lá cành mà chữ tâm là gốc rễ. Trong trường hợp văn chương chỉ đơn thuần chuyên chú ở con người mà không chuyên chú ở văn chương thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa không?

Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M. Gorki đã khẳng định: “Văn học là nhân học”, ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng như không thể tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành rằng người ta nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đều tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn! Cho nên nếu cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính (nghĩa là văn chương của cái đẹp) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp văn chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những điều giản đơn bình thường nhất. Thực ra, văn chương chuyên chú ở văn chương và văn chương chuyên chú ở con người là hai mặt của một tờ giấy trắng. Văn chương chuyên chú ở con người nhưng không hề quay lưng với cái đẹp và ngược lại Đỗ Phủ đã từng viết “Ngữ bất kinh nhân, tứ bất hưu” ngôn ngữ phải làm cho người ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm thô vụng: Khi anh nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hẳn anh không phải là một con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân loại này hiểu anh, hiểu cái tâm của anh. Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng thì nội dung Truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người.

Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa văn chương chuyên chú ở văn chương và văn chương chuyên chú ở con người. Nhưng nếu có một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn: Đây cái này là tốt gỗ và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ đại bạn sẽ chọn bên nào?

Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người thì dễ có giá trị hơn, nhưng văn chương chuyên chú ở văn chương thì chưa hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc rồi quên ngay sau khi đọc.

Cái tâm là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu dửng dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm nên một ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà còn lại cái nhân rộng lớn, cái tình muôn thuở.

Cho nên, dầu là gì đi nữa thì chất ở bên trong văn là yếu tố quyết định. Chữ tâm là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã ghi nhận hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nhà thơ trọn đời cũng không viết được một câu thơ có giá trị nào dù rất kiên tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ.

Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên – Mẫu 7

Cuộc sống con người từ lâu đã gắn liền với văn chương. Bởi vì văn chương không chỉ có tác dụng giải trí, mà bên cạnh đó, văn chương còn làm cho cuộc sống mỗi người thêm đẹp, thêm phong phú. Nhưng, như cuộc sống vốn tồn tại cả cái xấu xa và tốt đẹp, thì văn chương cũng có loại hay, loại dở. Bởi vậy, Nguyễn Văn Siêu đã từng viết: “ Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ”. Đây thực sự là một quan niệm đúng đắn đáng để suy nghĩ.

Theo Nguyễn Văn Siêu, văn chương có hai loại: “loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương” và “Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Vậy, thế nào là văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ”?.

Thế nào là văn chương đáng thờ và không đáng thờ? Có thể hiểu, văn chương “không đáng thờ” là loại văn chương không chân chính, “chỉ chuyên chú ở văn chương”. Đây là kiểu văn chương chỉ quan tâm đến vẻ hào nhoáng bên ngoài, lấy hình thức nghệ thuật làm mục đích sáng tác, trau chuốt về ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu. Bên cạnh đó, loại văn chương này thường mang những nội dung tư tưởng không rõ ràng, không tạo nên sự độc đáo, và hơn nữa không quan tâm đến đời sống, số phận con người, xã hội. Người đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang rực rỡ của nó bởi những hình ảnh mĩ lệ, trang trọng nhưng lại khó có thể cảm nhận được tình cảm, suy nghĩ của người viết trong tác phẩm.

Còn văn chương “đáng thờ” thì lại khác. Đây là loại văn chương lấy con người làm mục tiêu sáng tác, được dựng lên từ chính cuộc sống của con người “chuyên chú ở con người”. Trong những tác phẩm thuộc loại này, “con người” trở thành trọng tâm, là động lực chi phối toàn bộ nội dung tác phẩm cũng như các hình tượng nghệ thuật, biện pháp nghệ thuật. Và chính điều này đã làm nên giá trị cho những tác phẩm – giá trị được làm nên bởi nó có ích cho cuộc đời.

Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu – người được tôn thờ là “Thần Siêu” cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ông coi văn chương là lĩnh vực để “thờ”, do đó, câu nói của ông càng trở nên thuyết phục và đúng đắn hơn. Mà như thế thì đâu phải loại văn chương nào cũng “đáng thờ”. Như vậy, với ông văn chương chỉ có giá trị khi lấy con người làm trung tâm, khắc họa con người và phục vụ con người. “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du vì đâu mà dễ đi vào lòng người đọc, vì đâu mà trở thành một tác phẩm bất hủ, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam? Bởi vì, tất cả những éo le, những nghiệt ngã của cuộc đời, của số phận – nhất là số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa – được Nguyễn Du tái hiện đủ đầy. Ông đã đưa số phận của con người – của kiếp “Hồng nhan bạc mệnh” vào văn chương. Và chính điều ấy, đã làm nên giá trị của tác phẩm – giá trị nhân đạo sâu sắc mà không phải ở tác phẩm nào cũng có.

Trở lại với quan điểm của Nguyễn Văn Siêu. Có thể nhận thấy rằng, bản chất quan niệm của “thần Siêu” có phần tương đồng với quan niệm văn chương “nghệ thuật vị nhân sinh” (văn học 1930 – 1945) của không ít các nhà văn hiện đại. Đã là văn chương chân chính thì phải hướng tới con người, tới hiện thực. Văn chương có giá trị phải “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ…Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình….Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Hay trong “Trăng sáng”, Nam Cao viết “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than..”. Tức là, Nam cao phủ nhận văn học lãng mạn thoát li- văn học chỉ biết trau chuốt hình thức, phủ nhận hiện thực, đồng thời nhà văn cũng khẳng định văn chương phải gắn bó với cuộc đời con người “thoát ra từ những kiếp lầm than..”. M. Gorki cũng từng nói “Văn học là nhân học”, để đề cao văn học hướng tới con người, viết về con người và phục vụ con người. Quan niệm của Nam Cao, M. Gorki cũng như của Nguyễn Văn Siêu là những quan niệm đúng , tiến bộ, phản ánh chức năng cao quý của văn học. Tuy nhiên, ngay trong chính quan niệm của Nguyễn Văn Siêu cũng thể hiện rõ, ông lên án thứ văn chương chỉ mải gọt giũa ngôn từ, chứ không phủ nhận vai trò của nghệ thuật. Ông cho rằng văn chương không nên thiên về hình thức nghệ thuật, nhưng đồng thời, tác phẩm giá trị cũng không thể không có đặc sắc về nghệ thuật. Điều đó cho thấy, đối với Nguyễn Văn Siêu cũng như rất nhiều các nhà văn nhà thơ khác, một tác phẩm văn chương có giá trị là tác phẩm có nội dung “chuyên chú ở con người” song đồng thời cũng có hệ thống hình thức nghệ thuật độc đáo, sáng tạo, và quan trọng không kém là phải chứa đựng cái “Tâm” của người viết. Như Nguyễn Du cũng từng khẳng định “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Kiệt tác Truyện Kiều hàng trăm năm nay vẫn tồn tại, và in sâu trong tâm trí người đọc. Không chỉ bởi giá trị nhân đạo sâu sắc, mà Truyện kiều còn là tuyệt tác bởi những biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng, cùng với một tâm hồn đồng cảm của chính tác giả với cuộc đời nhân vật. Hay như khi đọc Chí phèo của nam cao, ban đầu ta chỉ thấy hiện hữu rõ ràng một thằng lưu manh rạch mặt ăn vạ, uongs rượu chửi bới. Nhưng rồi, chắc chắn sẽ đọng lại trong ta ít nhiều thương cảm sau khi đọc xong tác phẩm. Thấp thoáng đằng sau cái vẻ bề ngoài hung dữ táo tợn ấy, lại là một anh Chí như bao anh chí khác, cũng khát khao ‘làm người lương thiện, để được sống, được yêu thương. Nhân vật này hiện lên qua ngòi bút tinh tế, tài tình của tác giả, và thành công của nó ít nhiều cũng phụ thuộc vào suy nghĩ, lòng cảm thương của tác giả. Như vậy, một tác phẩm văn chương chân chính là tác phẩm mà hướng ngòi bút về con người, cuộc sống con người, được xây dựng bằng sự sáng tạo nghệ thuật, tạo thành phong cách riêng cho từng nhà văn.

Từ trước tới nay, không một ai có thể phủ nhận được vai trò quan trọng của văn chương đến đời sống tinh thần của con người. Văn chương như là một công cụ để con người khám phá thế giới, và khám phá chính bản thân tâm hồn mình. Nhưng như quan niệm của “thần Siêu”, không phải văn chương nào cũng “đáng thờ”. Chỉ có những tác phẩm văn chương hướng về con người, hướng về cuộc sống, và đặc sắc nghệ thuật được tạo ra từ sự sáng tạo văn học cùng với tâm huyết của nhà văn mới làm nên văn chương chân chính, tiêu biểu cho quan niệm truyền thống “ Văn dĩ tải đạo”của cha ông ta. Cho đến nay, quan niệm của Nguyễn Văn Siêu vẫn còn nguyên giá trị

*****

Trên đây là 7 bài mẫu Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 do thầy cô trường Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập của mình. Chúc các em hoàn thành tốt bài tập của mình với điểm số cao nhất nhé.

Đăng bởi: THCS Bình Chánh 

Chuyên mục: Học tập, Lớp 12

Rate this post


Cô Nguyễn Thanh Phương

Trường THCS Bình Chánh với mục tiêu chung là tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh có thể phát triển khả năng và đạt được thành công trong quá trình học tập. Chúng tôi cam kết xây dựng một không gian học tập đầy thách thức, sáng tạo và linh hoạt, nơi mà học sinh được khuyến khích khám phá, rèn luyện kỹ năng và trở thành những người học suốt đời.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button