Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa lớp 9 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 10 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa
Dàn ý Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa chi tiết
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa (10 mẫu)
- Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
- Dẫn dắt đến khổ 3 của bài thơ
2. Thân bài:
a. Suy ngẫm về bà và cuộc đời của bà:
– Hình ảnh “bếp lửa, nhóm lửa” mang ý nghĩa trừu tượng và khái quát:
- “Bếp lửa” mà người bà nhóm, không chỉ là với những nguyên liệu tự nhiên mà còn nhóm bởi tinh yêu thương “ủ sẵn” của bà.
- Điệp từ “một ngọn lửa”: thể hiện sức sống mãnh liệt và dai dẳng của ngọn lửa.
→ Khẳng định sự bền bỉ của tình yêu thương mà bà dành cho người cháu của mình..
“Ngọn lửa” ấy còn chứa cả ý chí và nghị lực sống phi thường của bà trong những năm tháng đói khát chiến tranh.
– Cuộc đời của bà:
- Từ láy “lận đận” và cụm từ “biết mấy nắng mưa”: gợi ra sự tần tảo, vất vả của người bà.
- Điệp từ “nhóm”: nhấn mạnh ý nghĩa của công việc “nhóm lửa” mỗi sớm mai của bà.
→ Bà “nhóm lửa” không chỉ là để nấu cơm với “khoai sắn ngọt bùi”, với “nồi xôi gạo mới” mà còn “nhóm” lên cả sự sẻ chia “tâm tình” với người cháu của mình.
- Cụm từ “ấp iu nồng đượm” chỉ sự chi chút, tỉ mẩn của người bà khi nhóm bếp
- Câu cảm thán “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”: thể hiện niềm xúc động chân thành của nhà thơ khi phát hiện ra một chân lý bình dị.
b. Tình cảm của người cháu dành cho bà:
- Nhà thơ đã tới một đất nước xa xôi, hiện đại “có khói trăm tàu, có lửa trăm nhà” nhưng trong tâm trí luôn khắc khoải hình bóng của bà và bếp lửa.
- Sự tương phản đối lập giữa hiện tại ồn ã với tuổi thơ bình yên, yên dịu.
- Nhà thơ nhớ về “ngọn lửa” bởi đó biểu tượng cho tuổi thơ, cho người bà, cho sự sống, tình yêu thương và niềm tin bất diệt, cho cội nguồn, quê hương, Tổ quốc.
- Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”: nỗi nhớ nhung khôn nguôi và niềm khắc khoải mong nhớ về bà của người cháu.
c. Đánh giá nội dung, nghệ thuật:
– Nội dung:
- Ba khổ cuối cho thấy những suy ngẫm của người cháu trưởng thành về bà và cuộc đời của bà.
- Khẳng định tình cảm chân thành của người cháu dành cho bà của mình.
- Hình ảnh của bà và bếp lửa là biểu tượng cho quê hương, đất nước.
– Nghệ thuật:
- Thể hiện hình tượng bếp lửa thông qua giọng điệu thơ chân thành và da diết.
- Thể thơ tám chữ tự do cùng nhịp thơ linh hoạt đã khắc hoạ hình tượng bếp lửa rất thành công.
- Ngôn ngữ trong thơ trong sáng, chân thành, mộc mạc như chính tình cảm của nhà thơ đối với bà của mình.
3. Kết bài:
Khẳng định giá trị của tác phẩm, khổ thơ.
10 mẫu Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa hay nhất
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 1
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc mười chín tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà.
Những khổ đầu bài thơ “Bếp lửa” là hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà, là những hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa tuổi thơ. Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa, chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. “Bếp lửa” mà bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quý của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (bốn lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lý, điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.
Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa:
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người cháu luôn đau đáu, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…”
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 2
“Bếp lửa” là một trong những bài thơ hay viết về tình cảm bà cháu. Đặc biệt là đến với ba khổ thơ cuối cùng, Bằng Việt đã thể hiện được những suy nghĩ về cuộc đời của bà, cũng như nỗi nhớ dành cho bà.
Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Khi xuất bản, bài thơ được đưa vào tập thơ “Hương cây – Bếp lửa” (1968). Đây là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “bếp lửa” đã chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua đó gửi gắm nhiều suy tư sâu sắc về tình cảm bà cháu – một tình cảm gia đình cũng rất đỗi thiêng liêng:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”
Khi nhớ về bà, người cháu sẽ nhớ đến những năm tháng tuổi thơ sống bên bà. Mà hình ảnh bếp lửa đã trở nên quá gắn bó. Nhưng ở đây, tác giả không dùng “bếp lửa” mà lại dùng “ngọn lửa” nhằm thể hiện một dụng ý nghệ thuật. “Ngọn lửa” chính là hình ảnh biến thể của “bếp lửa”. Khi sử dụng hình ảnh “ngọn lửa” sẽ có tính khái quát cao hơn. “Ngọn lửa” sẽ mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu thương của bà, là kết tinh của niềm tin mà bà truyền cho đứa cháu. Câu thơ “Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn” khẳng định rằng bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ nối tiếp. Không chỉ vậy, bà còn đem đến “Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” nghĩa là đem đến niềm tin, hy vọng về tương lai.
Người bà trong bài thơ, suốt cả một cuộc đời đã làm việc vất vả vì con, vì cháu. Điệp từ “nhóm” kết hợp với hình ảnh “bếp lửa ấp iu nồng đượm”, “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi” – đó là bài học về lòng yêu thương, đồng cảm mà bà đã dạy cho cháu. Không chỉ vậy, bà còn nhóm “nồi xôi gạo mới sẻ chia chung vui” – đó là sự sẻ chia mà bà đã giúp cháu nhận ra. Cuối cùng, bà còn giúp nhóm dậy “những tâm tình tuổi nhỏ” – bà đã giúp cháu trở nên trưởng thành trong nếp nghĩ, nếp sống. Câu thơ “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” giống như là một tiếng reo vui. Cháu đã phát hiện ra một điều thật kỳ lạ mà thú vị. Đó là bếp lửa bao nhiêu năm vẫn luôn hiện hữu trong trí nhớ của cháu, với những kỉ niệm thiêng liêng nhất.
Ngày hôm nay, khi đã trưởng thành, cháu nhớ về bếp lửa, nhớ về bà để rồi bộc lộ nỗi niềm chân thành mà sâu sắc. Dù khi lớn lên, cháu có thể tự mình đi đến nhiều nơi. Cháu được chứng kiến rất nhiều sản phẩm của văn minh đó là “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà” – sự say mê, vui thích của cuộc sống hiện đại. Nhưng cháu vẫn sẽ không quên đi những kỉ niệm về một năm tháng tuổi thơ khó khăn mà ấm áp bên người bà yêu dấu. Câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” gửi gắm một niềm tin dai dẳng về tương lai phía trước. Cháu hy vọng về tương lai – sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Nhưng tình cảm của cháu thì vẫn không hề thay đổi.
Bài thơ “Bếp lửa” đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà cũng như tình bà cháu. Đồng thời tác giả còn thể hiện lòng kính, yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà hay cũng chính là đối với quê hương, gia đình, đất nước.
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 3
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là “Bếp lửa”. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà cũng như tình bà cháu. Đồng thời tác giả còn thể hiện lòng kính, yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà hay cũng chính là đối với quê hương, gia đình, đất nước. Đến với ba khổ thơ cuối, nhà thơ đã nói lên những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa và nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà của người cháu xa quê.
Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây – Bếp lửa” (1968). Đây là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
Hình ảnh bếp lửa luôn gắn bó với những kỉ niệm được sống bên bà:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Hình ảnh bếp lửa được kết tinh trong “ngọn lửa”, đó là ngọn lửa của tình yêu thương mà bà dành cho cháu. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “một ngọn lửa” kết hợp với các hình ảnh “lòng bà luôn ủ sẵn”, “ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” để nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Bà chính là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa đến cháu – thế hệ trẻ tương lai.
Cuộc đời bà cũng giống như biết bao người phụ nữ Việt Nam, phải chịu nhiều vất vả – “lận đận nắng mưa”. Suốt cả một đời bà tần tảo làm lụng lo cho con cho cháu:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Bằng Việt một lần nữa lại vận dụng triệt để biện pháp tu từ điệp ngữ “nhóm” cùng với các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cao. Bà đã nhóm một “bếp lửa ấp iu nồng đượm” chứa đựng tình cảm ấm áp của bà. Bà còn nhóm cả “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi” – đó là bài học về lòng yêu thương, đồng cảm mà bà đã dạy cho cháu. Không chỉ vậy, bà còn nhóm “nồi xôi gạo mới sẻ chia chung vui” – bà muốn dạy cháu biết sẻ chia. Cuối cùng, bà đã nhóm dậy “những tâm tình tuổi nhỏ” có nghĩa là góp phần bồi đắp tâm hồn cháu. Từ hình ảnh bếp lửa được bà nhen nhóm mà dạy cho cháu biết bao bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Câu thơ cuối vang lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”. Đó giống như một tiếng reo vui, người cháu như phát hiện ra điều kỳ diệu giữa cuộc sống đời thường. Đến bây giờ, khi nhớ về bà, cháu đã thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà.
Để rồi đến khi trưởng thành, người cháu đã bộc lộ những nỗi niềm suy tư:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”
Cho dù khi lớn lên, người cháu có được đi đến nhiều nơi, chứng kiến hình ảnh “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà” với niềm vui, say mê về cuộc sống hiện đại. Nhưng vẫn không quên đi những kỉ niệm khó khăn bên người bà với “bếp lửa” chứa chan tình cảm vô bờ của bà. Kết thúc bài thơ là câu hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” bộc lộ một niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu. Cũng là lời nhắc nhở bản thân phải ghi nhớ về những năm tháng được sống bên bà.
Như vậy, ba khổ thơ cuối của bài “Bếp lửa” chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Tình cảm gia đình là cơ sở để cho nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước.
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 4
“Bếp lửa” là một bài thơ hay viết về tình bà cháu. Trong đó ba khổ thơ cuối cùng đã để lại ấn tượng thực sự sâu sắc:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Một lần nữa qua lời thơ của tác giả ta đã cảm nhận được sự khó nhọc của người bà khi ngày ngày, sớm chiều nhen bếp lửa. Tại sao bà có thể nhẫn nại hy sinh đến như vậy. Do trong lòng bà luôn có một ngọn lửa niềm tin ủ sẵn. Ngọn lửa của niềm tin đất nước sẽ hòa bình độc lập, cuộc sống sẽ được nâng cao, không còn viễn cảnh đói nghèo nữa, đất nước sẽ thống nhất với nhau, người thân và gia đình sẽ không còn chịu cảnh thoát li nữa mà sẽ về sum họp cùng bà lúc cuối đời. Là ngọn lửa của niềm tin đứa cháu mình sau này sẽ nên người, sẽ noi gương được cha mẹ, sẽ nhận ra được sự khó nhọc của bà trong công việc nuôi dạy cháu từ đó người cháu có thể quyết tâm học thành tài để xây dựng đất nước tươi đẹp hơn, giàu đẹp hơn. Bà luôn mong cháu sẽ cống hiến mãi không nguôi cho tổ quốc giống như Thanh Hải trong “Mùa xuân nho nhỏ”:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Nếu bài thơ dừng lại ở đây thì đã có thể xem là một áng thơ hay lắm rồi. Nhưng cảm xúc của đứa cháu khi nhớ về bà, nhớ về quãng đời cơ cực cùng bà nhóm lửa, nhớ về công lao dạy dỗ của bà…. qua những vần thơ giản dị mà thấm thía, với những điệp ngữ và từ ngữ được vận dụng một cách rất linh hoạt sáng tạo. Nhưng đến đây dòng tâm niệm của tác giả vẫn chưa nguôi. Vẫn thốt lên những câu thơ lay động tâm hồn:
“Giờ cháu đã đi xa
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Dù cho tác giả đã hoàn thành nguyện ước của bà. Đã là một con người thành đạt, sống có ích cho xã hội. Đã sống trong một điều kiện đầy đủ tiện nghi “có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả”. Nhưng lòng tác giả vẫn luôn hướng về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người. Bằng Việt sẽ mãi mãi không quên cái bếp lửa bà nhen, công lao dưỡng dục.
Bằng Việt đã vô cùng khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức thuyết phục cao và những liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài thơ. Ta cảm nhận được ở đây tám lòng biết ơn sâu nặng, nhớ nhung da diết, tâm chân tình của nhà thơ đối với người bà yêu dấu.
Đọc “Bếp lửa” thêm một lần nữa, chúng ta cảm thấy trong lòng lại trào dâng niềm cảm xúc. Bài thơ đã khơi dậy cho chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, quê hương và đất nước. Càng suy ngẫm, thấm từng lời thơ của bằng việt ta càng hiểu thế nào là nỗi nhớ quê hương.
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 5
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Sau khi xuất bản, tác phẩm này đã được bạn đọc đón nhận, làm nên tên tuổi Bằng Việt như một trong những nhà thơ hồn hậu, chân thành và da diết. Đặc biệt là ba khổ thơ cuối bài nâng bếp lửa lên thành hình tượng và để hình ảnh bà trở thành nền tảng vững chắc nâng bước tương lai cho người cháu bé nhỏ ngày nào.
Những khổ đầu bài thơ “Bếp lửa” là hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà, là những hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa tuổi thơ. Trong những ngày tháng vất vả ấy, bà vẫn giữ vững hy vọng, một niềm tin mãnh liệt vào kháng chiến:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Giữa tro tàn, mất mát, đau thương, bà lại nhóm lửa. Bếp lửa ân cần ấm cúng, nhẫn nại của bà tương phản hoàn toàn với ngọn lửa hung tàn, thiêu hủy dã man của bọn giặc. Bếp lửa bà nhen ấm nồng tình yêu thương, niềm tin trong sáng mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, “chứa niềm tin dai dẳng”.
“Bếp lửa” bà nhen không chỉ là bếp lửa thông thường nữa mà nó chứa ngọn lửa của nghĩa tình, ngọn lửa nhóm lên trong tâm hồn đứa cháu thơ một tình cảm rộng lớn. Đó là tình bà hằng ấp ủ, tình thương bao la dạt dào suốt cả cuộc đời bà luôn dành cho cháu và những người thân yêu. Từ “bếp lửa” của lòng yêu gia đình và quê hương đất giờ đã trở thành hình ảnh “ngọn lửa” mang đậm giá trị biểu tượng.
“Ngọn lửa” – đó là sự sống, là niềm hy vọng và niềm tin mãnh liệt của bà vào cuộc kháng chiến, vào một tương lai tươi sáng, một tương lai không có chiến tranh. Đất nước được độc lập, hòa bình, gia đình được đoàn tụ, sum họp. Ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, soi sáng cả quãng đường cháu đi. Đây cũng là hình ảnh bao trùm, khái quát, là nét tình cảm tinh túy của cả bài thơ.
Hình ảnh người bà hiện lên thật mộc mạc mà rực rỡ, một người bà cần cù, bền bỉ, chắt chiu, giàu nghị lực và có tấm lòng hy sinh cao cả. Đó là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam trong các cuộc chiến tranh khốc liệt, vừa anh hùng, trung hậu, dũng cảm, vừa rất mực đảm đang. Ba câu thơ như một nút nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca: tình bà thiêng liêng cao quý.
Hồi ức vẫn còn đó, hiện tại trong tâm trí nhà thơ chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm và triết lý sâu xa:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
Cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ “lận đận”. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng, chăm sóc cho con cháu.
Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh đã đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. Còn khi “nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.
Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi gợi, giáo dục và bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”.
“Bếp lửa” của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.
Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.
Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh “người bà – người giữ lửa”, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.
Dù giờ đây, tuy không được ở gần bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luôn hướng về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ:
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được bà và tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa, rộng lớn; bay tới những cuộc sống đầy đủ, với nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc khắp nơi, khắp chốn. Vậy mà cháu vẫn không nguôi nhớ bà, không quên ngọn lửa của bà. Câu hỏi tu từ như một lời tự vấn, lời độc thoại:
“- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
Khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí người đọc. Người cháu đang tự nhắc nhở bản thân mình luôn phải nhớ về “Bếp lửa” của quê hương, nhớ về bà, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chúng cháu phương xa. “Bếp lửa” vừa thực tế, vừa có ý nghĩa biểu tượng cho sự yêu thương, niềm tin, nguồn cội gia đình và quê hương, sức sống bền bỉ của con người.
Bài thơ khép lại bằng một dấu câu đặc biệt, dấu chấm lửng. Dấu câu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết: sống chung thủy, nhân nghĩa; phải có lòng biết ơn, có cách đối xử ân tình với gia đình, với láng giềng, với quê hương, với nguồn cội.
Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “bếp lửa” tượng trưng cho những kỷ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang để người cháu bước vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xa…
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 6
Trong cuộc đời mỗi con người khi sinh ra ai cũng có người thân, gia đình và những kỉ niệm ấm áp bên họ. Tác giả Bằng Việt cũng vậy, ông đã có quãng thời gian rất hạnh phúc bên người bà thân thương của mình. Hình ảnh in sâu trong tâm trí ông chính là hình ảnh chiếc bếp lửa cùng ngọn lửa của tình thương nơi bà thân yêu của ông. Bài thơ Bếp lửa là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu dành cho nhau. Trong đó ba khổ thơ cuối bài đã diễn tả rất chi tiết sự chiêm nghiệm và tình cảm của cháu dành cho bà- ngọn lửa sáng rực trong tim của cháu.
Nhà thơ Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Đoạn thơ nằm ở khổ 5, 6 và 7 của bài thơ, thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà nói riêng và với gia đình, quê hương, đất nước nói chung.
Sau khi đưa ra hình ảnh bếp lửa đẻ khơi nguồn cho dòng suy nghĩ về bà, sau đó người cháu đã suy nghĩ về cuộc đời của bà thông qua hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Hình ảnh bếp lửa rồi đến ngọn lửa đã trở thành biểu tượng mãnh liệt cho tình yêu thương của 2 bà cháu. tác giả ta đã cảm nhận được sự khó nhọc của người bà khi ngày ngày nhóm bếp lửa. Bà luôn hi sinh cho con cháu, người thân! Điệp ngữ “một ngọn lửa” là sáng tạo nghệ thuật đắt giá của tác giả. Nó nhấn mạnh sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa và ý nghĩa của tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hiện thân cho tâm hồn, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người, truyền lửa cho người cháu cũng như là thế hệ mai sau. Bà tin cháu mình sau này sẽ nên người và thành tài để xây dựng non sông đất nước.
Từ những suy ngẫm người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Cuộc đời của bà phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng sự thử thách của thiên tai cũng như xã hội dường như đã trở thành một điều xảy ra bình thường với bà. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy thì bà vẫn sáng lên những phẩm chất đáng quý của một người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” đã càng nhấn mạnh những hi sinh và hình ảnh tuyệt vời của bà. Bà tần tảo, nhẫn lại và đầy lòng yêu thương. Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa đó luôn tỏa sáng trong mọi hoàn cảnh. Bà đã nhóm lên sự sống cũng như tình yêu thương dành cho mọi người. Bếp lửa trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra một chân lí, điều kì diệu giữa cuộc sống đời thường. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rỡ cháy, bất tử trong lòng của người cháu.
Giờ đây, tác giả đã sống xa quê, đã rời xa vòng tay người bà. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng hình ảnh bà mãi là một dấu ấn khó phai. Tình cảm ấy đã trở thành bất tử trong tâm hồn tác giả.
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?..
Dù cho tác giả đã hoàn thành nguyện ước của bà, đã là thành đạt, sống có ích cho đời . Nhưng lòng tác giả vẫn luôn hướng về cội nguồn sinh dưỡng của mình. Có lẽ tác giả sẽ mãi không bao giờ quên hình ảnh cái bếp lửa bà nhóm cùng tình yêu thương bao la của bà. Tác giả luôn luôn tự hỏi với lòng: bà bây giờ sống như thế nào? Có khỏe mạnh hay không? bà nhóm bếp lên chưa? Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ của người cháu luôn đau đáu một nỗi nhớ với gia đình, quê hương.
Tác giả đã sử dụng rất sáng tạo hình ảnh cái bếp lửa và ngọn lửa để biểu tượng cho tình yêu vô bờ bến của bà dành cho người cháu. Ngoài ra việc sử dụng linh hoạt tự sự, miêu tả và biểu cảm đã càng tăng thêm sự xúc cảm cho bài thơ và biểu lộ cảm xúc của tác giả chân thực, rõ nét hơn.
Tóm lại qua đoạn thơ trên ta lại càng hiểu hơn về hình ảnh người bà cũng như là những phẩm chất thiêng liêng cao quý của người phụ nữ Việt. Bà mãi mãi là tín ngưỡng đẹp nhất trong tâm hồn người cháu.
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 7
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bài thơ “Bếp lửa” của ông được sáng tác năm 1963 khi ông đang là một sinh viên Luật tại nước ngoài. Bài thơ là lời của người cháu trưởng thành bồi hồi, xúc động khi nhớ về những kỉ niệm cùng người bà của mình. Đặc biệt ba khổ cuối của bài thơ đã gợi lên cho người đọc thấy được những suy ngẫm về bà cũng như cuộc đời bà của người cháu. Đồng thời cũng thể hiện được tình cảm của người cháu yêu thương luôn dành cho người bà thân yêu của mình.
Ở những khổ thơ đầu, người cháu đã nhớ về hình ảnh bếp lửa, nhớ về người bà của mình. Hình ảnh người bà tần tảo gắn liền với bếp lửa, gắn liền với tuổi thơ của cháu. Sau những giây phút hồi tưởng đó là những chiêm nghiệm, suy ngẫm của người cháu về bà của mình, về cuộc đời của bà:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Hình ảnh “bếp lửa”, “ngọn lửa” trong bài thơ vừa mang ý nghĩa trừu tượng lại vừa mang ý nghĩa khái quát. Bếp lửa mà người bà luôn nhen nhóm suốt mấy chục năm qua mỗi buổi sớm mai và chiều tà không chỉ đơn giản là nhóm bằng những thứ nguyên liệu như củi khô, rơm rạ của tự nhiên mà nó còn được nhóm lên bởi tình yêu thương mà người bà luôn “ủ sẵn” trong tim của mình, là biểu tượng của tình yêu và niềm tin mạnh mẽ đối với nhà thơ. “một ngọn lửa” được nhà thơ lặp lại liên tiếp để nhấn mạnh sự sống dai dẳng và bất tử của ngọn lửa. Đồng thời nó cũng khẳng định sức mạnh, sự bền bỉ của tình yêu thương mà người bà dành cho cháu của mình. Ngọn lửa ấy cũng là minh chứng cho ý chí và nghị lực sống phi thường của người bà qua những năm tháng đói khát nhất, khốc liệt nhất của chiến tranh. Bà chính là người nhóm lên ngọn lửa, giữ gìn ngọn lửa ấy và truyền cho người cháu thân yêu của mình ngọn lửa của niềm tin, hi vọng.
Từ những dòng suy ngẫm ấy, nhà thơ lại càng thấu hiểu về người bà của mình, thấu hiểu những đức tính cao quý của người bà: đó là sự tần tảo, sự hy sinh và đức nhân ái:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Từ láy “lận đận” cùng cụm từ “biết mấy nắng mưa” đã gợi lên cho ta thấy sự tần tảo, vất vả của người bà trong cuộc đời của mình. Thế nhưng dù vất vả hay gian truân, bà vẫn giữ cho mình những phẩm chất cao quý. Điệp từ “nhóm” được lặp lại liên tiếp bốn lần như để nhấn mạnh ý nghĩa của công việc “nhóm lửa” mỗi sớm mai của bà. Bà “nhóm lửa”, không chi để nấu những bữa cơm với “khoai sắn ngọt bùi”, với “nồi xôi gạo mới”, mà còn “nhóm” lên cả tình yêu thương “nồng đượm” trong gia đình, nhóm lên cả những “tâm tình tuổi nhỏ” sẻ chia cùng người cháu của mình.. Cụm từ “ấp iu nồng đượm” gợi lên sự khéo léo, tỷ mẩn của người bà trong công việc nhóm bếp. Lò than dưới đôi bàn tay bà lúc nào cũng ấm nóng, cũng tỏa sáng. Hành động “nhóm bếp” của bà không còn đơn thuần là một hành động nhóm lửa nấu nướng mà cao hơn, nó trở thành biểu tượng đầy ý nghĩa. Thông qua việc nhóm lửa, bà mong muốn truyền cho người cháu tình yêu thương, sự sẻ chia với mọi người trong gia đình, với xóm làng xung quanh. Hành động “nhóm lửa” của bà đã khắc sâu vào tâm trí của người cháu, để mỗi khi nhớ về “bếp lửa” thì những kí ức tuổi thơ lại ùa về, hoà cùng nó là tình yêu quê hương, sự khắc ghi cội nguồn của mình.
Nhớ về những kỉ niệm về bà bên “bếp lửa”, nhà thơ bật lên một câu thơ cảm thán vô cùng xúc động:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”
Từ “ôi” đặt ở đầu câu thơ cùng nghệ thuật đảo ngữ đã thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của nhà thơ khi phát hiện ra một thứ chân lý mới, bình dị của cuộc đời mình. Hình ảnh người bà tần tảo cùng bếp lửa ấm nóng đã hoà lại làm một, luôn rực rỡ, cháy sáng và thiêng liêng trong tâm hồn của người cháu.
Khổ cuối khép lại bài thơ là tình cảm mà người cháu đi xa dành cho người bà thân yêu của mình:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà. Có niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sáng mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
Khi viết bài thơ này, nhà thơ đang ở một đất nước xa xôi và lạnh giá, chính vì thế, lời bộc bạch của nhà thơ lại càng mang những cảm xúc thật chân thành và xúc động. Ở đất nước xa xôi này, mọi thứ đều hiện đại và mới mẻ “có khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả”, thế nhưng trong lòng người cháu xa quê luôn khắc khoải hình bóng của người bà, của “bếp lửa chờn vờn trong sương sớm”. Nhà thơ đã tạo nên một sự tương phản đối lập giữa sự ồn ã của hiện tại với cuộc sống bình yên của quá khứ. Thế nhưng dù ở thời điểm nào, ngọn lửa của người bà nhóm lên mỗi sớm mai và chiều tối luôn thường trực, luôn âm ỉ trong trái tim của người cháu. Ngọn lửa đó là biểu tượng cho tuổi thơ, cho người bà, cho sự sống, tình yêu thương và niềm tin bất diệt. Nhớ về bà là nhớ về cội nguồn, nhớ về quê hương, Tổ quốc thân yêu, nơi bà và bếp lửa vẫn luôn còn sống mãi. Khép lại bài thơ là một câu hỏi tu từ “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” thể hiện nỗi nhớ nhung khôn nguôi của người cháu và niềm hoài vọng khắc khoải khi nhớ về tuổi thơ, về gia đình, về bà và về quê hương.
Thông qua hình tượng bếp lửa thông qua giọng điệu tha rất tha thiết, chân thành; thể thơ tám chữ tự do cùng nhịp thơ linh hoạt đã khiến cho hình ảnh bếp lửa khắc sâu vào tâm trí của người đọc, rất nồng nàn, thấm thía. Ngôn từ trong bài thơ rất giản dị, gần gũi, mộc mạc như chính tình cảm chân thành mà nhà thơ dành đến cho người bà của mình.
Qua ba khổ cuối của bài thơ Bếp lửa, nhà thơ Bằng Việt đã cho chúng ta thấy được những suy ngẫm của một người cháu về người bà của mình cũng như cuộc đời tần tảo của bà. Đồng thời ta cũng thấy được tình cảm chân thành, tha thiết mà người cháu luôn dành cho người bà thân yêu của mình. Hình ảnh người bà cùng bếp lửa chính là biểu tượng cho tuổi thơ, cho quê hương, đất nước.
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 8
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về tình cảm bà cháu gắn bó, thân thương và giản dị. Đặc biệt trong ba khổ thơ cuối, tác giả đã thành công tái hiện lại hình ảnh người bà tần tảo, đáng kính. Từ đó, bày tỏ lòng biết ơn cùng tình yêu thương sâu sắc của đứa cháu nơi phương xa.
Bước qua những kí ức đau thương xoay quanh tuổi thơ cực khổ, đói nghèo, nhân vật trữ tình bắt đầu chìm vào trong dòng suy nghĩ về người bà đáng kính. Đứa cháu nhỏ ngày nào bây giờ đang hồi tưởng lại về bếp lửa thân thương:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng“
Hình ảnh bếp lửa lại xuất hiện, gắn liền với những kí ức về bà. Điệp từ “rồi sớm rồi chiều” diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp lại. Bà nhóm lửa bằng cả tình yêu thương, sự chở che, bằng “niềm tin dai dẳng”. Cụm từ “một ngọn lửa” được lặp lại hai lần như nhấn mạnh sức sống mãnh liệt, dai dẳng, đồng thời cũng tượng trưng cho tình bà cháu gắn kết, không thể nào dập tắt.
Từ đó, người cháu lại nghĩ đến cuộc đời tần tảo của bà:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
Hình ảnh “nắng mưa” một lần nữa xuất hiện như nhấn mạnh những vất vả, nhọc nhằn của cuộc đời bà. Nào là những năm “đói mòn đói mỏi”, “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”,… Biết bao “lận đận”, sóng gió cũng không thể làm bà lay chuyển. Câu thơ sử dụng nghệ thuật đảo ngữ như trở thành một lời cảm thán, bày tỏ sự biết ơn và đồng thời cũng là chua xót, thương cảm cho sự vất vả của bà. Người phụ nữ tần tảo ấy vẫn sớm hôm nhóm bếp, thắp lên ngọn lửa nồng đượm suốt “mấy chục năm” để sưởi ấm cho tương lai của đứa cháu nhỏ:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Đôi bàn tay gầy guộc của bà nhóm bếp bằng tất cả sự yêu thương, chăm chút, âu yếm. Bà nhóm lửa để nấu lên những “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới” để nuôi cháu lớn khôn. Nhưng không chỉ vậy, trong đôi mắt của đứa cháu nhỏ, ở bà còn có cả sự sẻ chia. Từ ghép “chung vui” đã nói lên được niềm hạnh phúc của sự sum vầy. Ngọn lửa cháy rực đã sưởi ấm không gian lạnh lẽo, thắp sáng cả những “tâm tình tuổi nhỏ”, những ước mơ trong lòng đứa cháu. Và khi cảm xúc trào dâng, nhân vật trữ tình đã phải thốt lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Hình ảnh bếp lửa giản dị, gần gũi, thân thuộc với mọi gia đình ở làng quê Việt Nam. Ấy vậy mà nó vẫn thật “kì lạ”. Chỉ là chiếc bếp lửa thôi nhưng lại có thể khơi gợi lên trong lòng nhân vật bao xúc cảm, nhớ nhung, hồi tưởng. Có lẽ vì thế nên hình ảnh bếp lửa mới trở nên “thiêng liêng”. Sự thiêng liêng đó gắn cả với kỉ niệm về người bà đáng kính, trở thành một phần không thể tách rời trong tâm trí đứa cháu nhỏ năm nào.
Đứa cháu giờ đã lớn khôn, đến được nhiều nơi, thấy được nhiều thứ hơn xưa. Tuy vậy, trong thâm tâm của cháu vẫn luôn nhung nhớ về bà, về quê hương yêu dấu:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
Lại một lần nữa, độc giả được thấy nhà thơ sử dụng biện pháp điệp từ. Chữ “trăm” lặp lại đến ba lần như nhấn mạnh sự rộng lớn của thế giới ngoài kia. Thế nhưng càng đi, đứa cháu nhỏ năm nào lại càng nhớ bà. Hình ảnh người bà vẫn cứ hiển hiện trong tâm trí nhà thơ. Câu hỏi tu từ ở cuối bài như một lời hỏi thăm đầy nghẹn ngào, xúc động. Dù có thấy “lửa trăm nhà” nhưng đứa cháu vẫn chỉ nhớ nhung mãi về bếp lửa bập bùng, “nồng đượm” do chính đôi tay bà “ấp ủ”. Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại càng tô đậm hơn nỗi nhớ da diết của người cháu nơi phương xa.
Tóm lại, qua ba khổ thơ cuối bài, Bằng Việt đã tái hiện lại vô cùng thành công hình ảnh người bà tần tảo, chịu thương chịu khó. Với hình ảnh bếp lửa đầy tính biểu tượng cùng biện pháp điệp từ khéo léo, nhà thơ đã bày tỏ được tình thương cùng nỗi nhớ nhung với bà, với quê hương, đất nước. Qua đó, thành công khơi gợi lòng đồng cảm cùng bao suy tư, chiêm nghiệm về gia đình, cuộc sống
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 9
Trong cuộc đời mỗi con người, khi sinh ra ai cũng có người thân, gia đình và những kỉ niệm ấm áp bên mình. Tác giả Bằng Việt cũng vậy, anh đã có khoảng thời gian rất hạnh phúc bên người bà thân yêu của mình. Hình ảnh trong sâu thẳm tâm trí anh là hình ảnh bếp lửa và ngọn lửa yêu thương bên người bà thân yêu. Bài thơ Bếp lửa là tình cảm thắm thiết của hai bà cháu dành cho nhau. Trong đó, ba khổ thơ cuối đã miêu tả rất chi tiết những trải nghiệm và tình cảm của em đối với chị – một ngọn lửa bừng cháy trong lòng.
Nhà thơ Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 khi mới 19 tuổi và đang du học ở Liên Xô. Khổ thơ nằm ở khổ 5, 6, 7 của bài thơ thể hiện tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn của người con đối với bà nói riêng và gia đình, quê hương, đất nước nói chung.
Sau khi trình bày hình ảnh bếp lửa gợi cho cháu liên tưởng đến bà, người cháu lại liên tưởng đến cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Hình ảnh bếp lửa rồi ngọn lửa đã trở thành biểu tượng nồng nàn cho tình yêu của hai bà cháu. Tác giả đã cảm nhận được sự khó chịu của người bà khi hàng ngày phải làm việc trong bếp. Mẹ luôn hi sinh vì con và người thân! Cụm từ “một ngọn lửa” là sự sáng tạo của tác giả về giá trị thuật ngữ. Nó nhấn mạnh sự bất diệt của ngọn lửa và ý nghĩa của tình yêu thương mà người bà dành cho đứa cháu của mình. Bếp lửa là hiện thân của tâm hồn, là nghị lực sống phi thường của người bà. Vì vậy, bà không chỉ là người tạo ra và giữ lửa, mà còn là người truyền lửa cho con cháu mà còn cho các thế hệ mai sau. Bà tin rằng cháu trai của mình sau này sẽ thành người, thành đạt để xây dựng đất nước.
Từ những suy ngẫm của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quý của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Cuộc đời bà phải trải qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, nhưng sự thử thách của thiên tài cũng như của xã hội, dường như đã trở thành chuyện bình thường đối với cô. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, bà vẫn tỏa sáng những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Từ “nhóm” càng tô đậm sự hy sinh và hình ảnh cao cả của bà. Cô ấy siêng năng, tròn trịa và đầy tình yêu thương. Mẹ là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn sáng trong mọi hoàn cảnh. Cô đã thắp lửa sống cũng như tình yêu thương cho mọi người. Bếp lửa trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết “Ôi lạ lùng và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ồ” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngơ ngác, ngỡ ngàng như phát hiện ra một sự thật, một điều kì diệu giữa đời thường. Bếp lửa và người bà như hóa thân làm một, luôn cháy sáng, bất tử trong lòng con cháu.
Giờ đây, tác giả đã xa quê hương, đã rời xa vòng tay của bà ngoại. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn nhưng hình ảnh của bà mãi mãi là dấu ấn không thể phai mờ. Tình cảm ấy đã trở thành bất tử trong tâm hồn tác giả.
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?..
Mặc dù tác giả đã đạt được tâm nguyện của mình, nhưng đó là một thành tựu, một cuộc sống hữu ích. Nhưng tấm lòng của tác giả luôn hướng về cội nguồn đã sinh ra và nuôi lớn mình. Chắc tác giả sẽ không bao giờ quên hình ảnh ngọn lửa cô thắp lên với tình yêu bao la của mình. Tác giả luôn tự hỏi mình: bây giờ cô ấy đang sống như thế nào? Nó có khỏe mạnh hay không? Nhóm bếp của bạn đã lên chưa? Đoạn thơ kết hợp với câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ của người cháu luôn đau đáu một nỗi nhớ gia đình, quê hương.
Tác giả đã vận dụng rất sáng tạo hình ảnh bếp lửa và bếp lửa để thể hiện tình thương yêu vô bờ bến của bà đối với đứa cháu. Ngoài ra, việc sử dụng linh hoạt các phương thức tự sự, miêu tả và biểu cảm càng làm tăng thêm cảm xúc cho bài thơ và cách diễn đạt của tác giả chân thực, trong sáng hơn.
Tóm lại, qua bài thơ trên, ta hiểu thêm về hình ảnh người bà cũng như những phẩm chất tinh thần cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Bà mãi là niềm tin đẹp đẽ nhất trong tâm hồn người cháu.
Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa- Mẫu 10
Bếp lửa” là một bài thơ hay về tình cháu gái. Trong đó ba khổ thơ cuối để lại ấn tượng thật sâu sắc:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Một lần nữa, qua thơ của tác giả, ta đã cảm nhận được sự khó thở của người bà khi ngày ngày, sớm chiều nhóm lửa. Làm sao cô có thể nhẫn nhục hy sinh nhiều như vậy. Vì trong tim cô luôn có sẵn ngọn lửa đam mê. Ngọn lửa của niềm tin đất nước sẽ được hòa bình, độc lập, đời sống sẽ được nâng cao, không còn cảnh nghèo đói, đất nước thống nhất, người thân, gia đình không còn cảnh ly tán. sẽ trở về đoàn tụ với cô ấy vào cuối đời. Đó là ngọn lửa của niềm tin con cháu mai sau sẽ nên người, sẽ noi gương cha mẹ, sẽ nhận ra sự vất vả của người bà trong việc nuôi dạy cháu để các cháu quyết tâm học hành thành đạt để xây dựng. một ngôi nhà nông thôn đẹp hơn. Cô luôn mong các em mãi mãi cống hiến cho đất nước như Thanh Hải trong “Mùa xuân nhớ em”:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Nếu bài thơ dừng lại ở đây có thể coi là một bài thơ rất hay. Nhưng cảm xúc của những đứa trẻ khi nhớ về bà ngoại, nhớ về cuộc đời khốn khó cùng bà nhóm lửa, nhớ đến công ơn dạy dỗ của bà… qua những câu thơ giản dị nhưng lược bỏ, với những cách nói ám chỉ và cách dùng từ rất linh hoạt, sáng tạo. Nhưng ở đây dòng suy nghĩ của tác giả đã không được đặt. Vẫn tiếp tục những vần thơ lay động tâm hồn:
“Giờ cháu đã đi xa
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Mặc dù tác giả đã hoàn thành tâm nguyện của mình. Đã là người thành đạt, sống có ích cho xã hội. Được sống trong điều kiện đầy đủ tiện nghi “lửa trăm nhà, niềm vui trăm phương”. Nhưng trái tim của tác giả luôn hướng về cội nguồn sinh thành dưỡng dục của mỗi người. Bằng Việt sẽ không bao giờ quên ngọn lửa mà cô đã nhen nhóm, công lao nuôi lớn.
Bằng Việt đã khéo léo sử dụng những biện pháp nghệ thuật độc đáo, cách gieo vần, điệp ngữ, hình ảnh có sức thuyết phục cao cùng những liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài thơ. Ở đây ta có thể cảm nhận được lòng biết ơn sâu sắc, nỗi mong nhớ, tấm lòng chân thành của nhà thơ đối với người bà kính yêu của mình.
Đọc “Bếp lửa” thêm một lần nữa, trong lòng ta trào dâng bao cảm xúc. Bài thơ đã khơi dậy trong ta một tình cảm cao quý đối với gia đình, quê hương, đất nước. Càng ngẫm nghĩ, khắc khoải trước từng con chữ của tấm bằng Việt Nam, ta càng hiểu thế nào là nỗi nhớ quê hương.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích ba khổ cuối bài thơ Bếp lửa (10 mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa (20 mẫu)
- Cảm nhận khổ thơ cuối trong bài thơ Bếp lửa (18 mẫu)
- Cảm nhận về bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt (13 mẫu)
- Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa (15 mẫu)
- Phân tích khổ 4 bài thơ Bếp lửa (12 mẫu)
- Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa (19 mẫu)
- Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa (17 mẫu)
- Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa (17 mẫu)
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay (25 mẫu)
- Rừng là lá phổi xanh của nhân loại. Em hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (5 mẫu)
- Bạo lực học đường đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Em hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên (51 mẫu)
- Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ (truyện, thơ, phim, ảnh, tượng,…), trong đoạn văn đó có câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán (25 mẫu)
- Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình (9 mẫu)
- Phân tích Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi lớp 9 hay nhất (17 mẫu)