Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 21 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Dàn ý Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà lớp 12
Dàn ý Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Số 1
I. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà ngắn gọn, hay nhất (21 Mẫu)
– Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.
– Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù)
II. Thân bài
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, … chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề
– Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”
– Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
– Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc … xuống dòng”, …
– Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
- Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
- Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
- Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, …
– Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
– Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ đẹp của những người lao động bình dị.
Dàn ý Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Số 2
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò Sông Đà và hình tượng nhân vật người lái đò với những vẻ đẹp tráng lệ: người anh hùng sông nước, người nghệ sĩ tài ba và người lao động bình dị.
2. Thân bài
* Nhận xét khái quát về phong cách sáng tác của tác giả Nguyễn Tuân:
– Từ nhan đề, tác giả đã đưa hình tượng con người vào trung tâm, cốt để miêu tả con người
– Phong cách nghệ thuật vốn có của tác giả là hướng tới cái đẹp, cái hoàn mỹ. Ở đây, con người là chủ thể trữ tình và là nhân vật trung tâm, tác phẩm xoay quanh cái đẹp của con người
* Hình tượng người lái đò được xây dựng với những nét đẹp điển hình
– Người lái đò là một người anh hùng trên sông nước.
+ Vượt thạch trận sông Đà đã chứng minh sự dũng cảm, kiên cường của nhân vật: Ông nắm chắc từng luồng nước, từng con sóng, binh pháp của thần sông thần đá.
+ Ông thuộc lòng từng cửa sinh, cửa tử, từng đá hòn đá tảng, từng cái hút nước trên thạch trận.
+ Hình dung ra bộ mặt dữ tợn của nước, đá, sóng, gió, cảm nhận được thái độ giận dữ, tâm trạng cáu kỉnh của nó để rồi có những sách lược chiến thắng từng con thác, từng tảng đá. Phân tích qua về thạch trận Sông Đà để làm rõ luận điểm trên
– Người lái đò là một người nghệ sĩ.
+ Những hành động đều nhanh gọn, dứt khoát và điêu luyện. “Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, vút, vút… Cửa ngoài rồi cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.”
– Người lái đò là một người lao động bình dị đã cống hiến thầm lặng mà cao cả.
→ Biểu tượng cho những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động bình dị giống bao người khác.
3. Kết bài
Khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân nói chung và khả năng xây dựng hình tượng nhân vật điển hình của tác giả.
21 Bài mẫu Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 1
Tố Hữu đã từng viết:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
Sau cuộc chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu với hiệp đinh Giơnevơ được kí kết, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo lời kêu gọi của Đảng, miền Bắc dấy lên phong trào tình nguyện, đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế, để hàn gắn vết thương chiến tranh. Họ trở lại nhiều hơn cả những nơi xưa vốn là chiến trường. Tây Bắc Điện Biên được xem là một miền đất hứa. Hàng loạt con người mới của xã hội chủ nghĩa nô nức đến miền Tây của Tổ quốc. Họ ra đi đầy ắp tiếng hát, đầy sông đầy cầu. Sự thật cuộc sống bước vào văn chương như một quy luật tất yếu bởi nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Nếu Nguyễn Khải có tập truyện “Mùa lạc”, Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm “Bốn năm sau”, Chế Lan Viên có “Tiếng hát con tàu” thì Nguyễn Tuân có tập tùy bút “Sông Đà” gồm mười lăm bài kí sáng tác năm 1958 – 1960 khi nhà văn đi thực tế trên mảnh đất Tây Bắc. Linh hồn của tập tùy bút là bài kí “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm được đưa vào trong chương trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của Nguyễn Tuân ở thể kí. Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này bên cạnh việc xây dựng được hình tượng con sông Đà chân thực, sống động, ta phải kể đến tác giả đã thể hiện được hình tượng Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định không quá lời rằng với tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã nở hoa trên dòng sông văn chương của mình.
Đến với “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, điều đầu tiên người yêu văn bắt gặp đó là hình ảnh con sông Đà được nhà văn tài ba này xây dựng vô cùng chân thực và sống động. Dòng sông ấy hiện lên dữ dội khác thường nhưng cũng nên họa, nên thơ. Nhưng con sông Đà hiện lên dù chân thực, hung bạo hay trữ tình đến đâu cũng chỉ làm nền cảnh để Nguyễn Tuân tô lên chân dung của con người mới xã hội chủ nghĩa thông qua hình tượng ông lái đò Lai Châu. Chỉ khi ông đò xuất hiện thì bức tranh Đà Giang của Nguyễn Tuân mới trở nên hoàn chỉnh bởi ông đò Lai Châu chính là chủ thể của bức tranh thiên nhiên. Có được điều đó bởi Nguyễn Tuân đã được giác ngộ lí tưởng của Đảng. Trong văn chương, những người nghệ sĩ cách mạng, thiên nhiên hiện ra dù hùng vĩ, mĩ lệ đến đâu cũng chỉ là nền cảnh để tô lên sự hiện diện của con người. Con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng, làm chủ dòng sông, làm chủ cả cuộc đời mình. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy.
Sở dĩ Nguyễn Tuân viết thành công ông đò Lai Châu trong thiên tùy bút của mình bởi nhắc đến Nguyễn Tuân là phải nhắc đến một nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ, cả đời chỉ phụng sự cái đẹp. Vì vậy, những nhân vật của Nguyễn Tuân dù làm bất cứ nghề nghiệp gì cũng phải là người nghệ sĩ trên nghề nghiệp của mình. Ta đã từng bắt gặp một Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, là một nghệ sĩ viết chữ đẹp. Đó còn là một Bát Lê trong “Bữa rượu máu” tuy chỉ là một đao phủ nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại trở thành một nghệ sĩ chém người… Ở đây, ta thấy ông đò Lai Châu cũng là một người nghệ sĩ như vậy. Dù tuổi đã vào bảy mươi nhưng khi lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo với nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy, tay lái của ông vẫn ra hoa. Ông làm chủ dòng sông Đà, làm chủ cả thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Ông là người nghệ sĩ trên sông nước mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở trên Tây Bắc. Có thể khẳng định chính người nghệ sĩ trên dòng sông Đà này đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận đối với ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân
Như vậy, ta có thể thấy ông đò Lai Châu bước vào trang văn đã được thể hiện một cách vô cùng trân trọng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân. Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám vì lúc này, Nguyễn Tuân đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, phù sa của nhân dân bồi đắp. Ông đứng giữa lòng nhân dân mà nhân dân là cội nguồn của nghệ thuật. Sự gắn kết đó đã được Tố Hữu nâng lên thành hình tượng thơ đẹp:
“Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên”
Nhớ lại trước cách mạng Nguyễn Tuân vẫn chìm đắm trong vòng cái “Tôi” của một nhà văn lãng mạn tiêu biểu. Ông chỉ viết về những con người kì vĩ, lớn lao của một thời vang bóng ví như nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” lấy từ nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân đi từ cái “Tôi” cô đơn đến cái “Ta” của cộng đồng. Tuy vậy, cái “Tôi” của Nguyễn Tuân không mất đi mà trái lại, nó được ánh sáng của Đảng nuôi dưỡng, được bồi đắp bởi phù sa nhân dân và trở nên đa cảm hơn, mẫn cảm hơn. Ông tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ngay trong đời của những người dân bình thường thời hiện đại. Vì vậy, sau cách mạng Nguyễn Tuân viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích… Đó là những con người anh hùng ngay trong đời bình thường, những con người rất bình dị. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy. Để khẳng định rằng mình đã tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ở những người dân bình thường, Nguyễn Tuân đã để ông đò Lai Châu là một người khuyết danh khiến cho ông cũng là một con người bình thường như muôn nghìn người dân Tây Bắc khác. Họ rất bình thường nhưng cũng lại rất anh hùng mà như Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Hơn nữa, như đã nói ở trên, “Người lái đò sông Đà” nói riêng cũng như tập tùy bút “Sông Đà” nói chung được sáng tác vào những năm 1958 – 1960. Trong gi¬ai đoạn này, miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, các nhà văn đã lên Tây Bắc để khai phá hồn thơ, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong văn chương. Đó là anh Nhẫn trong “Cỏ non” của Hồ Phương, anh Khôi trong “Nước về”, Quyên trong “Cái sân gạch” của Đào Vũ, anh thanh niên không tên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Tuân Long, là Huân, là Đào, là Duệ, là Dịu, là Lâm trong “Mùa lạc” của Nguyễn Khải… Hòa vào phong trào của Đảng, Nguyễn Tuân cũng tìm thấy chân dung của con người mới xã hội chủ nghĩa ấy chính là ông đò Lai Châu. Có thể khẳng định không quá lời rằng họ chính là những bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa.
Như đã nói ở trên, ông đò Lai Châu trong tác phẩm này là một nhân vật khuyết danh. Điều này cho thấy Nguyễn Tuân không có ý định xây dựng ông đò theo một kiểu nhân vật điển hình. Nói cách khác, ông đò Lai Châu không phải là một điển hình văn học vì nhân vật điển hình bao giờ cũng có tên tuổi, có địa chỉ xác định, có hoàn cảnh phải điển hình. Ông đò Lai Châu tuy chỉ là một nhân vật khuyết danh bình thường trong đời sống thường nhật nhưng ông lại có một vị trí đứng rất đặc biệt trong tâm hồn người yêu văn Nguyễn Tuân. Cả đời ông có mười năm gắn bó với nghiệp sông nước. Mười năm đối với đời của một con người không phải thời gian dài. Thế nhưng trong suốt mười năm ấy, ngày nào ông cũng phải cưỡi thác sông Đà như cưỡi hổ, phải đối mặt với những trùng vi thạch trận; ngày nào ở nơi ấy ranh giới giữa sự sống và cái chết cũng vô cùng mỏng manh. Điều ấy đã khiến cho mười năm ấy dài tựa trăm năm.
Chính cuộc đời gắn bó với sông nước đã làm nên cái dáng vẻ rất riêng của ông đò Lai Châu. Nguyễn Tuân đã chỉ ra được những đặc điểm rất riêng ấy: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp cái cuỗng lái trong tưởng tượng. Ông đò Lai Châu bỏ nghề đôi chục năm nay rồi nhưng ngày nào ông cũng ngỡ mình như đang lái thuyền trên sông nước. Tiếng ghềnh sôi thác réo vẫn còn âm vang trong giọng nói của ông. Đôi mắt của ông nửa thực nửa mơ như muốn mơ về một cõi mơ xa thẳm. Nhỡn giới của ông cao vòi vọi như lúc nào cũng hướng về một bến bờ nào đó ở trong sương mù. Đã vào độ tuổi bảy mươi nhưng ông vẫn còn lực lưỡng quá. Cái đầu quắc thước được đặt trên một thân hình to khỏe gọn quánh chất sừng chất mun. Người xưa có câu “giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Với người lái đò, có lẽ điều quan tâm của Nguyễn Tuân là ở đôi bàn tay của ông. Đôi tay ông còn trẻ trung quá khiến cho dường như thời gian đã có bước lùi trong tuổi tác của ông đò. Như một lẽ thường tình, người nào sống quá lâu trong lam lũ vất vả thì người ấy chóng già. Riêng với ông đò Lai Châu, từ khuôn mặt đến nụ cười của ông đều là của tuổi trẻ. Đây chính là tiền đề để Nguyễn Tuân xuất thần câu văn rất đẹp: “Khuôn mặt ông he hé nửa miệng cười”.
Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút tài tình của Nguyễn còn lách sâu vào để khắc họa những tính cách rất riêng của ông đò Lai Châu. Vẫn biết rằng Đà giang là một con sông rất đặc biệt trên đất nước trăm sông nghìn núi này. Điều ấy đã hơn một lần được Nguyễn Quang Bích khẳng định:
“Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Sự độc đáo của Đà giang đã tạo nên sự hung bạo của nó. Để chinh phục được con sông Đà hung bạo, ông đò Lai Châu đã bộc lộ mình là một người có tính cách phi thường như “chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng dữ”. Ông chỉ thích lướt sóng lướt thuyền trên đoạn “thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông cũng đã từng tâm sự “Lái thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại chân tay và rất dễ buồn ngủ.” Như vậy, một người thích đương đầu với sóng gió, thích đương đầu với gian khổ hi sinh, ông đò Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi thường. Nhìn rộng ra, đây là sự hóa thân của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ông không thích những gì là bình thường, là quen nhàm bởi “cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật”. Chính vì lẽ đó, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị trí của mình trên tao đàn bằng những đề tài khá gai góc để bộc lộ sở trường, phong cách của một người nghệ sĩ đã được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đóng đanh trong một chữ “ngông”.
Bên cạnh đó, ông đò Lai Châu còn là một người có trí nhớ rất tuyệt vời. Trí nhớ của ông chẳng khác nào cuốn thủy văn sông Đà. Ông nhờ đến tường tận như đóng đanh vào trong lòng từng con thác. Tuy bỏ nghề đã đôi chục năm nay nhưng khi Nguyễn Tuân đi khảo sát dòng sông, ông vẫn kể vanh vách năm mươi trên tổng số bảy mươi ba con thác dữ từ ngã ba biên giới Việt – Trung về đến Chợ Bờ. Ông hiểu rõ tính cách qui luật của từng con thác dữ, của từng tướng đá nơi đây từ cách bày binh bố trận của nó. Đây không chỉ là biểu hiện trí nhớ đơn thuần của một con người mà nó còn là biểu hiện của lòng yêu nghề, coi “nghề” như “nghiệp”. Ông gắn bó với nghề nghiệp của mình như con ong làm mật yêu hoa, con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời. Nhìn rộng ra, đây cũng là biểu hiện phong cách của Nguyễn Tuân. Ông cả đời chăm chỉ cần mẫn như con ong hút nhụy từ những bông hoa của cuộc sống. Không có sự cần mẫn của con ong, nhụy hoa không thể trở thành mật ngọt. Có thể khẳng định, nếu coi ông lái đò thuộc những con thác ở Đà giang như người nghệ sĩ thuộc tác phẩm của mình, coi con sông Đà là một thiên anh hùng ca của thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, khác thường, nên họa, nên thơ thì ông đò Lai Châu thuộc bản anh hùng ca ấy đến từng dấu chấm, dấu phẩy.
Không chỉ có trí nhớ tuyệt vời, có tính cách phi thường, ông đò còn là một con người rất khỏe mạnh. Ngày nào lái thuyền trên dòng sông Đà, ông luôn phải tập trung cao độ, người luôn phải dựng đứng. Ông phải luôn mắt, luôn chân, luôn tay, luôn gân và cả luôn tim. Chỉ cần khinh suất một chút là cả người và thuyền sẽ bị lật úp dưới dòng sông Đà mà như có lần Nguyễn Tuân đã mô tả: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Thế nhưng ông đò Lai Châu vẫn chiến thắng những đoạn sông hung bạo vì ông là một người trí dũng. Gặp những cái hút nước, người khác phải run tay thì ông lại bơi dẻo tay chèo, nắm chặt lấy bờ sóng để phóng qua. Cũng đã có những lúc thuyền của ông đò bị sóng nước ùa vào bẻ gãy cán chèo, tóm lấy thắt lưng, dùng đòn tỉa, đòn âm làm ông đuối sức, mắt hoa lên, nhìn cửa sông ngỡ là cửa biển, cả một rừng đom đóm ùa xuống châm lửa xuống đầu sóng… Mặc dù vậy, ông đò vẫn không hề buông tay, tiếng chỉ huy tay chèo vẫn vô cùng ngắn gọn và đầy tỉnh táo vì ông là một người trí dũng hơn người.
Ngoài ra, ông đò Lai Châu còn là một con người rất khéo léo. Lái thuyền trên dòng sông Đà thực sự là một nghệ thuật. Ông đò Lai Châu vốn là một nghệ sĩ trên sông nước vậy nên tất cả những nhịp chèo của ông khi thì khoan thai, khi thì mạnh khỏe, dứt khoát. Ông nhớ rất rõ từng con thác, từng tướng đá và biết rất rõ lúc lui lúc tiến vô cùng nhịp nhàng. Có những tướng đá ông tránh ra để giảm tay chèo, nhưng có những con thác ông đè sấn lên, chặt đôi ra để mở đường tiến. Nhiều lúc thuyền của ông đò như một cái tên tre xuyên qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Sau khi vượt qua ba trùng vi thạch trận, thuyền của người nghệ sĩ lái thuyền trên dòng sông Đà ấy lại trôi vào một quãng sông lặng tờ, yên ả, nhịp chèo trở nên khoan thai như thuyền tôi trôi trên sông Đà. Rồi cứ thế, qua cái quãng sông đầy nên thơ, người nghệ sĩ lúc này ngồi thản nhiên như để ung dung ngắm cảnh ở nơi đây. Tối đến, nhà đò lại neo đậu trong một cái hang lạnh thổi lửa nướng cơm lam và kể về việc nhà cửa, về cách làm ăn, kể về những loài cá quý hiếm chỉ có ở sông Đà. Tuyệt nhiên Nguyễn Tuân không thấy những con người nơi đây kể về chiến công của mình sau một trận vượt thác. Đó là bởi đức tính anh hùng là một phần cố hữu trong tâm hồn của người lái đò nơi đây, trở thành một phần bản chất của người dân Tây Bắc. Đứng trước đức tính khiêm nhường của người Tây Bắc, cái “Tôi” của Nguyễn Tuân co cụm lại, câu văn trở nên đầy tế nhị, không phô trương, kéo dài, ngồn ngộn ngôn ngữ như ở những đoạn văn trên nữa. Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám mà thôi.
Như vậy rõ ràng, thông qua “Người lái đò sông Đà”, với khoảng vài trang sách, vài trang tùy bút, Nguyễn Tuân đã dựng lên trước mắt chúng ta một bức chân dung của người nghệ sĩ lái đò. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên sông nước. Lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa nhưng điều quan trọng mà ta cần phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa. Có lẽ đây là bức chân dung chân thực nhất về vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa, những con người sống rất âm thầm, giản dị, sẵn sàng trở thành một hậu phương lớn của một miền Bắc để sau này chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền Nam thành đồng Tổ quốc.
Có thể khẳng định rằng bài kí “Người lái đò sông Đà” đã bộc lộ toàn bộ sở trường, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người ta yêu Nguyễn Tuân vì Nguyễn Tuân rất có tài. Người ta trọng Nguyễn Tuân vì ông là một người nghệ sĩ của cái đẹp, người nghệ sĩ của hai chữ “thiên lương” trong sáng. Nhưng nói một cách khách quan, văn của Nguyễn Tuân không phải ai cũng ưa chuộng, nhất là những bài tùy bút bởi Nguyễn Tuân hay viết những câu văn rất dài cùng những tư liệu khá khô khan, khó hiểu. Bài kí “Người lái đò sông Đà” cũng không tránh khỏi những tì vết kể trên. Tuy nhiên, với bức chân dung của ông đò Lai Châu cùng tất cả những gì Nguyễn Tuân đã cống hiến trên thi đàn văn chương, Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng lớn, là một nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ.”
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 2
Nguyễn Tuân, một tâm hồn yêu cái đẹp, một ngòi bút nhạy cảm, yêu thiên nhiên, đất nước, con người. Sự nghiệp văn chương của ông vô cùng đồ sộ, để lại cho thế hệ sau những tuyệt bút quý giá. Nhắc về thiên nhiên trong văn Nguyễn Tuân, người ta không thể bỏ qua “Người lái đò Sông Đà” rút trong tập “tùy bút Sông Đà”. Tùy bút cho người đọc thấy được sự hùng vĩ của thiên nhiên, khung cảnh tuyệt vời của tổ quốc vùng Tây Bắc, và hơn cả là hình tượng con người chế ngự thiên nhiên qua hình tượng người lái đò sông Đà, một vẻ đẹp lao động giản dị, một chiến binh trên sóng nước Sông Đà và người nghệ sĩ lành nghề trong nghệ thuật vượt thác.
Hình ảnh người lái đò được nhà văn xây dựng qua công việc lao động thường nhật. Đọc đoạn trích, người ta cảm phục cái tài vượt thác của nhân vật. Dường như, sự tài hoa điêu luyện ấy đã lên đến bậc nghệ sĩ. Người lái đò gan dạ, thông minh, hiểu rõ từng ngóc ngách, từng tảng đá trên thác sông Đà dữ dội. Dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân khi miêu tả sự ác nghiệt của thác nước cũng là lời khẳng định sức mạnh chế ngự, điều khiển thiên nhiên của con người và vẻ đẹp của người dân lao động
Ngay từ nhan đề, tác giả đã dành cho người lái đò một vị trí trung tâm, vị trí trọng yếu. “Người lái đò Sông Đà” miêu tả con sông Đà kì vĩ, hung bạo một mặt ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, mặt khác nhằm khẳng định hình ảnh con người làm chủ thiên nhiên. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng vị thế của nhân vật được thể hiện rất rõ. Hình ảnh con người làm chủ sông nước, chinh phục thiên nhiên, một con người nhỏ bé về hình thể nhưng vĩ đại trước thiên nhiên rộng lớn.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 3
Nói về quan điểm của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng để hiểu được vì sao con người trong “Người lái đò Sông Đà” lại đẹp đến thế. Trước Cách mạng, ông đi tìm cái đẹp trong quá khứ, cái đẹp nổi loạn, phi thường. Ông tìm đến những bậc nho sĩ tài hoa, những vị anh hùng hào kiệt vang bóng một thời. Sau cách mạng, cái đẹp Nguyễn Tuân hướng tới là sự bình dị, được tìm thấy ở những con người rất đời, rất thường. Từ bác lái đò, đến anh bộ đội, cô dân quân, những nhân vật không tên, bình dị mà cao quý. Ở góc nhìn này, người lái đò Sông Đà là một con người đẹp, một nhân vật đẹp với cuộc sống lao động bình dị, đời thường. Miêu tả hình ảnh người lái đò, tác giả tập trung vào con người đấu tranh với thạch trận Sông Đà để làm nổi bật rõ những khía cạnh của hình tượng này: Một vẻ đẹp của người lao động bình thường, một người anh hùng trên sóng nước Sông Đà và một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
Người lái đò là một anh hùng sông nước. Cuộc chiến đấu giữa người lái đò với thạch trận Sông Đà là một cuộc chiến gay go, quyết liệt và dữ dội. Đây không đơn thuần chỉ là một cuộc vượt thác, đây giống như một trận chiến sinh tử. Ở đó có sự giằng co giữa sự sống và cái chết. Chính Nguyễn Tuân từng nói, “Cưỡi lên thác Sông Đà là phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Câu nói thể hiện sự quyết liệt, gay cấn và hiểm nguy, giữa một bên là thạch trận Sông Đà, một bên là người lái đò. Thạch trận với đá hòn, đá tảng, với luồng nước con sóng. Thạch trận Sông Đà “lúc nào cũng đòi ăn chết cái thuyền” với người lái đò “tỏ rõ khí phách, bản lĩnh, dũng khí của người anh hùng”. Trận chiến sinh tử, giằng co dữ dội. Không phải lúc nào người lái đò cũng thắng, đã có những lúc tưởng như bị nuốt chửng trên thạch trận. Chiến thắng có được không hề giản đơn. Trong cuộc chiến này, người lái đò trở thành người chỉ huy tài tình, bản lĩnh, dũng khí gan dạ. Ông nắm chắc từng luồng nước, từng con sóng, binh pháp của thần sông thần đá. Ông thuộc lòng từng cửa sinh, cửa tử, từng đá hòn đá tảng, từng cái hút nước trên thạch trận. Thậm chí, ông còn hình dung ra bộ mặt dữ tợn của nước, đá, sóng, gió, cảm nhận được thái độ giận dữ, tâm trạng cáu kỉnh của nó để rồi có những sách lược chiến thắng từng con thác, từng tảng đá. Ông chủ động tiến, lùi, sang trái, sang phải để vượt thạch trận. Người ta gọi ông là người chỉ huy tài năng cũng bởi vậy.
Tinh thần dũng cảm, ý chí dũng mãnh của ông lái đò được thể hiện qua từng hành động: “khi thì kẹp chặt lấy cuống lái, khi thì chủ động sải bơi chèo lên, khi cưỡi thác vượt ghềnh, khi chặt đôi con sóng”. Trên thạch trận, có bao nhiêu trùng vi là bấy nhiêu nguy hiểm mà người lái đò phải đối mặt. Nếu không có tinh thần dũng cảm, ý chí dũng mãnh thì không thể nào làm được việc đó. Giữa thiên nhiên kì vĩ và hung bạo , người lái đò thể hiện một tư thế làm chủ, hiên ngang chế ngự những con sóng dữ. Hình ảnh người lái đò chính là hình ảnh một người anh hùng trên sông nước, một người lao động chế ngự được thiên nhiên.
Viết về người lái đò, Nguyễn Tuân không ca ngợi trực tiếp nhân vật mà chỉ thông qua những lời miêu tả và chiến thắng thạch trận cũng đủ giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp, tài nghệ của ông. Trên trang viết của Nguyễn Tuân, người lái đò không chỉ được chú trọng về phẩm chất anh hùng mà còn nhấn mạnh vẻ đẹp một người nghệ sĩ, một: tay lái ra hoa”. Tài nghệ thuần thục, điêu luyện đã nâng tới mức kĩ xảo. Với tác giả, vốn quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, nghệ sĩ là một hình tượng điển hình trong tư duy sáng tạo văn học của ông. Trong tác phẩm này, nhà văn miêu tả công việc lái đò giống như một nghệ thuật:” Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, vút, vút… Cửa ngoài rồi cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Câu văn miêu tả rất tinh tế. Phải có sự khéo léo, thuần thục trong nghề nghiệp thì người lái đò mới điều khiển phương tiện của mình được như vậy. Người ta coi ông là nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác, con thuyền vượt sóng dữ, đá lớn để tô đậm thêm tài nghệ sĩ càng đọc càng ca ngợi, tôn vinh của người lái đò.
Người lái đò không chỉ là anh hùng sông nước, một nghệ sĩ vượt thác mà còn là một người lao động bình dị giữa đời thường, những con người đã cống hiến thầm lặng mà cao cả. Những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động bình dị giống bao người khác. Sau bao gian khổ, khốc liệt dữ dội, ông cũng chỉ muốn trở về nhà, trở về với cuộc sống bình thường, thư thái và lạc quan. Tâm thế này không phải ai cũng có được, nhất là những người trở về từ cõi chết. Một tâm hồn đẹp đẽ, bình dị mà cao quý, linh thiêng.
Hình tượng nhân vật người lái đò hiện lên với ba khía cạnh nổi bật: người anh hùng sống nước, người nghệ sĩ tài hoa và người lao động chân chất. Bằng cái tài miêu tả, quan sát, cách lựa chọn góc nhìn trần thuật và đặc biệt là cách vận dụng ngôn từ đúng, đắt và đẹp. Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân là không thể chối cãi, nhưng để xây dựng một hình tượng nhân vật kiệt xuất đến vậy phải cần cả cái tâm, cái tâm yêu quý, kính trọng con người.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 4
Nhà văn Nga Tolstoi từng viết: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Chính tình yêu cuộc sống, tình yêu thiên nhiên, lòng yêu thương con người là chất xúc tác thôi thúc người nghệ sĩ tìm thấy “chất vàng mười” cho văn chương của họ. Xuyên suốt chặng hành trình cùng với người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu da diết của mình cho những người lao động, cho thiên nhiên đất nước Việt Nam. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc từ năm 1958 đến năm 1960, tất cả vẻ đẹp của sông Đà đã hiện lên rõ nét trong tùy bút này.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là “Người lái đò sông Đà”, bởi song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội, hung bạo, vừa dịu dàng, đằm thắm là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa thơ mộng. Nhà văn miêu tả cái hùng vĩ của dòng sông là để tôn vinh vẻ đẹp con người – một khúc hùng ca của núi rừng Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”. Thế nhưng qua cuộc chiến đấu ấy, ông đò được bộc lộ tài năng và kinh nghiệm mười năm gắn bó với thác đá Sông Đà, với cái nghề lái đò này. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên dòng sông Đà không dưới trăm lần, trong đó có tới sáu mươi lần ông cầm lái. Con số mười năm, trăm lần, hơn sáu mươi chính là minh chứng cho kinh nghiệm dày dặn của ông đò Lai Châu.
Bước vào cái tuổi bảy mươi, hình ảnh người lái đò của Nguyễn Tuân hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…” Thân hình ông lái đò như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch, nước da ánh lên chất sừng như mun, ánh lên nắng mưa sương gió của mây trời Tây bắc. Tuổi đã cao nhưng cặp mắt của ông vẫn tinh anh, thông thạo từng đường đi nước bước trên sông Đà. Đặc biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” – đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã ví von như là “những huân chương lao động siêu hạng”…………….
Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người”. Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cũng vì thế nhà văn luôn đi tìm những gì còn ẩn nấp trong tâm hồn con người lao động bình dị. Người lái đò sông Đà là minh chứng cho nét phong cách của Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, hình tượng sông Đà và hình tượng người lái đò nổi bật lên và cũng là hai hình tượng chính, được nhà văn miêu tả bằng tất cả bút lực, với kiến thức sâu sát về nhiều lĩnh vực, từ tri thức về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh, văn học. Có lẽ bao tình cảm, niềm đam mê, yêu quý của người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu thương dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh. Ông thuộc dòng sông như thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng”. “Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”. Một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông, thần núi” như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử ‘biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go mà ông đã theo đuổi gần kết đời người. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên bạo liệt để lao động trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của ông lái đò được thể hiện qua những cuộc giao tranh dữ dội của nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận.
Trong cuộc chiến không cân sức, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn phương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mặt trận của ông là mênh mông sóng nước. Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo họa của con sóng, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa, nói gì đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh” và cũng đầy tính nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”.
Ở trùng vi thứ nhất, một chữ Dũng hiện lên khác biệt bởi sự đọ sức giữa con người và thiên nhiên không “ngang sức ngang tài”, nhưng sự quyết chiến của con người đã làm cho thiên nhiên phải ngỡ ngàng, bởi ông đò thật quá “lì đòn”, thật đáng khâm phục!
Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra với khí thế nghênh chiến quyết tâm thắng trận của ông lái đò. Nhưng thiên nhiên sông Đà cũng mạnh bạo không kém, những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện”, chúng tỏ ra liều mạng, luồng sóng hung tợn cứ xông vào tới tấp, “đá trái” và “thúc gối” liên tiếp vào bụng và hông thuyền, rồi chúng còn “đội cả thuyền lên” như muốn nuốt chửng chiếc thuyền bé nhỏ. Bằng sự chủ động, sông Đà đã tung ra những cú đánh tới tấp, phủ đầu, bao gồm luôn cả những đòn hiểm, và những kẻ “non tay” sẽ gục ngã ngay từ tuyến đầu này. Nhưng con người trên thuyền ấy thì lại không hề bé nhỏ, ông lái đò vẫn bình tĩnh giữ mái chèo bằng hai tay, giúp mái chèo không bị hất lên khỏi sóng giữ. Đến lúc này, sông Đà lại tung đòn hiểm nhất: “bóp chặt lấy hạ bộ” khiến ông lái đò đau điếng, nhưng sự đau đớn của thua cuộc còn đáng sợ hơn nỗi đau thể xác quen thuộc của vị thuyền trưởng này, thế nên, ông vẫn giữ kẹp lấy cuống lái bằng hai chân rất vững, dù mặt méo bệch vì đau đớn. Ở trùng vây này, thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền như thử thách tài nghệ của ông đò, và thật anh hùng, vị thuyền trưởng lão làng ấy đã vượt qua đầy dũng cảm.
Vòng vây thứ hai có phần hung hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn.” Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng”, rồi cứ thế “phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, ông tự tin “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến”. Vậy là đã qua cửa ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác.
Còn một cửa ải cuối cùng, trận này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ.” Mới nghe đã thấy khó khăn đủ về, nhưng ông lái đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó”, “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Vậy là đã vượt qua cả ba trùng vi thạch trận, trận nào cũng hung hiểm vô cùng.
Qua cảnh vượt thác với ba trùng vi thạch trận đầy cam go, gay cấn của người lái đò sông Đà, ta cảm tưởng mình vừa trải qua một cuộc hành động gay cấn đến nghẹt thở, hồi hộp từng giây từng phút, mà ông đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hàng ngày chiến đấu giao tranh với thiên nhiên trong sự hiểm nguy trùng trùng đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và bạo liệt.
Với ông đò Lai Châu, việc bàn đến những con cá dầm xanh, cá anh vũ, việc ngồi lại với nhau đốt lửa trong hang đá nướng ống cơm lam mới là cái thú vui của đời người đáng để ta nhắc đến tiêu khiển sau những giờ lao động vất vả. Ở đây, tuyệt nhiên không có một hồi ức nào về những hiểm nguy đã qua, mà tất cả đều đờm đọng lại lãng mạn, ngọt ngào. Người lái đò sẵn lòng gác lại mọi giap tranh, hơn thua, chỉ còn lại là những câu chuyện kể đời thường, đó là khí chất, là một cốt cách đẹp. Có lẽ vì vậy, chất thơ trong tùy bút cứ bàng bạc trong từng câu mỗi chữ.
Khi gác lại chiếc chèo, khi ngừng chiến đấu với con sóng dữ, người lái đò không còn là vị tướng chỉ huy trong trận thủy chiến ấy nữa, mà ông trở thành một người anh hùng trong cuộc sống đời thường, xem mọi chuyện chiến đấu ấy nhẹ nhàng như mây trôi. Đó chính là người anh hùng trong thời đại mới, thờ kỳ lao động xây dựng đất nước phát triển. Một trong những thành công của người nghệ sĩ, của một nhà văn là có thể phác thảo những nét bút hài hòa nhất về một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, để chính quảng văn của mình sẽ tôn lên cái tài hoa kiêu bạc của nhân vật ấy một cách hoàn hảo nhất. Và qua đó, những cốt cách, những phẩm chất của con người hiện lên thật trọn vẹn.
Là người đầu tiên kể ra chính xác năm mươi trên tổng số bảy mươi ba con thác dữ, từ ngã ba biên giới Việt – Trung về đến chợ Bờ, Nguyễn Tuân như được cùng Đà giang và người đò gắn mình với miền Tây Bắc điệp trùng kỳ vĩ. Mười lăm bài tùy bút bà một bài thơ phác thảo ra đời sau chuyến đi thực tế của nhà văn đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Qua đó, ông gửi gắm những ước mơ của mình về một Tây Bắc phát triển, cuộc sống của người lao động tốt hơn, người ta sẽ dựng xây Tây Bắc và sông Đà để từ một con thủy quái dữ dội trở thành một đội quân hào hùng phục vụ cho con người Tây Bắc. Và tùy bút “Người lái đò sông Đà”, đặc biệt hình ảnh ông lái đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng thêm ấn tượng, bởi nó đã chảy tràn thành những áng văn đẹp, góp phần phát triển nền văn chương Việt Nam với thể loại tùy bút. Và thế, Nguyễn Tuân xứng đáng là một “Đà giang độc bắc lưu” trên bình diện nghệ thuật.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới sự kết hợp của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa , ẩn dụ gợi lên cảm giác mãnh liệt, hồi hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một bức tranh hoành tráng về dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm, cái trí tuệ uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật luôn đòi hỏi sự sáng tạo. sáng tạo so với chính mình và người khác. Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta thấy được những nét mới trong quan điểm sáng tác của Nguyễn Tuân. Từ nhân vật Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà còn hơn nữa thấy được sự chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước và sau Cách mạng ông đều có những thống nhất riêng, tuy nhiên trước Cách mạng ông hướng tới vẻ đẹp “Vang bóng một thời”, còn sau Cách mạng, ngòi bút của ông hướng tới con người lao động. Thế nhưng nhà văn không còn đi tìm đi tìm vẻ đẹp của những con người xa vời mà đi tìm vẻ đẹp trong chính những con người lao động đời thường, ngay trong chính cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Họ – những con người lao động bình dị đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Trước Cách mạng, ông là một người tài tử, thích chơi ngông, thích chiêm ngưỡng cái đẹp cao sang, thì sau Cách mạng, ông lại nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ lao động. Ông nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy sinh sôi động. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sĩ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 5
Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng được ví như bản trường ca bất tận rừng già của sông Đà. Song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội vừa dịu dàng ấy, là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”. Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai lực lưỡng trẻ khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định “lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, như một con thú với tiếng rống “như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão, phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi, ở độ tuổi thất thập cổ lai hi, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sóng nước hiểm trở.
Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nổi bật, vừa là một chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là một người nghệ sĩ tài hoa hằng ngày vẫn viết nên bản những bản hùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới 60 lần ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò Lai Châu hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…” đặc biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.
Ông lái đò không phải là người an phận ngược lại ông thích đương đầu với hiểm nguy, khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ”. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn mang một tâm hồn trẻ khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can trường, niềm tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông nghiễm nhiên trở thành niềm đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Chỉ bằng những nét khái quát như vậy, hình ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa, tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”. Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi”, như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của mà ông đã theo đuổi gần hết đời người. Trong cuộc chiến không cân sức, giữa người lái đò lẻ loi, cùng con sông Đà hung bạo, nguy hiểm, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn thương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mỗi điều mặt trận của ông là mênh mông sóng nước.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 6
Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo hoạt của con sông, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn, nói gì đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh” và cũng đầy tính nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”. Ông lái đò đã xuất sắc lần lượt vượt qua những cửa ải hung hiểm ấy một cách điêu luyện, mặc dù có những lúc đã bị thương, nhưng nỗi đau đớn ấy chẳng thấm vào đâu so với việc bị mất mạng. Bằng kinh nghiệm dày dạn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững chãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, cũng hiểu rõ phải chống trả, tránh né làm sao để qua được ải đầu tiên, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thẳng. Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi”, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất, thế là qua được một ải. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ở trùng vi thạch trận thứ hai ông lập tức thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”, không cho con sông Đà có một cơ hội phải kích nào.
Vòng thứ hai này có phần hung hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng” , rồi cứ thế “phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, bọn thác đá vẫn không ngừng khiêu khích, nhưng chúng chỉ như đang làm trò hề trước mặt ông đò, bởi ông đã tự tin “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến”. Thế là xong nốt ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ đấy, nhưng có mấy ai đủ bình tĩnh và tay chèo điêu luyện để nhằm trúng vào cửa sinh như ông lái đò Lai Châu? Còn một ải cuối nữa, ải này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”, mới nghe đã thấy khó khăn đủ bề, nhưng ông đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó” ,“thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Vậy là qua hết cả ba ải, mà ải nào cũng nguy hiểm vô cùng, con sông lại trở về với vẻ thanh bình, lặng lẽ.
Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm tưởng mình vừa coi một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, có phần tương đồng với một số tác giả như Nam Cao hay Nguyễn Huy Tưởng, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật trong lao động. Bởi trong những con người ấy chất chứa cả một niềm đam mê sâu sắc, niềm tin yêu, luôn tìm cách sáng tạo, đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ cho nghề nghiệp của mình.
Hình tượng người lái đò sông Đà được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong hơi thở văn chương ấy, nhà văn đã khẳng định được tài năng và sức mạnh cường đại của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao động và thiên nhiên kỳ bí vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng bằng sự thông minh, sáng tạo, đức tính kiên cường, tỉ mỉ vốn ăn sâu vào máu của những người lao động, họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người nghệ sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 7
Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng. Trước 1945 ông nổi tiếng với các tác phẩm như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… sau năm 1945 ông nổi tiếng với thể loại tùy bút mà tiêu biểu là các tác phẩm: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Tùy bút Sông Đà… Người lái đò sông Đà là tác phẩm trích trong Tùy bút Sông Đà được viết nhân chuyến thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ là hình tượng con Sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn là bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ – một tay lái ra hoa.
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái “một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian”. Trong ấm trà pha ngon, cụ đã “nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lí” (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người” (Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc) có “tay lái ra hoa”. Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và “sóng xô đá, đá xô gió” bỗng hiên ngang một người lái đò hùng dũng, oai phong như khắc như chạm. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”.
Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa” đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá.
Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn in đậm vẻ đẹp tâm hồn tính cách:
Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng lạch trên sông Đà. Ông lái đò thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Đó chính là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.
Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng phải giành những cái sống từ tay những con thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút Nguyễn Tuân thể hiện qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy.
Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào mà “đá trái” mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.
Thật là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có! Cao cường biết bao !
Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách “nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”. Đã vậy, còn bố trí “bọn đá hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con thuyền”, “chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc thuyền như một mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng.
Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu… Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh hoành tráng. Nhà văn đã dùng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông theo hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn mục, ông lái đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.
Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ.
Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của ông. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”.
Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ. Song qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò. Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ…”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ.
Có thể nói Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa, nghệ sĩ; để miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh…
Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười” quý giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 8
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đò Sông Đà, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong cách đó.
Người lái đò sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.
Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có, chuẩn xác Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già 70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 9
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Các miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả…” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. “. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (…). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức về thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ… tác phẩm đích thực ấy còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc. Cái đẹp hùng vĩ của thiên nhiên của tạo hóa và đặc biệt là cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động: Người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm, nhưng đầy vinh quang.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 10
Hình tượng thiên nhiên và con người trước nay luôn song hành cùng nhau trong các tác phẩm văn học. Đến với tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân, độc giả như được tận mắt chiêm ngưỡng khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ mà cũng hết sức nên thơ, trữ tình của sông núi vùng Tây Bắc. Nổi bật trên nền thiên nhiên ấy chính là hình ảnh con người lao động với tầm vóc sánh ngang trời đất.
“Người lái đò Sông Đà” là tùy bút được nhà văn sáng tác trong chuyến lên Tây Bắc để thỏa cái đam mê “xê dịch” của mình. Nếu như trước Cách mạng, ông đi tìm những vẻ đẹp “vang bóng một thời” ở các nho sĩ tài hoa, những anh hùng hào kiệt thì đến sau Cách mạng, ngòi bút nhà văn lại hướng đến cái mộc mạc, giản dị mà không kém phần cao quý ở những con người vô danh. Người lái đò trong tác phẩm chính là một minh chứng.
Những “ông đò” hiện lên không màu mè, hoa mĩ. Họ được gọi tên bằng chính cái nghề mà họ làm. Ngày ngày, họ chở khách, chở hàng qua sông. công việc tưởng như đơn giản nhưng lại được Nguyễn Tuân ví von với những cuộc chiến gian khổ, chất chứa đầy hiểm nguy. Danh phận bị xóa nhòa đi, càng làm nổi bật tầm vóc lớn lao, tư thế hiên ngang, sánh được cả với thiên nhiên của con người lao động thầm lặng.
Điều đầu tiên ta có thể thấy được, người lái đò sông Đà chính là những anh hùng ở chốn sông nước. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên với vẻ hung dữ, sẵn sàng nuốt chửng con người. Nào là “cảnh đá bờ sông, dựng đứng vách thành”, quãng mặt ghềnh Hát Loóng thì hỗn độn những “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”, “những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”,… Tất cả đã biến cuộc sống của người lái đò trở thành “cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên”. Vậy mà họ chẳng hề chùn bước, vẫn dũng cảm đương đầu năm này qua năm khác. Đã có những lúc sóng thác “đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất”, nhưng ông đò hiên ngang “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”. Chỉ một vài chi tiết đó thôi cũng đủ để hình tượng con người vượt lên sánh ngang với thiên nhiên hùng vĩ.
Không chỉ bản lĩnh, khí phách, họ còn là những nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác. Đối diện với “trận địa mai phục” của đá và nước trên sông Đà, người lái đò chẳng hề mảy may suy nghĩ. Ông đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích” của lũ đá cũng như từng cửa sinh, cửa tử,… Qua được ải này, ông đò lại đổi chiến thuật, khiến cho bè lũ “quân địch” chẳng kịp trở tay. Vậy là ông cứ nhịp nhàng đưa con thuyền vượt qua hết thử thách này đến thử thách khác. Một loạt các động tác được Nguyễn Tuân diễn tả vô cùng chi tiết: “nắm chặt được cái bờm sóng”, “ghì cương lái”, “bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”,… Tất cả diễn ra nhịp nhàng, uyển chuyển, biến cuộc vượt thác trở thành một bộ môn nghệ thuật, và người lái đò trở thành một nghệ sĩ đích thực.
Bên cạnh đó, vẻ đẹp của những người lái đò sông Đà còn được thể hiện qua nhịp sống bình dị, thư thả. Sau mỗi chuyến đò sóng gió, họ lại trở về với cuộc sống đời thường đầu dân dã. “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng”. Những hành động đốt lửa, nướng cơm lam đầy thân thuộc hiện lên ngay sau những phút giây vượt qua sinh tử, khiến cho nhịp độ tác phẩm như được chậm lại. Con người khi này tận hưởng sự bình yên, bàn với nhau về toàn những điều bình dị. Đối với họ, cái việc vượt thác kia “không có gì là hồi hộp đáng nhớ”. Họ đã quen với nhịp sống nơi đây, quen với cái dữ dội của Đà giang và coi đó như một điều chẳng đáng bàn. Cứ như vậy, những người lái đò vẫn âm thầm, lặng lẽ cống hiến, làm giàu làm đẹp cho quê hương.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách độc đáo, uyên bác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng. Với bút pháp miêu tả tài tình, kết hợp với kiến thức từ nhiều ngành khác nhau, ông đã khắc họa thành công bức chân dung của những người lái đò. Hình ảnh ấy vừa đậm chất hiện thực, cũng không kém phần lãng mạn. Bên cạnh đó, việc sử dụng ngôn ngữ điêu luyện cùng nhiều thủ pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, Nguyễn Tuân đã mang đến cho độc giả vô số chi tiết thú vị, những liên tưởng, tưởng tượng độc đáo.
Những ông đò trong “Người lái đò Sông Đà” chính là hình ảnh tiêu biểu của con người lao động thời kì mới. Họ đam mê, say sưa với công việc của mình, ngày ngày âm thầm cống hiến cho đời, cho người. Qua đây, độc giả cũng thấy được sự tinh tế trong ngòi bút Nguyễn Tuân. Đồng thời, cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp của con người trước thiên nhiên hùng vĩ.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 11
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sĩ tài hoa trong nghề của mình.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó.
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…Cứ đọc trong thiên tùy bút này sự hung bạo của con sông Đà với thác, nước, sóng, đá mà để lái đò dọc sông Đà là một thử thách lớn trong nghiệp đời của ông.
Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mươi ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.
Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kĩ lưỡng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp : đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng, dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!
Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 12
Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. “Người lái đò Sông Đà” trích trong “Tùy bút Sông Đà” (1960). Đây là kết quả chuyến đi thực tế đến với Tây Bắc năm 1958 để kiếm tìm “chất vàng” của thiên nhiên và chất vàng mười trong tâm hồn con người. Đọc tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh Sông Đà với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình. Và nổi bật bên hình tượng ấy là người lái đò dũng cảm tài hoa trên sông nước.
Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật này chính là không có tên gọi cụ thể mà tên của ông gắn liền với nghề nghiệp, địa danh: “ông lái đò Lai Châu”. Điều này thể hiện, ông là đại diện cho vẻ đẹp người lái đò trên sông nước, cần mẫn. Người lái đò là một ông lão 70 tuổi. Ông đã dành một phần lớn cuộc đời của mình để lái đò dọc trên Sông Đà. Bây giờ ông đã thôi nghề khoảng mười năm.” Trên sông ông xuôi ông ngược trên 100 lần, giữ tay lái chính khoảng 60 lần”. Chỉ bằng vài câu ngắn gọn giới thiệu về người lái đò, độc giả phần nào đã hình dung ra ngoại hình và tố chất của ông. Đọc tiếp tác phẩm, ta có thể thấy được điều đó.
Ông lái đò hiện lên là người khỏe mạnh, từng trải, ngoại hình và tố chất được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động là trên sông nước. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào, nhỡn giới cao vòi vọi”. Nguyễn Tuân gọi con người này là “thứ vàng mười” bởi ông đã đứng trước thử thách và chiến thắng Sông Đà. Trước hết ở ông lái đò Lai Châu là người tài hoa trí dũng, có phong thái ung dung của người nghệ sĩ. Ông tài trí, từng trải, lão luyện trong nghề, đạt đến trình độ “lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã bày tỏ lòng khâm phục của mình đối với người lái đò bằng cách so sánh, liên tưởng độc đáo “sông Đà đối với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống dòng”. Ông thuộc rõ quy luật phục kích của đá, biết rõ cửa tử cửa sinh.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 13
Lòng dũng cảm của ông được thể hiện qua ba thạch trận. Vòng một sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm xảo quyệt, không chỉ sóng gió mênh mang, hút nước, thác nước mà còn bày binh bố trận “bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá”. Đá mai phục ngàn năm bày binh bố trận những binh pháp tôn tử. Ở vòng này gồm năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Phối hợp với đá và thác nước hò la vang dậy làm thanh điệp cho đá. Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức còn sóng nước như quân liều mạng. Nhưng ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra trận địa sóng. Ông cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái kiên cường vượt qua cơn võ chiến. Đến vòng hai, sông Đà lúc này mở ra nhiều cửa tử hơn, chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy quân cửa ải xô ra níu thuyền vào cửa tử. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ. Ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái miết vào cửa sinh. Bốn năm bọn thủy quân cứ ào nước xô ra níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lên đòi ăn chết con thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần sông thần đá không hề nao núng, tỉnh táo, sáng tạo thay đổi chiến thuật chiến thắng Sông Đà. Bị thua ông lái đò ở hai vòng trước, trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng dữ dội hơn. Ít cửa ra vào, bên phải bên trái đều là cửa tử, luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông lái đò vẫn bình tĩnh dũng cảm phóng thẳng thuyền. Thuyền vút vút qua cánh cổng đá để rồi chiến thắng đi qua.
Không chỉ dũng cảm tài ba, người lái đò yển sông còn mang phong thái nghệ sĩ. Sau cuộc vượt thác mọi nguy hiểm như tan biến “sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ, cá rồng xanh như không có gì xảy ra”. Mặc dù ngày ngày họ phải vật lộn đối mặt với hiểm nguy rình rập. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.
Trong xây dựng nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân chú ý khắc họa nét tài hoa của nghệ sĩ “nhân vật phải là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp”. Nhà văn chú ý tạo tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ bản chất của mình. Sông Đà càng hung bạo bao nhiêu, người lái đò càng tài hoa dũng cảm bấy nhiêu. Nhà văn am hiểu nhiều ngành nghệ thuật quân sự, thể thao kết hợp với nghệ thuật miêu tả so sánh liên tưởng độc đáo qua ngôn ngữ phong phú để làm nổi bật sông Đà và người lái đò Sông Đà. Tóm lại, thành công trong xây dựng nhân vật ông lái đò Lai Châu đã trở thành sức hút riêng của tác phẩm trong nền văn học nước nhà.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 14
Mỗi khi nhắc đến những nhà văn viết tùy bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam chúng ta không thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Tuân. Vùng đất Tây Bắc với những núi cao, thác ghềnh hiểm trở đã lôi cuốn ngòi bút của Nguyễn Tuân, để rồi năm 1960 ông xuất bản tập tùy bút Sông Đà trong đó có tùy bút Người lái đò sông Đà . Hình tượng nghệ thuật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ông lái đò Lai Châu được nhà văn tiếp cận tài hoa – nghệ sĩ.
Ông lái đò năm nay khoảng chừng bảy mươi tuổi, ông sinh ra và lớn lên ngay bên bờ sông Đà “quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh”. Ông có một ngoại hình đặc biệt, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp : thân hình ông cao lớn “gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tay dài lêu nghêu như cái sào”, “chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như gò lại kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng” rồi “giọng ông ào ào như tiếng nước thác”. Mọi thứ của ông giờ đây như đã hòa nhịp với con sông lúc hung hãn lúc lại dịu êm này, họ hòa vào nhau theo năm tháng , hòa vào nhau trong từng hơi thở nhịp nhàng, ăn ý một cách đến lạ lùng.
Đối với ông lái đò thì sông Đà như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Ông “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào trong lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, làm chủ được dòng sông. Đó là tư thế và sự hiểu biết của con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ hoàn cảnh. Ông hiểu về con sông cặn kẽ như hiểu chính bản thân mình vậy, có hiểu ông mới ngự trị, mới làm bạn được với nó. Thật đúng là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” giống như cách mà nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nói.
Nếu ai đó nghĩ rằng chở đò là một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn người đó đã nhầm. Chở đò là một nghệ thuật đòi hỏi ở người lái đò sự thông minh, khôn khéo, trí dũng, tài ba. Cuộc chiến giữa ông lái đò và sông Đà là một cuộc chiến không cân sức. Bởi sông Đà có một lực lượng hùng hậu nào thì vách đá, nào thì những cái hút nước xoay tít sâu hun hút và cả những hàng chông đá nằm ngầm dưới lòng sông nữa. Ấy vậy mà ông lão chỉ có một mình “đơn phương độc mã” chiến đấu, vũ khí duy nhất có trong tay là cán chèo. Để chiến đấu với một Sông Đà quỷ quyệt trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò càng phải nắm chắc tay chèo, giữ vững tinh thần và đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” thì mới có thể thắng được trong trận đấu sinh tử này.
Trận thủy chiến diễn ra căng thẳng đến nghẹt thở với ba “hiệp đấu”. Ở vòng vây thứ nhất thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”. Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
Ông lái đò quả thật là một chiến tướng nhưng cũng là một tay lái tài hoa. Mỗi đường chèo của ông đều là nghệ thuật làm đẹp cho đời và trong lao động. Sau chiến thắng ông lái đò lại trở về với cuộc sống đời thường bình dị. Ông cùng với nhà đò “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh…, cũng chả thấy ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Bởi lẽ với họ những trận chiến như vừa rồi đã trở thành một phần trong cuộc sống của họ, có gì mà phải bàn tán, phải suy ngẫm, tất cả đã trở thành máu thịt, là sợi dây kết nối và gắn bó họ với nơi này.
Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng thức cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ của ông. Một loạt các động từ được sử dụng dày đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn cuồng nộ của dòng Đà giang cũng như tài trí của ông lái đò. Đó là một cuộc hỗn chiến giữa người và sông nước đến nghẹt thở. Nguyễn Tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi chiếu đối tượng, tạo cảm giác về một trận thủy chiến đầy kịch tính, đầy sôi động và không hề kém phần hấp dẫn.
Để viết về dòng Đà giang và ông lái đò một cách cặn kẽ và chi tiết đến vậy thì không phải ai cũng có thể viết được, phải yêu, phải hiểu và gắn bó lắm mới viết được kĩ đến vậy. Điều này như một minh chứng chân thực cho sự hi sinh vì nghệ thuật của tác giả Nguyễn Tuân. Ông đã dành cả cuộc đời mình để đi tìm cái đẹp, cái thật trong con người và cuộc đời. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sỹ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà nó còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Bài tùy bút của tác giả Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác một cách tự nhiên đến lạ kì. Hình ảnh gợi ra xuyên suốt bài tùy bút là hình ảnh ông lái đò gạo cội và dòng sông Đà giang hung hãn nhưng cũng đồng thời gửi vào tâm trí độc giả một liên tưởng về một ông lái đò Nguyễn Tuân như một ông lái bậc thầy, ông lái con thuyền ngôn từ trên một dải sông văn chương không kém những thác ghềnh chông gai. Ông đã tạo nên một khúc khải hoàn ca về những con người lao động chân chính trong thời kì mới.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 15
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trương, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.
Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng mạnh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái đò trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản đồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưu sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát.
Và bằng lòng dũng cảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoàn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoán, ông đã vượt qua tất cả những cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm được, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây đó là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 16
Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lòng người đọc thì tác phẩm đó phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, hội tụ đầy đủ tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để hình tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai mươi năm chiến đấu với thác đá trong nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được miêu tả là “tay lái ra hoa”. Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe “thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như sông nước”. “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”… Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng”. “Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”. Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục, chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 17
Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”.., “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”…Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò.
Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 18
Bài tùy bút Người lái đò sông Đà nằm trong tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân. Bài tùy bút chủ yếu tập trung miêu tả con sông Đà và người lái đò. Bằng ngòi bút khéo léo của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận được hình tượng người lái đò sông Đà hiện lên như một nghời nghệ sĩ tài ba khéo léo vượt qua những thạch trận nhung hiểm mà con sông Đà đã bày binh bố trận.
Không phải ngẫu nhiên khi miêu tả về “Người lái đò sông Đà” – ông lái đò Lai Châu – Nguyễn Tuân lại tập trung miêu tả một số chi tiết ngoại hình: “Tay ông lêu nghêu như cái xào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ồn ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong đợi một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Cái nghề nghiệp trên sông nước cũng đã tạo nên ở ông đặc điểm rất riêng từ dáng vẻ đến cái giọng “ăn sóng nói gió” mạnh mẽ, dữ dội, át cả tiếng thác nước sông Đà cùng với “cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao, to và gọn quánh như chất sừng chất mun”. Vẻ đẹp của người lao động được tôi luyện, thử thách có thể chiến thắng được thiên nhiên hung bạo là một chi tiết tưởng như rất tự nhiên nhưng thực ra nó thể hiện sự quan sát tinh tế như những lời ngợi ca bất tuyệt dành cho ông đò: “Ngực, vú, bả vai người lái đò chống sào vượt thác hay bầm lên một khoanh củ nâu… Cái đồng tiền tụ máu cũng là hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò”.
Chở đò là một nghệ thuật cao cường đòi hỏi sự thông minh, khôn khéo và trí dũng, tài ba. Ở đây, ông đò hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ trong nghệ thuật leo ghềnh, vượt thác, với “tay lái ra hoa”. Để làm nổi bật tài nghệ ấy ở ông đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác: Ông đò là người cầm lái chỉ huy sáu bơi chèo để chiến thắng được thác nước và đá ngầm mà sông Đà bày thạch trận trên sông như một trận đò bát quái văng ra hết lớp này đến lớp khác. Ông đò đã bình tĩnh, thông minh, khôn khéo, cái bản lĩnh của một viên chiến tướng bởi chỉ cần một phút mất bình tĩnh, lóa mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của cả nhà đò. Tài nghệ của ông được bộc lộ trong cuộc vượt thác phá ba trùng vi thạch trận mà với vốn hiểu biết phong phú, vốn từ ngữ chính xác, sắc sảo về quân sự và võ thuật. Nguyễn Tuân đã thể hiện một cuộc quyết đấu thật sinh động.
Ở vi thạch trận thứ nhất, sông Đà mở ra cửa trận, có bốn cửa tử và một cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”. Sóng nước có cái hung hăng của kẻ bắt đầu xung trận: “sóng nước như thể quân liều mạng. mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Thậm chí nó còn nham hiểm, thủ đoạn “đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất hòng tiêu diệt đối phương ngay tại trận”. Nhưng ông đò cố nén vết thương, mặt “méo bệch đi”. Chỉ cần một từ ghép “méo bệch” mà Nguyễn Tuân đã thể hiện được hai tâm trạng của ông đò. Đó là nỗi đau đớn ghê gớm làm biến dạng khuôn mặt người méo xệch và sóng nước đang tung thẳng vào người làm nhợt nhạt cả sắc mặt người khiến khuôn mặt trắng bệch ra. Dẫu như thế, ông đò vẫn tỉnh táo chỉ huy “sáu bơi chèo” để phá tan cái trùng vi thạch trận thứ nhất.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà với bản chất ngoan cố và xảo quyệt đã đổi luôn chiến thuật. Nó “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào và cửa sinh bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn… Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Cái “hồng hộc” của kẻ say máu đang quyết đấu một phen nhưng nó lại gặp phải một đối thủ không vừa. Ông đò với bản lĩnh của con người không chịu khuất phục, của một vị tướng quyết đấu đến cùng đã “cưỡi lên thác sông Đà. nắm chặt lấy được cái bờm sóng. đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Trước sự chiến đấu dũng mãnh, phi thường của ông đò thì “cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Hình tượng tảng đá lớn, rêu phủ xanh dưới ngòi bút Nguyễn Tuân lại trở thành một sinh thể có hồn với vẻ mặt xanh lì – mặt cắt không còn hạt máu – với nỗi sợ hãi khủng khiếp vì không ngờ gặp phải đối thủ đáng gờm như thế. Và trùng vi thạch trận thứ hai đã được ông đò phá xong.
Ở trùng vi thạch trận thứ ba, hình ảnh của một con thú giãy chết lại được thể hiện khi con sông Đà: bên phải, bên trái đều là luồng chết còn luồng sống lại ở ngay chính giữa để quyết tiêu diệt đối phương. Thác nước ầm ầm, hơi nước mù mịt nhưng ông đò vẫn nhận ra được chiến thuật của sông Đà, ông đổi ngay cách đánh, cứ phóng thuyền “vút, vút.” như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. thế là hết thác.
Không biết đến bao giờ tôi mới thôi ngạc nhiên và thích thú trước hình ảnh không hiểu làm sao mà Nguyễn Tuân có thể nghĩ ra về sự “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của thằng đá tướng khi bị cái thuyền đánh trúng cửa sinh, đè sấn lên, chặt đôi sóng ra để mở đường tiến qua ải nước. Nhưng để lại dấu ấn rõ nét hơn cả trong tôi lại là những câu văn về dòng sông khi vừa hết thác: “vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Nhà văn đã mượn cho kí ức con người vẻ đẹp thênh thang của bờ cát bên sông. Và những người lái thuyền trong đêm ấy đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và chỉ toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Nhà văn làm cho ta thấy họ còn lớn hơn bậc nữa vì họ hồn nhiên quên đi cái lớn của mình. Hay nói đúng hơn họ không hề cho là lớn lao, cái mà chúng ta thấy rõ ràng rằng vĩ đại.
Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu để so sánh với sức lực của Thủy Tinh nhưng ông “đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã khiến ông đò dù trong tay chỉ có cây chèo vẫn có thể phá thành, vượt ải như một chiến trường bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt.
Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút của Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng, có quá lớn, có đáng ngạc nhiên chăng, nhất là ở một nhà văn vốn có tiếng là kêu bạc? Là một nhà văn vốn cầu kì, tỉ mỉ, tường tận trong quan sát và miêu tả sự vật hiện tượng, con người vậy mà ở đây Nguyễn Tuân chẳng có một dòng nào nói về tên tuổi, gia cảnh của ông đò. Thủ pháp vô danh hóa đã giúp nhà văn khẳng định: ở một đất nước lắm sông nhiều suối, lắm thác nhiều ghềnh thì những người lái đò tài hoa, nghệ sĩ như ông đò trên sông Đà là phổ biến. Ông ca ngợi lao động, ca ngợi c người theo cách riêng của mình làm cho hai tiếng “Con Người” vang lên kiêu hãnh biết bao!
Với “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện tài hoa ở thể loại tùy bút mà còn thể hiện nét mới trong phong cách nghệ thuật của ông: nhân vật tài hoa, nghệ sĩ không phải là những con người hiếm hoi, cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời mà đó chính là nhân vật vô danh. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ có ở nơi chiến trường mà có ở ngay trong những người dân bình thường hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên hung dữ để mưu sinh. Chính họ đã viết nên thiên anh hùng ca của cuộc sống.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 19
Tùy bút Sông Đà là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân sau 1945. Sau những cuộc chuyển mình dữ dội, Nguyễn tuân vẫn trung thành với thể loại tùy bút và liên tục gặt hái những thành tựu rực rỡ.
Với những chi tiết hình ảnh trong sáng, gợi cảm đầy chất thơ, Nguyễn Tuân không chỉ đưa lại cho người đọc những hiểu biết phong phú, nhiều mặt về sông Đà, về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc mà còn gợi lên trong chúng ta một niềm cảm xúc và tin yêu. Chính trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ vừa hung bạo, vừa trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa rõ nét chân dung con người Tây Bắc, mà cụ thể ở đây là hình tượng ông lái đò sông Đà qua cái nhìn và miêu tả của Nguyễn Tuân. Ông lái đò không chỉ là một người lao động trí dũng tuyệt vời mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc lao động sông nước của mình.
Trước hết, nhân vật ông lái đò được tô đậm qua hình dáng và nghề nghiệp đặc thù cùng với độ am hiểu vô cùng sâu sắc dòng sông.
Về hình dáng bề ngoài ông lái đò: Mọi chi tiết miêu tả của Nguyễn Tuân đều gắn liền với nghề nghiệp và công việc sông nước của ông (tay ông lêu nghêu như cái sào, chân thì lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh,…). Ông lái đò là một người tài trí, hiểu rõ con sông Đà như là một bàn tay của mình vậy. Ông thuộc lòng từng con thác, từng hút nước, xoáy nước. Thậm chí là từng tảng đá trên sông. Nói như Nguyễn Tuân là ông lái đò hiểu rõ: “binh pháp của thần sông, thần đá,…” Ông lái đò là một con người dũng cảm, hàng ngày xuôi ngược trên sông Đà, phải đối mặt với hiểm nguy, đối mặt với cái chết nhưng phong thái của ông vẫn hết sức bình tĩnh, chủ động, tự tin, không mảy may lo sợ. Một phẩm chất của ông lái đò là sự tài hoa nghệ sĩ: ông tỏ ra khéo léo, điêu luyện, điều khiển con thuyền vượt qua các ghềnh thác, với tay lái “ra hoa, mà chỉ một phút sơ ý, lóa mắt hay trở tay đều phải trả giá bằng tính mạng của mình”.
Những phẩm chất của ông lái đò được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất qua cuộc quyết đấu sinh tử giữa ông lái đò và con sông Đà. Con sông càng dữ dằn, nham hiểm, độc địa bao nhiêu thì chân dung của ông lại càng cao lớn hùng vĩ bấy nhiêu. Ông lái đò là một người khiêm tốn, bình dị. Sau khi đưa con thuyền vượt qua các ghềnh thác cập bến bình an, đêm hôm đó, ông lái đò và các bạn chèo của mình ngồi trông đã nồi lửa nướng cá ở trong hang. Họ bàn tán sôi nổi về cá dầm xanh, cá anh vũ, nhưng tuyệt nhiên không nói gì đến những hiểm nguy vừa trải qua. Đối với ông lái đò, đó chỉ là những công việc bình thường hàng ngày, chẳng có gì phải bận tâm.
Có lẽ người lái đò sông Đà đã gắn bó với dòng nước dữ dội này từ thuở nhỏ, cuộc đời ông được tính bằng sóng gió, bằng những mùi nước trên sông. Nhìn dáng vẻ bề ngoài của ông lái đò, thực sự là con người được sinh ra vì nghề nghiệp của mình. Mọi chi tiết miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân đều gợi đến dòng sông và nghề nghiệp “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông nào cũng khuỳnh khuỳnh” gò lại như kẹp lái một cuốn lái. Tưởng tượng giọng ông lúc nào cung ào ào như nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới với ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”.
Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân đều là những con người tài hoa, nghệ sĩ ( khái niệm nghệ sĩ ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng; không phải chỉ nói về những con người làm về nghệ thuật mà là tất cả những ai tỏ ra thành thạo, điêu luyện trong công việc, nghề nghiệp của mình). Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là con người như vậy. Để làm nổi bật sự tài trí, dũng cảm tuyệt vời và nghệ thuật can cường của người lái đò, Nguyễn Tuân đã tái hiện lại một cuộc vượt thác leo ghềnh của ông ở một đoạn sông dữ dội, hiểm trở nhất. Hai đối thủ truyền kiếp: con sông Đà và người lái đò bộc lộ đầy đủ tính cách của mình khi được đặt vào một cuộc giao tranh dữ dội. Đây cũng là cơ hội tốt để Nguyễn Tuân thể hiện hết sự tài hoa uyên bác cũng như cái vốn chữ nghĩa phong phú của ông.
Từ lần đầu tiên cầm lái trên con thuyền độc mộc rồi trở thành người chỉ huy trên con thuyền nhỏ bé này. Những luồng nước, những hút nút xoáy, những tảng đá trên sông qua những năm tháng đã in vào óc ông quen thuộc như lòng bàn tay. Nhưng cái dữ dội, mạnh mẽ của nghề nghiệp mà ông lái đò gắn bó khác hẳn đời thường càng biết rõ con sông Đà, người vượt thác càng phải cẩn thận bởi sự lơi lỏng trong gang tấc đều phải trả giá bằng tính mạng. Kẻ thù gần gũi ấy, người bạn trái nết ấy không chấp nhận một lỗi lầm nào hết, từng phút từng giây còn cảm thấy bọt sóng tung dưới chân mình. Người lái đò còn phải căng mình như một sợi dây đàn để đón nhận tất cả những biến chuyển dù là nhỏ nhất của dòng sông. Hình ảnh người lái đò sông Đà được tạo nên trong tùy bút của Nguyễn Tuân như được nhào nặn từ nhiều chất liệu. Trong hình ảnh ấy, có vẻ hoang sơ dữ dội của một thời đội đá vá trời, có vẻ của tài hoa thoát tục của một vị an cư trên sông nước mênh mông, có chất trí tuệ nhạy bén sắc sảo của một vị tướng đã quen vượt trùng mây quân thù, cả sự ung dung pha chất lãng tử của những anh hùng thủy chiến đất Lương Sơn Bạc.
Những khía cạnh, tính cách mạnh mẽ ấy được Nguyễn Tuân dồn nén vào hình ảnh người lái đò và để cho người này tự khẳng định con người mình một lần nữa trong thạch trận của sông Đà. Sông Đà – dòng sông nước ngược với bao ngạo nghễ đã đe dọa con người bằng tất cả vẻ tinh quái của mình. Dữ dội và xảo quyệt, con sông trở thành kẻ thù bao đời nay của người Tây Bắc và đặc biệt những con người sống trên sóng nước sông Đà. Chỉ vừa cảm nhận mái chèo chạm vào nước, dòng sông ấy thoắt rùng mình, ào ào bày trận để chuẩn bị trận đánh đè nát chiếc thuyền. Sông Đà ngạo nghễ với bốn cửa trùng vây. Mỗi một quãng sông qua con mắt nhìn nhận và miêu tả của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên giống như con ngựa bất kham, lúc hiện ra như một loài thủy quái khổng lồ, hung ác, nham hiểm, độc địa: con sông bày ra đủ các kiểu thạch trận hiểm hóc khác nhau để thử thách con người, còn người lái đò thì hiện ra như một chỉ huy dày dặn, tài giỏi điều khiển con thuyền vượt qua các ghềnh thác hiểm trở, phá tan cái trận đồ bát quát của dòng sông hung bạo. Không những thế, ông lái đò còn được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả như một người nghệ sĩ, tài hoa, chủ động đưa con thuyền vượt qua các ghềnh thác, nắm chắc những binh pháp của thần sông thần đá, thuộc lòng các luồng “cửa sinh cửa tử”. Đây thực sự là cuộc chiến đấu một mất một còn, đòi hỏi người lái đò phải dũng cảm khôn khéo, thông minh bởi chỉ cần một giây phút sơ ý, lóa mắt hay lỡ tay đều phải trả giá bằng tính mạng của mình.
Hình tượng ông lái đò trên dòng sông Đà được nhìn nhận như một con người tài tử, dũng cảm không sợ hiểm nguy, một con người tài hoa nhưng rất bình dị, thể hiện sâu sắc ngòi bút tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân đã một đời say sưa đi tìm chất tài hoa nghệ sĩ trong con người. Nhưng trước đây, nhà văn chỉ tìm được những mảnh vụn rời rạc, bơ vơ của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nhưng giờ đây, cuộc hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân đã tìm thấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của Cách mạng và kháng chiến của người như người lái đò trên sông Đà hôm nay những con người ấy sống trong niềm vui và hạnh phúc bởi họ luôn tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời, họ sống vượt qua khó khăn và nguy hiểm như một phần tất yếu của cuộc sống để thấm thía hơn bao giờ hết niềm mong mỏi “một cái bến xe nào đó trong sương mù. Người lái đò sông Đà có lúc lúc là một vị tướng lĩnh chinh phục con nước dữ nhưng cũng có lúc sống thật êm ả, bình dị: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và còn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh và đôi khi “nhỡn giới vòi vọi” bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm ngày xưa. Người lái đò sông Đà có một cuộc sống lãng mạn của người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình, lúc dữ dội, căng thẳng, khi yên ả bình lặng, lúc mơ màng thoát tục, họ hài lòng với cuộc sống của mình: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng dành lấy sự sống từ tay những cái thác nên nó cũng không có gì hồi hộp đáng nhớ, họ nghĩ thế lúc ngừng chèo”.
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa, ông đọc nhiều, đi nhiều, biết rộng, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính vì thế, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc đã thu nhận một khối tri thức hết sức phong phú, đa dạng về cả lịch sử, địa lý, địa chất, thậm chí cả quân sự, võ thuật.
Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc cũng hết sức ấn tượng với hình ảnh con sông Đà – một dòng sông dữ dằn nhưng cũng hết sức thơ mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân có ý thức sử dụng mặt mạnh của ngành nghệ thuật khác để tăng thêm vẻ đẹp của văn chương. Ông sử dụng nhiều kiến thức về âm nhạc, sân khấu,… đưa lại cho người đọc những trang viết hấp dẫn và thú vị
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân hết sức phong phú, đa dạng. Ông không chỉ miêu tả bằng thị giác mà cả bằng xúc giác,… Đặc biệt ông sử dụng nhiều hình ảnh so sánh độc đáo bất ngờ, đưa lại cho người đọc cảm xúc, …. Câu văn của ông biến đổi rất linh hoạt, có những câu văn ngắn nhịp điệu tiết tấu nhanh, miêu tả cuộc quyết đấu giữa ông lái đò và sông Đà tạo nên kịch tính hấp dẫn. Đôi khi tác giả sử dụng những câu văn dài như tải ra mang đậm chất tâm tư, mơ mộng.
Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân hết sức giàu có, ông sử dụng những từ ngữ rất chính xác. Ông thực sự là một phù thủy ngôn từ, có sức mạnh điều binh khiển tướng đoàn quân ngôn ngữ thực hiện những trận công phá vào tường thành tri thức, tạo ra những thành quả lớn lao, có sức mạnh đưa con người vào những cuộc phiêu lưu kỳ thú.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 20
Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo sau chuyến thực tế ngược miền Tây Bắc điệp trùng mà đầy kỳ thú, tập “Tùy bút sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời (1960) đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp dựng xây đất nước “Người lái đò sông Đà” là một thiên tùy bút đặc sắc trong tập tùy bút của Nguyễn Tuân. Đặc biệt hình ảnh ông lái đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng rõ thêm, ấn tượng thêm.
Nhân vật ông lái chắc chắn sẽ bị mờ nhạt nếu như tác giả chỉ miêu tả ông trong cuộc mưu sinh phẳng lặng trên sông nước hiền hòa. Người lái đò trong tác phẩm thực sự trở thành hình tượng chân thật và sống động là sự ký thác ý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, văn sĩ suốt một đời say mê kiếm tìm và khẳng định cái đẹp. Hình tượng ông lái đò đẹp một cách kiêu hãnh trong mối tương quan đồng hiện với nhân vật sông Đà dữ dằn mà kỳ vĩ ! Đấy cũng chính là dụng ý tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi ông muốn “ghi” ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà
Vẻ đẹp đầy ấn tượng về ông lái đò là sự tồn tại sống động trước thử thách ghê gớm của dòng sông Đà. Ta hình dung như cả một “thạch trận trên sông” dàn giăng muốn bổ chụp hòng nuốt lấy con thuyền và ông lái. Trong tình thế ấy, sông Đà mới dữ dội và kỳ quái làm sao: “Nó bầy thạch trận trên sông. Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc…”. Trong trận đồ bát quái đó “với đá, nước thác reo hò làm thanh viện… những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt”, sông nước mà dữ dằn như quỷ dữ. Nhưng cũng chính từ cảnh tượng dữ dội mà kỳ vĩ ấy, hình tượng ông lái hiện lên rõ ràng trong vẻ đẹp của sức mạnh và bản lĩnh cao cường.
Thiên nhiên muốn lấn át, muốn nuốt sống, ông lái đò bình tĩnh và quả cảm vượt lên sóng dữ: “Ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hắt lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Bao nhiêu thử thách của sông nước ông lái phải vượt qua. Không có nghị lực phi thường và sự bình tĩnh chủ động làm sao ông qua được con quỷ dữ sóng nước: “có lúc chúng muốn đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt…”.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 21
Quả là nhà văn Nguyễn Tuân đã huy động một binh chủng ngôn ngữ thật đa dạng, ở nhiều lĩnh vực để miêu tả đầy kịch tính, đầy ấn tượng về cuộc giao tranh giữa con người (ông lái đò) và thiên nhiên (sông Đà). Những cảm giác mạnh luôn đến với ta đấy là cái dữ dội mà kỳ vĩ của dòng nước ấy là cái bình tĩnh chủ động đầy quả cảm, đầy bản lĩnh của ông lái đò. Con người dũng cảm tài ba và thiên nhiên dữ tợn kỳ quái cùng lao vào trong cuộc quyết chiến. Và hình tượng ông lái đò càng về sau càng trở nên kiêu dũng, quyết liệt đến tận cùng trong cuộc giao đấu. Ông lái vượt lên sóng dữ bằng dũng khí tuyệt vời bởi ông “cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ… Ông lái đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”.
Một đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là “thiên nhiên hay con người đều được chú ý khám phá ở phương diện văn hóa, mĩ thuật của nó”. Vì thế, ta còn bắt gặp ở đây hình ảnh một ông lái đò rất mực tài hoa, nghệ sĩ bên cạnh vẻ đẹp của lòng dũng cảm và bản lĩnh cao cường trước thử thách của thiên nhiên.
Một tư thế tuyệt đẹp của ông lái lúc “ghì cương” mà “phóng nhanh vào cửa sinh” cho ta thấy ấn tượng về một chàng kỵ sĩ dũng mãnh và rất đỗi hào hoa. Một phong thái bình thản, tự tin khi ông lái ứng chiến với sóng dữ”… đè sắn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Và hình ảnh con thuyền vượt lên “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước…” đem đến cho ta một cảm giác vừa sảng khoái, vừa hả hê trước sự chiến thắng của ông lái – nghệ sĩ. Và đây – hình ảnh cuối của người lái đò cũng là hình ảnh tập trung của sự ký thác tâm tình và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
“…Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Hình tượng ông lái đò một con người lao động bình dị mà phi thường được Nguyễn Tuân khắc họa như một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đây là một cách nhìn, cách khám phá và khẳng định con người Việt Nam trong thời đại mới ! Chính vì thế tùy bút “Người lái đò sông Đà” nói riêng và mười lăm thiên tùy bút về sông Đà của Nguyễn Tuân nói chung đã góp phần khẳng định vẻ đẹp của cuộc sống mới và con người mới trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” mà ấn tượng mạnh mẽ là cuộc vượt thác sông Đà của ông lái đò giúp chúng ta nhận ra một điều lý thú: vẻ đẹp hào hùng tài hoa của những người lao động bình thường nơi có dòng sông ngọn thác hoang vu kia là có thật. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu chỉ có ở nơi chiến trường với tiếng súng tiếng bom gầm.
Đọc hết “Người lái đò sông Đà” mà tâm trí ta vẫn như hiển hiện hình ảnh ông lái đò dũng mãnh và hào hoa với con thuyền nhỏ cưỡi lên sóng dữ mà đi tới mà chiến thẳng, vẻ đẹp ấy huy hoàng và tráng lệ làm sao!
*****
Trên đây là 21 bài mẫu Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)