Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lớp 12 chọn lọc hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 18 bài văn mẫu do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Đề bài: Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dàn ý Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chi tiết
Dàn ý Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 1
I. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chọn lọc hay nhất (18 bài mẫu)
– Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị phần đông là người Hà Nội.
– Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng.
– Trích đoạn ở phần cuối bài thơ, thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.
II. Thân bài
1. Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến
– Người đi không hẹn ước -> ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước, xả thân vì nước. (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh)
– Lí do:
Đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về.
Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
=> Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.
– Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh hùng bỏ mình vì nước. Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nưa, tan vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn.
– Nghệ thuật dùng từ: không hẹn ước, chia phôi, hồn về kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về sự hi sinh lại thấm đượm chất lãng mạn. Đoạn thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc sự bi quan mà gợi tinh thần lạc quan, tin tưởng.
2. Tâm tư của nhà thơ
– Tây Tiến người đi không hẹn ước -> Người đi ở đây là tác giả. Tác giả đã ra đi không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
– Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nưa trên kia, vẫn gắn bó với đoàn quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ.
Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ.
Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.
III. Kết bài
– Đoạn thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi sinh vì lí tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng được khắc họa bởi bút pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.
– Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng.
Dàn ý Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 2
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm, và tinh thần hi sinh cao đẹp của của người lính, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ.
2. Thân bài
– Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chung của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến.
- “Người đi không hẹn ước” là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm.
- Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết bao, vì dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
– “Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước qua bao núi, bao đèo và cuộc hành quân càng tiến lên phía trước thì những bản làng mờ sương cũng mờ ảo và lùi dần về phía sau.
– Cuộc chiến đấu căng thẳng, khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở về càng mong manh.
– Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn về tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến
- “Mùa xuân ấy” là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình.
- “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông.
3. Kết bài
Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến.
Dàn ý Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 3
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu đoạn 4
II. Thân bài
1. Khái quát:
“Tây Tiến” được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng.
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng nàn với Tây Tiến – đơn vị chiến đầu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về miền Tây Tổ quốc có vẻ tuyệt kì mà Quang Dũng một thời gắn bó.
– Xuất xứ: tập “Mây đầu ô” (1986)
Nội dung: Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, tư thế dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được thể hiện đậm nét ở từng câu thơ chưa đầy chất nhạc, chất họa, vừa trang trọng, cổ kính, vừa tươi tắn, trẻ trung.
– Vị trí đoạn 4: đoạn cuối cùng của bài thơ, là lời hẹn ước của tác giả
2. Phân tích
a) Hai câu đầu: Tinh thần của đoàn quân
Nhắc lại lời hẹn ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Người đi không hẹn ước”
– “Chí lớn chưa về bàn tay không” => Mang theo chí làm trai của những chinh phu tráng sĩ thời xưa, ra đi không hẹn ngày trở về, ra đi vì nghĩa lớn (Liên hệ với “Tống biệt hành” – Thâm Tâm).
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi”: ý niệm của chung cả một thời kì, một thế hệ con người về ý niệm của những bậc nam nhi quyết chí vì lí tưởng.
b) Hai câu sau:
“Mùa xuân ấy”:
- Thời điểm đoàn quân Tây Tiến được thành lập
- Mùa xuân của đời người: một thời gian khổ mà ân nghĩa, khó khăn mà hào hùng.
- Mùa xuân của những chiến thắng, của niềm vui lớn đất nước
– Một từ “ấy” mất đi chút rõ ràng nhưng mở ra mênh mông tình nghĩa
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
+ Những người chiến sĩ đã bỏ mình trên đường hành quân, không còn cơ hội trở về
+ Tấm lòng, linh hồn vẫn mãi thuộc về mảnh đất ấy, nơi đậm tình đậm nghĩa ấy. Dù ở nơi nào, những kỉ niệm, ân tình về đồng đội, anh tôi có nhau vẫn luôn ở trong trái tim người lính.
Vừa là lời tự nhắc nhở vừa là sự duyệt lại của kí ức để đi đến khẳng định: không thể quên những chặng đường đã qua, người dù có đi nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm Nứa. Bởi vì chặng đường đã qua là kỉ niệm, là đồng đội, là sự hiến dâng, là cuộc đời riêng có dịp phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mạng.
c) Đánh giá
Nội dung: “Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ, hay nói đúng hơn chính là nỗi nhớ. Đó cũng có thể coi là lời nguyện ước của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu.
– Nghệ thuật:
- Thể “Cổ phong trường thiên” (một thể loại hành) để những tình cảm, cảm xúc không bị bó buộc mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, trong những con chữ.
- Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc nhưng khi được ứng hiện vào nhau trong sự sắp xếp của Quang Dũng lại đem đến hiệu quả không ngờ.
- Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là một dẫn chứng tiêu biểu. Với sự tài hoa trong cách sử dụng và sáng tạo từ ngữ, Quang Dũng khiến người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ.
- Đó chính là phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà mới lạ đến đáng ngạc nhiên!
III. Kết bài
– Đánh giá lại vấn đề
18 bài mẫu Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 1
Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thách thức gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng.
Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng chí” (Chính Hữu) , “Nhớ” (Nguyên Hồng)… và “Tây Tiến” của Quang Dũng.
Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ những kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.
“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.
Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”.
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi với” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến, không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới: “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành 2 vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ như mái nhà chọc trời được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ dệt bằng những thanh liên tiếp, gợi sự êm dịu tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Trước đây Đặng Trần Côn, trong “Chinh phụ ngâm” cũng đã viết về cảnh tượng chiến trường:
“Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như dội
Nước lòng khe nẻo tuổi còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây…”
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Thật là hãi hùng khủng khiếp! Nhưng đó chỉ là những ước lệ tượng trưng, những tưởng tượng của nàng chinh phụ. Chàng chinh phu mới ngày nào đó còn “Thét roi Cầu Vị ào ào gió thu”, thì nay đã mệt mỏi, nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ vợ con héo hon cả ruột. Có đặt 2 đoạn thơ cạnh nhau, ta mới cảm nhận được vẻ đẹp tráng chí của “anh bộ đội Cụ Hồ”, cảm nhận được cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang Dũng.
Ta trở lại đoạn thơ trong, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn luôn chỉ rõ cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, bang lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và chí khí con người được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng không hề né tránh khi nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”.
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinh nhưng không chút bi lụy, thảm thương. “Bỏ quên đời” vì các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm. Vừa bâng khuâng vừa tự hào:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở về uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân ấy, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, ngày một thêm sáng giá.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 2
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống Pháp. Nhà thơ Quang Dũng từng hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến nên ông có những trải nghiệm sâu sắc về những tháng ngày chiến đấu gian khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm của người lính. Năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ chuẩn bị nhận công tác ở đơn vị mới, ông đã viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm, và tinh thần hi sinh cao đẹp của của người lính, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chung của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
“Người đi không hẹn ước” là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm. Những người lính ra đi vì lí tưởng cứu nước cao đẹp, họ sẵn sàng hi sinh cả tuổi xuân, cả mạng sống của bản thân cho lí tưởng ấy nên ra đi không hẹn ước ngày trở về. Những người lính hiểu được sự khốc liệt của chiến trường, sự cam go đầy khó khăn, mất mát của cuộc kháng chiến trường kì. Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết bao, vì dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước qua bao núi, bao đèo và cuộc hành quân càng tiến lên phía trước thì những bản làng mờ sương cũng mờ ảo và lùi dần về phía sau. Cuộc chiến đấu căng thẳng, khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở về càng mong manh.
Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn về tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Mang theo mình tình yêu nước, lí tưởng xả thân cao đẹp, những người lính Tây Tiến muốn sống hết mình cho cuộc chiến đấu, cả khi hi sinh họ cũng mong muốn tan vào với hồn thiêng sông núi để lí tưởng, tình yêu ấy sẽ bất tử với thời gian. “Mùa xuân ấy” là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông.
Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng hàng loạt từ mang sắc thái trang trọng “không hẹn ước, chia phôi, hồn cùng giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại nên dù nói đến sự hi sinh, mất mát nhưng khổ thơ không gieo vào lòng người đọc những mất mát, bi lụy mà thấm đẫm chất lãng mạn, gợi ra niềm tin và tinh thần lạc quan.
Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 3
Mọi thứ có thể bị lãng quên nhưng những người con đã hi sinh vì đất nước, vì dân tộc thì mãi mãi được khắc ghi, sống mãi với thời gian. Những người lính vĩ đại của dân tộc được khắc họa trong những áng văn thơ cũng sẽ là những bức tượng đài uy nghiêm trường tồn mãi mãi với thời gian. Những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến cũng là những người như vậy. Khổ cuối bài thơ một lần nữa khắc họa lên những đặc điểm đáng quý của những người lính đó.
Quang Dũng viết Tây Tiến khi ông hồi tưởng lại những kỉ niệm về đồng đội, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Quang Dũng đã cho người đọc hình dung ra những khó khăn gian khổ mà những người lính đã trải qua, tình cảm quân dân gắn bó tha thiết.
Quang Dũng đã tạc dựng lên bức tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Bức tượng đài sừng sững theo thời gian, hiên ngang giữa núi rừng, giữa bom đạn của kẻ thù.
Qua từng lời thơ, tác giả đã tô đậm cuộc sống gian khổ của những người lính Tây Tiến. Giữa rừng thiêng nước độc, bom đạn của kẻ thù bắn phá, đoàn quân cũng có lúc đã thấy mệt mỏi:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ”
Nhưng với tinh thần lạc quan, không sợ gian khổ, quyết chiến đấu cho tổ quốc, những người lính ấy lại cảm thấy yêu đời, lại hòa mình vào trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Khắc họa lên người lính anh hùng nhưng Quang Dũng không né tránh miêu tả những khó khăn mà người lính Tây Tiến vượt qua. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Khó khăn gian khổ là thế nhưng họ vẫn vui, vẫn hi vọng niềm tin chiến thắng của dân tộc.
Bên trong những thân hình mệt mỏi, bệnh tật ấy họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Bằng lời thơ hết sức chân thực của mình, Quang Dũng đã mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng bên trong những con người ấy. Quang Dũng đã sử dụng thủ pháp tương phản ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Mỗi câu thơ của tác giả đã khiến người đọc nhận thấy những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm. Không phải nhà thơ muốn “động vật hoá” người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa, khiến chúng ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão.
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:
“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân”
Tác giả đã vận dụng những ý thơ của những người đi trước để xây dựng hình ảnh những người lính vĩ đại tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng oai hùng của cả một dân tộc vang khắp núi rừng.
Tuy họ phải trải qua những khó khăn gian khổ, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng những người lính vẫn luôn yêu đời, vẫn lãng mạn.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Họ vẫn mơ về Hà Nội, với những người con gái đẹp, nơi có cuộc sống yên bình, độc lập. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Chính nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã có cái nhìn hết sức chân thực khi phát hiện ra bên trong những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Quang Dũng đã tạc lên những bức tượng đài người lính Tây Tiến bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Với câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra người đọc sẽ cảm nhận thấy cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”, nó sẽ tạo cảm giác như một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ.
Nhưng câu thơ thứ hai đã làm cho âm hưởng bài thơ thêm hào hùng:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ này đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, nấm mộ của những người lính đã hiến dâng tuổi xanh của mình cho đất nước. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hi sinh ấy còn đáng trân trọng hơn khi Quang Dũng miêu tả:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Những người lính ấy khi sống chiến đấu đã phải chịu những khó khăn gian khổ khi hi sinh họ cũng vẫn phải chịu thiếu thốn, cảnh tiễn đưa họ ra đi với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài, chỉ với chiếc áo bào thay chiếu mà thôi. Câu thơ tả thực của Quang Dũng đã đẩy thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Có nhiều cách hiểu về hình ảnh này, nhưng dù thế nào thì người đọc cũng nhận ra cái bi tráng trong câu thơ, tạo nên một hình tượng đẹp về người lính Tây Tiến.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các anh về với đất, có đồng đội đưa tiễn, có núi sông đồng hành, chắc chắn sự hi sinh cao cả của các anh sẽ được đời đời ghi nhớ, sẽ là tấm gương cho thế hệ sau. Đó là những lời nhắn nhủ mà Quang Dũng muốn gửi gắm tới đồng đội của mình.
Qua mỗi lời thơ Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa lãng mạn. Đó là tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình, là sự ca ngợi vẻ đẹp của những con người đã chiến đấu hi sinh cho chúng ta có cuộc sống hôm nay.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 4
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh “Đoàn binh không mọc tóc”, tác giả đã gợi lại hình ảnh anh “vệ trọc” một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần trụi và khắc nghiệt: những con suối độc, những trận sốt rét rừng đã làm cho ngời lính xanh xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”. “Không mọc tóc” có vẻ như là không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc… thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến. Ba tiếng “Dữ oai hùm” đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời, tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính.Câu thơ giống như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ người lính Tây Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ, trở thành người anh hùng. Trong bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ: Hà Nội, nhưng đó không phải là một cái mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc của độ cao bới giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong cuộc chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ hào hùng lẫm liệt và sang trọng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng “biên cương”, ”viễn xứ” đã làm cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bới nhân cách của người đã chết ”Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh “da ngựa bọc thây” đầy vinh quang thì người lính Tây Tiến với hình ảnh “áo bào thay chiếu” đấy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có,huống chi là “áo bào”. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: ”Hồn tử sĩ gió ù ù thổi” mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: ”Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ “gầm”. Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa tiễn hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nối truyền thống cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng đội không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 5
Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài thơ, ông cũng không quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà thơ vào những câu chữ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thật vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương tổ quốc. Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình. Họ hàng ngày vẫn phải chiến đấu ác liệt với kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm trở với những căn bệnh sốt rét, đói nhưng họ vẫn oai nghiêm hùng dũng vượt lên trên tất cả. Họ là bức tượng cho tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến quyết thắng. Trước khi lên đường tham gia chiến đấu, họ chỉ là những cô cậu sinh viên Hà thành với tuổi đời còn rất trẻ, họ có hoài bão ước mơ. Khi tổ quốc gọi, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả lên đường cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như sợi chỉ có thể biến mất bất cứ lúc nào. Họ lên đường chiến đấu, ra đi không hẹn ngày trở về. Họ trao mạng sống của mình cho Tổ quốc – nơi đã sinh ra họ.
Ở nơi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó khăn, nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc đèo hiểm trở, họ bỏ lại những bản làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không có hồi kết. Vì vậy một tia hi vọng trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong vô vọng. Trong bối cảnh lịch sử là cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự đơn sơ về vũ khí của ta, sự nghèo nàn về vật chất khác nào lấy trứng chọi với đá. Vì vậy sự hi sinh là không thể tránh khỏi. Họ phải vì nước quên thân vì dân phục vụ, hi sinh tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu thế hệ trẻ cầm súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Họ cống hiến, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca hay phàn nàn mà đó là bổn phận, là trách nhiệm nghĩa vụ của một người công dân yêu nước nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ đã lột tả ý chí chiến đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.Với nghệ thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với giọng điệu chậm rãi nhẹ nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm lặng mà cao cả của đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ để ông tiếp tục chắp bút tô vẽ nên:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong năm. Đây cũng là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân còn là mùa của đất nước. Nó cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của người chiến sĩ đã một đi không trở lại. Họ mang theo sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình lên đường hành quân chiến đấu. Tuy nhiên, họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà vẫn còn lượn lờ sang nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm thực hiện lí tưởng đến cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của họ vẫn chiến đấu tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng mang tính sử thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Họ vẫn rong ruổi chiến đấu trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần vào máu thịt đến nhường nào mới có thể bất diệt như vậy?
Tóm lại, với giọng điệu trữ tình đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như những dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ trọn lời thề với quê hương tổ quốc. Họ là những con người đau thương nhưng không bi lụy, tràn đầy niềm tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống của tuổi trẻ. Tây Tiến xứng đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để lại cho thế hệ sau.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 6
Tây Tiến là một trong những bài thơ được xem là hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị phần đông là người Hà Nội. Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng. Đoạn cuối bài thơ Tây Tiến thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến thể hiện trong khổ thơ này đó là “Người đi không hẹn ước” ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước, xả thân vì nước. Bởi lẽ, đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh hùng của họ. Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh hùng bỏ mình vì nước. Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nứa, tan vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn. Nghệ thuật dùng từ rất dứt khoát “không hẹn ước, chia phôi, hồn về” kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về sự hi sinh lại thấm đượm chất lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc sự bi ai mà gợi tinh thần bi tráng. Đoạn thơ còn bộc lộ tâm tư của nhà thơ: “Tây Tiến người đi không hẹn ước”. Người đi ở đây là tác giả. Tác giả đã ra đi không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nứa trên kia, vẫn gắn bó với đoàn quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ. Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ. Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.
Đoạn thơ cuối này sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi sinh vì lí tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng được khắc họa bởi bút pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng. Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 7
Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác phẩm không chỉ hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình. Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng có một nỗi niềm như người lính Tây Tiến, từ những người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết với nhau như anh em:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh, giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại.
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
“ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại.
Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Nhà thơ Quang Dũng và những người lính Tây Tiến không sinh ra ở mảnh đất biên cương Sầm Nứa nhưng những kỉ niệm họ có ở đó, thời gian hoạt động ở dẫu là gian nan vất vả nhưng khi qua rồi nó in dấu trong lòng họ sâu đậm. Đoạn thơ thể hiện rõ được tâm tình của nhà thơ dành cho mảnh đất và con người nơi biên cương cửa ải.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 8
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “Nhất khứ bất phục hoàn”. Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh, người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là “Đèo cả” của Hữu Loan, là “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng Chí” của Chính Hữu. “Tây Tiến”của Quang Dũng
“Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 9
Quang Dũng là người làng Phượng Trì ở Hà Tây nhưng ông chủ yếu sống ở Hà Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài vừa làm thơ, vừa viết nhạ, họa nhưng thành công hơn cả là lĩnh vực thơ ca. Thơ ông thường tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng. Trong những tác phẩm mà ông viết, Tây Tiến là một trong những tác phẩm đặc sắc để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Đặc biệt khổ cuối bài thơ là lời hẹn và trở về với Tây tiến của tác giả đầy xúc động.
Đơn vị tây tiến được thành lập vào năm 1947 mục đích phối hợp với Lào để bảo vệ biên cương Lào – Việt, đích tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cuộc kháng chiến những vùng núi khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động tây tiến khá rộng, tất cả đều là những nơi hoang vu, hẻo lánh, hiểm trở, núi cao, sông rộng, rừng nhiều thú dữ. Bộ đội đoàn quân Tây Tiến vô cùng vất vả, khó khăn với căn bệnh sốt rét, thiếu lương thực, gầy xanh lét, họ chết vì bệnh tật còn nhiều hơn vì súng đạn, thậm chí khi chết cũng không có manh chiếu để đắp. Tuy nhiên, đoàn quân tây tiến rất lạc quan, yêu đời, họ phần lớn là thanh niên hà thành vẫn giữ được cốt cách hào hoa, lãng mạng hào hùng.
Tác giả vốn là đội trưởng của đoàn quân tây tiến, sau khi tạm biệt đoàn quân và đến chiến trường khác theo sự phân công của cấp trên, ông đã rất nhớ đoàn quân tây tiến và sáng tác nên bài thơ này. Trong khổ cuối bài thơ là lý tưởng của đoàn quân tây tiến và ngày hẹn gặp lại.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Người đi không hẹn ước chính là tinh thần tự nguyện và quả cảm của người lính tây tiến. Đã xác định ra chiến trường là không hẹn ngày về. Đã từng có một thế hệ như vậy, một thế hệ với lý tưởng cứu nước, tinh thần xả thân thật đẹp đẽ , thật thiêng liêng biết bao. Vì dân tộc, họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình, họ sẵn sàng đi mà chẳng tiếc đời xanh.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…
Sự ra đi quả quyết của họ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. Ở độ tuổi họ ra chiến trường có lẽ cùng chạc tuổi 18, đôi mươi, tuổi trẻ nhiệt huyết còn bao nhiêu điều tươi đẹp phía trước. Vậy mà họ vẫn đi dẫu biết “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, dẫu biết phía trước là khó khăn, đến gần hơn cánh cửa tử thần, nhưng vẫn quyết tâm đi.
Hai câu thơ chính là hình ảnh bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Đường lên thăm thẳm chính là những khó khăn chồng chất khó khăn, đó là điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình gian nan vất vả hơn, đó là tử thần luôn rập rình khiến cho hi vọng trở về càng mong manh.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hai câu thơ cuois càng khắc sâu hơn tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Mùa xuân 1947, binh đoàn tây tiến được thành lập và cũng có thể là mùa xuân sáng lạn nhất của đất nước khi hòa bình. Đoàn quân tây tiến đã đi trong niềm hân hoan và hi vọng về lí tưởng của mình. Và dẫu cho hi sinh nhưng vẫn mang những nguyện vọng thật đẹp hòa vào núi sông để mãi mãi bảo vệ tổ quốc non sông.
Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà thơ Trần Bá Căn:
Có một thời để nhớ mãi trong tôi
Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.
Đối với họ có một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến trường vì lý tưởng của mình. Và mục đích cuối cùng là đánh đuổi kẻ thù mang lại hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó là mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính những người thân của mình.
Có một thời như thế và có những người lính đã như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng cũng mang lí tưởng như vậy, dẫu hi sinh vẫn dõi theo nhau, quyết không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên đồng đội.
Quang dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của nhà thơ tài hoa, đoàn quần tây tiến được khắc lenen là tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí đồng đội thắm thiết của Quãng Dũng.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 10
Nhắc tới thơ văn trong kháng chiến, chúng ta không thể không nhắc tới những nhà văn nhà thơ như Tố Hữu, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, … và có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc tới nhà thơ Quang Dũng. Ông là nhà thơ tiêu biểu trong giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đặc sắc và gây ấn tượng nhất của ông là bài thơ Tây Tiến viết năm 1948. Bài thơ đã làm nổi bật lên một hồn thơ lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt đoạn thơ cuối của bài thơ đã gói gọn cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ, đó là nỗi nhớ cùng lời thề gắn bó với Tây Tiền và miền Tây Bắc Bộ.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên Hà thành, được thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội trưởng. Đoàn quân có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Cuối năm 1948 Quang Dũng ông rời khỏi binh đoàn Tây Tiến, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến. Sau này bài thơ được đổi tên thành Tây Tiến. Đoạn thơ cuối đã thể hiện tấm lòng tha thiết của nhà thơ dành cho Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chiến đấu cao đẹp và phẩm chất anh hùng của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến. “Người đi không hẹn ước”, người lính Tây Tiến ra đi chiến đấu không một lời hới ngày trở về. Đó là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm, quên mình vì nước “Ra chiến trường chẳng tiếc đời xanh”. Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thiêng liêng biết bao. “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”, ý thơ làm ta hình dung mỗi bước hành quân lên cao, đèo dốc và những bản làng mù sương lùi dần ra phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nên hành trình chiến đấu là nối tiếp hy sinh, càng khó hi vọng trở về. Giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp, tình thế cam go, căng thẳng thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, những bộ đội cụ Hồ ra trận chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cách dùng từ “không hẹn ước”, “một chia phôi” hồn hậu cùng giọng thơ êm ái, nhẹ nhàng giúp cho câu thơ về đức hi sinh không gieo vào lòng người đọc sự bi quan mà là niềm lạc quan, hi vọng, mang đậm chất lãng mạn.
Đến hai câu thơ cuối là lời thề sắt son của người lính, tâm hồn và tình cảm của họ vẫn luôn gắn bó với con người, thiên nhiên vùng Tây Bắc. “Mùa xuân ấy” được nói đến ở đât có thể là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập, thời điểm lịch sử khóa khăn gian khổ mà lãng mạn hào hùng, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. Nhớ mùa xuân là nhớ đồng đội, nhớ những kỉ niệm cùng đồng đội chia ngọt sẻ bùi, vượt qua khó khăn, cùng đấu tránh bảo vệ Tổ quốc, nhớ thiên nhiên núi rừng và con người Tây Bắc gần gũi, thân thương. “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” lời thề gắn bó máu thịt với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây. Nhà thơ dành trọn tất cả trái tim cho Tây Tiến, cho Sầm Nứa. “Chẳng” cách nói dứt khoát, dường như với Quang Dũng, ai đã từng có một thời Tây Tiến thì dù có đi đâu, đến chân trời nào, hồn vẫn gửi về nơi đó, vẫn quấn quyện với từng ngọn núi, từng bản làng thấp thoáng trong màn mưa xa khơi. Những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông. Nhịp thơ chậm rãi, giọng điệu trữ tình nhưng vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Rõ ràng, đoạn thơ cuối đã diễn tả cách thật cô đọng bao tình cảm nhớ thương mà các chiến sĩ Tây Tiến dành cho mảnh đất mình từng đi qua, từng sống, từng chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp cùng tình đồng đội đồng chí của người lính Tây Tiến và cũng là của Quang Dũng. Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay. Bút pháp lãng mạn mang đậm phong cách thơ của Quang Dũng, mang lại nhiều giá trị cho tác phẩm giúp Tây Tiến xứng đáng là một trong những bài thơ trữ tình hay nhất thời kì kháng chiến.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 11
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua khắc sâu vào tiềm thức bao thế hệ dân tộc Việt Nam ta tinh thần yêu nước, sự chiến đấu và hy sinh cao cả, ý chí kiên cường, bất khuất vượt lên muôn vàn khó khăn, khắc nghiệt và thiếu thốn. Cuộc kháng chiến làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính. Trong đó, Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Cũng như những thanh niên Hà Nội lúc bấy giờ, Quang Dũng, chàng sinh viên hào hoa, thanh lịch, lãng mạn rời trang sách nhà trường lên đường cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Để rồi khi chuyển đơn vị, nhà thơ bồi hồi nhớ lại quãng thời gian khó khăn nhưng đầy ngoan cường, bất khuất ấy và viết lên bài thơ “Tây Tiến”. Và đặc biệt ở khổ là cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ. Đó là nỗi nhớ cùng lời ước hẹn gắn bó sâu nặng với Tây Tiến và miền Tây Bắc:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Ở hai câu thơ đầu đoạn thơ, cụm từ “người đi không hẹn ước” khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Người lính gác lại tất cả chuyện riêng tư, một lòng chiến đấu cho nhiệm vụ cứu nước, cứu dân tộc. Cái tinh thần “một đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại. “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến. Hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nên hành trình chiến đấu là nối tiếp hy sinh, càng khó hi vọng trở về. Giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp, tình thế cam go, căng thẳng thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, những bộ đội cụ Hồ ra trận chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cách dùng từ “không hẹn ước”, “một chia phôi” hồn hậu cùng giọng thơ êm ái, nhẹ nhàng giúp cho câu thơ về đức hi sinh không gieo vào lòng người đọc sự bi quan mà là niềm lạc quan, hi vọng, mang đậm chất lãng mạn.
Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về. Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân hay cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. Trở về vùng núi rừng Tây Bắc, về nơi có bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.
Đoạn thơ khép lại nhưng những âm hưởng xúc động ấy vẫn vang vọng trong tâm hồn ta. Qua đoạn thơ, ta cảm nhận được nỗi nhớ tha thiết, sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu cùng đoàn quân Tây Tiến nơi núi rừng hùng vĩ, thơ mộng miền Tây- một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 12
Có ai đã từng nói “Thơ là rượu của thế gian”. Đúng thật như vậy thơ ca luôn làm say lòng người cùng với thơ người đọc được đắm chìm trong muôn vàn những cung bậc tình cảm, cảm xúc . Đến với bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng ta thực sự ấn tượng trước tiếng lòng của ông. Đọc khổ 4 của bài thơ ta cảm nhận được khúc vĩ thanh nhớ nhung về miền Tây và Tây Tiến.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm 1948 trong những năm tháng không thể nào quên được của lịch sử thời kháng chiến chống Pháp. Hoàn cảnh sáng tác ấy cho thấy rõ hơn trong nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị và mảnh đất miền Tây đầy kỉ niệm.
Nỗi nhớ trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ. Hoàn cảnh sáng tác cũng đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến, hiểu được nguyên nhân của bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, những yếu tố làm nên chất bi tráng rất đặc sắc của bài thơ.
Tác giả đã nhắc đến hình ảnh người đi trong những nét nghĩa mơ hồ, có thể hiểu nhà thơ nhắc đến những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai Hà Nội năm xưa từ biệt quê hương , ra đi Tây Tiến không “ hẹn ước” ngày trở về, lên với miền Tây thăm thẳm xa xăm, mờ mờ, cách hiểu này gợi niềm mến thương cảm phục với những người anh hùng, nỗi xót xa với những chiến sĩ, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về,..
Cũng có thể hiểu nhà thơ nhắc tới thời điểm cuối năm 1948, khi ông đang ở Phù Lưu Chanh, bâng khuâng nhớ về việc mình chia xa trung đoàn tây Tiến không hẹn ước ngày về, đã từ biệt miền Tây không biết bao giờ gặp lại, bởi “ đường lên thăm thăm một chia phôi”
Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ thiết tha. Có thể hiện nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thuỷ chung, son sắt của tất cả những “ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với miền Tây từ “ mùa xuân ấy” là khoảng thời gian quý giá nhất trong cuộc đời, khoảng thời gian vời vợi nhớ thương.
Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn những người lính sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha Luông, Mường Hịch,..những vùng đất xa xôi đựng đầy kỉ niệm với đồng đội , với trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng bởi
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
“Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn”
( Chế Lan Viên)
Cũng có thể hiểu nhà thơ đang xót xa nhắc đến những đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại những nấm mồ cô đơn miền viễn xứ. Họ đã lên Tây Tiến mùa xuân ấy, đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh dũng cảm, linh hồn và thân xác họ đã vĩnh viễn ở lại với miền Tây, để lại nỗi nhớ thương da diết, nỗi chua xót ngậm ngùi cho những người còn sống.
Đoạn thơ cho thấy cái tâm đẹp và tài hoa của Quang Dũng. Nếu như Chính Hữu qua bài thơ “ Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính thì Quang Dũng với bài thơ “ Tây Tiến đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “ mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trng gian khổ chiến đấu hi sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hào hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến.
Tây Tiến đã thực sự trở thành một nét vẽ tài hoa và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc. Quả đúng là như một người đã từng nói “ Thơ ca nếu không có người tôi đã mồ côi”. Những vần thơ của Quang Dũng đã cho người đọc thấu cảm đến tận cùng của nỗi nhớ và trở thành một nỗi niềm chung.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 13
Quang Dũng là một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng! “Tây Tiến” là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm sung đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
“Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc. Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “Nhất khứ bất phục hoàn”. Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa?
Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là “Đèo Cả” của Hữu Loan, là “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
“Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 14
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có những bài thơ mãi mãi – những bài thơ mãi ghi dấu trong tim người đọc, ghi dấu những ấn tượng khó phai về tâm hồn tinh tế, về ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ đã chắp bút viết nên những vần thơ, trang thơ giàu hình ảnh, đượm nghĩ suy, thấm cảm xúc.
Bài thơ “Tây Tiến” nhà thơ Quang Dũng viết năm 1948 là một tác phẩm văn học tiêu biểu trong số đó. Cảm xúc da diết, hình ảnh ấn tượng, vần thơ giàu nhạc điệu…đó là những yếu tố đã cấu thành tạo nên thành công cho tác phẩm này và khẳng định tên tuổi nhà thơ. Đoạn thơ khép lại tác phẩm được đánh giá là một đoạn trích ấn tượng đã gieo bao cảm xúc, suy nghĩ trong lòng người đọc.
Nhà thơ Quang Dũng là một cây bút tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại nước nhà với những đóng góp to lớn về cả phương diện nội dung tư tưởng lẫn hình thức văn học nghệ thuật. Năm 1948, khi chuyển đơn vị công tác rời đoàn quân Tây Tiến đến một đơn vị mới, Quang Dũng đã viết bài thơ “Tây Tiến”, để lại trong lòng người đọc bao thế hệ những ấn tượng mạnh mẽ. Nhận xét về bài thơ này, giáo sư Hà Minh Đức từng chia sẻ: “ “Tây Tiến” là một sáng tác có giá trị về mặt tư tưởng, về nghệ thuật.
Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt, “Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỷ niệm xa nên thơ và gợi cảm”.
Còn Đinh Minh Hằng khi cảm nhận bài thơ thì cho rằng: “Tây Tiến…nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng.
Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm thương nhớ…tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kỳ ảo khó gọi tên”. Đoạn thơ khép lại tác phẩm đã gieo vào trái tim người đọc những cảm xúc mãnh liệt, những ấn tượng khó phai.
Hai câu đầu của đoạn thơ, nhà thơ Quang Dũng gửi gắm nỗi lòng mình với đồng đội vào sinh ra tử, với những đồng đội còn sống và những anh hùng đã hy sinh cao cả:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
Cùng là những trí thức Hà thành lên nhập ngũ, đóng quân, họ là những con người trẻ tuổi chưa từng gặp mặt, quen biết nhau. Nhưng vì chung lý tưởng cao đẹp, chung lòng căm thù giặc sâu sắc và khát khao độc lập tự do, những người lính Tây Tiến cùng chia sẻ khó khăn, vượt thác xuống ghềnh với lời hẹn ước cùng nhau trở về ngày hòa bình lập lại.
Xa gia đình, xa người thân lên miền cao Tây Bắc chiến đấu, với những người lính ấy, đoàn quân Tây Tiến tựa như một gia đình thứ hai, những người đồng đội tựa như người thân, anh em cùng chung gian khổ, cùng hưởng niềm vui. Con đường hành quân ra trận khắc nghiệt ấy đã thử thách ý chí, sức mạnh cũng như niềm tin của những người lính.
Có những người lính Tây Tiến đã ngã xuống trên đường hành quân, đã hy sinh đầy anh dũng vì độc lập đất nước. Với thực tại thắm đượm một tình đồng chí đồng đội với biết bao kỉ niệm đáng nhớ những tháng ngày gắn bó cùng nhau chiến đấu, qua nỗi nhớ thiết tha bồi hồi, nhà thơ thầm khẳng định tâm hồn mình, trái tim mình sẽ luôn dõi theo và hướng về Sầm Nứa:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Dùng đại từ phiếm chỉ “ai” cơ hồ chính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Quang Dũng. Với cách dùng từ như vậy, nhà thơ thầm kín muốn biểu lộ rằng mình, đồng đội mình, tất cả những người lính Tây Tiến năm xưa, dẫu còn sống hay đã hy sinh, đều một lòng hướng về Sầm Nứa, dành tình cảm trân trọng, thương yêu nhất cho nơi đây, nơi lưu giữ bao kỉ niệm đáng nhớ của một thời chiến đấu gian khổ, hào hùng.
Là một người lính viết về người lính, những trải nghiệm trên chiến trường đã giúp cho Quang Dũng có cái nhìn chân thực và sâu sắc nhất khi phác họa nên bức tranh hiện thực chiến đấu và chân dung người lính bằng ngôn từ, hình ảnh nghệ thuật. Những câu thơ khép lại bài thơ đã làm lắng đọng trong tâm trí người đọc bao thế hệ ấn tượng sâu đậm về một thế hệ anh hùng, từ đó thêm trân trọng nét đẹp tâm hồn họ, những sự hy sinh mất mát, kiên cường cũng như trân quý hơn hiện tại hòa bình mình đang sống.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 15
Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ với đầy những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng tử của những người con Hà thành.
Bài thơ Tây Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời và chiến đấu anh dũng kiên cường.
Quang Dũng (1921 – 1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê gốc ở Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Thế nhưng nhắc đến Quang Dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần lãng mạn hào hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Sơn Tây của mình.
Những sáng tác chính của ông gồm có: Mây đầu ô (1986), Thơ văn Quang Dũng (1988). Năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh ông đã viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến sau đổi tên thành Tây Tiến và được in trong tập thơ Mây đầu ô.
Đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng định quyết tâm của đoàn binh, đó cũng là lời thề trung thành với tổ quốc sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc :
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Người lính Tây Tiến kiên cường, tự tin thể hiện một tinh thần chiến đấu đầy nhiệt huyết “người đi không hẹn ước”, họ ra đi chẳng hẹn ngày trở lại, đi với khí thế sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù biết chặng đường có “thăm thẳm” chia phôi thế nhưng người lính đã thề với đất nước một lời thề sắc son “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Tâm hồn người lính dường như đã vượt qua những mơ ước cá nhân tầm thường, giờ đây họ mang trên vai mình trọng trách sứ mệnh vô cùng to lớn: Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho độc lập dân tộc.
Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hai chất thơ ấy không thể tách rời mà hoà quyện vào nhau tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 16
Nhận xét về áng thơ của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: “Tây Tiến là đứa con tráng kiện và hào hoa của đời thơ Quang Dũng.” Thật vậy, bài thơ đã ghi lại dấu son trên hành trình nghiệp cầm bút của thi sĩ, đồng thời khắc sâu vào lòng bạn đọc những ấn tượng đặc biệt về một thời hào hùng của dân tộc.
Quang Dũng vốn là một chiến sĩ của binh đoàn hành quân đến vùng cực tây của Tổ quốc, thấu hiểu sâu sắc cái gian khổ mà hào hùng của cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước. Bên cạnh những phút giây lãng mạn, âm điệu bài thơ liền dậy lại không khí bi thương, tàn khốc của chiến tranh phi nghĩa ở khổ thơ thứ 3. Đó là:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bước chân ra chiến trường, những chàng trai hà thành phải đối mặt với vô vàn khó khăn thử thách không chỉ bởi thiên nhiên, mà còn là trong đời sống sinh hoạt. Bệnh tật hoành hành khiến binh lính xanh xao, gầy rộc, tóc không thể mọc. Quang Dũng đã thấu hiểu và đưa vào vần thơ hiện thực tàn khốc của cuộc kháng chiến trường kì, gợi ta nhắc nhớ về căn bệnh sốt rét rừng trong áng thơ “đồng chí” của Chính Hữu:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Cái tang thương được đẩy lên cao độ khi thi sĩ khắc họa hình ảnh “ áo bào thay chiếu anh về đất”. Không phải mất mát, không phải gục ngã, người lính ấy trở về với đất mẹ sau bao ngày tháng chiến đấu oai hùng. Đây chỉ là lúc nghỉ ngơi trở về với nơi đã sinh ra và lớn lên. Câu thơ vẫn ánh lên niềm lạc quan, niềm tin tưởng vào tương lai của Đảng, của Cách mạng.
Hình ảnh sông Mã một lần nữa hiện lên trong cái hung bạo, dữ dằn của mình. Dòng sông gầm thét hay đang tấu nên khúc trường ca ngợi ca, chia tay với những người lính trẻ. Họ đã dành cả thanh xuân để gìn giữ hòa bình, độc lập cho đất nước: “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đó là tinh thần chiến đấu anh dũng, cao cả, tinh thần tuyệt vời của anh bộ đội cụ Hồ.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Khép lại bài thơ, Quang Dũng dành những vần thơ ngọt ngào, chậm rãi dành cho binh đoàn Tây Tiến và những đồng bào vùng cực Tây Tổ quốc. Bước chân vào chiến trường không ai biết trước tương lai, không lời hẹn gặp lại, để lại sau lưng là nỗi nhớ thương sâu nặng dành cho người ở lại và người ra đi. Tây Tiến là thanh xuân, là đồng đội và là cả lý tưởng của một thời thanh niên noi theo ánh sáng của Đảng.
Bằng vốn trải nghiệm, thấu hiểu thực tế cùng ngòi bút hiện thực lãng mạn xuất sắc, Quang Dũng đã tái hiện trước mắt bạn đọc không khí hào hùng, mãnh liệt của thời kì chống Mỹ cứu nước qua 2 khổ thơ 3 và 4 Tây Tiến. Bài thơ góp phần đưa Quang Dũng trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của nghệ thuật Việt Nam 1945-1975.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 17
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc – Quân xanh màu lá dữ oai hùm – Mắt trừng gửi mộng qua biên giới – Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm – Rải rác biên cương mồ viễn xứ – Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh – áo bào thay chiếu anh về đất – Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Tây Tiến” của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ tươi” như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ
“Tây Tiến đoàn quân ….. khúc độc hành”
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
” Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ”
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ “đoàn binh” âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ “Tây Tiến” mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn “động vật hoá” người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết
“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân”
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới – Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”. Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại là “rải rác” nơi “viễn xứ”, những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Trong Chinh phụ ngâm:
“Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi – Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi – Chinh phu tử sĩ mấy người – Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
“ở đây không manh ván – Chôn anh bằng tấm chăn – Của đồng bào Cứa Ngàn – Tặng tôi ngày sơ tán”
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy. Tây Tiến, tượng đài bất tử về người lính vô danh.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng- Mẫu 18
Quang Dũng là người làng Phượng Trì ở Hà Tây nhưng ông chủ yếu sống ở Hà Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài vừa làm thơ, vừa viết nhạc, họa nhưng thành công hơn cả là lĩnh vực thơ ca. Thơ ông thường tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng. Trong những tác phẩm mà ông viết, Tây Tiến là một trong những tác phẩm đặc sắc để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Đặc biệt khổ cuối bài thơ là lời hẹn và trở về với Tây tiến của tác giả đầy xúc động.
Đơn vị tây tiến được thành lập vào năm 1947 mục đích phối hợp với Lào để bảo vệ biên cương Lào – Việt, đích tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cuộc kháng chiến những vùng núi khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động tây tiến khá rộng, tất cả đều là những nơi hoang vu, hẻo lánh, hiểm trở, núi cao, sông rộng, rừng nhiều thú dữ. Bộ đội đoàn quân Tây Tiến vô cùng vất vả, khó khăn với căn bệnh sốt rét, thiếu lương thực, gầy xanh lét, họ chết vì bệnh tật còn nhiều hơn vì súng đạn, thậm chí khi chết cũng không có manh chiếu để đắp. Tuy nhiên, đoàn quân tây tiến rất lạc quan, yêu đời, họ phần lớn là thanh niên hà thành vẫn giữ được cốt cách hào hoa, lãng mạng hào hùng.
Tác giả vốn là đội trưởng của đoàn quân tây tiến, sau khi tạm biệt đoàn quân và đến chiến trường khác theo sự phân công của cấp trên, ông đã rất nhớ đoàn quân tây tiến và sáng tác nên bài thơ này. Trong khổ cuối bài thơ là lý tưởng của đoàn quân tây tiến và ngày hẹn gặp lại.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Người đi không hẹn ước chính là tinh thần tự nguyện và quả cảm của người lính tây tiến. Đã xác định ra chiến trường là không hẹn ngày về. Đã từng có một thế hệ như vậy, một thế hệ với lý tưởng cứu nước, tinh thần xả thân thật đẹp đẽ , thật thiêng liêng biết bao. Vì dân tộc, họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình, họ sẵn sàng đi mà chẳng tiếc đời xanh.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…
Sự ra đi quả quyết của họ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. Ở độ tuổi họ ra chiến trường có lẽ cùng chạc tuổi 18, đôi mươi, tuổi trẻ nhiệt huyết còn bao nhiêu điều tươi đẹp phía trước. Vậy mà họ vẫn đi dẫu biết “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, dẫu biết phía trước là khó khăn, đến gần hơn cánh cửa tử thần, nhưng vẫn quyết tâm đi.
Hai câu thơ chính là hình ảnh bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Đường lên thăm thẳm chính là những khó khăn chồng chất khó khăn, đó là điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình gian nan vất vả hơn, đó là tử thần luôn rập rình khiến cho hi vọng trở về càng mong manh.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Mùa xuân 1947, binh đoàn tây tiến được thành lập và cũng có thể là mùa xuân sáng lạn nhất của đất nước khi hòa bình. Đoàn quân tây tiến đã đi trong niềm hân hoan và hi vọng về lí tưởng của mình. Và dẫu cho hi sinh nhưng vẫn mang những nguyện vọng thật đẹp hòa vào núi sông để mãi mãi bảo vệ tổ quốc non sông.
Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà thơ Trần Bá Căn:
Có một thời để nhớ mãi trong tôi
Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.
Đối với họ có một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến trường vì lý tưởng của mình. Và mục đích cuối cùng là đánh đuổi kẻ thù mang lại hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó là mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính những người thân của mình.
Có một thời như thế và có những người lính đã như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng cũng mang lí tưởng như vậy, dẫu hi sinh vẫn dõi theo nhau, quyết không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên đồng đội.
Quang Dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của nhà thơ tài hoa, đoàn quân Tây Tiến được khắc họa là tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí đồng đội thắm thiết của Quang Dũng.
Trên đây là nội dung bài học Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chọn lọc hay nhất (18 bài mẫu) do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyện mục Học tập
- Bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng (Tác giả, tác phẩm) – Ngữ Văn 12
- Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong bài Tây Tiến chọn lọc hay nhất (5 bài mẫu)
- Cảm nhận của em về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chọn lọc hay nhất (15 bài mẫu)
- Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chọn lọc hay nhất (25 bài mẫu)
- Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến chọn lọc hay nhất (15 bài mẫu)
- Ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chọc lọc hay nhất (12 bài mẫu)
- Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến chọn lọc hay nhất (10 bài mẫu)
- Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến chọn lọc hay nhất (14 bài mẫu)
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)