Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 26 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh.
Dàn ý Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12
Dàn ý Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Số 1
I. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh ngắn gọn, hay nhất (26 Mẫu)
– Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh viết vào năm 1967. Tác phẩm đã bộc lộ nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu của nhân vật trữ tình, điều đó được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ.
II. Thân bài
– Nỗi nhớ người con gái đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em.
– Từng nỗi nhớ là từng cơn sóng lòng nơi sâu thẳm trái tim “em”.
– Nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm trí, vượt cả sự chảy trôi của thời gian.
– Khoảng cách có xa xôi thì lòng chung thủy càng sâu sắc, nỗi nhớ nơi “em” càng lớn.
– Lời nguyện thề luôn hướng về anh giữ trọn vẹn tình yêu.
– Tình yêu là sức mạnh giúp “em – anh” vượt qua những giông tố, trắc trở cuộc đời.
III. Kết bài
– Tiếng thơ Xuân Quỳnh cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu.
Dàn ý Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Số 2
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng: Xuân Quỳnh là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chùm thơ viết về tình yêu. Trong đó bạn đọc yêu thơ chị chắc chắn sẽ biết đến bài thơ “Sóng”.
– Dẫn dắt giới thiệu nội dung cần phân tích: Khi nói về nét truyền thống của người con gái trong tình yêu, khổ thơ năm, sáu và bảy đã làm tròn nhiệm vụ của mình.
II. Thân bài
1. Khổ 5: Nỗi nhớ trong tình yêu
– Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu.
- Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu… trên mặt nước…”, “ngày đêm không ngủ được”.
- Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”.
- Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình.
=> Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả.
2. Khổ 6: Sự thủy chung trong tình yêu
– Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:
- “Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam”: ngược với cách nói thông thương.
- “Nơi nào em cũng nghĩ/Hướng về anh – một phương”: Khẳng định lòng thủy chung son sắc trong tình yêu.
=> Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của khổ thơ 5, 6. Đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, người đọc dường như thêm trân trọng tình yêu. Và dù người phụ nữ của Xuân Quỳnh trong tình yêu có mạnh mẽ đến đâu, họ vẫn giữ gìn được những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.
26 Bài mẫu Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 1
Trong một bài thơ, cảm xúc chính là điệu hồn, như Xuân Diệu đã nói: “Thơ hay là thơ chín đỏ cảm xúc”. Trong bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh đã phổ cả điệu hát của tâm hồn mình vào hai khổ thơ 5 và 6, từ đó tạo ra một tầng cảm xúc mới cho những nỗi nhớ trong tình yêu đồng thời cũng khẳng định nét đẹp tâm hồn sâu thẳm trong người phụ nữ Việt Nam truyền thống bao đời nay.
“Con sóng dưới dòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nỗi nhớ là một trong những cảm xúc không thể thiếu trong tình yêu, tuy nhiên mỗi nhà thơ lại tái hiện nỗi nhớ đó qua lăng kính của tâm hồn mình một cách riêng độc đáo và mang đậm phong cách của bản thân mỗi nghệ sĩ. Ca dao mang nỗi nhớ vào bằng cách diễn đạt đơn giản, giống như tâm hồn chân phương, mộc mạc của người dân xưa: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?”. Đến thơ trung đại, cái ngẩn ngơ đó được diễn đạt qua hình ảnh hàm súc, cô đọng hơn, nỗi nhớ làm hao huyết thời gian và như đang giằng xé con người trong cô đơn chờ đợi mòn mỏi “ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Đến thời đại của thơ mới, nỗi tương tư ấy đã được Nguyễn Bính giăng mắc khắp các miền không gian, biến nỗi nhớ của con người thành không gian nhớ nhau, cái nhớ đậm chất của một nhà thơ chân quê. Trong khi đó, đối với Xuân Quỳnh nỗi nhớ vẫn là cảm xúc da diết, sâu lắng, bồi hồi ấy trong tình yêu nhưng được biểu đạt qua hình tượng sóng mang sức gợi hiện đại và mới mẻ. Những đợt sóng dào dạt nơi đại dương mênh mông vừa gợi cảm giác nhớ thương và khát khao mãnh liệt trong trái tim. Nỗi nhớ ấy không có hình dạng nhưng lại nhấn chìm thời gian và không gian, xâm chiếm vào ý thức, tiềm thức và vô thức, đạt đến ranh giới của khả giải, bất khả giải. Trái tim tưởng chừng như đang hát lên một điệu hồn riêng của mình, tràn đầy nỗi nhớ lấp đầy pháp trường trắng cô đơn và lẻ loi ấy. Một lần nữa, nỗi nhớ xuất hiện và Xuân Quỳnh đã thực sự mang đến một cách biểu đạt vô cùng mới mẻ.
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”.
Trong trái tim em, thế giới chỉ có một phương duy nhất đó là phương anh. Lời khẳng định mạnh mẽ đó là biểu hiện của tình yêu tha thiết và mãnh liệt trong trái tim. Đó phải chăng là tấm lòng thủy chung, son sắt muôn thuở của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu? Ở đây ta thấy Xuân Quỳnh đã khám phá tâm hồn mình, tự hát vang điệu hồn mình, nhưng lại chạm đến hồn của muôn người, muôn nẻo, khơi gợi sự đồng cảm mãnh liệt trong lòng người đọc.
Thơ Xuân Quỳnh từ xưa đến nay vẫn giữ nguyên nét nhỏ nhẹ, khiêm nhường, để lắng lòng cùng ta về những tâm tình đã trở thành kỷ niệm, những câu chuyện dường như đã phai nhạt trong cuộc sống hiện tại. Nhưng đó lại chính là những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại hướng đến, cũng chính vì thế mà thơ mang đến sức trường cửu mãnh liệt trong tâm hồn của người đọc.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 2
Xuân Quỳnh là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chùm thơ viết về tình yêu. Trong đó bạn đọc yêu thơ chị chắc chắn sẽ biết đến bài thơ “Sóng”. Khi nói về nét truyền thống của người con gái trong tình yêu, khổ thơ năm, sáu và bảy đã làm tròn nhiệm vụ của mình:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Có tình yêu nào mà không phải trải qua nỗi nhớ. Dù ở không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm” thì con sóng vẫn nhớ “đến bờ” mà thao thức bồn chồn đến nỗi “không ngủ được”. Xuân Quỳnh đã lấy không gian và thời gian để đo đếm nỗi nhớ trong tình yêu. Nhưng nào ai có thể đong đếm hết được nỗi nhớ? Nếu sóng nhớ đến bờ thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm trí của “em”. Ngay đến trong giấc mơ cũng chẳng thể nào ngừng được. Nỗi nhớ đong đầy khắp cả không gian, thời gian và trong tiềm thức. Giống như ca dao đã từng diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than?”
Hay như trong bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Nỗi nhớ trong tình yêu đã không còn xa lạ gì, nhưng cách diễn tả của Xuân Quỳnh lại thật đặc biệt.
Bên cạnh những quan niệm mới mẻ trong tình yêu, Xuân Quỳnh vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống. Đó chính là tấm lòng thủy chung của người con gái khi yêu. Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” và “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Thông thường, người ta thường nói “ngược về phương Bắc” và “xuôi về phương Nam”. Nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại dùng cách nói ngược lại để thể hiện dụng ý nghệ thuật. Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì đối với “em”, ở bất cứ “nơi nào” – cụm từ phiếm chỉ, không xác định rõ không gian, thời gian, vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất. Tấm lòng của “em” vẫn luôn nguyên vẹn dành cho “anh”, hướng đến “anh”.
Không chỉ vậy, Xuân Quỳnh còn diễn tả một niềm tin mãnh liệt trong tình yêu. Ở ngoài đại dương xa xôi đó, có trăm ngàn con sóng vỗ. Nhưng cuối cùng, con sóng nào cũng tìm được đến bến bờ của mình. Cũng giống như “em” và “anh, dù cuộc đời phải trải qua muôn ngàn sóng gió, có đôi lúc phải cách xa nhau. Thì đến cuối cùng, “em” và “anh” vẫn sẽ gặp lại nhau. Và tình cảm của đôi ta sẽ mãi mãi tồn tại:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh ngay cả khi chết đi rồi”
Khổ thơ thứ bảy không chỉ là một lời khẳng định niềm tin cho tình yêu. Mà đó cũng là một lời an ủi, động viên những người đang yêu nhau, hãy có thêm sức mạnh để vượt qua muôn ngàn “cách trở”, tìm về với bến bờ hạnh phúc.
Đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, người đọc dường như thêm trân trọng tình yêu. Và dù người phụ nữ của Xuân Quỳnh trong tình yêu có mạnh mẽ đến đâu, họ vẫn giữ gìn được những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 3
Là một nhà thơ nữ có phong cách nghệ thuật độc đáo, những tác phẩm của Xuân Quỳnh có sự kết hợp giữa nét mạnh mẽ, táo bạo với nét đằm thắm, thiết tha. Xuân Quỳnh đã đóng góp nhiều tập thơ hay và ý nghĩa cho nền thơ Việt Nam. Trong số đó, không thể không nhắc đến các tập thơ nổi tiếng như “Hoa dọc chiến hào” (1968), “Sân ga chiều em đi” (1984)… Trong đó, bài thơ “Sóng” được coi là một trong những bài thơ xuất sắc và đặc biệt nhất.
Xuân Quỳnh đã sáng tác bài thơ ‘Sóng’ vào năm 1967, giai đoạn này kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Nội dung bài thơ bày tỏ nỗi nhớ nhung và khát vọng trong tình yêu của người phụ nữ, truyền tải những cảm xúc đẹp đẽ nhằm dành tặng cho người mình yêu thương. Tình cảm ấy được thể hiện rõ ràng nhất qua hai khổ thơ 5 và 6 của bài thơ:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Khi nói về tình yêu, rất nhiều nhà thơ sử dụng các hình ảnh khác nhau để biểu trưng cho thứ tình cảm đó và Xuân Quỳnh đã chọn hình tượng “sóng” để biểu thị cho tình yêu xuyên suốt bài thơ. Sóng trở thành hiện thân của tình yêu, của người phụ nữ đang yêu. Sóng cũng mang đến cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Trong thực tế, hình tượng sóng cũng có nhiều trạng thái khác nhau, thậm chí đối lập nhau như “dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Nhờ vào liên tưởng về hình tượng sóng, chúng ta có thể nhận thấy những đặc trưng của tình yêu đôi lứa được biểu hiện qua nỗi nhớ:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Từ “con sóng” được lặp lại hai lần và đi kèm những vị trí khác nhau. “Sóng trên mặt nước” đề cập đến con sóng ở bề nổi bên trên mà chúng ta có thể nhìn thấy dễ dàng, còn “sóng dưới lòng sâu” là những con sóng ngầm nằm dưới mặt nước mà ta khó có thể nhận biết. Chúng ta đã biết sóng là biểu trưng cho tình yêu và nỗi nhớ. Trong tình yêu, khi chúng ta cách xa nhau, cảm giác nhớ nhung và khát khao trở nên tha thiết hơn. Có những người giữ nỗi nhớ ấy trong lòng, không chia sẻ với ai và cũng có những người biểu hiện nỗi nhớ ra bên ngoài. Hình ảnh sóng trở thành biểu tượng hàm súc, gợi tả và gợi cảm, đồng thời là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh.
Sóng là hình ảnh biểu trưng trạng thái bất ổn định của tình yêu. Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ trong tình yêu bằng hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng “Ôi con sóng nhớ bờ”, “sóng” còn là biểu tượng cho người con gái trong tình yêu khi nhớ về người con trai đó là “bờ”. “Sóng” và “bờ” là hai hình ảnh sóng đôi nhau ngoài đời thực, con “sóng” dù có đi xa tới mấy cũng trở về với “bờ”. Khi rời xa nhau thì sự nhớ nhung lại trỗi dậy mạnh mẽ đến nỗi “Ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ thường trực biến thành sự thao thức đến nỗi không ngủ. Đến đây ta có thể thấy được sự quen thuộc mà những ai đã và đang yêu đều từng trải qua. Không chỉ sử dụng hình ảnh ẩn dụ mà Xuân Quỳnh còn biểu lộ trực tiếp:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Từ “sóng” với “bờ” đã chuyển sang thành “anh” với “em”. Anh với em giống với con sóng và bờ kia, cũng chứa đựng những cung bậc cảm xúc như vậy đó là nỗi nhớ trong em cũng không thua kém gì với sóng. Nếu như “sóng” ngày đêm không ngủ, thao thức thì em ở một cấp độ cao hơn đó là thức ở chính trong giấc mơ của mình. Ý nói rằng dù thức hay ngủ thì nỗi nhớ vẫn xâm chiếm. Nỗi nhớ ấy còn được nhấn mạnh hơn nữa trong bốn câu tiếp theo:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Tác giả đã sử dụng phép đối lập giữa “Bắc và Nam”, giữa “xuôi và ngược” để thể hiện nỗi nhớ và tình yêu tha thiết của cô gái với chàng trai. Thông thường người ta thường nói “xuôi Nam”, “ngược Bắc” nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại qua đó cho thấy tình yêu không theo một quy luật chủ thể, có thể đi ngược lại với thực tế. Có thể nói dù ở bất cứ đâu, dù có muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng với người mình yêu thương.
Qua phân tích khổ 5, 6 bài thơ Sóng, ta thấy đoạn thơ đã thể hiện thành công những tâm tình xao xuyến, trăn trở đi kèm với những nồng nhiệt say mê của người con gái trong tình yêu. Thông qua đó, nó cũng phản ánh nỗi lòng khao khát tình yêu, mong muốn của nhà thơ được yêu thương và trải qua những trạng thái cung bậc đa dạng của tình yêu trong cuộc sống.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 4
Xuân Quỳnh là nữ thi sĩ của tình yêu, là một trong những tác giả xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng như trong văn học Việt Nam hiện đại. Thơ của Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ đầy trắc ẩn, vừa hồn nhiên vừa tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm của khát vọng tình yêu lứa đôi. Xuân Quỳnh đã để lại cho những thế hệ sau rất nhiều những bài thơ ca hay có giá trị trường tồn mãi mãi về sau. Nhưng trong đó bài thơ “Sóng” vẫn nổi bật hơn cả. Bài thơ là tiếng lòng trực tiếp của những khao khát sôi nổi , mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một người con gái khi yêu. Hình tượng”sóng” được bộc lộ một cách sinh động qua tâm trạng của người con gái khi đang yêu. Điều đó thể hiện rõ qua 2 khổ thơ 5,6 của bài:
“Con sóng dưới lòng sông
……………………………………
Hướng về anh một phương “
Bài thơ Sóng được sáng tác năm 1967, là kết quả của chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền (Thái Bình) và được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ đầu tay của Xuân Quỳnh vào năm 1968. Khi viết bài thơ này Xuân Quỳnh chỉ 25 tuổi, độ tuổi trẻ trung, nhiều mơ mộng lãng mạn, khát khao tình yêu. Vào thời kì đó đất nước ta vẫn còn đang phải chiến đấu, và trên đất nước vẫn phải chịu những cuộc chia ly màu đỏ. Vậy nên những tác phẩm trong thời kì đó đều thường nói về chiến tranh nhưng người con gái đó lại viết về tình yêu đôi lứa. Chính điều đó mà bài thơ được coi là bông hoa lạ ” nở dọc chiến hào ” trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước vô cùng khó khăn và khốc liệt. Hình tượng xuyên suốt trong bài thơ là hình tượng “sóng” – mượn hình ảnh sóng để bày tỏ tâm tình của người con gái đang yêu,với khát khao tình yêu cháy bỏng. Song hành với hình tượng”Sóng” là hình tượng ” em”. “Em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng chính là “em”. “Sóng” và “em” khi thì hoà nhập vào m một khi thì phân đôi ra soi chiếu vào nhau. Với cấu trúc song hành này đã tạo chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ. Những đặc điểm của những con sóng cũng là đặc điểm của tình yêu. Tình yêu cũng như những con sóng , người ta chỉ nhìn thấy những con sóng ngày đêm vỗ vào bờ. Nhưng sóng biển không chỉ có những con sóng hiện hữu như vậy mà có cả những con sóng âm ỉ dưới lòng đại dương sâu thẳm:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong đêm còn thức”
Đây là khổ thơ với số câu thơ nhiều nhất trong bài. Cũng như sóng thì tình yêu không chỉ nhìn thấy qua bên ngoài mà còn tận trong đáy tâm hồn người phụ nữ mà chỉ có ai tinh tế mới cảm nhận được. Tình cảm lứa đôi thường được thể hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm và nỗi nhớ là tình cảm tiêu biểu nhất:
” Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được “
Trong thơ ca thì tình yêu có những nỗi nhớ rất riêng biệt. Ta cũng có thể thấy nỗi nhớ tình yêu xuất hiện rất nhiều trong thơ ca, qua câu thơ của Hàn Mặc Tử : ” Khi xa cách không gì bằng thương nhớ”
Hay trong” truyện Kiều ” của Nguyễn Du:
” Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê “
Xuân Quỳnh đã rất khéo léo dùng phép nhân hoá để khẳng định dù con sóng ở đâu cũng luôn nhớ tới bờ ngày đêm thao thức không ngủ được. Con sóng ngày đêm không ngủ được chính là nỗi nhớ da diết, rạo rực của người con gái khi yêu. Nỗi nhớ chiếm lĩnh cả không gian và thời gian, và cả trong những giấc mơ:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong đêm còn thức “
Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh được diễn tả một cách độc đáo và sáng tạo .Dù ở không gian nào “trên mặt nước” hay “dưới lòng sâu” hay thời gian nào “ngày” hay “đêm” sóng vẫn nhớ bờ. Phải chăng tình yêu là như thế ? Nhớ cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ đó mãnh liệt da diết khôn nguôi. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã vô cùng tinh tế khi sử dụng hình ảnh so sánh: sóng nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ anh cả đêm lẫn ngày. Tác giả sử dụng từ “lòng” rất tinh tế với tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu. Bởi lòng là nơi thầm kín chứa đựng những tâm tư tình cảm. Tình yêu của người con gái khi yêu là một tình yêu cháy bỏng, chân thành tuyệt đối, với sự gắn bó thủy chung:
” Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Khi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương “
Điệp từ ” dẫu ” kết hợp với với nghệ thuật đối “bắc” – “nam” , “xuôi” – “ngược”. Thường thì ta hay nói ” xuôi Nam”,” ngược Bắc” nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại qua đó ta thấy được tình yêu không theo quy luật cụ thể nào, có thể là đi ngược lại với thực tế. Bởi vậy người con gái khi đang yêu cho dù muôn vàn khó khăn cách trở thì vẫn có thể vượt qua, một lòng son sắt thủy chung với người mình yêu thương. Chính tình yêu mãnh liệt ấy như là nguồn động lực để nhà thơ tin tưởng vào tình yêu của chính mình. Như những con sóng kia mãi vỗ vào bờ. Đoạn thơ là những suy nghĩ trăn trở đi kèm với đó là những khát khao cháy bỏng của người con gái trong tình yêu. Tác giả đã không chỉ thành công trong nội dung mà còn thành công trong nghệ thuật với thể thơ năm chữ truyền thống, cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo giàu sức liên tưởng, xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết, trìu mến. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa “sóng” -“bờ”, “anh”-“em” góp phần làm nên đặc sắc của bài thơ.
Khép lại hai khổ thơ nhưng lại mở ra trong lòng người đọc bao suy ngẫm. Đoạn thơ trên nói riêng và bài thơ “Sóng” nói chung thể hiện khát vọng nồng nàn, sâu sắc thủy chung của người con gái khi yêu, một tình yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Đồng thời tác giả cũng thể hiện được vẻ đẹp của người phụ nữ đang yêu qua hình tượng sóng. Sống là để yêu thương vậy nên hãy sống hết mình, cháy hết mình trong tình yêu để cuộc sống này không vô nghĩa.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 5
Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại.
Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: “Một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…”.
Và đến với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ năm và sáu nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
“Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ năm và sáu của bài thơ “Sóng” – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thủy chung.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ “Sóng” – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu.
Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho người đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu.
Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm).
Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Sóng không chỉ “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ” mà sóng còn hiện diện “dưới lòng sâu” (sóng ngầm – chiều sâu) , “trên mặt nước” (sóng nổi – chiều rộng).
Có con sóng dữ dội tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại dương nhưng cũng có con sóng âm thầm đi ngầm dưới lòng sâu, không ai thấy nó, khó ai cảm nhận được về nó, chỉ riêng nó mới hiểu mình đang cồn cào. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển.
Đó cũng là nỗi nhớ của sóng, của em vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để ẩn dụ cho nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.
Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Thì ra là “con sóng nhớ bờ”. Bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà nó bất chấp cả không gian rộng lớn vô biên, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn tới bờ.
Sóng cồn cào nhớ nhung và khao khát gặp bờ đến độ “không ngủ được”. Nỗi nhớ từ đó cũng trùm lên mọi không gian “dưới lòng sâu – trên mặt nước”; trùm lên mọi thời gian “ngày đêm”.
Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kỳ diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình.
Nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh – đó là quy luật của tình yêu muôn thuở. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức (khi chưa ngủ ) mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ (ngủ vẫn nhớ nhung).
Như vậy có thể nói đây là một nỗi nhớ thường trực trong trái tim của người phụ nữ khi yêu. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát được có bờ – em khao khát được có anh.
Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:
Khi anh vắng, bàn tay em biết nhớ
Lấy thời gian đan thành áo mong chờ.
Lấy thời gian em viết những dòng thơ
Để thấy được chúng mình không cách trở.
(Bàn tay em)
Ở khổ thơ thứ năm này, Xuân Quỳnh dùng chữ “Lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. “Lòng” là chốn sâu kín nhất của tâm hồn con người, nhất lại là tâm hồn người phụ nữ.
Lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà đã là gan, là ruột của người phụ nữ rồi.
Cho nên khi nói “Lòng em nhớ đến anh” dường như Xuân Quỳnh đã dốc hết cả nỗi lòng mình để nghiêng hết về phương anh. Cô gái trong Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế, đó là tâm trạng chung cho người phụ nữ khi yêu.
Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh
(Ca dao)
Nếu nỗi nhớ là chất men say đánh thức tình yêu thì sự thuỷ chung lại là thước đo của tình yêu, của lòng người:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Khi yêu, người ta thấy sự xa cách và thời gian chẳng là gì cả. Bởi vì chỉ cần nghĩ về nhau, thì bóng dáng người yêu đã đầy ắp trong tâm hồn.
Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng.
Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc.
Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch.
Anh đã thành “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Chỉ cần nghĩ về anh, nhớ về anh thì anh đã ở trong trái tim em rồi.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm.
Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 6
Nhắc đến thơ tình không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của nền thơ hiện đại Việt Nam. Xuân Quỳnh viết về tình yêu rất thực, thơ bà da diết, dạt dào nhưng cũng đầy quyết liệt, mạnh mẽ. Vào những năm 1967, khi mà đất nước ta đang trong những ngày chống giặc cứu nước.
Bên cạnh những bản hùng ca chiến trận ca ngợi tinh thần cách mạng của các chiến sĩ thì còn có những bản tình ca của đời sống, Xuân Quỳnh đã viết nên bài thơ “Sóng” mang nét riêng giữa muôn vàn vẻ đẹp của thơ ca vào khoảng thời gian này.
“Sóng” đã thể hiện thật sinh động những vẻ đẹp trong tâm hồn của nữ thi sĩ đồng thời cho thấy được tài năng trong ngòi bút của Xuân Quỳnh khi bộc lộ những cảm xúc tình cảm nội tâm đầy tinh tế qua thơ.
Thi phẩm “Sóng” đã đưa độc giả đến với những chân trời của những cảm xúc vui buồn, lắng lo, hạnh phúc và cả chân trời của sự thủy chung trong tình yêu. Những nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh đã rất tinh tế dùng hình ảnh sóng để chỉ em- người con gái đang yêu. Em cũng như con sóng ngoài biển cả dạt dào, dù là dưới đáy sâu nơi đại dương rộng lớn hay chỉ thoáng qua lênh đênh trên mặt biển thì vẫn luôn nhớ về anh- người mà em yêu.
Nỗi nhớ ấy đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em. Sóng biển cũng chính là những cơn sóng lòng đang cuộn trào dữ dội trong em, nỗi nhớ về người thương thật mạnh mẽ biết bao.
Tiếng “Ôi” cất lên nghe thật tha thiết, nỗi nhớ trào dâng nơi sâu thẳm trái tim người con gái. Con sóng ngoài kia vẫn cứ thế theo từng đợt gió, dù êm đềm hay dữ dội ngày đêm vẫn vỗ tới bờ, vẫn tìm đến bờ thì em cũng như thế, cũng nhớ anh ngày đêm, mong được đến bên anh.
Nỗi nhớ khôn nguôi ấy luôn thường trực trong tâm trí, khiến “em” không khỏi thao thức, trăn trở “không ngủ được”, ngay cả trong giấc mơ vẫn là bóng hình của người thương trong đó.
Nỗi nhớ vượt lên cả sự chảy trôi của thời gian, của ngày đêm yêu, của tháng năm yêu. Tình cảm nơi tâm hồn Xuân Quỳnh thật chân thành, thắm thiết, sâu sắc và mãnh liệt biết bao.
Nỗi nhớ ấy tựa như nỗi nhớ của người con gái xưa:
”Nhớ ai bổi hồi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm”
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.”
Tình yêu thật nồng cháy, dẫu cho có khoảng cách xa xôi, có mỗi người mỗi hướng thì lòng thủy chung, son sắt vẫn luôn cháy mãi nơi đáy lòng. Dù người tình có ở nơi đâu, có ở chốn phương Bắc lạnh giá hay chốn trời Nam xa xôi thì cũng không làm em nản lòng mà thôi nhớ, thôi nghĩ về anh.
Khoảng cách có xa gì đâu khi tim luôn nhìn về một hướng- hướng anh- phương hướng tình yêu chúng mình. Khoảng cách địa lý không thắng nổi sự yêu thương của tình yêu mãnh liệt, khi trái tim hai con người đã gắn kết như sợi tơ hồng đã se duyên, khi người kia đã đặt trọn vẹn niềm tin cho đối phương của mình.
Điệp từ “dẫu” kết hợp với hai cụm động từ “ngược về phương Nam” ,” xuôi về phương Bắc” như một cách thể hiện những thách thức, trắc trở trong tình yêu và sự chiến thắng khó khăn ấy bằng tình yêu mãnh liệt.
Lời nguyện thề nơi nào em cũng hướng về anh thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Là một người con gái, nhưng Xuân Quỳnh không hề đứng đó là đợi chờ tình yêu, nhà thơ luôn thể hiện sự chủ động của mình.
Với nhà thơ, tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, đã yêu là phải sống thật trọn vẹn, hết lòng với tình yêu, bởi thế mà những vần thơ không chỉ mang nét dễ thương, đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt và dứt khoát.
Trong cuộc sống, mỗi công việc đều có những khó khăn và áp lực riêng cũng như trong tình yêu vậy, mỗi mối tình đều có những trắc trở, thử thách nhất định. Song, nếu cùng nhau cố gắng, cùng nhau vun đắp, cùng hiểu và bao dung cho nhau thì rồi tình yêu cũng sẽ kết thành trái ngọt, ngày mà tình yêu được đến đích cuối cùng của bến bờ hạnh phúc:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Sóng biển ngoài đại dương bao la kia cũng vượt qua bao giông tố, gió mưa mới vỗ tới bờ cát bình yên. Cũng như tình yêu anh và em cũng phải cùng nhau cố gắng, nắm tay nhau bước qua những gian truân, cám dỗ và sóng gió của cuộc đời mới tới ngày trọn vẹn. Ca dao xưa có câu:
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
Tình yêu là sức mạnh hay chính tình yêu đã mang lại sức mạnh lớn lao như thế.
Ba khổ thơ tuy không quá dài nhưng cũng đủ để ta thấy được một tâm hồn yêu hết mình, sống hết mình với tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Tiếng thơ ấy cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu. “Sóng” đích thực đã chạm đến tất cả trái tim của người đọc bằng những cảm xúc tự nhiên nhất, khiến họ rung cảm và thổn thức với từng thanh âm, giai điệu của bài thơ.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 7
Xuân Quỳnh là người con của vùng đất Hà Thành. Nữ sĩ là một trong những nhà thơ viết thơ tình hay nhất trước 1975, là nhà thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên vừa tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Trong sáng tác của mình Xuân Quỳnh đã để lại cho bao nhiêu thế hệ rất nhiều tác phẩm hay và giàu ý nghĩa.
Tiêu biểu là bài thơ “Sóng”, đây chính là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khao khát sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Và nổi bật lên trong bài “Sóng” là viết về nỗi nhớ, sự thủy chung được thể hiện qua đoạn thơ sau:
“Con sóng dưới lòng sâu
…
Hướng về anh một phương”
Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền-Thái Bình cuối năm 1967 và được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào”- Tập thơ đầu tay của Xuân Quỳnh vào năm 1968.
Những năm tháng mà khắp nơi trên đất nước này đều diễn ra “cuộc chia li màu đỏ”. Vậy nhưng Xuân Quỳnh không viết về những tình cảm lớn của con người Việt Nam thời kháng chiến mà người phụ nữ ấy viết về tình yêu. Vì thế bài thơ được xem là bông hoa lạ “nở dọc chiến hào” trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước.
Hình tượng xuyên suốt bài thơ vẫn là hình tượng “sóng”- sóng ở đây được Xuân Quỳnh gửi vào đó bằng cả tâm hồn người con gái khi đang yêu. Mượn sóng để nói đến người phụ nữ và tình yêu của họ. Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng là tiếng lòng riêng tư rất đỗi đời thường của Xuân Quỳnh.
Ta bắt gặp một Xuân Diệu nồng nàn, đắm say và dâng hiến trong tình yêu, một Anh Thơ tha thiết nhưng thẹn thùng cái duyên con gái.
Nhưng chỉ đến Xuân Quỳnh cái khát vọng rất đỗi chân tình, đời thường của con người đó được bộc bạch, mà bộc bạch một cách chân thành như chính cuộc đời nhà thơ này, một thứ tình yêu vừa phong phú, phức tạp, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, đang khát khao yêu thương.
Tình yêu cũng như những con sóng, người ta chỉ nhìn thấy những con sóng trên mặt nước ngày đêm vỗ vào bờ nhưng sóng biển không chỉ có những con sóng hiện hữu mà chúng ta nhìn thấy mà còn có những con sóng âm ỉ dưới lòng đại dương âm thầm và mãnh liệt.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước”
Cũng như sóng – tình yêu của người phụ nữ không chỉ được nhìn thấy qua vẻ bên ngoài mà còn là tận đáy sâu trong tâm hồn người phụ nữ mà chỉ những ai thật tinh tế nhạy cảm, có chiều sâu tâm tưởng mới có thể nhận ra những ẩn kín ấy trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Xuân Quỳnh khéo léo dùng phép nhân hóa để khẳng định dù con sóng trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì vẫn luôn nhớ bờ thao thức, ngày đêm không ngủ:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Con sóng ngày đêm không ngủ bởi nỗi nhớ bờ hay chính là nỗi nhớ rạo rực, da diết của người con gái khi yêu? Nỗi nhớ ấy chiếm lĩnh cả không gian và thời gian, cả trong những giấc mơ
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Trong tình yêu không chỉ không thể tìm ra ngọn nguồn của tình yêu mà nhiều khi có những điều phi lí của cuộc sống lại trở nên có lí trong tình yêu. Ngay cả trong giấc mơ mà vẫn còn thức để nhớ đến anh.
Phải chăng tình yêu là như thế. Yêu là nhớ! Nỗi nhớ choán đầy, nồng nàn, da diết, mãnh liệt. Nhớ cả trong mơ cũng như khi còn thức, nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà thấm sâu vào cả tiềm thức, yêu anh là nghĩ về anh, luôn luôn nghĩ về anh.
Xuân Quỳnh đã diễn đạt nỗi nhớ thật độc đáo. Nỗi nhớ cứ tồn tại, hiện diện trong tâm hồn, nó không bao giờ lắng xuống là luôn trào dâng mãnh liệt, quay quắt không nguôi.
Người con gái khi yêu không chỉ táo bạo, mãnh liệt, dám thổ lộ, dám bày tỏ khát khao tình yêu mãnh liệt mà còn mang trong mình vẻ đẹp truyền thống của người con gái thủy chung, nghĩa tình.
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Điệp từ “dẫu” như khẳng định bao nhiêu thử thách, khó khăn phải vượt qua dù không gian mở rộng đa chiều với phương bắc và phương nam đầy xa cách. Nhưng Xuân Quỳnh có cách thể hiện thật đặc biệt.
Người ta thường nói ngược Bắc, xuôi Nam vậy nhưng Xuân Quỳnh lại diễn tả thật đặc biệt xuôi Bắc, ngược Nam như muốn tô đậm những trắc trở trong cuộc sống, những khó khăn trong tình yêu nhưng dù như thế nào đi chăng nữa, dù điều gì xảy ra thì người con gái ấy vẫn mãi thủy chung, hướng về người con trai với tình yêu trọn vẹn, duy nhất.
Chính tình yêu mãnh liệt ấy như là một động lực để nhà thơ tin tưởng vào tình yêu của chính mình như con sóng kia mãi vỗ vào bờ.
Đoạn thơ trên trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, tác giả không chỉ thành công ở nội dung mà còn thành công ở mặt nghệ thuật trong việc sử dụng thể thơ năm chữ truyền thống, cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng, xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết
Qua đoạn thơ Xuân Quỳnh đã khắc họa về nỗi nhớ mãnh liệt và lời thề thủy chung tuyệt đối trong tình yêu dù đi đâu về đâu vẫn hướng về người mình thương nhớ, chờ đợi. Đồng thời nữ sĩ còn thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện qua hình tượng sóng.
Tình yêu tha thiết nồng nàn đầy khát vọng vượt lên trên giới hạn của đời người. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn sâu sắc, khó phai nhòa. Trong biển lớn tình yêu cuộc đời hôm nay đã có biết bao con sóng tới bờ và tìm về bờ .
Tình yêu vẫn luôn luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi để mọi người đi tìm lời giải đáp cho ẩn số tình yêu trong một hành trình tìm kiếm không mệt mỏi. sống là được yêu, yêu là sống hết mình với cuộc đời vốn rất nhiều yêu thương này.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 8
Tình yêu thường đi liền với nỗi nhớ, trong muôn vàn hình tượng thì sóng được xem là biểu tượng cho tình yêu thiêng liêng và mãnh liệt. Chính vì lẽ đó, khi Xuân Quỳnh nhìn vào sóng, bà đã nghĩ tình yêu. Tình yêu đó đã được Xuân Quỳnh gói gọn vào tác phẩm “ Sóng”. Bài thơ chính là những cảm xúc chân thật nhất của người con gái khi yêu, vừa nồng nhiệt, khao khát và cả nhớ nhung, tin tưởng. Hai mạch cảm xúc này được thể hiện rõ nét qua khổ 5 6 của bài thơ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Phân tích khổ 5 6 bài Sóng để thấy được những sắc thái chân thực của tình yêu
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
“Sóng” in trong tập “Hoa dọc chiến hào” ra đời sau một chuyến đi xa của nhà thơ. Bài thơ có 8 khổ, mỗi khổ đều được nhà thơ gửi gắm từng suy nghĩ của mình về tình yêu thông qua hình ảnh những con sóng. Sóng là hình tượng được tác giả sử dụng xuyên suốt bài thơ, song hành với hình tượng sóng là hình tượng “em”. Em là sóng và sóng là em.
Trong khổ thơ đầu tiên, hình ảnh sóng được khắc họa đi liền với nỗi nhớ. Thông qua phép nhân hóa, ta như thấy sóng cũng là một thực thể có tình yêu, có cả nỗi nhớ.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Ở 3 câu thơ đầu, từ “sóng” được nhà thơ lặp lại liên tiếp ba lần như hình ảnh sóng trào từng lớp từng lớn trên mặt biển. Từng nhịp sóng chính là từng nhịp nhớ thương khôn nguôi, lớp này chồng lên lớp khác, sôi sục, không có giới hạn. Trong tình yêu cũng vậy, nhớ nhung là cảm xúc luôn hiện hữu, dào dạt, hai người yêu nhau sẽ không bao giờ ngừng nhớ đến nhau. Sự đối lập giữa “ngày” và “đêm”, “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước” thể hiện một nỗi nhớ xuyên suốt mọi không gian, thời gian. Đây chính là trái tim của người con gái khi yêu, luôn bao la rộng lớn như đại dương đong đầy sóng biển, đong đầy tình yêu. Là sự nhớ nhung không lúc nào nguôi như sóng biển không lúc nào thôi vỗ vào bờ.
Sau khi mượn hình ảnh sóng để nói về nỗi nhớ, nhà thơ đã không kìm nén được mà thổ lộ nỗi nhớ trong tình yêu thành lời qua 2 câu thơ:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nỗi nhớ giờ đây không còn ở trong phạm vi không gian và thời gian nữa mà xuyên qua cả đại dương rộng lớn, vượt ra ngoài ranh giới giữa thực tại và mong mơ. Không chỉ nằm ở ý thức, nỗi nhớ còn ăn sâu vào trong tiềm thức, đi vào trong giấc mơ của người con gái. Nỗi nhớ trở nên da diết, sôi trào như những con sóng khi tràn bờ. Mạch của thơ chuyển từ câu 4 sang câu 6 như để thể hiện nỗi nhớ tận cùng. Cách phá vỡ quy tắc thơ của tác giả nhằm ẩn ý trong tình yêu sẽ không có giới hạn nào cả, khi yêu, con người ta có thể phá vỡ tất cả những rào cản. Nỗi nhớ của những người khi yêu sẽ không bao giờ tắt.
Phân tích khổ 5 6 bài Sóng để thấy tình yêu không chỉ có nỗi nhớ mà còn cần phải có sự thủy chung. Xuân Quỳnh đã gửi gắm lời nhắn nhủ này qua hình tượng sóng ở khổ thơ thứ 6:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Nhà thơ đã so sánh phương bắc, phương nam với anh, như để thể hiện rằng, dù đi đến phương nào, tình yêu của em cũng sẽ chỉ dành cho anh. Dù cho không gian có mở bao nhiêu phương, bao nhiêu hướng, thì tình yêu cũng chỉ có một phương duy nhất. Bản chất thực sự của tình yêu đã được Xuân Quỳnh khẳng định qua 2 chữ “duy nhất”.
Tình yêu là sự chung thủy, tình yêu là duy nhất, dù cho có khó khăn bao nhiêu, “xuôi” “ngược” bao nhiêu. Chỉ có những ai có trái tim chân thành, lòng thủy chung son sắc thì mới vượt qua được như khó khăn, gập ghềnh trong tình yêu. Từ đó mới nuôi dưỡng được tình yêu một cách toàn vẹn. Sự thủy chung chỉ tồn tại khi tình yêu chân thành, không quan ngại gian khổ. Qua hết đoạn thơ thứ 2, ta mới thấy được những tâm tình mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm: sóng chỉ hướng vào bờ như em luôn hướng về anh, sự thủy chung chính là động lực giúp em vượt muôn trùng sóng gió để đến được với hạnh phúc.
Phân tích khổ 5 6 bài Sóng để thấy được những khía cạnh sắc thái của tình yêu đó là nỗi nhớ và sự thủy chung khi yêu. Những ai đang yêu khi đọc hai khổ thơ này chắc chắn sẽ thấy mình ở trong đó, cũng sẽ nhớ và ước mong sẽ chung thủy để luôn gắn bó bền chặt với người mình yêu. Còn những người chưa yêu sẽ nhận được bài học sâu sắc nếu tình yêu không có nỗi nhớ, không có sự thủy chung thì mãi mãi không thể đi được đến bên bờ hạnh phúc.
Bên cạnh đó, qua bài thơ Sóng này chúng ta sẽ cảm nhận được những cung bậc cảm xúc tinh tế và mãnh liệt trong tình yêu của người phụ nữ. Từ đó thấu hiểu được phần nào nỗi lòng mà tác giả Xuân Quỳnh muốn gửi gắm qua lời thơ.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 9
Từ xưa đến nay, tình yêu luôn là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân. Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một cách thể hiện khác nhau. Nó có thể đậm chất triết lý như trong thơ Tagore hay tha thiết, cháy bỏng như thơ của Xuân Diệu. Với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một tình yêu đầy những âu lo, trăn trở và khát khao hạnh phúc đời thường của người phụ nữ…
Nếu như tác phẩm tự sự thường phản ánh tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện khách quan hiện thực đời sống thông qua tình huống truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết… thì thơ ca đi vào phản ánh thế giới tâm hồn con người trước rung cảm tinh tế sâu sắc, trước cuộc sống muôn màu. Vì thế Lê Quý Đôn nói: “thơ ca khởi phát từ lòng người”. Có thể nói, bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ nét điều đó. Tác phẩm này được viết vào năm 1967, khi tác giả có chuyến đi thực tế tại biển Diêm Điền. Đứng trước những con sóng nối tiếp, vô tận của biển cả, Xuân Quỳnh đã nhận thấy sự đồng điệu giữa những cung bậc, trạng thái của sóng với cung bậc tình cảm, khát vọng trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Bài thơ “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Trong tác phẩm này, nhà thơ đã sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” có khi tách biệt, có khi thống nhất, có khi lại hòa vào làm một để diễn tả vẻ đẹp trong tình yêu của tâm hồn người phụ nữ. Đồng thời, Xuân Quỳnh đã đem đến một quan niệm mới mẻ, nhân văn về tình yêu, về con người trong những năm tháng chống Mỹ đầy khốc liệt.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong “Sóng”. Sáu câu thơ đứng giữa thi phẩm như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của tác phẩm trong đó bốn câu thơ đầu là nỗi nhớ bờ âm ỉ, tha thiết của con sóng:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Tác giả đã sử dụng điệp từ “con sóng” lặp lại liên tiếp nhiều lần. Qua đó không chỉ tạo một giọng thơ sôi nổi phù hợp với mạch cảm xúc mà còn nhấn mạnh hình tượng con sóng đang cuộn chảy, trào dâng trong nỗi nhớ. Dưới ngòi bút tinh tế của nữ thi sĩ, những con sóng ấy trở nên có hồn hơn, chất chứa những suy tư, tình cảm như một con người thực sự. Đó là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ cồn cào về bến đỗ thân thương “bờ”. Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc với động từ “nhớ”, người đọc dường như có thể cảm nhận được một nỗi niềm đau đáu ẩn hiện trong hình hài con sóng biển. Đặc biệt hơn nữa, Xuân Quỳnh còn sử dụng cặp từ đối lập giàu sức gợi “trên mặt nước” – “dưới lòng sâu”, “ngày” – “đêm” vừa tạo nên cấu trúc song hành, đối xứng vừa khiến cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, nhạc điệu thơ nhịp nhàng nhưng trên hết là để nhấn mạnh nỗi “nhớ bờ” khôn nguôi của sóng. Dù ở bất cứ nơi đâu, dù đang ngủ yên dưới lòng biển sâu thẳm hay vận động trên đại dương bao la thì con sóng vẫn luôn “nhớ bờ”, vẫn luôn hướng về nơi phương xa, về nơi dừng chân bình yên của mình. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong hình tượng con sóng và nó dường như bao trùm lấy cả không gian mênh mông của biển cả, kéo dài miên man không dứt theo thời gian. Dù trong ngày êm ả hay đêm vắng lặng, con sóng vẫn thao thức “không ngủ được”. Nữ thi sĩ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa đầy tinh tế, giàu tính biểu cảm. Nỗi “nhớ bờ” ấy phải cồn cào, da diết như thế nào mới có thể khiến con sóng “không ngủ được”? Không còn là thứ vô tri, vô giác nữa mà con sóng ấy từ lâu đã mang trong mình cả một tâm hồn, một tâm hồn biết “nhớ”, biết “không ngủ được” vì nỗi trăn trở. Đọc những câu thơ này, người ta không chỉ cảm nhận được những âm điệu sôi nổi, mãnh liệt của sóng mà còn hình dung được những con sóng đang trào dâng giữa biển cả với nỗi nhớ bao trùm cả không gian, kéo dài theo thời gian.
Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ của “em” một cách đầy tự tin, trực tiếp:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nếu người phụ nữ trước khi chỉ dám bày tỏ nỗi nhớ một cách gián tiếp thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã phá vỡ rào cản mà chủ động, trực tiếp khẳng định tình yêu của mình. Ở đây Xuân Quỳnh đã dùng từ “lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là gan, là ruột của người phụ nữ. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói khẳng định giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết và đầy táo bạo. Điều này chứng tỏ nỗi nhớ và tình yêu của người phụ nữ phải rất cháy bỏng, tha thiết và mãnh liệt mới có thể có đủ can đảm để khẳng định được tấm lòng của mình một cách chủ động như vậy. Đây cũng chính là vẻ đẹp của tình yêu tự do, hiện đại. Để rồi nỗi nhớ ấy không chỉ còn là ở cảm xúc hay ý thức mà nó đã trở thành nỗi nhớ của tiềm thức: “Cả trong mơ còn thức”. Nếu chỉ hiểu theo nhận thức của lí trí thông thường thì khi mơ là đang ngủ mà trạng thái ngủ là hoàn toàn đối lập với trạng thái thức. Cho nên “cả trong mơ còn thức” là điều rất vô lý, trái với nhận thức thông thường. Tuy vậy nhưng câu thơ vẫn được ngợi ca và đón nhận. Tại sao lại như vậy? Có lẽ là bởi nó được lý giải bởi quy luật của tình yêu. Trong tình yêu, mọi thứ vô lý đều có thể trở thành hợp lý và ở đây cũng vậy. Có lẽ chỉ người đã và đang sống trong nỗi nhớ của tình yêu mới có thể cảm nhận trọn vẹn những cung bậc cảm xúc ấy. Có thể nói, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc mà mới mẻ về tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ. Đây cũng là trạng thái tình cảm tiêu biểu cho những ai đã, đang và sẽ yêu. Và đằng sau nỗi nhớ “anh” tha thiết ấy là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ cho một tình yêu sâu sắc và cao đẹp.
Ở khổ thơ thứ sáu, ta lại bắt gặp một vẻ đẹp của người phụ nữ khi yêu: đó là lòng thủy chung, son sắt. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ mạnh mẽ vươn ra biển lớn tìm tình yêu mới trọn vẹn hơn, đẹp đẽ hơn mà còn là một người con gái thủy chung với tình cảm của mình, tuy sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nhưng khi tìm được bến bờ hạnh phúc lại một lòng một dạ với người mình yêu:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Trước hết ở hai câu thơ đầu, chúng ta thấy cách diễn đạt của Xuân Quỳnh thật thú vị:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam, người ta thường chỉ nói “xuôi Nam ngược Bắc”. Thế nhưng Xuân Quỳnh lại viết “xuôi Bắc ngược Nam”. Tại sao tác giả không viết theo quy luật thông thường mà bất ngờ đảo ngược như vậy? Lúc ấy, phương Nam là tiền tuyến, miền Bắc là hậu phương mà ta thường nói xuôi về tiến tuyến, ngược về hậu phương. Điều này khẳng định rõ hơn những gian nan, tất tả, ngược xuôi cách trở éo le mà “em” phải đối diện. Phải chăng, nhà thơ còn muốn khẳng định cho dù vạn vật luôn đổi thay, cuộc đời luôn điên đảo, lòng người dễ thay đen đổi trắng, dễ biến ngược thành xuôi, thì người phụ nữ vẫn luôn thủy chung son sắt trong tình yêu. Nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “dẫu…” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo và chân thành của người phụ nữ khi yêu. Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng trầm, người phụ nữ vẫn luôn thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình. Dường như Xuân Quỳnh muốn phủ nhận tất cả những khó khăn, trái ngang để yêu – một tình yêu đích thực mà người phụ nữ khao khát có được.
Khép lại trong lòng người đọc là hai câu thơ:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Lời thơ đọc lên thấy tiếng lòng da diết của người phụ nữ khi yêu. Ta không nghe thấy tiếng lòng của sóng chỉ nghe thấy tiếng lòng của em. Xuân Quỳnh đã khẳng định một cách chân thành, mạnh mẽ: Dù ra Bắc hay vào Nam, dù đi ngược hay về xuôi, dù lên rừng hay xuống biển, dù ở bất cứ nơi đâu, dù có đi tới chân trời góc bể, dù em có phải cách xa đến chừng nào thì em vẫn luôn nghĩ về anh, luôn hướng về anh. Và dù trời đất vũ trụ có bốn phương, tám hướng thì trái tim em chỉ có một phương duy nhất – phương anh. Dấu “-” đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ. Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của cuộc đời.
Tấm lòng thủy chung trong tình yêu là vẻ đẹp gắn liền với truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời đây cũng là phẩm chất quan trọng của tình yêu đích thực, của hạnh phúc đời thường. Ca ngợi về tấm lòng thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu đã khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp trong thơ Xuân Quỳnh.
Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”.
“Ở ngoài kia đại dương
….
Dù muôn vời cách trở”
Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc. Hãy nhìn vào hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn. Tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:
“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”
Ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp, nhân hóa, ẩn dụ, sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách. Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng – cuộc đời con người thì hữu hạn
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua”
Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu
“Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
“Sóng” là một tác phẩm thành công vang dội của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ tất cả những cung bậc trong tình yêu, thể hiện tình cảm son sắt, thủy chung, tha thiết, cao thượng cùng bao nỗi nhớ thương, niềm tin yêu vào tình yêu cao cả không chấp nhận một tình yêu tầm thường và nhỏ hẹp. Khát vọng một tình yêu cao đẹp thủy chung. Phải có một tâm hồn thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp và lung linh đến vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, một tiếng sóng đẹp đẽ làm tươi thắm thêm cho thi đàn hiện đại Việt Nam.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 10
Xuân Quỳnh là một nữ thi sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo. Những sáng tác của nhà thơ vừa mang nét mạnh mẽ, táo bạo lại vừa đằm thắm, thiết tha. Xuân Quỳnh đã đóng góp cho nền thơ Việt Nam rất nhiều tập thơ hay và ý nghĩa. Trong đó phải kể đến các tập thơ: Hoa dọc chiến hào (1968), Sân ga chiều em đi (1984)… Bài thơ “Sóng” là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất.
“Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967 trong những ngày kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ nhằm bày tỏ nỗi nhớ nhung và khát vọng trong tình yêu của người phụ nữ. Đó cũng là những tình cảm đẹp đẽ nhằm trao tặng cho người mình yêu. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất trong hai khổ thơ năm và sáu của bài thơ:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Nói về tình yêu có rất nhiều nhà thơ lấy những hình ảnh khác nhau để biểu trưng cho thứ tình cảm ấy và Xuân Quỳnh đã lựa chọn hình tượng “sóng” để biểu thị cho tình yêu xuyên suốt trong bài thơ. Sóng là hiện thân cho tình yêu, cho người con gái đang yêu. Sóng cũng mang đến nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc. Hình tượng sóng trong hiện thực mà chúng ta thường thấy nó cũng như vậy, có rất nhiều những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau như: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Nhờ vào những liên tưởng về hình tượng con sóng mà chúng ta thấy được những đặc trưng của tình yêu đôi lứa mà được biểu hiện chủ yếu bằng nỗi nhớ:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Bằng việc lặp lại hai lần từ “con sóng” và đi kèm với nó là những vị trí khác nhau. “Sóng trên mặt nước” là con sóng ở bề nổi bên trên mà người ta có thể dễ dàng thấy được còn sóng dưới lòng sâu là những con sống ngầm dưới mặt nước ta khó lòng có thể biết được. Như ta đã biết sóng là biểu trưng cho tình yêu, cho nỗi nhớ. Trong tình yêu, khi người ta xa cách nhau thường đem lại sự nhớ nhung tha thiết. Có những người đem nỗi nhớ nhung đó giấu trong lòng, không thổ lộ với ai và cũng có những người họ bày tỏ, biểu hiện nỗi nhớ đó ra bên ngoài. Chúng ta có thể dễ dàng thấy được sóng là một hình ảnh hàm súc, gợi tả, gợi cảm và cũng là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh.
Sóng là hình ảnh biểu trưng trạng thái bất ổn định của tình yêu. Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ trong tình yêu bằng hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng “Ôi con sóng nhớ bờ”, “sóng” còn là biểu tượng cho người con gái trong tình yêu khi nhớ về người con trai đó là “bờ”. “Sóng” và “bờ” là hai hình ảnh sóng đôi nhau ngoài đời thực, con “sóng” dù có đi xa tới mấy cũng trở về với “bờ”. Khi rời xa nhau thì sự nhớ nhung lại trỗi dậy mạnh mẽ đến nỗi “Ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ thường trực biến thành sự thao thức đến nỗi không ngủ. Đến đây ta có thể thấy được sự quen thuộc mà những ai đã và đang yêu đều từng trải qua. Không chỉ sử dụng hình ảnh ẩn dụ mà Xuân Quỳnh còn biểu lộ trực tiếp:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Từ “sóng” với “bờ” đã chuyển sang thành “anh” với “em”. Anh với em giống với con sóng và bờ kia, cũng chứa đựng những cung bậc cảm xúc như vậy đó là nỗi nhớ trong em cũng không thua kém gì với sóng. Nếu như “sóng” ngày đêm không ngủ, thao thức thì em ở một cấp độ cao hơn đó là thức ở chính trong giấc mơ của mình. Ý nói rằng dù thức hay ngủ thì nỗi nhớ vẫn xâm chiếm. Nỗi nhớ ấy còn được nhấn mạnh hơn nữa trong bốn câu tiếp theo:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Tác giả đã sử dụng phép đối lập giữa “Bắc và Nam”, giữa “xuôi và ngược” để thể hiện nỗi nhớ và tình yêu tha thiết của cô gái với chàng trai. Thông thường người ta thường nói “xuôi Nam”, “ngược Bắc” nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại qua đó cho thấy tình yêu không theo một quy luật chủ thể, có thể đi ngược lại với thực tế. Có thể nói dù ở bất cứ đâu, dù có muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng với người mình yêu thương.
Đoạn thơ thể hiện những tâm tình xao xuyến, trăn trở đi kèm với những nồng nhiệt say mê của người con gái trong tình yêu. Qua đó cũng thể hiện nỗi khát vọng tình yêu, khát khao được yêu thương được nếm trải những cung bậc tình yêu trong cuộc sống của nhà thơ.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 11
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh luôn thể hiện một phong cách riêng độc đáo. Đó là tiếng thơ của một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành và khao khát yêu thương. “Sóng” chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Tâm hồn người phụ nữ nặng tình, thủy chung, mãnh liệt khi yêu ấy được thể hiện sâu sắc nhất qua khổ 5, 6 và 7 trong bài thơ “Sóng”.
Thơ Xuân Quỳnh rất giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư được tạo tác nên từ giọng thơ đằm thắm của một người phụ nữ rất mực hiền hậu. Bài thơ “Sóng” là tâm sự, nỗi lòng sâu kín của nhà thơ trong bộn bề suy nghĩ về tình yêu. Trong khổ thơ, 5, 6 và 7 với những ngôn từ giản dị, hình ảnh đối lập, đa chiều và giàu sức liên tưởng đã thể hiện rõ nhất những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: nghĩa tình, thủy chung.
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã từng bày tỏ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Quả thực, thi sĩ luôn mượn cảnh để bày tỏ nỗi lòng. Nỗi lòng thi nhân luôn nhuốm trong từng động thái tinh vi nhất của cảnh vật. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh con sóng làm biểu tượng cho tâm hồn người phụ nữ và thay người phụ nữ tuyên ngôn tình yêu.
Tình yêu vốn không có công thức. Trong thơ Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu là sự bí ẩn ngọt ngào và quyến rũ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Con sóng tồn tại ở hai không gian là “lòng sâu” và “trên mặt nước” khẳng định tình yêu của người phụ nữ dù tự đáy tâm hồn hay ngoài mặt đều dạt dào và liên tục không ngừng nghỉ.
Thán từ “ôi” vang nên đầy mãnh liệt và diệu kì. Chính tác giả cũng ngạc nhiên mà phải cảm thán rằng: nỗi nhớ bờ của con sóng ám ảnh, vần vũ trong lòng đến mức “ngày đêm không ngủ”. Có bao giờ con sóng trôi dạt dào đâu? Có bao giờ nỗi nhớ của em về anh có thể chấm dứt đâu?
Trong bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ”, nhà thơ Minh Huệ đã viết:
“Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh”
Ở đây, sự chủ động “không ngủ” của Bác mà chúng ta đã từng bắt gặp trong thơ Minh Huệ là vì nặng lòng với nước. Còn sự chủ động “ngày đêm không ngủ” trong thơ Xuân Quỳnh chỉ mang tính tình cảm cá nhân. Song ấy là nỗi lòng chung của hàng triệu người phụ nữ chịu cảnh chia xa, là vẻ đẹp ngọt ngào của con người khi yêu nên bài thơ mới có sức thu hút và ý nghĩa tới vậy.
Sự nhớ nhung đẩy nên cao trào khi “cả trong mơ còn thức” để mà nhớ. Nỗi nhớ cũng quần đảo không ngừng trong khoảnh khắc nhân vật thiếp đi. Thế mới thấy tình yêu của tác giả với người thương sâu sắc đến mấy.
Khắc họa vẻ đẹp chung thủy của người phụ nữ khi yêu, Xuân Quỳnh không dùng lời thề nguyền đêm trăng hay chén rượu bôi, kỉ vật duyên mà nhà thơ thể hiện bằng những lời thủ thỉ hết sức tự nhiên, đằm thắm, chân thành:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Hai cặp từ đối lập “nam – bắc” và “xuôi – ngược” và biện pháp điệp cấu trúc đã bao quát toàn bộ không gian đất nước Việt Nam và vũ trụ và nhấn mạnh thêm ý thơ. Từ “nghĩ” không chỉ nhấn mạnh tới suy nghĩ đơn thuần trong đầu óc con người mà nhắc tới cả ý chí, niềm tin và khát vọng.
Trong trời bể sâu rộng ấy, người con gái vẫn giữ nguyên bến đỗ duy nhất, đó là “phương” anh. Tác giả phát hiện ra thêm một phương trời rất độc đáo, mới lạ, ấy là phương anh. Chính điều ấy đã khiến bài thơ thêm nét dễ thương, chân thật, nữ tính hơn. Khổ thơ đã làm rõ nhất vẻ đẹp thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu. Nó không chỉ là vẻ đẹp có ở riêng Xuân Quỳnh mà còn là vẻ đẹp chung của con người Việt Nam.
Cuối cùng, sức vượt trùng khơi của con sóng để tìm về bờ đã chiến thắng tất cả:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Sóng ngàn năm vẫn sẽ vỗ bờ. Đại dương rộng thật đấy, lắm bão giông thật đấy nhưng sóng có ngày sẽ đến được đích. Từ chỉ số lượng “trăm nghìn” nhấn mạnh vào tình cảm dào dạt, đong đầy của tình yêu. Người phụ nữ trong thơ thêm một lần nữa nhất mạnh triết lí mà ông cha xưa nhắc tới:
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội
Thất bát đèo cũng qua”
Qua đây, Xuân Quỳnh đưa đến chúng ta một chân lý trong tình yêu: Dù có bao nhiêu khó khăn, chỉ cần con người giữ vững trái tim yêu thương, nhất định có ngày sẽ đoàn tụ. Những câu thơ làm ấm lòng biết bao con người phải chịu nỗi đau chia lìa. Tình yêu của Xuân Quỳnh đã vượt qua mọi giới hạn, luôn cháy bỏng và đầy nữ tính. Vì thế, nó vượt lên tình cảm cá nhân cá thể mà trở nên thánh thiện, thuần khiết hơn.
Tuy chỉ là ba khổ thơ năm chữ ngắn, sóng Xuân Quỳnh đã truyền cho người đọc cảm hứng thiết tha về tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy vẫn sống mãi cùng thời gian và trong lòng những con người biết yêu.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 12
“Sóng” của Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một bài thơ tình rất đẹp. Vẻ đẹp của một tâm hồn khao khát yêu thương trong mối tình đầu rạo rực của thiếu nữ. Vẻ đẹp của nhạc; nhạc của lòng cũng là nhạc của thơ, nhạc của sóng reo, sóng vỗ. Vẻ đẹp của men say tình ái được cất lên thành lời ca ngọt ngào, tha thiết biết bao:
Con sóng dưới lòng
…
Hướng về anh một phương
Hình tượng “sóng” đầy thi vị. Bất cứ ở đâu, dù ở “dưới lòng sâu” hay ở “trên mặt nước”, thì sóng vẫn “nhớ bờ”. Dù cả trong ngày và trong đêm dài vắng vẻ, sóng vẫn “không ngủ được”. Các động từ – vị ngữ: “nhớ bờ”, “không ngủ được” đã được nữ sĩ dùng rất đắt, tinh tế và biểu cảm, đem đến cho ta bao cảm xúc đẹp về tình yêu:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt. Dù ở không gian nào “dưới lòng sâu hay “trên mặt nước”, dù ở thời gian nào “ngày” cũng như “đêm”, sóng vẫn “nhớ”, sóng vẫn bồn chồn, thao thức “không ngủ được”. Lấy không gian và thời gian để “đo” nỗi nhớ của em, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khao khát được yêu thương. Sóng đã được nhân hóa mang hồn em và tình em. Từ cảm “ôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một tiếng lòng chấn động rung lên: “Ôi con sóng nhớ bờ…”.
Từ hiện tượng sóng vỗ xôn xao suốt đêm ngày trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình cảm của thiếu nữ:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
“Cả trong mơ” và cả khi “còn thức”, trong thực và trong mộng, em vẫn “nhớ đến anh”. Hình bóng chàng trai – người tình đã choáng ngợp tâm hồn cô gái. Yêu là sự hòa nhập hai tâm hồn. Sóng trên đại dương là biểu tượng cho sự sống muôn đời, cũng như tình yêu của “em” đối với “anh” mãi mãi là nỗi khao khát nhớ thương, mong đợi, trong không gian, trong thời gian, và “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh đã có một cách nói mới mẻ, một cách diễn đạt độc đáo khi thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, của “em”. Ta hãy trở về với ca dao:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Hay:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than
Hay:
Nhớ ai nhớ mãi thế này?
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn
Qua đó, ta mới cảm thấy cái ý vị đậm đà của ngôn từ, cái cảm xúc nồng cháy của tâm hồn thiếu nữ: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”.
Tình yêu luôn luôn đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở về thời gian và không gian. Sự cách trở ấy đã làm cho tâm hồn thiếu nữ, tâm hồn “em” thêm đẹp, đinh ninh lời thề nguyền “Trăm năm một chữ đồng đến xương” (Truyện Kiều). Lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu, họ quyết tâm vượt qua mọi thử thách “Tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua” để được sống dưới một mái ấm hạnh phúc đời đời bên nhau. Với “em” thì dù đi đâu, dù có lên thác xuống ghềnh, “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược phương Nam” trong bom đạn thời chiến tranh chống Mỹ (1967), lòng em vẫn “Hướng về anh một phương”, hướng về “anh”, người mà “em” thương nhớ, đợi chờ:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Các điệp ngữ: “dẫu xuôi về”, “dẫu ngược về”, “phương” (phương Bắc, phương Nam, một phương) đã liên kết với các từ ngữ: “Em cũng nghĩ”, “hướng về anh” làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định một cách mạnh mẽ. Chữ “một” trong câu thơ “hướng về anh một phương” đã thể hiện một tình yêu sắt son thủy chung.
Có thể nói, đoạn thơ trên đây là một âm vang của tiếng sóng, là một khúc tâm tình của thiếu nữ trăn trở, khát khao được yêu thương gắn bó. Trái tim của thiếu nữ nồng hậu và đằm thắm biết bao! Sóng nhớ bờ, em nhớ anh là quy luật muôn đời của tự nhiên, của sự sống và tình yêu. Xuân Quỳnh đã viết nên những vần thơ ngũ ngôn có nhạc điệu ngân vang tha thiết, có hình tượng sóng và hình tượng em rất đẹp. Các ẩn dụ và liên tưởng đầy tính nhân văn. Cấu trúc song hành (câu 1 với 2, câu 3, 4 với câu 7, 8) và các điệp ngữ (sóng… dẫu… về, phương) đã tạo nên âm điệu triền miên, liên hồi như tiếng sóng vỗ xôn xao, bồi hồi trong lòng “em”.
“Yêu là chết ở trong lòng một ít” – Không! Với Xuân Quỳnh, thì tình yêu là “khát vọng, đã làm cho thiếu nữ hồn hậu hơn, cao quý hơn. Bởi lẽ:
Tình yêu là thế, em ơi!
Hai người mà hóa một người trăm năm…
(Lạ chưa?, Tố Hữu)
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 13
Voltaire từng nói “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là tâm hồn cao cả, đa cảm”, khẳng định điệu tâm hồn thấm nhuần trong từng câu thơ. Bởi vậy, ta có dịp gặp gỡ điệu hồn sâu lắng của người con gái trong tình yêu, qua lời thơ “Sóng” của thi sĩ Xuân Quỳnh. Khổ thơ năm, sáu, bảy kết tinh bút lực nhà thơ và tiếng lòng phong phú ấy.
Sau một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền, nguồn cảm hứng trào dâng trong lòng nhà thơ khi bắt gặp hình ảnh con sóng giữa đại dương. Bài thơ được trích trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1967). Khi cả nước hòa trong âm vang của cuộc kháng chiến trường kỳ, các cây bút thường lấy tình yêu đôi lứa – cái tôi mở đường dẫn tới tình yêu tổ quốc- cái ta. Thì tiếng thơ Xuân Quỳnh thuần túy nói về tình cảm lứa đôi, nên “Sóng” trở thành bông hoa lạ giữa vườn hoa nghệ thuật lúc bấy giờ.
Mượn hình tượng con sóng xuyên suốt bài thơ để thể hiện những tâm tư tình cảm của cô gái khi yêu, Xuân Quỳnh không phải người đầu tiên. Nguyễn Thị Hồng Ngát cũng gửi tình yêu nồng nàn vào biển:
“Biển yêu đất đến điên cuồng rộng lượng
Muốn xô bờ nhưng lại sợ bờ đau
…
Anh biết không, biển chính là em đấy”
Nhưng Xuân Quỳnh độc đáo khi sử dụng phép ẩn dụ không hoàn toàn giữa “em” và sóng, tạo sự kết hợp hài hòa giữa sóng biển và sóng lòng. Nếu những khổ thơ trước, con sóng tự thức về tâm hồn mình, suy tư về nguồn cội tình yêu thì đến khổ năm, con sóng và nhân vật trữ tình thức nhận những thuộc tính của tình yêu lứa đôi:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi, con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Biện pháp nhân hóa biến sóng thành chủ thể của nỗi nhớ niềm thương của trái tim yêu tha thiết. Điệp từ “con sóng” gợi hình ảnh những con sóng nhớ thương trào hết lớp này đến lớp khác vừa thể hiện sự dào dạt, sôi trào vừa miên man, lắng sâu của nỗi tương tư. Niềm mong nhớ trải dài, choáng ngợp không, thời gian “lòng sâu, mặt nước”, “đêm, ngày” mang chiều kích vô biên trong tâm tưởng cô gái, không lúc nào yên lặng bởi cuộn trào những con sóng nhớ nhung. Nữ sĩ gửi lòng vào sóng như chưa thỏa, nên “em” trực tiếp xuất hiện nói lên tiếng lòng sâu thẳm: “Lòng em nhớ đến anh”, biên cương khổ thơ nới rộng bởi cảm xúc tràn bờ. Nỗi nhớ mong “anh” không chỉ làm “em” thao thức, mà còn chiếm trọn tiềm thức, vô thức của cô gái. Nhà thơ phá vỡ mọi giới hạn đưa bạn đọc tới thế giới vô cùng của tâm hồn con người.
Sóng cùng “em” suy ngẫm về lòng thủy chung trong tình duyên:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Biện pháp đối lập “ngược, xuôi” tái hiện hình bóng người con gái lấy điểm tựa tình yêu để lo toan trong hành trình khác nhau của cuộc sống. Điệp ngữ “dẫu” nhấn mạnh sự bất biến của trái tim yêu trước dòng đời dài rộng, vạn biến. Nhà thơ đặt khái niệm phương anh cạnh phương bắc, nam tách biệt không gian địa lý và tình yêu. Nếu trong địa lý bốn phương tám hướng con người dễ lạc lối thì trong tình yêu, “em” chỉ hướng về một phương “anh”, đó cũng chính là bản chất của tình yêu chân chính. Lòng sắt son dẫn nhân vật “em” vượt trùng cách trở đổ về bến bờ hạnh phúc như sóng chỉ hướng đến đích cuối cùng là bờ. Tác giả nhìn sâu vào lòng mình để nắm bắt quy luật của sóng.
Con sóng và “em” cũng cất lên niềm tin vào tương lai tình yêu trọn vẹn:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hình ảnh ước lượng”trăm ngàn” con sóng vượt mọi khoảng cách đến bờ, khơi dậy trong lòng thi sĩ sự tin tưởng vào tình yêu đôi lứa là hành lý, đưa con người đến cái đích cuối cùng của cuộc đời, có thể vượt lên những giới hạn của đời sống. Đó không phải suy nghĩ nông nổi, bồng bột mà là sự nhận thức về quy luật, chân lý của đời sống nên nó trong sáng, trọn vẹn và tha thiết, cháy bỏng.
Tiếng thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh vừa nhẹ nhàng khi sục sôi, vừa suy tư, trầm lắng. Cách xây dựng hình tượng tài tình, kết hợp ngôn từ sống động và thể thơ năm chữ mang giọng điệu linh hoạt, giúp người đọc cảm thấu bản tâm phức tạp của người con gái khi yêu trong hành trình thức nhận những quy luật tình yêu chính đáng, ngợi ca tiếng nói nhân bản của con người.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 14
Xuân Quỳnh thuộc một số những nhà thơ lớp đầu tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Nhận xét về ngôn ngữ thơ của nữ sĩ, giáo sư Chu Văn Sơn cho rằng: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi giông bão của cuộc đời… Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa không ngừng của chúng”. Và “Sóng” là một bài thơ hay, đã làm rõ những điểm sáng đó trong phong cách thơ Xuân Quỳnh, nhất là hai khổ thơ năm và sáu.
Dù không thể cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu nhưng Xuân Quỳnh đã phát hiện ra một tín hiệu cơ bản của tình yêu, nhất là khi những tâm hồn yêu phải xa cách: Tình yêu luôn đồng hành cùng nỗi nhớ, và tương tư là căn bệnh phổ biến của tất cả những người đang yêu. Có nỗi nhớ tha thiết mà lặng thầm trong ca dao:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Có nỗi nhớ được đo bằng không gian:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Có nỗi nhớ được đo bằng thời gian:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê
Ở đây để diễn tả những cảm xúc nhung nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh tiếp tục mượn hình tượng sóng:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Hình ảnh con sóng được điệp lại ba lần trong bốn dòng thơ giống nhau như những đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ, như đoạn điệp khúc da diết của một bản tình ca. Nghệ thuật đối đã đặt sóng vào những không gian, thời gian khác nhau. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu, dù ngày hay đêm, con sóng luôn mang trong mình nỗi nhớ bờ da diết. Đó cũng là ẩn dụ về những đợt sóng lòng đang trào dâng trong trái tim người phụ nữ đang yêu, sóng nhớ bờ như em nhớ anh “ngày đêm không ngủ được”, một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, đầy ắp theo thời gian, một nỗi nhớ cồn cào da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như những con sóng triền miên vô hồi vô hạn.
Và phải chăng, những rung cảm mãnh liệt của trái tim đã buộc lời thơ phải dài thêm ra để diễn tả cho thỏa cái ngút ngàn của nỗi nhớ:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Đây là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ bởi nó kéo dài thêm hai dòng thơ. Cảm xúc nhớ thương trào dâng mãnh liệt đã làm ý thơ bị xô đẩy, khuôn khổ thơ phải lung lay. Sự xuất hiện của khổ thơ đặc biệt này đã tạo nên một liên tưởng độc đáo: cả bài thơ là con sóng lớn, khổ thứ năm là đỉnh sóng và cũng là đỉnh điểm của cảm xúc.
Mượn sóng để diễn tả nỗi nhớ đã là sâu sắc và mãnh liệt lắm nhưng với Xuân Quỳnh, điều đó dường như là chưa đủ, tác giả đã để cho nhân vật trữ tình trực tiếp đứng ra bộc bạch nỗi lòng mình. Nếu nỗi sóng nhớ bờ còn phân biệt ngày đêm thì nỗi em nhớ anh đã phá vỡ mọi giới hạn thời gian. Nỗi nhớ không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn trong cả tiềm thức, thậm chí có cảm giác nếu còn có một cõi nào nữa có thể tới được, Xuân Quỳnh sẽ tìm tới để được sống trọn vẹn với tình yêu. Ý thơ Xuân Quỳnh ở đây có gì thật gần với ca dao:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề
Tác giả dân gian mượn “khăn, đèn, mắt” để diễn tả nỗi nhớ nhung khắc khoải của người con gái đang yêu, và cuối cùng không cần một ẩn dụ, hoán dụ nào nữa, chính em đã trực tiếp bộc bạch nỗi lo âu tình duyên hạnh phúc. Như vậy tứ thơ của Xuân Quỳnh không mới nhưng niềm khát khao phá vỡ mọi giới hạn để mở rộng chiều kích, biên độ của cuộc sống và tình yêu thì thực sự là táo bạo hiện đại.
Quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh rất mới mẻ nhưng vẫn có gốc rễ rất sâu của đạo lý truyền thống:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Dưới hình thức nói ngược, những câu thơ trên như thoáng qua một chút thách thức. Trong Tiếng Việt, thông thường người ta nói “ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam”, Xuân Quỳnh nói ngược lại với hàm ý sâu xa: Dù cuộc đời có đảo điên, dù vật đổi sao rời, dù xuôi hóa ngược, dù cho ở đâu, em như kim chỉ nam, em luôn hướng về anh – “một phương”. Xuân Quỳnh rất hiếm khi quyết liệt trong thơ. Đây có lẽ là lần nhà thơ tỏ ra quyết liệt nhất là để bảo vệ tình yêu chung thủy. Nữ sĩ luôn biết vun đắp chắt chiu để bảo vệ hạnh phúc đời thường. Nhà thơ chưa bao giờ kiêu sa để triết lý về tình yêu.
Tình yêu vốn là đề tài muôn thuở của thơ ca. Trong tình yêu, con người luôn có nhu cầu được chia sẻ, giãi bày. Có thể nói, trong bài thơ này, với “Sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm thấy một hình tượng nghệ thuật độc đáo, phù hợp để nói lên một cách đầy đủ và chân thật những biểu hiện đa dạng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 15
Tâm hồn thơ nhìn cuộc đời cũng bằng chất thơ. Nhìn mùa xuân thấy tuổi trẻ, trông ánh trăng mà nhớ về cố hương, như Xuân Quỳnh nhìn ngọn sóng đã nghĩ về tình yêu. Những nghĩ suy ấy được đúc kết trong tác phẩm “Sóng” – một tiếng yêu nhẹ mà nồng. Bài thơ là những xúc cảm khi yêu của người con gái, mà nhớ nhung và tin tưởng nằm trong số đó. Hai cảm xúc này được thể hiện rất rõ thông qua hai khổ thơ:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
“Sóng” là thành quả sau chuyến đi vào Diêm Điền của nhà thơ, được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ gồm tám khổ, mỗi khổ lại là một nét suy nghĩ của tác giả về tình yêu khi đứng trước những con sóng. Những lớp sóng nước chính là cảm hứng cho tác giả và cũng là hình tượng chính trong bài thơ, song hành với đó là hình tượng “em”. Hai khổ thơ trên là khổ năm và khổ sáu.
Trong hai đoạn thơ, hình ảnh sóng hiện lên gắn liền với những sắc thái của tình yêu mà khổ đầu là sóng cùng nỗi nhớ. Phép nhân hóa đã biến sóng thành một chủ thể cũng có tình yêu:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Từ “sóng” được điệp lại ba lần trong ba câu thơ liên tiếp đã tạo nên hình ảnh những con sóng trào lên từng lớp, từng lớp. Nhịp sóng trào cũng chính là nhịp nhớ thương trong trái tim người phụ nữ, cứ hết lớp này đến lớp nọ, chẳng bao giờ hết sục sôi, chẳng biết đâu là giới hạn. Giống như trong tình yêu, nhớ luôn là xúc cảm khôn nguôi và dào dạt, một nhịp yêu là một nhịp nhớ. Sự tương phản giữa “ngày” và “đêm”, “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” gợi ra một nỗi nhớ chiếm kích mọi chiều không gian và bao trùm lên toàn thời gian. Những câu thơ gợi ra trái tim người con gái đang yêu tựa như một đại dương rộng lớn đong đầy dòng nước tình yêu và không lúc nào yên lặng bởi những con sóng của nhớ nhung.
Nhà thơ mượn sóng để gợi nỗi nhớ trong tình yêu, nhưng có lẽ nói như thế cũng không thể hết được nên nỗi nhớ đã bật ra thành lời thổ lộ trực tiếp:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Hai câu thơ giống như một con sóng, xuyên qua cả đại dương bao la, xuyên qua cả cõi thực và cõi mộng. Nỗi nhớ không chỉ là hiện diện của ý thức mà còn lắng sâu vào tâm thức để hiện ra trong những giấc mơ. Cái dạt dào, sôi trào, da diết của nỗi nhớ dường như đã khiến cho nỗi nhớ thương tràn bờ. Dung lượng câu thơ chuyển từ bốn thành sáu câu như để đủ dung lượng để diễn tả nỗi nhớ ấy cho đến tận cùng. Sự phá vỡ quy tắc thơ ở đây cũng như ngầm ám chỉ tình yêu vốn dĩ là sự phá cách và không có giới hạn như thế, trái tim khi yêu thì có thể phá vỡ mọi rào cản và nỗi nhớ thì cũng không bao giờ thôi sục sôi.
Đoạn thơ tiếp theo, hình tượng sóng gắn liền với một sắc thái khác của tình yêu, đó là sự thủy chung:
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Nhà thơ đã đặt phương anh bên cạnh phương bắc, phương nam như một phép so sánh hai chiều kích của không gian và của tình yêu. Nếu không gian địa lý mở ra với bốn phương tám hướng thì trong tình yêu chỉ có duy nhất một phương anh. Hai chữ “một phương” đã khẳng định sự duy nhất và bản chất chân chính của tình yêu. Cặp từ đối “ngược” “xuôi” chính là sự hiện hữu của những khó khăn trong tình yêu. Đó là thử thách mà con người phải trải qua, là hành trình lên thác xuống ghềnh để theo đuổi và nuôi dưỡng tình yêu. Chỉ có trái tim yêu chân thành thì mới chẳng quản lên thác xuống đèo như thế, chỉ có sự chân thành, yêu chân thực mới hiểu được thủy chung là bản chất của tình yêu. Đoạn thơ cũng thể hiện những khám phá của Xuân Quỳnh về tình yêu: nếu sóng chỉ hướng đến bờ thì em cũng chỉ hướng về anh, lòng chung thủy sẽ dẫn em vượt qua muôn nghìn trùng sóng bể để đến bến bờ tình yêu và hạnh phúc.
Hai khổ thơ là những chiêm nghiệm, khám phá và đúc kết của nhà thơ về tình yêu: yêu là nhớ, yêu là thủy chung. Những người đang yêu có lẽ thấy chính mình cũng là “em”, cũng bồi hồi nhớ người yêu và một lòng mong ước bền chặt gắn bó. Những người chưa yêu có lẽ thấy khát khao cũng được trải qua những sắc thái chẳng gì có thể mang lại được ấy. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã khơi dậy sắc thái yêu trong lòng người đọc như thế đấy.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 16
Có thể nói, tình yêu là đề tài muôn thuở mà nhiều nhà thơ, nhà văn muốn hướng tới. Chúng ta đã từng biết đến Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình với những cảm xúc yêu đương mãnh liệt, nồng cháy. Hay là một Anh Thơ với chút e thẹn, ngại ngùng của người con gái khi yêu. Tình yêu, dù là ở bất kì cảm xúc nào thì nó cũng đều đẹp đẽ và chân thật. Xuân Quỳnh là một nữ nhà thơ được biết đến với những sáng tác thấm đượm tâm tư và tình cảm của người phụ nữ. Bà khát khao yêu và được yêu. Người ta bắt gặp tình yêu lứa đôi với nhiều cảm xúc thiêng liêng qua “Thuyền và biển”. Tình yêu với những nỗi nhớ, niềm thương một lần nữa lại được thể hiện một cách rõ ràng và có phần mạnh mẽ hơn qua bài thơ “Sóng”. Trong bài thơ, nhà thơ đã diễn tả được nỗi nhớ thương tới người yêu một cách rõ ràng và mạnh mẽ nhất trong ba khổ thơ 5, 6, 7.
“Sóng” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm Điền. Nó được sáng tác năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ là tiếng lòng của người thi sĩ hay cũng chính là tiếng nói từ trái tim của những người phụ nữ đang đắm chìm trong vị ngọt tình yêu. Nó là tổng hòa tất cả những cung bậc cảm xúc của tình yêu, có yêu, có thương, có những nỗi nhớ nhẹ nhàng cũng có cả những nỗi nhớ mãnh liệt, da diết.
“Con sóng dưới lòng sâu
…
Dù muôn vàn cách trở”
Nhà thơ đã sử dụng một cách tài tình hình ảnh của con sóng để vỗ dạt dào để tượng trưng cho người phụ nữ. Sóng “dữ dội và dịu êm” cũng chính là những xúc cảm của người con gái khi yêu, có lúc ngọt ngào, lãng mạn một cách nhẹ nhàng, tha thiết, có lúc lại nóng bỏng, mãnh liệt và đầy sức hút.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt đất
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Giữa biển khơi mênh mông, rộng lớn, có biết bao con sóng, làm sao ta có thể đếm hết được. Con sóng nhiều là vậy, vô tận là vậy nhưng tất cả đều có chung một nỗi nhớ da diết tới bờ. Có sóng dềnh dàng, cuồn cuộn trên mặt nước hay những con sóng đang uốn mình dưới lòng sâu. Dù là con sóng nào đi chăng nữa thì chúng cũng muốn được trôi dạt vào bờ, được ôm ấp và vỗ về bờ cát đang đứng ở trong kia, đợi chờ, mong ngóng. Từ chân sóng đến ngọn sóng, tất cả đều mong muốn được nhanh chóng chạm tay vào bờ, cảm nhận được hơi ấm từ vòng tay mà bờ đang dang rộng sẵn để chờ sóng dạt vào. Nỗi nhớ ấy làm sóng “không ngủ được”, lúc nào cũng vỗ, cũng chuyển động để thỏa nỗi nhớ da diết ấy. Sóng nhớ bờ cũng chính là nỗi nhớ của em dành cho anh bởi vì tình yêu thì không bao giờ có thể thiếu được những nỗi nhớ thương, mộng mị.
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nỗi nhớ ấy như đeo bám lấy trái tim người phụ nữ. Nó tồn tại mọi lúc mọi nơi, luôn thường trực trong trái tim em và lúc nào cũng có thể trào lên những cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến. Không gặp anh, em thấy nhớ. Gặp anh rồi, được ở bên anh nhưng em cũng thấy nhớ. Nỗi nhớ ấy làm em không muốn rời xa anh dù chỉ là một phút giây ngắn ngủi. Ban ngày em nhớ đến anh chưa đủ, nỗi nhớ còn tìm về trong cả những giấc mơ. Dù chìm trong giấc ngủ, em cũng không thôi nhớ đến anh. Em mơ đến khuôn mặt anh, đến giọng nói nhẹ nhàng và cả những vòng tay ấm áp. Trong tâm trí của em, lúc nào anh cũng luôn hiện hữu. Và có những đêm, nỗi nhớ làm em không ngủ được. Em ngồi nhớ đến anh, nhớ về người mà em dành trọn tình yêu thiết tha, chân thành:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Những con sóng dạt dào trôi giữa biển khơi mênh mông, rộng lớn. Sóng trôi từ nam ra bắc, vào nam. Dù ở phương nào thì sóng cũng tìm đúng hướng để chạm vào bờ. Cũng giống như em, dù ở bất kì nơi đâu, trong lòng em cũng hướng về anh, chỉ một mình anh. Em nghĩ đến anh ở bất cứ thời gian nào, ở bất cứ nơi nào mà em đã từng đặt chân tới. Trái tim nhỏ bé của em dường như đã được vẽ sẵn một con đường, con đường ấy chẳng đâu khác mà sẽ dẫn đến nơi anh đang đứng. Nó sẽ tình yêu của em chạm vào trái tim anh để anh có thể cảm nhận được tất cả những tình cảm mãnh liệt và nỗi nhớ mà biết bao ngày qua vẫn tồn tại trong em:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng nhớ bờ
Dù muôn vàn cách trở”
Giữa biển khơi, giữa đại dương mênh mông, xanh thẳm, có biết bao con sóng được tạo nên từ gió. Gió tạo nên sóng nhưng chính gió cũng làm cho sóng tan nát, xê dịch vì sức gió quá mạnh. Nhưng dù bao khó khăn, dù mưa giông bão táp thì sóng vẫn vươn mình lên để vượt qua tất cả mà chạy đến bên bờ để vỗ về, để hòa nhập. Con sóng cũng như tình yêu của em. Chẳng có một tình yêu nào mà bằng phẳng và trải đầy hoa. Để đến được với nhau sẽ phải trải qua biết bao những thử thách. Và với em, tất cả những khó khăn ấy sẽ chẳng là gì. Nó không thể có đủ sức mạnh để ngăn cản em đến bên anh. Bằng tình yêu nồng nhiệt, em sẽ vượt qua tất cả. Khổ thơ như một lời hứa hẹn, một sự ngợi ca về tình yêu mãnh liệt có thể vượt qua mọi rào cản. Nó cũng như chính niềm tin của em dành cho tình yêu của mình. Em tin rằng tình yêu này sẽ chiến thắng tất cả.
Như vậy, với những vẫn thơ chân thực, nhẹ nhàng nhưng không kém phần mãnh liệt, ba khổ thơ giữa của bài thơ “Sóng”đã diễn tả được hết nỗi niềm của người phụ nữ đang đắm chìm trong những cảm xúc nồng nàn của tình yêu. Tình yêu mãi là thứ tình cảm thiêng liêng, đáng được trân trọng.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 17
Đề tài tình yêu là một đề tài đã khiến cho rất nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ tốn nhiều giấy mực. Viết về tình yêu, thì điều đặc biệt là viết về nỗi nhớ, sự thủy chung trong tình yêu, nhưng có lẽ một nhà thơ nữ viết về tình yêu của chính những người phụ nữ thì ít thấy. Nhưng Xuân Quỳnh đã làm được điều đó qua bài thơ Sóng – một bài thơ tình hay nhất trong sự nghiệp của chị.
Khi nhắc về tình yêu, người ta không thể không nhắc tới nỗi nhớ và sự thủy chung nên trong “Sóng” chị đã dành cho nỗi nhớ và sự thủy chung một phần khá quan trọng trong hai khổ thơ:
Con sóng dưới lòng sâu
….
Hướng về anh – một phương
Khi nhắc đến Xuân Quỳnh, người đọc thường nhắc tới một giọng thơ nồng hậu, thiết tha lúc nào cũng khao khát và ngập tràn thương yêu. Tình yêu trong thơ chị lúc nào cũng cồn cào, sâu sắc và mạnh mẽ, nhưng cũng không kém phần dịu dàng nữ tính. Sóng được chị viết vào năm 1967 khi chị còn rất trẻ với một tâm hồn còn đầy rạo rực yêu thương và tình yêu. Bài thơ được in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”. Hai khổ thơ mà ta bình giảng trên nằm ở phần giữa bài thơ, nó nói lên nỗi nhớ nhung của tình yêu và sự thủy chung. Hình tượng xuyên suốt bài thơ vẫn là hình tượng “Sóng” – sóng ở đây được Xuân Quỳnh gửi vào đó cả tâm hồn người con gái khi đang yêu. Mượn sóng để nói đến người phụ nữ và tình yêu của phụ nữ, đây là việc Xuân Quỳnh đã từng làm trong “Thuyền và biển”. Nhưng ở trong hai khổ thơ này, sóng là sóng của nhớ nhung, chung thủy.
Ngay khổ thơ thứ nhất, Xuân Quỳnh với cách sử dụng điệp cấu trúc, điệp từ“con sóng” và cách sử dụng tương quan đối lập “dưới lòng sâu”, đối lập với “trên mặt nước” đã miêu tả hai con sóng ở hai vị trí khác nhau nhưng chúng cùng mang một nỗi “nhớ bờ”… Tương quan đối lập được nói ở trên khiến người đọc cảm nhận nỗi nhớ ấy như mạnh mẽ, da diết hơn, nỗi nhớ ấy không chỉ hiện hữu trên mặt nước mà còn ở chiều sâu từng mét nước. Dường như con sóng mang nỗi nhớ tràn ngập trong suốt bản thân mình. Nỗi nhớ như thấm đẫm trên từng ngọn sóng tới chân sóng. Bởi vì sóng là hiện thân của người con gái, là hiện thân của tình yêu mãnh liệt của người con gái nên ở đây ta có thể hiểu nỗi nhớ cũng đang tràn ngập trong lòng người con gái, nó hiện hữu qua khuôn mặt buồn nhớ qua tâm trạng sầu nhớ.
Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng thốt của tâm trạng: “Ôi con sóng nhớ bờ”. Phải nhớ thương nhiều lắm, nỗi nhớ phải da diết, nồng nàn lắm thì mới có thể thốt lên, mới có thể gọi thành tên như vậy. Từ “Ôi” là từ cảm thán được nhà thơ đưa lên đầu câu thơ càng khiến tứ thơ thêm mềm mại như tâm hồn người con gái:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Xuân Quỳnh đã nhân hóa hình ảnh sóng khiến sóng như một con người cụ thể với những diễn biến tâm trạng sinh động. Chính vì vậy, nỗi nhớ của người phụ nữ qua hình ảnh “sóng nhớ bờ” càng đậm nét. Vẫn với cách nhân hóa hình tượng “sóng” ở câu thơ thứ tư, Xuân Quỳnh đã đem tới một ý thơ mới mẻ “Ngày đêm không ngủ được”. Trạng từ chỉ thời gian “ngày đêm” cùng với đại từ phủ định “không” đã góp phần miêu tả một nỗi nhớ dai dẳng, khôn nguôi luôn luôn thường trực cả trong ngày và đêm. Có lẽ khi tình yêu đến, khi nỗi nhớ trong tình yêu ngập tràn trong lòng, thì đó lại là điều không khó hiểu.
Nếu như ở khổ thơ này, nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu được gián tiếp gửi gắm qua hình tượng con sóng, thì ở hai câu cuối Xuân Quỳnh đã chính thức cất lên tiếng nói nhớ nhung: Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức. Sóng “không ngủ được” ở trên, đến đây hoàn toàn có thể hiểu là người con gái không ngủ được. Nỗi nhớ ở đây một lần nữa được tràn ngập trong lòng người con gái nó hiển hiện trong cả lúc có nhận thức và cả trong vô thức “lúc mơ”. Khổ thơ nói tới nỗi nhớ, nhưng cũng góp phần miêu tả một tình yêu sâu sắc mãnh liệt với nhớ nhung là biểu hiện rõ nét nhất của tình yêu. Khổ thơ tiếp theo:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Một lần nữa biện pháp điệp cấu trúc, cách sử dụng tương quan đối lập được Xuân Quỳnh tận dụng để nói tới sự thủy chung trong tình yêu. “Dẫu” là một từ có tính chất phủ định dù có xa xôi cách trở, dù cách xa với những miền đất xa tắp “phương Bắc” hay “phương Nam” thì trong lòng con sóng chỉ có một phương là bến bờ, còn trong lòng người phụ nữ thì chỉ có một phương hướng tới đó chính là tình yêu của mình, đó chính là người yêu. Thủy chung là một đặc tính đặc biệt và hết sức cần thiết trong tình yêu, nó cũng là đặc điểm của những người phụ nữ Việt Nam. Khi sử dụng cụm từ“nơi nào”, Xuân Quỳnh đã như cất lên lời nguyện suốt đời chung thủy với người yêu, với anh. Nếu như xuôi về phương Bắc, ngược về phương Nam là con đường thực tế nối những vùng đất thì “Hướng về anh một phương” là con đường gắn kết nối hai trái tim con người đang tràn ngập yêu thương.
Với hai khổ thơ, Xuân Quỳnh một lần nữa khắc họa tình yêu người phụ nữ. Cách sử dụng các biện pháp tu từ, đối lập, tương phản, điệp, cách sử dụng từ cảm thán và cách mượn hình tượng sóng đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Với thành công của mình, “Sóng” luôn xứng đáng là bài thơ tình được mọi thế hệ thanh niên yêu thích.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 18
Tình yêu là đề tài muôn thuở mà nhiều nhà thơ, nhà văn muốn hướng đến. Tuy nhiên, mỗi người đều mang đến một nét đặc sắc riêng cho tác phẩm của mình. Ta biết đến Xuân Diệu với những cảm xúc yêu đương mãnh liệt, nồng cháy; một Anh Thơ với chút e thẹn, ngại ngùng của người con gái khi yêu… Cho dù ở bất kể cảm xúc nào thì tình yêu vẫn đẹp đẽ và chân thật. Ta biết đến Xuân Quỳnh với những sáng tác thấm đượm tâm tư và tình cảm của người phụ nữ. Người ta bắt gặp tình yêu lứa đôi với nhiều cảm xúc thiêng liêng qua “Thuyền và biển”. Tình yêu với những nỗi nhớ, niềm thương, lòng thủy chung một lần nữa lại được thể hiện một cách rõ ràng và có phần mạnh mẽ hơn qua ba khổ thơ giữa của bài thơ “Sóng”:
“Con sóng dưới lòng sâu
…
Dù muôn vời cách trở”
Xuân Quỳnh đã sử dụng một cách tài tình hình ảnh của con sóng vỗ dạt dào để tượng trưng cho tình yêu của người phụ nữ. Sóng có lúc dữ dội lúc dịu êm cũng giống như những xúc cảm của người con gái khi yêu, lúc ngọt ngào, lãng mạn, có lúc lại mãnh liệt và đầy sức hút:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Nỗi nhớ trong tình yêu của Xuân Quỳnh không phải nỗi nhớ thoáng qua, nhẹ nhàng mà là một nỗi nhớ mãnh liệt. Nỗi nhớ ấy bao trùm cả không gian “Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước”, thời gian ” Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”; xâm chiếm tâm hồn con người cả trong cõi vô thức, tiềm thức lẫn ý thức, cả khi tỉnh lẫn khi mơ “Cả trong mơ còn thức”. Đúng là một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, nó cuồn cuộn, dạt dào như những con sóng biển triền miên vô hồi vô hạn. Trong bốn câu thơ đầu, hình ảnh sóng lặp lại ba lần như một điệp khúc của bản tình ca với những giai điệu da diết, như một ám ảnh thường trực về tình yêu và nỗi nhớ. Ba câu thơ gắn liền với hình ảnh sóng giống như những đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ. Đó cũng là một ẩn dụ nghệ thuật về những đợt sóng lòng đang dâng trào trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Sóng thì bao giờ cũng thức. Sóng không ngủ. Bởi sóng ngủ thì sóng không tồn tại. Vì lý do này người ta đã thấy sóng là nhịp đập của biển, là trái tim của biển, là sự sống của biển. Sóng nhớ bờ không ngủ được cũng giống như nỗi nhớ em đang dành cho anh, tình yêu bao giờ cũng vậy, không thể thiếu những nhớ nhung, mộng mị:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Mỗi con người đều sống trong hai trạng thái “mơ và thức”, còn nỗi nhớ anh đã xóa nhòa mọi khoảng cách, mọi giới hạn. Nỗi nhớ thao thức trong tâm hồn người con gái đã vượt qua mọi trạng thái. Nỗi nhớ đi từ miền ý thức đến miền vô thức. Nỗi nhớ đã trở thành nhịp sống tình yêu trọn vẹn trong tâm hồn người phụ nữ, nó triền miên da diết như hơi thở. Nỗi nhớ người yêu cứ dai dẳng, đeo bám lấy con tim người phụ nữ đang yêu. Nó tồn tại ở mọi lúc mọi nơi, thường trực trong sâu thẳm trái tim và có thể bất giác trào lên những cảm xúc nghẹn ngào. Ban ngày em nhớ anh vẫn còn chưa đủ, ban đêm nỗi nhớ ấy lại tìm về trong cả những giấc mơ. Trong tâm trí em, bóng dáng anh vẫn luôn hiện hữu, em nhớ dáng, em nhớ hình, nhớ cả những lời dịu ngọt và cả những cái ôm ấm áp.
Dù có phấp phỏng lo âu trước cái vô tận của thời gian nhưng người phụ nữ vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Nhà thơ sử dụng cách nói giả định mang theo những dự cảm về con đường còn nhiều trắc trở của tình yêu, dự cảm của một trái tim người phụ nữ đa đoan, đa cảm luôn lo âu, khắc khoải về hạnh phúc đời thường. Chọn cách nói ngược “Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam”, Xuân Quỳnh muốn khẳng định dù cuộc đời có nghịch lý, ngang trái đến mức nào thì em cũng vẫn chỉ hướng về một phương – “phương anh”. Đất trời rộng lớn có bốn phương tám hướng còn tâm hồn người phụ nữ đang yêu chỉ có một phương. Đó là phương hướng của một tình yêu chung thủy, không bao giờ đổi thay như một lời khẳng định cái bất biến giữa vạn biến. Ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ vừa hiện đại vừa truyền thống, mãnh liệt và luôn có nhu cầu bộc lộ nhưng vẫn thủy chung son sắc.
Chưa thỏa mãn với sự khẳng định ấy, nhà thơ còn nhấn mạnh thêm qua hình ảnh sóng:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Sóng khao khát được tới bờ như em khao khát có anh. Sóng vượt qua mọi trở ngại để tới bờ như em bước qua mọi khó khăn cách trở để cập bến hạnh phúc. Sóng muốn về với bờ sóng phải vượt qua bao giông tố, bão bùng. Em muốn hướng về anh em phải vượt qua những cạm bẫy cuộc đời. Tình yêu gắn liền với đời thường mà cuộc đời là dâu bể đa đoan. Tất cả những thử thách gian nan đang chờ trước mặt và là điều không thể thiếu đối với tình yêu:
“Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ”
(Thơ tình cuối mùa thu)
Chẳng có tình yêu nào mà bằng phẳng và trải đầy hoa hồng cả. Để đến được với nhau sẽ phải trải qua biết bao những thử thách. Và với em, tất cả những khó khăn ấy sẽ chẳng là gì. Nó không thể có đủ sức mạnh để ngăn cản em đến bên anh. Bằng tình yêu nồng nhiệt, em sẽ vượt qua tất cả. Trải qua không gian, thời gian, cuối cùng sóng vẫn trở về tới bờ và em cũng lại bên anh. Tình yêu trải qua thử thách là tình yêu đẹp, cao cả nhưng dù có cao đẹp đến đâu cũng rất mong manh trước thời gian vô thủy vô chung.
Qua ba khổ thơ, Xuân Quỳnh đã khắc họa nỗi nhớ mãnh liệt và lòng thủy chung tuyệt đối trong tình yêu. Dù đi đâu về đâu, dù có sóng gió như thế nào đi nữa vẫn hướng về người mình yêu. Đồng thời, tác giả còn thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện qua hình tượng sóng. Tình yêu tha thiết, nồng nàn đầy khát vọng vượt lên trên giới hạn của cuộc sống đời thường. Ba khổ thơ trên nói riêng và cả bài thơ nói chung đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc, khó phai. Trong biển lớn tình yêu cuộc đời hôm nay đã có biết bao con sóng tìm về bờ. Tình yêu vẫn luôn luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi để mọi người đi tìm lời giải đáp cho ẩn số tình yêu trong một hành trình tìm kiếm không mệt mỏi. Sống là được yêu, yêu là sống hết mình với cuộc đời vốn rất nhiều yêu thương này.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 19
Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: “Một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…”. Và đến với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ năm và sáu nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ năm và sáu của bài thơ “Sóng” – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thủy chung.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ “Sóng” – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu. Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho người đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm). Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Sóng không chỉ “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ” mà sóng còn hiện diện “dưới lòng sâu” (sóng ngầm – chiều sâu) , “trên mặt nước” (sóng nổi – chiều rộng). Có con sóng dữ dội tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại dương nhưng cũng có con sóng âm thầm đi ngầm dưới lòng sâu, không ai thấy nó, khó ai cảm nhận được về nó, chỉ riêng nó mới hiểu mình đang cồn cào. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Đó cũng là nỗi nhớ của sóng, của em vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để ẩn dụ cho nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.
Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Thì ra là “con sóng nhớ bờ”. Bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà nó bất chấp cả không gian rộng lớn vô biên, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn tới bờ. Sóng cồn cào nhớ nhung và khao khát gặp bờ đến độ “không ngủ được”. Nỗi nhớ từ đó cũng trùm lên mọi không gian “dưới lòng sâu – trên mặt nước”; trùm lên mọi thời gian “ngày đêm”.
Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kỳ diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình. Nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh – đó là quy luật của tình yêu muôn thuở. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức (khi chưa ngủ ) mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ (ngủ vẫn nhớ nhung). Như vậy có thể nói đây là một nỗi nhớ thường trực trong trái tim của người phụ nữ khi yêu. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát được có bờ – em khao khát được có anh.
Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:
Khi anh vắng, bàn tay em biết nhớ
Lấy thời gian đan thành áo mong chờ.
Lấy thời gian em viết những dòng thơ
Để thấy được chúng mình không cách trở.
(Bàn tay em)
Ở khổ thơ thứ năm này, Xuân Quỳnh dùng chữ “Lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. “Lòng” là chốn sâu kín nhất của tâm hồn con người, nhất lại là tâm hồn người phụ nữ. Lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà đã là gan, là ruột của người phụ nữ rồi. Cho nên khi nói “Lòng em nhớ đến anh” dường như Xuân Quỳnh đã dốc hết cả nỗi lòng mình để nghiêng hết về phương anh. Cô gái trong Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế, đó là tâm trạng chung cho người phụ nữ khi yêu.
Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh
(Ca dao)
Nếu nỗi nhớ là chất men say đánh thức tình yêu thì sự thuỷ chung lại là thước đo của tình yêu, của lòng người:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Khi yêu, người ta thấy sự xa cách và thời gian chẳng là gì cả. Bởi vì chỉ cần nghĩ về nhau, thì bóng dáng người yêu đã đầy ắp trong tâm hồn.
Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng. Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc. Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã thành “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Chỉ cần nghĩ về anh, nhớ về anh thì anh đã ở trong trái tim em rồi.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm. Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.
Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại có những điểm giống nhau đến không ngờ. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khỏa lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc. Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.
Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Về mặt nội dung: Nếu “Sóng” là trái tim người con gái khi yêu bất chấp mọi vạn vật không gian, thời gian để đến được với người mình yêu; lấy thuỷ chung làm thước đo của tình yêu, lấy nỗi nhớ để tình yêu thêm nồng nàn; thì khổ thơ cuối trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là một nỗi lòng tâm sự nặng trĩu vì một mối tình đơn phương vô vọng chưa một lần được đáp lại yêu thương. Về mặt nghệ thuật: “Sóng” hòa mình trong thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng với bao thổn thức yêu thương. Những ẩn dụ, nhân hoá, tương phản, điệp cấu trúc… hoà kết thành một đại dương tình yêu nhiều cung bậc. “Đây thôn Vĩ Dạ” lại sử dụng thể thơ thất ngôn; phép điệp ngữ, cách ngắt nhịp tinh tế; ngôn ngữ, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị; sử dụng câu hỏi tu từ để bật lên cái tôi với bao khắc khoải trong một mối tình vô vọng, đơn phương.
Tóm lại, “Sóng” là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn. Gấp trang sách lại rồi mà dường như trong ta vẫn còn ngân nga một giai điệu của “sóng và em”.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 20
Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu thời chống Mỹ cứu nước. Thơ nữ sĩ là tiếng lòng của một người phụ nữ giàu tình cảm yêu thương, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm, vừa mãnh liệt đầy khao khát trong tình yêu, vừa luôn âu lo về sự phai tàn, đổ vỡ cùng những dự cảm bất trắc. “Sóng” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, là một minh chứng cho câu nói nổi tiếng của M.Gorki: “Thơ chính là tâm hồn”.
“Sóng” là bài thơ được viết năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền. Khi đó Xuân Quỳnh đã nếm đủ ngọt ngào và cay đắng trong tình yêu, đã vun đắp và trải nghiệm sự tan vỡ. Thế nhưng tình yêu trong sáng ấy vẫn tràn đầy khao khát và khát vọng. Bài thơ được trích ở tập “Hoa dọc chiến hào” và được mệnh danh là một trong những vần thơ tươi xanh viết về thời kì lửa cháy của cuộc chiến tranh cách mạng. Đọc “Sóng”, có lẽ ấn tượng nhất trong lòng bạn đọc là ba khổ thơ về những sắc thái của sóng và cũng là những sắc thái đa dạng của tâm hồn người con gái trong tình yêu.
Tương tư là tâm bệnh của đôi lứa muôn đời. “Một trái tim đang nhớ là trái tim đang yêu”. Ca dao xưa có nỗi nhớ tha thiết giữa chàng với nàng:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?”
Thơ ca suy cho cùng hấp dẫn ở những nét riêng. Nỗi nhớ da diết của người con gái trong tình yêu trở nên hấp dẫn suy cho cùng cũng ở nét riêng của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Thể thơ năm chữ, câu thơ ngắn, nhịp nhanh khiến âm hưởng thơ dào dạt, tựa âm hưởng nhịp sóng. Xuân Quỳnh khéo léo sử dụng phép nhân hóa để biến những con sóng trở thành chủ thể của một trái tim yêu nồng nàn. Điệp từ “sóng” xuất hiện liên tiếp trong ba dòng thơ vừa gợi hình những con sóng thương nhớ dâng lên dào dạt hết lớp này đến lớp khác trong trái tim yêu của người phụ nữ vừa gợi ra cái miên man sâu lắng của nỗi nhớ thương. Nỗi nhớ hiện diện trong sự tương phản của hình ảnh, không gian “lòng sâu – mặt nước”, của thời gian “ngày – đêm”. Đó là nỗi nhớ thăm thẳm lòng sâu, mênh mang mặt nước, dằng dặc đêm ngày.
Nữ sĩ mượn sóng để nói lời tình yêu nhưng sóng cũng không nói hết được chiều sâu và sự mãnh liệt của nỗi nhớ nên nhân vật trữ tình đã xuất hiện trực tiếp để bày tỏ lòng mình:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Thức” là thao thức, có một nỗi nhớ không bao giờ ngủ yên trong trái tim thao thức Xuân Quỳnh. “Thức” còn là tiềm thức bao la, là nỗi nhớ vượt qua cả cõi thực và mộng. Như vậy, nỗi nhớ không chỉ xuyên qua ở tầng ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm thức để ẩn hiện trong mỗi giấc mơ. Cái dào dạt sôi trào, cái da diết sâu lắng của nỗi nhớ thương đã khiến cảm xúc tràn bờ, tăng dung lượng từ bốn lên sáu dòng thơ, làm bật lên cái tận cùng của nỗi nhớ. Với những dòng thơ này, Xuân Quỳnh đã phá vỡ các giới hạn, dẫn đọc giả vào cõi vô biên của tâm hồn con người đang yêu.
Tình yêu luôn luôn phải đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở về thời gian và không gian. Vì thế, lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu đã đinh ninh lời thề nguyền “trăm năm một chữ đồng đến xương”, lại quyết tâm vượt qua thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát nghèo cũng qua” để được hạnh phúc đời đời bên nhau. Còn các nhân vật trữ tình “em” trong thơ Xuân Quỳnh thì:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Nhà thơ đã đặt khái niệm phương anh cạnh phương Bắc, phương Nam để phân biệt hai không gian địa lý và tình yêu. Nếu trong địa lý có bốn phương tám hướng thì không gian tình yêu trong “em” chỉ có biết một phương duy nhất là “phương anh” mà thôi. Hai chữ rất đỗi yêu thương ấy đã khẳng định bản chất của tình yêu chân chính. Phép đối lập “ngược – xuôi” vừa gợi sự tất bật, lo toan, vừa thể hiện một tình yêu bền vững được thể hiện qua hành trình lên thác xuống ghềnh, xuôi Bắc ngược Nam. Đâu đó thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ lấy điểm tựa là tình yêu để lo toan xuôi ngược trên những hành trình khác nhau của cuộc đời. Xuân Quỳnh đã viết lên những vần thơ ngũ ngôn có nhạc điệu ngân vang tha thiết, có hình tượng “sóng” và “em” rất đẹp cùng những ẩn dụ đầy tính nhân văn. Cấu trúc song hành kết hợp với các điệp ngữ đã tạo nên âm điệu triền miên, liên hồi như tiếng sóng vỗ xôn xao, bồi hồi trong lòng “em”.
Một nét độc đáo của bài thơ “sóng” là luôn có sự sóng đôi, song hành giữa hình tượng “sóng” và “em”. Song hành như thế để cộng hưởng, để ngân vang:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vàn cách trở”
Ở bất cứ nơi nào, dù xa cách bao nhiêu, dẫu cuộc đời đảo điên đến đâu em cũng hướng duy nhất về phương anh mà thôi. Trở về bờ là quy luật tự nhiên của muôn ngàn con sóng, mãi hướng về anh là lẽ sống của trái tim em. Những từ “trăm ngàn”, “chẳng”, “dù” cùng với kết cấu quan hệ trái ngược giữa điều kiện và sự việc, Xuân Quỳnh đã bộc lộ niềm tin về bến đỗ của tình yêu đích thực, của hạnh phúc sau những trắc trở đắng cay. Trở về bờ, sóng ru mình trong yên ả, êm ả. Về bên anh, “em” đắm mình trong hạnh phúc ngọt ngào. Mặc dù, khi viết bài thơ này, Xuân Quỳnh đã nếm trải vị đắng trong tình yêu nhưng trái tim khao khát của nữ sĩ vẫn luôn dào dạt một niềm tin tưởng vào tình yêu chân chính.
Nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin lớn lao của người con gái trong tình yêu ấy đã thể hiện cá tính đậm nét của Xuân Quỳnh trong thơ cũng như trong đời sống, mãnh liệt mà đằm thắm, táo bạo nhưng vẫn giàu nữ tính. Xuân Quỳnh bao giờ cũng dám sống thật với mình, sống thật với cá tính của mình. Vì vậy, tình yêu trong “Sóng” trở thành tiếng nói nhân bản của con người lúc bấy giờ.
Được viết bởi những tình cảm và tâm tư chân thật nhất của tác giả Xuân Quỳnh, khi đọc “Sóng” người trẻ như tìm được tiếng nói chung, như tìm được nơi để dốc bầu tâm sự. Hơn nửa thế thế kỷ trôi qua, bài thơ “Sóng” cùng những giá trị nhân văn cao cả của nó vẫn ghi một dấu ấn khó phai mờ trong lòng độc giả.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 21
Tình yêu là đề tài muôn thuở trong thơ ca nhạc họa, nó làm con người ta say, biết nhớ thương hờn dỗi, biết lắng lo đau đớn. Thi nhân Việt Nam đã có không ít lần “trải chữ” để bày tỏ nỗi lòng khi trải qua trạng thái đặc biệt này, trong đó có Xuân Quỳnh với bài thơ Sóng. Tác phẩm được nữ thi sĩ viết vào năm 1967, khi cô có chuyến đi thực tế tại vùng biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Đứng trước những con sóng vô tận, không ngừng nối tiếp nhau của biển cả, Xuân Quỳnh cảm nhận được sự đồng điệu giữa từng đợt sóng trào với những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ khi yêu, từ đó Sóng được ra đời, in trong “Hoa dọc chiến hào”, là tập thơ tiêu biểu của nữ thi sĩ trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Có thể nói rằng tình cảm sâu đậm, đáng trân quý của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện rõ nét nhất trong khổ 5, 6, 7 của tác phẩm.
Có số lượng câu nhiều nhất trong bài là khổ thơ thứ 5, ở bốn câu thơ đầu người đọc được chứng kiến những con sóng lòng không ngừng dâng trào, kéo theo đó là bao nỗi nhớ thương âm ỉ, da diết:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
“Con sóng” được lặp lại nhiều lần tạo nên một giọng thơ sôi nổi, quan trọng hơn nó là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi nhớ đang không thôi cuộn trào trong lòng kẻ đang yêu. Bằng ngòi bút tinh tế của mình, Xuân Quỳnh đã khiến cho một hiện tượng rất đời thường trở nên có hồn, chất chứa đầy những suy tư trăn trở như một con người thật sự. Cặp từ đối lập giàu sức gợi hình gợi ảnh “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, “ngày – đêm” không chỉ làm cho câu thơ được cân xứng hài hòa, tạo điệu thơ nhịp nhàng mà còn nhấn mạnh được nỗi nhớ bờ khôn nguôi của sóng. Dù ở bất cứ nơi đâu, ngầm lặng trong đại dương sâu thẳm hay hiện diện trên mặt biển bao la thì ở sóng luôn có một điều không bao giờ suy chuyển đó chính là nỗi nhớ bờ, mãi hướng mình về bờ như một chốn dừng chân thân thương, yên bình nhất. Nỗi nhớ ấy dường như bao trùm tất thảy không gian mênh mông của biển cả, trải dài ra theo sự chảy trôi vô tận của thời gian.
Sự “không ngủ được” trong câu thơ thứ tư làm ta nhớ đến những dòng chữ Minh Huệ từng viết:
“Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh”
Ở đây sự chủ động “không ngủ” của Bác là vì nặng lòng với quê hương, đất nước còn “ngày đêm không ngủ được” của Xuân Quỳnh chỉ mang tính tình cảm cá nhân tuy nhiên ấy là nỗi lòng chung của hàng triệu phụ nữ Việt khi phải chịu cảnh chia xa.
“Con sóng” của Xuân Quỳnh phải nói rằng “rất người” bởi nó biết “nhớ”, biết “không ngủ được” để rồi từ đây tác giả bày tỏ nỗi lòng của “em” một cách chính diện, không ngại ngần mấp mé:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
Trong văn hóa của người phương Đông, đặc biệt là vào thời điểm lúc bấy giờ chuyện yêu đương nam nữ lúc nào cũng do người đàn ông chủ động bởi chúng ta có tư tưởng “trâu đi tìm cọc”, thế mà ở đây Xuân Quỳnh đã chủ động bày tỏ nỗi lòng của mình, trực tiếp khẳng định tình yêu, phá vỡ mọi rào cản. “Cọc” bây giờ không còn đợi “trâu” đi tìm mà tự dứt mình ra khỏi vị trí được ấn định để tìm trâu, chính tình yêu to lớn đã thúc đẩy cho sự táo bạo đầy dũng cảm này. Không chỉ nhớ anh khi thức, mà trong mơ em cũng luôn nghĩ về người, trong vô thức anh là bóng hình đặc biệt duy nhất mà em nhớ đến. Qua đây mới thấy rằng tình cảm mà người phụ nữ dành cho người mình yêu thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Không vẽ nên những lời thề, lời ước hẹn xa xôi, Xuân Quỳnh để chảy trong thơ mình là những lời thủ thỉ hết sức tự nhiên, đằm thắm:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.”
Biện pháp điệp cấu trúc kết hợp với cặp từ đối lập “xuôi – ngược”, “Bắc – Nam” đã bao quát được toàn bộ không gian rộng lớn, không chỉ trong tầm đất nước mà rộng hơn là vũ trụ. Từ “dẫu” được lặp lại nhằm nhấn mạnh sự phủ định, không quan tâm khoảng cách xa xôi cách trở giữa anh và em, em ở đây luôn nghĩ đến anh, một lòng hướng về và chờ đợi anh. Từ “nghĩ” được nhà thơ sử dụng bên cạnh việc mang nghĩa là suy nghĩ đơn thuần trong đầu óc con người thì còn có ý tô đậm ý chí, niềm tin và khát vọng của người con gái. Họ không còn rụt rè, chờ đợi sự chủ động từ đối phương, theo họ tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, khi đã quyết định dành tình cảm cho một ai đó thì phải yêu cho ra yêu, yêu thật trọn vẹn, thật hết lòng. Vì mang tâm ý như vậy mà từng dòng thơ của Xuân Quỳnh khi vang lên không chỉ mang nét gì đó đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt, dứt khoát. Khổ thơ vừa là lời bày tỏ chân thành, vừa là sự hiện thân đẹp đẽ của lòng chung thủy nơi người con gái trong tình yêu. Yêu đương thường khiến người ta chìm vào ảo mộng nhưng với Xuân Quỳnh, nhà thơ nhìn nó bằng đôi mắt rất thực tế rằng:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vàn cách trở”
Khó khăn là thứ luôn thường trực trong cuộc sống và trong tình yêu cũng vậy, nó chưa bao giờ để mình vắng mặt. Song nếu hiểu nhau, vì nhau, biết cùng nhau cố gắng vun đắp thì sẽ nhận được quả ngọt, đưa tình yêu cập được bến bờ hạnh phúc. Ở đây, “em” tin rằng khi có một tình yêu chân chính, đích thực kèm theo niềm tin mãnh liệt sẽ giúp chúng ta vượt qua bao khổ ải, bế tắc của cuộc đời. Như trước mắt em là biển, dưới chân em là sóng, sóng không ngừng vỗ vào bờ, trước khi đến được bến bờ bình yên phẳng lặng này những con sóng ấy đã phải vượt qua biết bao giông tố, gió mưa. “Dù muôn vàn cách trở” là thế nhưng con sóng nào rồi cũng đến bờ vì trong nó có đủ niềm tin và tình yêu to lớn. Đọc những câu thơ này của Xuân Quỳnh, ta thấy sự tương đồng với câu ca dao xưa:
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.”
Tình yêu sẽ cho con người ta sức mạnh để vượt qua những điều tưởng chừng như không thể, tình yêu của nhân vật “em” ở đây tuy chủ động nhưng vẫn giữ được sự nữ tính, cho người đọc cảm nhận được rằng nó luôn cháy và sẽ cháy mạnh hơn nữa để có thể tìm được một hạnh phúc vẹn tròn.
Qua khổ thơ 5 6 7 ta như được chảy trong mạch cảm xúc yêu đương của nhà thơ, đó là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng chung thủy tuyệt đối và một sự tin tưởng khó về thay đổi trong tình yêu. Mượn hình tượng “sóng” tác giả đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái khi yêu một cách thật chân thành, đẹp đẽ. Tình yêu trong Sóng tha thiết, nồng nàn và đầy khát vọng, có thể vượt lên trên mọi giới hạn, khó khăn, thử thách. Bài thơ nói chung và ba khổ thơ nói riêng đã để lại trong lòng người đọc những xúc cảm, ấn tượng sâu sắc. Tin chắc rằng dù thời gian có chảy trôi thì đến ngàn đời sau thì những con chữ này của Xuân Quỳnh vẫn mãi là một thanh âm tươi đẹp trong lòng người yêu thơ.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 22
Xuân Quỳnh được là một nhà thơ tình với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó chính là bài thơ “Sóng” đã diễn tả tình yêu của người phụ nữ. Đặc biệt là khổ thơ thứ năm và thứ sáu đã diễn tả được nỗi nhớ và lòng thủy chung trong tình yêu.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Có tình yêu nào mà không phải trải qua nỗi nhớ. Dù ở không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm” thì con sóng vẫn nhớ “đến bờ” mà thao thức bồn chồn đến nỗi “không ngủ được”. Xuân Quỳnh đã lấy không gian và thời gian để đo đếm nỗi nhớ trong tình yêu. Nhưng nào ai có thể đong đếm hết được nỗi nhớ? Nếu con sóng nhớ đến bờ có thể bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thì nỗi nhớ của “em” lại vượt qua mọi khoảng cách về không gian, thời gian. Nếu sóng nhớ đến bờ thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm trí của “em”. Ngay đến trong giấc mơ cũng chẳng thể nào ngừng được. Ca dao đã từng diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than?
Hay như:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
Nỗi nhớ trong tình yêu đã không còn xa lạ gì, nhưng cách diễn tả của Xuân Quỳnh lại thật đặc biệt.
Bên cạnh những quan niệm mới mẻ trong tình yêu, Xuân Quỳnh vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống. Đó chính là tấm lòng thủy chung của người con gái khi yêu. Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” – “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Thông thường, người ta thường nói “ngược về phương Bắc” và “xuôi về phương Nam”. Nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại dùng cách nói ngược lại để thể hiện dụng ý nghệ thuật. Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì đối với “em”, ở bất cứ “nơi nào” – cụm từ phiếm chỉ, không xác định rõ không gian, thời gian, vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất. Tấm lòng của “em” vẫn luôn nguyên vẹn dành cho “anh”, hướng đến “anh”.
Tóm lại, qua phân tích trên, người đọc có thể thấy được một trái tim yêu thương với những khát mong về tình yêu thật cao đẹp. Cũng giống như trong Tự hát, Xuân Quỳnh cũng từng viết:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh ngay cả khi chết đi rồi
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 23
Thơ Xuân Quỳnh có nét rất riêng, trong số các nhà thơ nữ của Việt Nam, đó là: chân thành và đam mê. Trong thơ chị cháy lên cái sắc màu của một thế giới lung linh – thế giới tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh là niềm khao khát hạnh phúc. Nói đến cảm xúc đó trong thơ Xuân Quỳnh có nghĩa là nói đến “Sóng”. Trong bài thơ này, nỗi nhớ niềm thương của người đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật cảm động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ như bao trùm cả không gian bao la. Nó chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn. Và nó khắc khoải da diết được thể hiện trong ba khổ thơ cuối 5, 6, 7 của bài thơ “Sóng”.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Con sóng dưới lòng sâu; con sóng trên mặt nước” là những cung bậc, những biểu hiện phong phú đa dạng nỗi nhớ của “em”. “Sóng trên mặt nước” là biểu hiện nỗi nhớ khi thương. Còn “sóng dưới lòng sâu” là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi lòng và “cả những lúc giận anh mà lòng em vẫn nhớ”. Nỗi nhớ ấy mới khắc khoải, bồn chồn, thổn thức sâu thẳm biết nhường nào! Hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh; Cả trong mơ còn thức” đã diễn tả được một cách thật xúc động và chân thực cõi lòng của người phụ nữ đang yêu bằng một tình yêu thật trong sáng và mãnh liệt. “Em” nhớ “anh” từ cõi thực đến cõi mơ. Cái thức trong giấc mơ mới là tình cảm thật nhất, sâu sắc nhất của cõi lòng. Bàn chân con người có thể “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam”, nhưng trái tim chỉ “hướng về anh một phương” như hoa hướng dương hướng về mặt trời vậy… Ở đây, một lần nữa, Xuân Quỳnh đã mượn kết cấu trùng điệp để tăng tiến nỗi nhớ của lòng mình. Với người phụ nữ ấy, không phải phương Bắc hay phương Nam mà chỉ là một phương duy nhất. Đó là phương của tâm trạng, của trái tim – “phương anh”. Thành thật và cháy bỏng đến nhường ấy, da diết đến nhường ấy! Dù hơi táo bạo, nhưng sự đắm say của khát vọng tình yêu đã trở thành điểm tựa để thơ Xuân Quỳnh cất cánh. Đoạn thơ trên của Xuân Quỳnh vừa là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người phụ nữ trong nỗi nhớ, vừa được viết với thủ pháp nghệ thuật của bàn tay một thi sĩ tài hoa. Nỗi nhớ được thể hiện hằng hình tượng gián tiếp chưa đủ, nó còn được biểu hiện trực tiếp như trái tim không thể kìm nén nổi, tự thốt thành lời:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Để nhấn mạnh tính đa dạng của nỗi nhớ, tác giả còn sử dụng thủ pháp điệp “con sóng” (ba lần), nhân cách hoá “con sóng nhớ bờ”, biện pháp đối lập “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”. Nỗi nhớ ở đây đã trở thành tình cảm thường trực trong “trái tim bé nhỏ mà không bến bờ” của thi sĩ cứ trào dâng, cứ tầng tầng, lớp lớp tưởng chừng như tới tột độ, cứ nối tiếp nhau hối thúc trào ứ trong tâm hồn. Đã có biết bao câu ca dao, biết bao bài thơ viết rất hay về nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu:
“Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ
Em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi
Em nhớ anh không chỉ khi trăng tỏ
Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi
Ôi! Cái nhớ sao mà kì diệu
Ôi! Cái thương sao khéo mặn mà
Có phải lúc xa nhau ta mới hiểu
Hết lòng người trong mỗi phút giây qua”
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Ở trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã có thêm một tiếng nói mới mẻ về tình cảm đó bằng những vần thơ giản dị mà sâu sắc và không kém phần độc đáo.
Tình yêu chân chính là như vậy: vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, thuỷ chung. Vì tình yêu mà thi sĩ suy tư ở đây không phải là một thứ tình cảm phiêu diêu, huyền ảo nào mà là tình yêu trần thế gắn với đời thường. Mà đời thường không hoàn toàn bình yên, phẳng lặng; trái lại, lắm khi gặp giông tố, bão bùng. Vì vậy, trong tình yêu cần phẩm chất thuỷ chung, ý chí, nghị lực, sức mạnh của tình cảm để vượt qua mọi không gian, thời gian, mọi trắc trở để tìm đến bến bờ của hạnh phúc lứa đôi:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hãy quan sát cái hiện tượng gần như trở thành quy luật có vẻ nghịch lý của đại dương. Dù gió từ bờ thổi ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào bờ. “Em” cũng thế, cho dù gặp biết bao trở ngại, “em” cũng sẽ vượt qua hết để đến với “anh”, đến với một mái ấm hạnh phúc gia đình… (như Chế Lan Viên đã viết):
“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”
Khi đã yêu thực lòng thì dù muôn vời cách trở, chúng ta vẫn đến được với nhau. Ca dao xưa đã từng viết:
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”
Tình yêu là như vậy, luôn luôn gắn liền với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người mình yêu, tin ở chính sức mạnh của tình yêu. Vì thế mà qua bấy nhiêu năm tháng sống dưới cảnh đạn bom tàn phá những gì quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà trong tâm hồn người con gái bé nhỏ: “Nguyệt vẫn có tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy dù cho bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không thể đứt, không thể tàn phá nổi” (Mảnh trăng cuối rừng). Bài thơ “Sóng” thoáng một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian, cái ngắn ngủi của cuộc đời mình và tình yêu của bản thân. Giữa lúc trái tim đang yêu nồng nàn, yêu hết mình vẫn thấp thoáng một dự cảm day dứt rất chính đáng:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Biển dù rộng tới đâu rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể dừng lại mãi mãi trên biển, mà chúng tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để đi đến cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời con người tuy dài nhưng không phải vĩnh hằng, dù con người không mong đợi nhưng năm tháng vẫn bình thản trôi qua đời người theo quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian. Không gian và thời gian là vô hạn. Ở một chỗ khác, Xuân Quỳnh cũng đã có một câu thơ tương tự “Thời gian như là gió/Mùa đi theo tháng năm/Tuổi theo mùa đi mãi”.
Vì thế, đứng trước biển, con người càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người trước cái vĩnh hằng của vũ trụ. Do đó, con người luôn luôn có khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu, khát khao được gắn bó mãi mãi với cuộc sống này, hoà nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Niềm khát khao ấy, Xuân Quỳnh lại gửi vào hình tượng “sóng”: Những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương mà là để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận các con sóng khác. Cũng thế, con người sẽ ra đi nhưng tình yêu thì ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng giữa biển khơi. Đây là một khát vọng rất con người:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tình yêu của bản thân thì hữu hạn với đời người. Muốn nó đi vào vĩnh hằng, chỉ còn một cách là hoà tan tình yêu vào những con sóng tình yêu của biển đời để ngàn vạn năm sau, con sóng đó “Vẫn hát mãi bên ghềnh/Một tình chung không hết” (Xuân Diệu). Ở đây, tình yêu dường như đã lớn hơn cả bản thân, dài hơn cả cuộc đời. Trong bài thơ “Tự hát”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh cũng đã khẳng định:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Như vậy, bằng trái tim phụ nữ đằm thắm, thiết tha, bằng bút pháp thơ giản dị mà hàm súc, hồn nhiên mà đầy nghệ thuật, Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng” đã làm nổi bật được vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu – một tình yêu giàu nữ tính, rất truyền thống mà cũng rất hiện đại.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 24
“Sóng” của Xuân Quỳnh là một trong những bài thơ nổi tiếng viết về đề tài tình yêu. Xuân Quỳnh đã khắc họa hình ảnh “sóng” để nói về tính cách và tâm hồn của người phụ nữ khi yêu vừa hiện đại mà vừa truyền thống. Đặc biệt nhất phải kể đến khổ thơ thứ năm và thứ sáu của bài thơ.
Có tình yêu nào mà không được đong đếm bằng nỗi nhớ. Và trong thơ Xuân Quỳnh cũng vậy:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
“Con sóng” được khắc họa ở hai chiều – không gian và thời gian. Dù “ở dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” – chiều không gian, dù là “ngày” hay “đêm” – chiều thời gian, thì con sóng “vẫn nhớ đến bờ” đến nỗi không ngủ được. Và nếu “sóng” nhớ “bờ” thì “em” lại nhớ đến “anh”. Nhưng con sóng kia còn có thể bị ngăn cách bởi không gian, thời gian. Còn nỗi nhớ của em thì phá vỡ mọi khoảng cách địa lý. Em nhớ anh mà ngay cả “trong mơ vẫn còn thức”. Hình ảnh của anh đã đi vào tâm trí của em. Đó chẳng phải là điều gì xa lạ trong thơ ca. Ca dao đã từng có những câu thơ diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề
Còn Nguyễn Bính lại thật khéo léo mượn hình ảnh sau để diễn tả nỗi nhớ:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
(Tương tư)
Trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng khẳng định tấm lòng thủy chung như bao nhiêu nhà thơ khác:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu xuôi về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” – “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng trái với quy luật thông thường (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam) với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì em vẫn luôn hướng về “phương anh”. Trái tim của em vẫn giữ được tình yêu nguyên vẹn dành cho anh dù có trải qua biết bao nhiêu khó khăn, sóng gió trong cuộc đời. Em vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất, không hề thay đổi. Tấm lòng thủy chung, son sắc của em thật đáng trân trọng. Như vậy, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh tuy đầy mãnh liệt, sôi nổi nhưng vẫn đằm thắm, thủy chung – nét đẹp cổ điển.
Như vậy, “Sóng” là một bài thơ đẹp về tình yêu. Bài thơ nói hộ tiếng lòng của biết bao người con gái trong tình yêu. Và hai khổ thơ năm và sáu là một trong những khổ thơ hay của bài thơ này.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 25
Tình yêu là những rung động, là những tình cảm hết sức thiêng liêng và mặc định ở con người chúng ta, ai đó đã nói rằng chỉ có khúc gỗ mới không có tình yêu mà thôi. Cũng từ điều ấy mà tình yêu trở thành một đề tài sáng tác yêu thích của biết bao nhà văn, nhà thơ và mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ có cách tiếp cận tình yêu theo cách riêng của mình. Một trong những tác phẩm nổi bật của đề tài này là bài thơ “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh và có lẽ hay nhất là ba khổ thơ năm, sáu và bảy của bài thơ.
Trong khổ thơ thứ năm của bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã viết:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Con sóng dưới lòng sâu” và “con sóng trên mặt nước” là hai cung bậc cảm xúc và biểu hiện phong phú nỗi nhớ của “em” dành cho “anh”. Cũng như con sóng dễ dàng nhận thấy khi xuất hiện trên mặt biển và không dễ để nhìn ra khi nằm trong lòng đại dương, “sóng dưới lòng sâu” là biểu hiện cho nỗi nhớ thầm trong trái tim còn “sóng trên mặt nước” là biểu hiện của nỗi nhớ được thể hiện ra ngoài. Nỗi nhớ “anh” ấy của “em” mới bồi hồi, khắc khoải và mãnh liệt đến nhường nào.
Đặc biệt hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong thơ còn thức” đã diễn tả một cách xúc động và chân thực nỗi lòng và tâm tư của người con gái đang yêu bằng một tình yêu trong sáng nhưng không kém phần mãnh liệt. “Em” nhớ “anh” cả “trong mơ” và “còn thức”, từ giấc ngủ say nồng cho tới đời thực. Câu thơ “Cả trong mơ còn thức” vừa diễn tả trạng thái khi trong mộng và khi trong đời thực của “em” vừa diễn tả cái thức ngay trong giấc mơ. Nghe thì có vẻ mâu thuẫn với nhau thế nhưng điều ấy đã thể hiện tình cảm chân thật, sâu sắc nhất trong tâm tư, cõi lòng của người con gái đang yêu.
Tiếp theo Xuân Quỳnh viết:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.”
Con người chúng ta có thể đi về phương bắc hay phương nam tuỳ theo sở thích, nguyện vọng của bản thân mình, thế nhưng đối với “em” thì chỉ có “anh” là phương hướng duy nhất trong cuộc đời. Một lần nữa, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh lại sử dụng kết cấu trùng điệp để tăng tiến nỗi nhớ người thương của mình. Nếu phương bắc và phương nam là hai phương hướng của tự nhiên, đất trời thì “phương anh” là phương hướng duy nhất trong trái tim “em”, khiến em luôn luôn hướng về. Tình yêu của nữ thi sĩ mới thành thật, cháy bỏng và da diết làm sao. Đối với một người con gái, những dòng thơ hay chính là những dòng bộc bạch của trái tim ấy có vẻ hơi táo bạo, nhưng chính sự táo bạo và đắm say tình yêu ấy của Xuân Quỳnh đã giúp nữ thi sĩ cất cánh trong tình yêu. Những dòng thơ trên của Xuân Quỳnh cũng chính là tâm tư, là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người con gái với nỗi nhớ người mình thương trong tình yêu.
Một tình yêu chân chính đối với nhiều người là một tình yêu vừa sôi nổi thiết tha,vừa mãnh liệt lại vừa trong sáng và thuỷ chung, và qua “Sóng”, Xuân Quỳnh đã khẳng định lại với người đọc một lần nữa tính đúng đắn của quan niệm ấy. Đối với Xuân Quỳnh, tình yêu không phải là một thứ tình cảm phù du, huyền ảo, lúc nào cũng ngập trong những bong bóng màu hường và những viễn cảnh lãng mạn, tốt đẹp mà tình yêu là một thứ tình cảm trần tục gắn với đời thường, do đó mà những trắc trở, khó khăn trong tình yêu là không thể nào tránh khỏi. Do vậy, một tình yêu đẹp là một tình yêu cần đến những phẩm chất thuỷ chung, son sắt, ý chí nghị lực và sự tin tưởng vào đối phương một cách sâu sắc đẻ cùng nhau vượt qua mọi khó khăn thử thách, đi đến bến bờ hạnh phúc trong tình yêu. Xuân Quỳnh đã thể hiện điều này qua những dòng thơ sau:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Từ một hiện tượng có thật và có phần nghịch lí trong tự nhiên là gió từ đất liền thổi ra nhưng những con sóng không hoàn toàn bị gió thổi ra xa ngoài khơi mà vẫn rì rào vỗ từng cơn sóng vào bờ, Xuân Quỳnh đã liên tưởng và dùng hình ảnh này để miêu tả tình yêu của bản thân mình. Đó là cho dù trong tình yêu có gặp nhiều gian nan, thử thách thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể ngăn được tình yêu của nữ thi sĩ dành cho người thương của mình, bà sẽ cố gắng và kiên trì đến cùng để đi đến cái đích hạnh phúc trong tình yêu của mình, cũng như sóng “Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vàn cách trở.”
Đã có rất nhiều nhà văn nhà thơ với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài tình yêu muôn thuở, thế nhưng nữ thi sĩ Xuân Quỳnh vẫn rất xuất sắc khi ghi dấu ấn trong lòng thơ ca với tác phẩm “Sóng” của mình, bài thơ mà đã để lại trong lòng độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và tình cảm dâng trào.
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh – Mẫu 26
Xuân Quỳnh là gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Một trong những bài thơ nổi tiếng của chị phải kể đến “Sóng”. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh đã xây dựng hình tượng “sóng” để qua đó nói về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Điều đó được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ năm và thứ sáu trong bài thơ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Trong tình yêu, có lẽ thứ gia vị đặc biệt nhất chính là nỗi nhớ. Cũng như các nhà thơ khác, Xuân Quỳnh cũng nói về nỗi nhớ nhưng với cách rất riêng. Hình ảnh sóng đối lập giữa không gian “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” và thời gian “ngày” và “đêm”. Nhưng dù có ở nơi đâu, tại thời điểm nào, con sóng vẫn cồn cào nhớ đến bờ. Em cũng vậy, cũng nhớ đến “anh” mà ngay “cả trong mơ còn thức” – kì lạ thay sao trong giấc mơ lại vẫn có thể thức? Phải chăng nỗi nhớ xâm chiếm lấy tâm hồn người con gái để rồi ngay cả trong giấc ngủ, hình bóng của người yêu vẫn còn đó. Cũng giống như những lời thơ mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng bộc lộ:
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời.
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm!”
(Tương tư chiều)
Quả là khi yêu đâu có ai muốn làm người bình thường. Để rồi sau đó, Xuân Quỳnh tiếp tục để cho “em” bộc lộ tấm lòng thủy chung của mình. Ai cũng khao khát có một tình yêu chung thủy, và “em” cũng không phải là ngoại lệ:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu xuôi về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Điệp từ “dẫu” kết hợp với hình ảnh “xuôi về phương Bắc” và “ngược về phương Nam – trái với quy luật thông thường của vị trí địa lí (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam). Qua đó, nhà thơ muốn nhấn mạnh dù cuộc đời này có biến chuyển không ngừng, thậm chí là trái với quy luật của tự nhiên. Thì đối với “em”, tình yêu dành cho anh vẫn không hề thay đổi. Trái tim em vẫn luôn giữ trọn vẹn tấm lòng son sắc dành cho người yêu thương. Dù em có ở nơi nào, cũng vẫn hướng về một phương duy nhất, không hề thay đổi, đó chính là “phương anh”. Nơi nào có anh, nơi đó chính là nhà.
Quan phân tích trên, có thể thấy “Sóng” là một bài thơ đẹp viết về tình yêu. Người con gái trong tình yêu của Xuân Quỳnh vẫn giữ được những nét truyền thống.
*****
Trên đây là 26 bài mẫu Phân tích khổ thơ 5, 6 bài Sóng của Xuân Quỳnh lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)