Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 15 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Dàn ý Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà lớp 12
Dàn ý Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Số 1
1. Mở bài:
Bạn đang xem: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà ngắn gọn, hay nhất (15 Mẫu)
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
a. Nơi vách đá dựng bờ sông:
– Là nơi đầu tiên chứng kiến sự hung bạo của sông Đà.
– Nhà văn so sánh hai vách đá chẹt lấy dòng sông như một cái “yết hầu”.
– Mặt sông hẹp đến độ, đến giờ mặt trời đứng bóng mới có thể nhìn thấy đáy
– Nhà văn so sánh độ dài của 2 vách đá: “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” miêu tả độ rộng hẹp của hai vách đá.
b. Nơi mặt ghềnh Hát Loóng:
– Ghềnh là nơi đáy sông đột ngột dâng lên giữa dòng và dòng sông Đà có vô số ghềnh như thế.
– “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè”: 3 thế lực trên dòng sông đang gầm ghè, gào thét với nhau.
– Gió cũng không vô hình mà “cuồn cuộn từng luồng” đe doạ
– Dòng sông Đà hoang sơ, hùng vĩ và hung bạo vô cùng.
c. Cái hút xoáy Tà Mường:
– Đây là nơi chứng kiến sự hung bạo khủng khiếp của dòng sông Đà.
– Cái xoáy nước như “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “biết thở biết kêu”, nhân hoá như quái vật.
– Nhà văn còn sử dụng biện pháp cường điệu để miêu tả sự hung bạo của cái hút xoáy nước.
– Khi bè gỗ “nghênh ngang đi qua” lập tức bị “lôi tuột xuống”, cái thuyền nhỏ đi men qua xoáy nước cũng bị hút xuống đánh cho tan tành.
– Sự hung bạo của sông Đà đến trong từng đoạn, từng mùa. Mùa xuân, cái xoáy nước đẹp vô cung, khiến cho người nghệ sĩ không thể chối từ.
d. Thác đá sông Đà:
– Được miêu tả từ xa tới gần, từ âm thanh đến hình ảnh.
– Từ xa, nghe như tiếng người giận dữ “giọng gằn”, lại gần nghe tiếng thác gầm như tiếng “rống” của hàng ngàn con trâu mộng đang trong cơn tuyệt vọng.
– Thác đá hiện ra với vẻ đẹp hùng vĩ nhưng không kém phần hung hiểm.
– Những viên đá trên sông như một thực thể sống, biết dàn trận, biết lập cửa sinh cửa tử.
– Dòng thác như một con quái vật khổng lồ, là “kẻ thù số một của con người”
3. Kết bài:
Kết luận chung phân tích sông Đà hung bạo
Dàn ý Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Số 2
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Dẫn dắt vấn đề
2. Thân bài
– Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông …”.
– Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô …mượn cạp ngoài bờ vực”,
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
- Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
- Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
- Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
3. Kết bài
– Khái quát lại vấn đề
15 Bài mẫu Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà lớp 12 hay nhất đạt điểm 9, 10
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 1
Ôi những dòng sông bắt nước từ đây
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Những dòng sông yêu thương của quê hương, đất nước Việt Nam tự bao giờ đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Dường như mỗi nhà văn, nhà thơ lại có một dòng sông để thương, để nhớ của riêng mình. Nguyễn Hoàng Cầm tha thiết với sông Đuống thân thương; Hoàng Phủ Ngọc Tường đắm đuối sông Hương thơ mộng, kiều diễm thì Nguyễn Tuân say đắm vẻ đẹp hung bạo, trữ tình. Với niềm say mê đắm đuối cùng vốn trí thức tài hoa, Nguyễn Tuân đã tạo nên trang văn độc đáo “Người lái đò sông Đà”.
Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân luôn say mê những cái phi thường, tuyệt đỉnh, tuyệt đối, thích cảm xúc mạnh. Ưa khám phá sự vật, hiện tượng đến tận chân tơ kẽ tóc, trang văn của Nguyễn Tuân phô diễn kiến thức hết sức uyên bác: lịch sử, địa lí, âm nhạc, văn chương, thể thao, quân sự.
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã đóng đinh vào lòng người đọc ấn tượng về sự ngang ngạnh bướng bỉnh, lạ thường:
Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông
Duy chỉ có sông Đà là ngược dòng chảy theo hướng Bắc
Ngay sau lời đề từ, Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ liệt kê tên của 73 con thác độc dữ của sông Đà. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác mà còn ở cảnh đá bờ sông. Cái sừng sững của vách đá, cái lạnh lẽo tối om và thắt hẹp lại của quãng sông hiện lên rõ mồn một trước mắt người đọc bởi hàng loạt hình ảnh, sự kiện, phép so sánh mới lạ của Nguyễn Tuân. Đá hay bờ sông dựng đứng, cao ngút trời, mặt sông chỉ lúc đứng ngọn mới có mặt trời. Quãng sông rất hẹp đến mức con hổ, con nai cũng có thể vọt qua được. Đi giữa vách đá cao vòi vọi, đen đúa giữa mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh người và tối om. Như đứng ở hè một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ trên cái tầng thứ mấy của tòa nhà vừa tắt phụt đèn điện.
Đâu chỉ hung bạo hùng vĩ, sông Đà còn vô cùng hung bạo, dữ dằn. Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn lấy mạng những người lái đò qua đây. Với những điệp từ, câu văn như dậy sóng, dậy gió. Diện mạo của sông Đà thật gớm ghiếc hung dữ chằng khác nào tên lưu manh, côn đò, giang hồ chuyên nghề đâm, thuê, chém, mướn.
Những cái hút nước sông Đà còn đáng sợ hơn và thực sự trở nên hiểm ác trong trang văn của Nguyễn Tuân. Với tham vọng đem đến cho người đọc cảm giác chân thực, sống động nhất về sự hung dữ của cá thác nước, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu: văn chương, điện ảnh, thể thao,… Chỉ riêng trong đoạn văn đã có nhiều so sánh, liên tưởng độc đáo. Người đọc dễ hình dung về cái hút nước khủng khiếp trên sông Đà. Nước xoáy tít đáy, sâu hun hút như cái giếng bê tông thả xuống làm móng cầu. Từ đáy cái hút nước lên đến mặt chênh nhau vài sải tay. Nước thở và kêu như cái cống bị sặc, có lúc ặc ặc nghe như vùa rót dầu sôi vào. Thuyền bè vô ý qua đây, không vững tay chèo liền bị lôi tuột xuống, trồng cây chuối ngược, đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau mới tan tác ở quãng sông dưới. Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn muốn người đọc nảy ra ý tưởng điện ảnh táo bạo. Nhà văn nghĩ đến chuyện một anh quay phim ngồi vào thuyền rồi cho cả mình, cả máy quay để thu ảnh, truyền đến cho người đọc cả khối nước sắp ụp vào mình. Thiết nghĩ không cần đến sự phiêu lưu mạo hiểm của người quay phim ấy nữa bởi chỉ cần đọc văn Nguyễn Tuân, ta đã cảm thấy như được xem một bộ phim 3D sống động
Nói đến hung bạo của sông Đà tât phải nói đến cái dứ dằn của con thác. Còn nhớ trong Tây Tiến, Quang Dũng từng miêu tả:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Vẻ hung dữ của con thác trong trang thơ của Quang Dũng chưa thấm gì với trang văn của Nguyễn Tuân. Ông đã chỉ điểm ra vài giọng điệu của con thác nghe đã thấy rợn người. “Tiếng thác nước nghe như oán trách, rồi nghe như là van xin, rồi lại như khiêu khích, khi giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi, nó bất thần rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những con thác sông Đà có khác nào con quái vật hung hãn trong cơn bứt phá, tức tối và tuyệt vọng. Cái lạ là Nguyễn Tuân đã dùng tử để tả nước, lấy rừng tả thác. Đó quả là cách chơi ngông trong văn chương của Nguyễn Tuân.
Hết uy hiếp người lái đò bằng thác dữ, sông Đà lại dàn bày thạch trận với dã tâm tiêu diệt mọi con thuyền. Sông Đà tung ra một lực lượng hết sức hùng hậu, thiện chiến, với đủ tướng dữ, quân tợn, đứa nào trông cũng ngỗ ngược, dữ dằn. Bọn giặc đá còn mưu mô, bí mật mai phục để bẫy con thuyền. Thoạt nhìn, thấy mặt sông trắng xóa cả một chân trời đá. Những hòn, những tảng tưởng như nó đứng, nó ngồi, nằm tùy theo sở thích. Nhưng hoàn toàn không phải vậy, chúng âm mưu bày binh bố trận hòng hại chết con thuyền đối phương. Chúng giàn ba vòng vây cực hiểm ác. Mỗi vòng vây, chúng mở rất nhiều cửa tử, chỉ duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh lại bố trí lắt léo, lúc bên phải, lúc bên trái, khi ở giữa. Vòng đầu, nó làm ra vẻ sơ hở để dụ con thuyền đối phương vào sâu rồi sau đó tung ra cú đánh khuýp quật vu hồi. Khi con thuyền xa vào trận đại, đá thác và sông nước nhất tề sông lên, hợp đồng tác chiến, đánh hội đồng. Chúng đánh dồn dập, tới tấp với những miếng đòn hiểm độc. Chúng âm mưu đánh tan tất cả thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác. Qua ngòi bút tài hoa, trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện nguyên hình là con quái vật khổng lồ nham hiểm, xảo quyệt, đủ mưu ma, chước quỷ, đầy dã tâm thâm độc.. Cứ thế, sự dữ dằn, hung bạo, hiểm ác của sông Đà – kẻ thù số một của con người Tây Bắc cứ nhân lên trùng trùng trong liên tưởng, tưởng tượng của người đọc. Đọc trang văn mà ta như lạc vào trận địa đủ thiên la địa võng
Khám phá vẻ đẹp hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân không dừng lại ở việc tạc khắc vào tâm trí người đọc tính cách bạo dạn, có một không hai của con sông Tây Bắc mà còn bộc lộ khát vọng lớn của mình – khát vọng của một công dân đầy tâm huyết với công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Khi khám phá sự dữ dằn của sông Đà, Nguyễn Tuân đã liên tưởng tới cái tuyếc-bin thủy điện to lớn của sông Đà. Sông Đà trở thành dòng sông của ánh sáng, đã dâng tặng cho đất nước nguồn năng lượng dồi dào, ánh sáng của sông Đà đã đi khắp đất nước làm giàu cho bao hồn quê.
Cái đẹp vốn tiềm tàng trong đời sống, vũ trụ nhưng phát hiện được cái đẹp và truyền đến người đọc tình yêu và niềm say mê với cái đẹp lại là chuyện không dễ dàng. Ghi nhớ điều này, chúng ta thêm trân trọng Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ bằng niềm say mê thiên nhiên và bằng tay phù thủy ngôn ngữ, đã giúp người đọc chiêm ngưỡng đắm say trước vẻ đẹp của sông Đà của thiên nhiên Tây Bắc hung bạo mà hùng vĩ. Chính trang văn của Nguyễn Tuân đã bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước cho chúng ta.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 2
Đối với Nguyễn Tuân, dòng sông Đà chính là “chất vàng” của màu sắc núi sông, linh hồn của mảnh đất Tây Bắc. Trong trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là dòng chảy vô tri mà trở thành sinh thể có tâm hồn, có tính cách như một nhân vật trong câu chuyện viết về vùng đất Tây Bắc hùng vĩ bí hiểm. Đến Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã không quản ngại công phu, ngắm nhìn chi tiết, tìm hiểu cặn kẽ để miêu tả dòng sông Đà trên hai dạng vẻ: hung bạo và trữ tình. Hình ảnh sông Đà chảy xuôi từ trang văn đầu cho đến trang văn cuối, từ nơi đá dựng vách thành cho đến quãng dưới dòng sông, từ dữ dội đến thi vị, trữ tình.
Trước hết, dòng sông Đà hiện lên hung bạo, dữ dội, gây không ít phiền toái cho con người. Phong cảnh Tây Bắc nói chung và Đà giang nói riêng dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hùng vĩ, uy nghiêm, mang hồn thiêng sông núi. Trong đoạn đầu của bài tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn câu thơ của Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890) để hàm ẩn sự ngang ngược, táo bạo của dòng sông: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Trong khi mọi dòng sông khác đều chảy về hướng đông, tìm đường đổ ra biển cả thì dòng Đà giang ở núi rừng Tây Bắc lại “độc bắc lưu” – một mình chảy về hướng bắc.
Sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, khi vào Việt Nam, con sông khởi đầu ở Lai Châu, chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ). Con sông Đà ngang ngược là một nguồn cảm hứng mãnh liệt thôi thúc Nguyễn Tuân tìm tòi, khám phá, nó càng thích hợp hơn khi đem phong cách Nguyễn Tuân đặt vào: chuyên viết về “cái đẹp tuyệt mĩ và dữ dội đến mức khủng khiếp”.
Cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, chẹt lòng sông Đà “như một cái yết hầu” là ấn tượng tiếp theo về sự hiểm trở của nó. Ở đoạn này thì dòng chảy trên sông chưa gọi là siêu tốc. Nhưng cái ghê rợn mà con người cảm nhận khi đi ngang qua quãng sông này chính là bóng tối và cái lạnh lẽo của nó. Bởi vì vách đá dựng cao “chẹt lòng sông Đà” nên ngoại trừ lúc mặt trời trên đỉnh đầu (“đúng ngọ”) thì các thời điểm còn lại tia sáng đều không thể rọi vào lòng sông. Chẳng những tăm tối mà nhiệt độ quãng sông ấy còn thấp, vì vậy mà ai “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Thật bất ngờ khi Nguyễn Tuân đem không khí phố thị (“hè một cái ngõ”, “cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”) đặt vào khung cảnh núi rừng heo hút, hoang sơ.
Xuôi thuyền về quãng mặt ghềnh Hát Loóng, ấn tượng về sự hung bạo ở quãng sông này là sự vận chuyển của nước, của đá và của gió: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Tác giả đã nhân hóa con sông với một kẻ chuyên đi đòi nợ để gợi tả sự nguy hiểm của nó: “lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua quãng ấy”. Nhà văn cũng mách người đọc nếu có dịp qua quãng sông ấy mà “khinh suất” (không cẩn thận) thì cũng bị dòng nước hạ gục như chơi.
Tử thần trên sông Đà là những cái “hút nước” ghê rợn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, lòng sông ẩn chứa nhiều nguy hiểm đe dọa con người, sẵn sàng nhấn chìm mọi thuyền bè đi ngang qua. Nhà văn đã tái hiện những cái hút nước ấy từ hình dạng bên ngoài đến âm thanh và hậu quả kinh khủng mà nó gây ra cho con người. Để gợi tả độ sâu của những cái hút nước, Nguyễn Tuân so sánh nó với “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Rõ ràng là một sự so sánh độc đáo. Cùng với câu văn: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, hai biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa được sử dụng cùng một lúc khiến hiệu quả gợi hình, gợi âm sắc, gợi cảm xúc cả Nguyễn Tuân được nhân lên gấp bội.
Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp trùng. Trên mặt những cái hút nước quãng này, nước xoáy tròn sẵn sàng đưa mọi thứ gần đó xuống đáy sâu mà phía trên trông như “những cánh quạ đàn” đang quạt thật mạnh, thật điên cuồng với khát vọng khuất phục mọi thứ. Dòng sông Đà vì thế mà trở nên hùng dũng, uy lực hơn rất nhiều. Những cái hút nước tựa như giếng sâu sẵn sàng “lôi tuột” chiếc thuyền nào chẳng may đi vào đó. Nguyễn Tuân có sự liên tưởng thật lí thú: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Giữa chốn núi rừng hoang sơ này, tác giả đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô, đoạn sông có những cái hút nước với quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải thật điêu luyện, thật bình tĩnh nhưng nhanh chóng mới có thể “thoát chết” khi đi ngang qua đây.
Hậu quả khi vô ý đi ngang qua cái hút nước được tác giả dự báo trước: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Đó không phải là lỗi của sông Đà bởi dòng sông chảy giữa bạt ngàn núi rừng, qua bao ghềnh thác cheo leo bao giờ cũng hung hãn. Sức mạnh của thiên nhiên từ lâu vốn là mối đe dọa đối với con người. Có trách là trách “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý”, hoặc đi trên sông Đà mà người chèo thuyền không đủ tự tin, bản lĩnh, không am hiểu quy luật của dòng nước thì “thuyền bị trồng ngay cây chuối ngược” cũng là chuyện thường tình, không trách ai được. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả sự tài hoa, tinh tế, trí thông minh, lòng dũng cảm của ông lái đò như một tấm gương sông nước nơi núi rừng khắc nghiệt, hiểm trở này.
Nguyễn Tuân gợi tả âm thanh của thác nước – một âm dữ dội, rống riết. Mặc dù con thuyền vẫn chưa đến thác nhưng tiếng thác đổ ầm ầm vào tai thôi thúc người nghệ sĩ vận dụng nghệ thuật ví von: “Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Dữ dội hơn, âm thanh của tiếng thác nước điên tiết, gây hấn như “tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa đổ lửa”. Đó là âm thanh của sự hùng vĩ nhưng dữ dội vô cùng.
Dòng nước đưa chiếc thuyền “đuôi én sáu bơi chèo” của người lái đò tới cái thác mà thanh âm tiếng thác nước dự báo những điềm không hề lành lặn. Nguyễn Tuân viết: “Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Cái thác không phải là nỗi ám ảnh to lớn của những người qua sông, song tiếng thác rầm rộ lẫn “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” không thể không khiến người lái đò rùng mình e ngại. Bọt sóng trắng che khuất màu xám xịt của đá, khiến quãng sông hiện lên hùng vĩ vô biên – biểu tượng cho uy lực của thiên nhiên Sông Đà.
Thế nhưng, sóng đối với người lái đò trên sông chẳng đáng sợ là gì so với đá. Dường như đá ngầm trên sông “dàn bày thạch trận”, tạo thành những cửa sinh, cửa tử mới là thách thức lớn đối với người lái đò: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. “Đường ngoặt sông” cong cong là cánh cửa dẫn dụ người lái đò vào quãng sông nhiều đá ngầm, khúc ngoặt áng cả tầm nhìn của người lái đò mà giả sử như không chuẩn bị trước tâm thế chiến đấu, chắc có lẽ người lái đò sẽ bị đánh tan xác ở những chặng ban đầu.
Nguyễn Tuân khéo léo nhắc lại sức mạnh và sự dữ dội của đá trên sông Đà: “từ ngàn năm vẫn mai phục hết lòng sông”. Phải chăng, từ khi nào sông Đà xuất hiện ở núi rừng Tây Bắc, thì từ lúc đó đá “mai phục” sẵn chờ đợi người lái đò để thực hiện một “cú vố” bất ngờ. Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ mang tính võ thuật cao, khiến hòn đá vô tri cũng trở nên sinh động, có “tâm địa độc ác của thứ kẻ thù số một”. Cách nhân hóa: “một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy chiếc thuyền” khi chiếc thuyền tiến vào “thạch trận sông Đà” khiến câu chuyển động mạnh mẽ, giúp người đọc hình dung ra sự đáng sợ của quãng sông này cùng với nỗi lo ngại cho sinh mệnh của người lái đò trên sông. Ta tự hỏi đá hay là một thứ quỷ quái nào trên Sông Đà mà cũng có mặt, có mũi, có tâm địa độc ác: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.
Hàng loạt tính từ chỉ người: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” được Nguyễn Tuân sử dụng để miêu tả hình thù hòn đá khiến đá trở nên hống hách hơn, như “hất hàm” đòi một cuộc tuyên chiến mà một bên là thiên nhiên với sức mạnh oai hùm, một bên là con người nhỏ nhoi trên “chiếc thuyền đuôi én sáu bơi chèo” vượt qua cửa tử tiến vào cửa sinh. Nhà văn khép lại bằng câu văn: “Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”. “Thạch trận trên sông” đã được dàn sẵn chờ đợi và thử thách ông lái đò. Tuy nhiên, với bản lĩnh, sự thông minh am hiểu cái quy luật phục kích của lũ đá nơi này kết hợp với tay lái “ra hoa”, ông lái đò đã chiến thắng ngoạn mục “đối thủ” hung hãn của mình. Đó là những đoạn văn miêu tả sự hùng vĩ của sông Đà.
Dữ dội là thế, hiểm trở là thế, tuy nhiên điều mà Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở đây chính là vẻ hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc chứ không phải kích thích để con người thù hằn sông Đà, bởi sông Đà chính là trục giao thông đường thủy chính góp phần phát triển kinh tế, xã hội vùng núi cao Tây Bắc.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa rất say mê đi tìm cái đẹp. Đến với các tác phẩm của ông, ta mới có thể thực sự cảm nhận được sự tinh tế trong cách dùng chữ cũng như sự sống động của các sự vật được ông miêu tả qua từng tác phẩm. Đặc biệt trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, hình ảnh con sông Đà hiện lên thật to lớn, hùng vĩ, dữ dội khiến ta thấy bản thân thật nhỏ bé trước thiên nhiên.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên một giá trị vô cùng đặc sắc cho tác phẩm này. Dưới ngòi bút uyên bác và tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà đã trở thành một vật sống có cá tính, tâm trạng, hoạt động chứ không phải vô tri, vô giác. Tác giả đã miêu tả khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm này được tác giả thể hiện xuyên suốt tác phẩm.
Cái hung bạo của con sông Đà không những chỉ được thể hiện qua sự hung bạo của những con thác, mà còn quang cảnh bao la, rộng lớn với vẻ đẹp bí ẩn đầy hoang sơ của dòng sông chảy giữa núi rừng Việt Bắc cũng góp phần không nhỏ vào thể hiện điều này. Tác giả đã cho người đọc như được chứng kiến tận mắt khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng lại dừng lại những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự dữ dằn này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành chỉ khi nào đến giữa trưa đúng giờ ngọ, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới được đón nắng. Cách so sánh trên của tác giả đã gây được một ấn tượng sâu đậm trong trí óc người đọc về sự thẳng đứng của vách đá với độ cao ngút trời. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, lòng sông chảy bị thu hẹp đến mức mà đứng bờ bên này nhẹ tay ném hòn là đã có thể qua đến bờ bên kia, hẹp đến mức con hổ, con nai nhảy nhẹ là đã có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia mà không hề tốn nhiều chút sức lực. Ấn tượng về độ cao và thẳng của vách đá bờ sông, dòng chảy nhỏ hẹp như làm nổi bật lên những chi tiết ấn tượng, tiêu biểu và khiến liên tưởng bất ngờ – thiên nhiên bao la, rộng lớn đầy bí ẩn: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè nóng bức mà cũng cảm thấy lạnh run người, như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa phụt đèn điện. Nhà văn đã kết hợp hài hòa giữa các giác quan khác nhau để có thể so sánh làm nổi bật lên vẻ đẹp của vách đá thật mới mẻ, táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hùng vĩ đầy bí ẩn, lòng sông lại hẹp gợi lên được những dòng nước chảy với vận tốc ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo của dòng sông còn được tác giả thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng là những mảnh ghép hoàn hảo phối hợp với nhau đầy ăn ý để tăng thêm sự đe dọa, uy hiếp tính mạng của những con người đi qua đây: quãng một ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, em cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng chực lấy mạng bất kỳ người lấy đò nào đi ngang qua đây. Ở đây, một phần câu văn như bị ngắt đứt ra thành từng khúc ngắn, gọn, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo sự thúc đẩy dồn nén, gấp gáp thúc đẩy sự hồi hộp, tò mò trong lòng người đọc.
Những cái hút nước khủng khiếp làm cho sông Đà thêm hung bạo phần nào: trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên xoáy thành từng vòng, phát ra những âm thanh được tác giả nhân cách hóa như tiếng thở của nước và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước rất rợn người. Để làm gia tăng thêm sự hiểm nguy mà cái hút nước tạo ra, nhà văn đã kết hợp hài hòa giữa “tả” và “kể”. Ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích, mở mang trí tưởng tượng đầy phong phú của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên phần nhiều về tả thì hai câu dưới lại thiên phần nhiều về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý…ở khuỷnh sông dưới.
Những thác nước cũng phần nào làm nổi bật lên sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng đánh trả, cướp lấy mạng sống của người lái đò, lái mảng, đặc biệt với những người nào xuôi dòng, ở những nơi này, sông Đà được tác giả miêu tả như có cả một bầy thuỷ quái xung quanh vừa độc ác, hung bạo, xảo quyệt. Lúc thì thác nước chế nhạo, khiêu khích, khi thì lại gầm rú, gào thét như tiếng một con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá luống rừng. Thác nước lại được nhân đôi sức mạnh, sức tàn phá, tăng thêm sự nguy hiểm đối với sự sống của người lái đò vì sự góp mặt thêm của hàng ngàn tảng đá, to nhỏ khác nhau. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì phục kích nơi này để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào đi ngang qua là chúng lập tức vồ lấy thuyền. Tác giả nhân cách hóa và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri, vô giác, gợi cho người đọc tưởng tượng ra được vẻ thô bạo, táo tợn của chúng như một lũ giặc khát máu điên cuồng.
Dưới ngòi bút của nhà văn tài hoa, vẻ đẹp hoang dại, huyền bí của sông Đà hiện lên thật dữ dằn nhưng cũng hết sức sinh động. Đây chính là tiềm năng lớn lao của Đà giang được con người chinh phục. Đây là “vàng trắng” quý báu của con người và đất nước chúng ta. Do đó, khi Nguyễn Tuân nói tới hình ảnh của những tua bin thủy điện cũng có nghĩa là ông muốn ca ngợi vai trò, vị trí của sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của toàn Đảng, toàn dân ta.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 4
“Người lái đò sông Đà là bài bút kí được trích ra từ tập “Sông Đà” rất nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của nhà văn để tìm kiếm “thứ vàng mười” trong thiên nhiên và con người. Trong bài kí, nhà văn đã miêu tả hình ảnh sông Đà với nét tính cách hung bạo, dữ dội hiếm thấy, khác hẳn so với những dòng sông khác.
Ngay từ lời đề từ, Nguyễn Tuân đã trích thơ của Nguyễn Quang Bích để giới thiệu về sông Đà “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Hai câu thơ này có nghĩa là tất cả mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có riêng sông Đà thì chảy về hướng bắc. Qua lời nhận xét đó, ta thấy được phần nào nét độc đáo, khác lạ riêng biệt của sông Đà. Đây không phải là một dòng sông hiền hòa như những dòng sông khác mà có hướng chảy bất thường, không chịu uốn mình theo quy luật. Lời đề từ này có lẽ cũng đã báo hiệu cho người đọc biết về tính cách hung dữ, bạo ngược của sông Đà.
Ngay ở những dòng văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã khẳng định sông Đà có cái hùng vĩ. Đó là do vách đá hai bên bờ sông cao khiến nhà văn có những cảm giác rợn ngợp. Ông đã cảm nhận điều ấy bằng cả thị giác và xúc giác. Khi nhìn hai bên đá dựng thành vách, hiểm trở, cao vút như thành quách, lòng sông bỗng trở nên cao và sâu hơn bình thường rất nhiều. Lòng sông cũng hẹp, đôi bờ xích lại gần nhau và đá thì “Chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Lối so sánh, ẩn dụ, liên tưởng độc đáo gợi tả độ hẹp đến nghẹt thở của lòng sông, độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá khiến con người cảm thấy sợ hãi trước những thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ. Khúc sông này cũng lạnh, cái lạnh giữa mùa hè khiến nhà văn cảm thấy như bản thân đang bị đe dọa bởi thế lực không tên. Không khí lạnh lẽo âm u càng khiến cho sông Đà trở nên bí hiểm hơn bao giờ hết.
Đoạn mặt ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Đọc câu văn, ta thấy được kết cấu trùng điệp, các thanh sắc được sử dụng liên tiếp kết hợp với động từ “xô” được điệp lại trong cả ba vế câu giúp người đọc cảm nhận được từng chuyển động của dòng sông. Sóng to, gió lớn như chồm lên, gối vào nhau cuốn lấy hết thảy mọi thứ trên mặt sông rồi dìm xuống đáy. Sức mạnh khủng khiếp ấy vẫn “gùn ghè suốt năm”, chỉ cần người lái đò khinh suất tay lái một chút thôi cũng sẽ vồ lấy, nuốt chửng lấy cả thuyền lẫn người. Đây có lẽ là khúc sông nguy hiểm nhất đối với bất cứ người lái đò nào qua đây.
Đến đoạn Tà Mường Vát, nhà văn sử dụng biện pháp so sánh để miêu tả những cái hút nước “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu” cứ xoay tít tận đáy. Lại thêm liên tưởng so sánh việc đi thuyền qua dòng sông quãng này như đi trên quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nếu không vững tay lái thuyền sẽ bị hút vào những cái hút nước và “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những liên tưởng, so sánh này khiến cho người đọc hình dung rất rõ về sự hiểm nguy, rủi ro khi phiêu lưu trên sông Đà. Từ đó, tô đậm thêm sức mạnh hùng vĩ, ghê rợn của Đà giang.
Không chỉ những khúc sông có địa thế hiểm trở, nguy hiểm mà tiếng thác nước sông Đà phát ra cũng phải khiến người ta kinh sợ. Âm thanh ấy được tác giả so sánh như “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “gằn”, “chế nhạo”, “Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lên giữa rừng vầu, tre, nứa đang nổ lửa…”. Nó mang đến cho con người cảm giác sợ hãi, lo lắng không biết nó phát ra từ đâu hay báo hiệu điều gì. Những sự so sánh “lửa” với nước, “rừng” và thác cũng giúp nhà văn khắc sâu vào tâm trí người đọc cái dữ dội của nơi đây. Đứng trước thiên nhiên, con người thật nhỏ bé và bất lực . Âm thanh thác nước chảy như càng tô đậm vẻ hùng tráng, trắc trở khôn lường của dòng sông.
Ải cuối cùng của khúc sông dữ dội chính là những hòn đá đã mai phục từ ngàn năm trước. Thác đá đã bày ra thạch trận, giao việc cho mỗi hòn đá như giao nhiệm vụ cho các tướng sĩ trước giờ xuất quân. Đặc biệt hơn, nó đã bố trí những “trùng vi thạch trận” như trận đồ bát quái. Có đến ba cửa ải đá cần phải qua. Ở đây, tác giả đã liên tưởng từng trận chiến như những cuộc đấu bóng hay những trận đánh thực sự. Nguyễn Tuân sử dụng rất nhiều từ ngữ thuộc nhiều chuyên ngành thể thao, quân sự, võ thuật như “hàng tiền vệ”, “nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba”, “reo hò làm thanh viện”,… để miêu tả trận chiến giữa ông lái đò và thạch trận. Những hòn đá được nhân hóa như có linh hồn, biết đánh đấm, có ý nghĩ nham hiểm , độc ác, thác nước biết cổ vũ,… Trận chiến được miêu tả tỉ mỉ từng chút một khiến người đọc không thể rời mắt ra được. Tất cả đều nhằm khắc họa một sông Đà dữ dội, nham hiểm, hung bạo.
Trong đoạn kí này, Nguyễn Tuân đã thể hiện lối viết tài hoa, uyên bác của mình khi những thủ pháp so sánh, nhân hóa được ông cài cắm hết sức khéo léo, tinh tế. Những liên tưởng, tưởng tượng của nhà văn cũng đầy ấn tượng, độc đáo mới mẻ. Ông là người học rộng hiểu nhiều nên những tri thức, thuật ngữ của các lĩnh vực khác nhau cũng được ông đưa vào hết sức tài tình, hợp lí. Những câu văn có độ dài ngắn khác nhau, kết cấu câu văn trùng điệp càng làm tăng sức gợi sự hiểm nguy, khôn lường của thác nước sông Đà.
Với ngòi bút đầy tài hoa và uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã khéo léo mang đến cho người đọc thấy nét tính cách ngang ngược, hung hăng, dữ dội của sông Đà. Chỉ một đoạn sông ngắn ngủi mà qua lời văn của ông, người đọc như đang chứng kiến một bộ phim tài liệu có hình ảnh sắc nét và chân thực. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên đất nước của tác giả. Phải thật sự muốn tận hưởng cái hùng vĩ của non sông thì mới có thể viết ra những lời văn đầy tinh tế như Nguyễn Tuân.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 5
Nguyễn Tuân nổi tiếng là nhà văn tài hoa với nét văn độc đáo. Ông thích miêu tả những gì dữ dội, mãnh liệt của thiên nhiên, con người. Thế nên trong các tác phẩm của ông ta thấy được sự hùng vĩ hiếm có của thiên nhiên. “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân. Đây là một đoạn trích hay nằm trong Tùy bút sông Đà viết năm 1960. Người lái đò sông Đà chính là thành quả của chuyến đi thực tế đến Tây Bắc của tác giả. Trong đoạn trích, tác giả tìm kiếm “chất vàng mười” của thiên nhiên và của những con người lao động trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ.
Nguyễn Tuân gặp sông Đà trong chuyến công tác Tây Bắc. Con sông hiện lên trước mắt ông là một sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Vậy nên, mới gặp sông Đà thôi nhưng cứ như người bạn tri kỷ lâu năm. Sông Đà trong mắt Nguyễn Tuân là một con sông nguyên sơ và đầy cá tính. Thế nên, mở đầu đoạn trích, tác giả nhắc tới sông Đà bằng hai câu thơ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
Ở “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã dành hết bút mực để miêu tả sông Đà đoạn thượng nguồn. Với riêng tác giả, đó là nơi con sông Đà có vẻ đẹp hung bạo nhất, nghiệt ngã nhưng cũng đầy thử thách. Sự dữ dội của sông Đà được tác giả sử dụng những từ ngữ có tiết tấu nhanh, mạnh để miêu tả. Dòng sông ấy không chỉ có thác đá, mà còn dữ dội trên chính những vách đá dựng thẳng đứng, hiểm trở “đá bờ sông dựng vách thành”
Để làm nổi bật thêm sự hùng vĩ của dòng sông, tác giả còn miêu tả tỉ mỉ lòng sông khúc ấy. Lòng sông như bị bóp nghẹt “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Không chỉ dừng lại ở đó, “đứng bên này bờ nhẹ tay nắm hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Diễn tả bằng những hình ảnh thực tế của sông Đà chưa đủ, tác giả còn miêu tả chi tiết cảm nhận của những người ngồi trên khoang đò quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Dường như những vách đá dựng đứng làm lòng sông nhỏ bé đến mức chỉ thấy được một khoảng trời nhỏ xíu. Sự so sánh của Nguyễn Tuân chính xác đến từng chi tiết. Dường như ông lục lọi đến tận cùng kiệt của dòng sông để “show” ra cho người ta phải kinh động hồn trí.
Sự hoang sơ, hung bạo của dòng sông Đà còn được tác giả đặc tả thông qua tiếng gió thổi. Tiếng gió trên sông Đà như tiếng gầm rú của thiên nhiên, nó mang đến cho con người cảm giác rùng mình, man rợ. Nguyễn Tuân đã khéo léo khi đặc tả “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới có thể miêu tả dòng sông một các đặc sắc như vậy. Câu văn diễn đạt theo móc xích với cấu trúc trùng điệp càng làm gợi lên hình ảnh con sông Đà đang lúc cuồng nộ, dữ dằn, chỉ chực “lật ngửa bụng thuyền ra”.
Ngay cả những hút nước trên sông Đà cũng thật đặc biệt. “những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Những cái hút nước được Nguyễn Tuân hình tượng hóa trở nên man rợ hơn. Đến mức “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”.
Dường như ở đây không phải là hình ảnh sông Đà mà là hình ảnh của một loài thủy quái nào đó đang muốn uy hiếp con người. Thế nên “không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy”. Dường như hút nước ở sông Đà trở thành nỗi ám ảnh với những người lái thuyền, họ chỉ muốn tránh mặt chứ không muốn chạm trán với nó. Bởi nếu không “chèo nhanh để lướt qua quãng sông” sẽ “bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Sự hung bạo của sông Đà càng được làm rõ hơn thông qua âm thanh của thác nước. Nó giống như tiếng gầm vang của con sông nơi thượng nguồn, nó ám ảnh cả vào tâm trí những người đi thuyền qua đây. Thế nên còn xa lắm mới đến thác nhưng “đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Có ai miêu tả tiếng thác nước như Nguyễn Tuân, chân thực đến ghê sợ với những thủ pháp so sánh độc đáo.
Nghe tiếng gầm vang của dòng sông ta như liên tưởng tới tiếng trách than, ai oán của con người. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Dường như Nguyễn Tuân đã nhân cách hóa dòng sông, giờ đây con sông Đà có cảm xúc như chính con người vậy.
Chỉ phút trước còn nỉ non, ai oán, phút sau tiếng thác đã được phóng to hết cỡ, như một sự phấn khích đến man dại, “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn tâu da cháy bùng bùng”. Chỉ vài câu văn thôi nhưng mọi sự hung bạo đến ghê người được lột tả hết. Nhưng cũng qua đó ta mới thấy được sự tinh tế của Nguyễn Tuân. Sự liên tưởng của ông có lẽ chẳng ai bì kịp, có ai lại đi lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông. Thế mới thấy phải có tâm hồn nghệ thuật ngông lắm mới dám làm vậy.
Nói đến sự dữ dội, nghiệt ngã của sông Đà không thể không nhắc tới những bãi đá. Dường như khi miêu tả những bãi đá vô tri trên đoạn thác sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng thủ pháp nhân hóa khiến người đọc như nhận ra ông đang miêu tả con người chứ không phải một vật vô tri. Từng thớ đá được Nguyễn Tuân thổi hồn vào trở nên có hình hài, cá tính. “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.” Đá ở dòng sông Đà như một lớp mai phục chỉ chực chờ thuyền đến để “nhổm” lên “vồ” lấy thuyền.
Cá tính của những thớ đá cũng được khắc họa rõ nét “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Nguyễn Tuân đã sử dụng những tính từ miêu tả tính cách, ngoại hình con người để miêu tả cho chính những hòn đá nơi đây. Mỗi hòn đá xuất hiện trên dòng sông Đà này đều có một nhiệm vụ riêng “trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã bàn giao việc cho mỗi hòn”.
Qua cái nhìn tinh tế của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá đều mang vẻ gì đó rất du côn của thiên nhiên hoang dại. Trùng vi thạch trận của những phiến đá bày ra như được ai đó điều khiển từ xa khiến con người càng thêm khiếp sợ. Miêu tả đá mà Nguyễn Tuân dùng những từ ngữ như “hai đứa” làm người ta liên tưởng đến sự bày binh bố trận trong một cuộc chiến. Thế rồi, hòn đá khác còn “hất hàm hỏi cái thuyền”, rồi “thách thức” như muốn tuyên chiến với thuyền.
Hưởng ứng trùng vi thạch trận đá, “mặt nước hò la vang dậy quanh mình” chỉ cần tay lái yếu là sẽ bị trận địa đá ấy nuốt chửng. Sự hung tợn của trận địa đá ở sông Đà đến ông lái đò vốn đã dạn dĩ cũng phải gồng mình mới vượt qua được. Ấy thế nhưng dòng sông ấy không chỉ có một vòng vây, “nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Nguyễn Tuân đã miêu tả việc vượt qua thác sông Đà như cưỡi hổ. Vì thế muốn vượt qua được trận địa ấy “phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Chỉ cần “nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”. Đó là ông lái đò phải kinh nghiệm lắm mới nắm được những quy luật trận địa mà sông Đà đã tạo ra.
Dường như sông Đà đoạn thượng nguồn ấy muốn “nuốt chửng” bất cứ con đò nào đi ngang qua đây. Ngay cả khi gần đi đến cửa sinh “bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Nguyễn Tuân đặc tả một cách rõ nét khuôn mặt của những bãi đá ở sông Đà “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy”.
Vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà có lẽ chẳng thể nào quên. Dù đôi lúc nó cuồng nộ, giận dữ như những con quái vật sông, nó mang cho người ta cảm giác ghê rợn. Nhưng đó là một vẻ đẹp cực kỳ hào hùng, kiêu hãnh. Và cũng chỉ có ngòi bút của Nguyễn Tuân mới lột tả hết được cái vẻ đẹp kiêu sa, hùng vĩ đó.
Bằng cái nhìn chân thực, ngôn từ tinh tế, chắt lọc, Nguyễn Tuân đã phần nào cho người đọc thấy sự cuốn hút mà con sông Đà mang đến. Đọc những dòng tùy bút của tác giả về sông Đà giống như ta được trực tiếp ở đó, cảm nhận sự hung bạo đến đáng sợ của nó. Chính sự hung bạo, gầm gừ của dòng sông là điều đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Có lẽ Nguyễn Tuân thực sự đã tìm được thứ “vàng mười” mà ông ngày đêm theo đuổi.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 6
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp nên một nền văn minh. Trong địa hạt văn học Việt Nam, mỗi dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác, thấm đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng Giang” của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những người lao động bình thường mà ông luôn gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.
“Người lái đò sông Đà” được sáng tác vào năm 1958 và được in vào tập “Sông Đà” năm 1960. Trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn không chỉ thỏa mãn khát khao xê dịch mà chủ yếu là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và thứ vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người.
Mở đầu bài là lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khẳng định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Khẳng định cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân trong dòng sông văn chương: Một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, về bản ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn, “Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Quần thể thiên nhiên: nước, sóng, gió và đá sông Đà “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh.
Từ trên nhìn xuống mặt sông: những cái hút nước “như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “những cái hút xoáy tít đáy”. Từ dưới lòng sông nhìn ngược lên: “thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào”.
Những âm thanh ghê rợn “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” khủng bố tinh thần con người, “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, sẵn sàng nhấn chìm bất kì con thuyền nào không kịp chèo nhanh hay tay lái không vững, hoặc bất kì bè gỗ nào vô ý khi đi qua chúng. “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Ám ảnh, đe doạ con người. Những âm thanh man rợ của sông Đà gợi liên tưởng đến một loài động vật hung dữ, đang cuồng loạn tìm lối thoát thân. Hùng vĩ, choáng ngợp bởi một chân trời đá với những bọt nước trắng xóa mờ đi trên mặt sóng“. Tới cái thác rồi, ngoặt khúc sông lượn, sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”.
Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, võ thuật, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng để làm nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một” của con người. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 7
Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu và vang danh bao nhà văn, nhà thơ tài năng. Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân – một cây bút tài hoa với những sáng tác nổi bật. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất ở mảng tùy bút. Tiêu biểu trong những sáng tác của ông phải kể đến là tùy bút Người lái đò Sông Đà. Con sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội gây ấn tượng sâu sắc với bạn đọc.
Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiềm trở, có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận quãng sông này. Không chỉ mặt nước mà cảnh vật cũng vô cùng hiểm trở, sẵn sàng lấy đi tính mạng của người khác.
“Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà… Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Sự nguy hiểm của sông Đà dài hàng cây số tít tắt cuồn cuộn, có thể đánh gục cả con thuyền và người lái đò. Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
Đoạn tà Mường Vát trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống. Nhiều biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo được tác giả sử dụng để gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.
Có thể thấy, vẻ hung bạo, dữ tợn này khiến cho người khác phải e sợ nhưng nó lại là một nét nổi bật làm cho người ta nhớ đến sông Đà hơn bất kì thứ gì hết. Nhiều năm tháng qua đi nhưng vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn của dòng sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng như vẻ đẹp của sông Đà nói chung vẫn còn nguyên vẹn và sống mãi trong lòng bạn đọc với một dấu ấn riêng biệt không gì sánh bằng.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 8
Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học. Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945. Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng những hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống, cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được. Nổi bật trong bài tùy bút chính là hình tượng con sông Đà lúc ở thượng nguồn.
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.
Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa chực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiêu giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.
Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để “hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo và vô cùng bướng bỉnh.
Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 9
Trong tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía Tây Bắc của Tổ quốc. Dưới ngòi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đẹp với những núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng vàng một màu lúa chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc…Nhưng tiêu biểu nhất, được nhà văn tập trung bút lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh con sông Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi nào đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; hẹp đến mức có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ cao và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ gần với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà… ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Ở đây, một phần câu vãn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bỗng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới đây thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý… ở khuỷnh sông dưới.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mang, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng, ở những nơi này, sông Đà được mô tả như có cả một bầy thuỷ quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục ở nơi đây để bày thạch trận trong lòng sông.
Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhỏ vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con người chinh phục. Đấy là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nghĩ tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ sĩ ngôn từ đích thực, đến Nguyễn Tuân, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã bước vào văn học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả Người lái đò sông Đà, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 10
Nguyễn Tuân đi nhiều, thăm thú cảnh vật khắp nơi, nhưng lần ấy đến thăm Tây Bắc, ông ưng con sông Đà lắm! Hình như ông tìm được ở sông Đà một cái gì đó giống ông: vừa bàng bạc, cao cường bí ẩn nhưng cũng vừa rất nhuần nhụy trữ tình. Thế là hành trình khám phá sông Đà chẳng khác gì hành trình khám phá những bí ẩn của bản thân. Ông nói thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ lắm nhưng cũng thơ mộng lắm! Tất cả dồn tụ lại hợp nên hình ảnh sông Đà. Nguyễn Tuân ham khám phá. Thế nên vào thời điểm năm 1960, còn gì thú vị hơn khi được đến với sông Đà. Con sông vừa nguyên sơ lại đầy tính cách (Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu).
Nguyễn Tuân gặp sông Đà như hai người tri kỉ gặp nhau. Và như trên đã nói, viết về sông Đà có một cái gì đó khiến ta liên tưởng Nguyễn Tuân đang viết về chính mình. Phải chăng vì thế mà con sông hiện lên trong những trang tùy bút của nhà văn Nguyễn cá tính vô cùng? Hung bạo là hung bạo nhất, còn thơ mộng thì cũng thơ mộng đến ngọn bến bờ.
Sông Đà là cái tên thượng nguồn của con sông (đoạn chảy đến Việt Nam). Đó là con sông tiền sử nhất, nguyên sơ nhất ở miền Bắc nước ta. Đoạn thượng nguồn con sông dữ dội và hung bạo lắm! Không chạy dọc cả con sông, Nguyễn Tuân chỉ dành hết bút lực mà miêu tả sông Đà ở thượng nguồn. Nơi ấy sông Đà hiện lên sục sôi, nghiệt ngã và đầy thử thách.
Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiềm trở. Ở khía cạnh này, con sông như một bờ hoang thời tiền sử. Chỗ ấy hai bên bờ sông hẹp lại ngồi trong khoang đò qua quãng ấy… chỉ lúc đúng Ngọ mới có mặt trời. Có chỗ, ‘con nai con hổ đã từng có lần vọt qua bờ bên kia. Hay đại loại ta cứ tưởng tượng như đang đi giữa một con phố hẹp ngóng vọng lên khung cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Con sông trở nên hoang vắng cổ xưa và có cái gi đó bí hiểm vô cùng.
Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm. Âm thanh của tiếng nước đổ nghe như tiếng người. Cũng oán trách, cũng kêu van rồi lại khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo. Nguyễn Tuân tả sóng mà nghe như tác giả đang tả người vậy. Hay dòng sông kia chính là nỗi niềm của dân tộc, là lời của cha ông vọng về từ phía quá khứ, vọng về từ không biết bao nhiêu trận kịch chiến đã có trên sông?
Cả đoạn văn hầu như chỉ thấy Nguyễn Tuân sử dụng thủ pháp đối lập của văn học lãng mạn để khơi gợi cho người đọc hết những hình dung về sự dữ dội của dòng sông. Lúc ấy dòng sông không khác gì dòng lửa, bức bối, khó chịu, bứt rứt vô cùng. Tiếng gầm thét của thác nước ngoài kia đang rống lên ầm ĩ như những ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữ rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa. Rồi những xoáy nước giống như những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có khi lại như hàng ngàn con đom đóm đang châm lửa vào đầu ngọn sóng. Dòng sông dữ dội phi thường thật nhưng nghe sao nó như đang gợi lên cái bất an của con người. Dòng sông cuộn mình dữ dội như cuộc sống, như lịch sử nước Việt ta chẳng mấy lúc bình yên. Sau cách mạng, cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Tuân thường gắn liền với cài nhìn con người, cái nhìn lịch sử và dân tộc. Tùy bút này là một cái nhìn như thế.
Nói cái dữ dội, nghiệt ngã của dòng thác sông Đà, ta không thể quên những bãi đá. Mà nói chính xác hơn, đó phải được coi là những thạch trận. Mỗi hòn có một tâm thế riêng, một nhiệm vụ, một tính cách như chính con người vậy. Đá cũng chia thành ba hàng mà chặn ở trên sông. Có hòn làm nhiệm vụ như mồi nhử các thuyền. Hòn khác lại là một boong ke. Rồi hòn làm nhiệm vụ tấn công bệ vệ oai phong lẫm liệt. Tất cả tạo thành một thế trận không chỉ để đe dọa nhà đò mà khiến cả chúng ta, mỗi khi đọc đến đây hẳn không ít thì nhiều đều nghĩ nó như một chiến trường cổ xưa thực sự. Vậy phải chăng những hòn đá với nhiều tâm thế kia chính là những người lính biên cương luôn nhấp nhổm lo lắng chẳng bao giờ yên được? Dòng sông càng miêu tả, càng giống thế giới con người. Càng giống như tiếng nói của cha ông đang vọng về từ quá khứ bốn ngàn năm đấu tranh dựng và giữ nước. Phải chăng đó chính là cái tạo nên phần hồn cho dòng thác sông Đà? Tạo cho con sông không chỉ là một thực thể của thiên nhiên mà lúc này nó giống như một chứng nhân lịch sử vậy.
Sông Đà dữ dội khiến nhà đò ngay cả những ai non tay lái, yếu thần kinh chỉ cần nghe thấy đã phát hoảng lên rồi. Ấy vậy mà đoạn sông nước hiền hòa, nó lại đẹp như một cố nhân.
Ngồi trên máy bay mà nhìn xuống con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói Mèo đốt nương xuân. Đúng là một khung cảnh hết sức mơ mộng, diệu huyền. Rồi sông Đà không giống như sông Gâm, hay sông Lô lúc nào cũng chỉ xanh xanh màu canh hến. Sông Đà đẹp bởi màu xanh ngọc bích vào mùa xuân. Sang thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về. Với tác giả có lúc con sông còn giống như một cố nhân. Trong một lần lạc đường, tác giả vô tình nhìn ngắm nó mà nhớ lại một tứ thơ Đường của Lý Bạch xưa. Đến đây dòng sông Đà khiến người ta quên hẳn đi cái dữ dội nghiệt ngã của mình. Dòng sông gần gũi như con người và xinh đẹp trẻ trung như thiếu nữ.
Còn nữa, nhìn cảnh bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông mà vui như nắng giòn tan sau một kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Có chỗ, đoạn sông lặng như tờ gợi một miền cổ tích xa xưa hay có lúc ngồi đò, ta bắt gặp hình ảnh một con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò… Đúng là nhìn cảnh ấy chẳng ai dám nghĩ dòng sông ở quãng trên lúc nào cũng sẵn sàng ăn chết bất cứ một cái thuyền nào sơ hở. Cảnh về đoạn sông này trữ tình thơ mộng và huyền diệu xiết bao.
Hình như Tùy bút Sông Đà đọc nhiều mà vẫn còn hấp dẫn lắm! Ai mới đọc e còn cảm thấy ngại ngùng nhưng đọc rồi lại thấy cuốn hút. Đọc để cảm nhận thế giới của dòng sông nhưng lần nào tôi cũng thấy nó vọng ra bao điều mới mẻ của thế giới con người. Tôi băn khoăn tự hỏi, phải chăng đó là điều tạo nên tính hấp dẫn đa chiều của hình ảnh dòng sông? Có thể nói khẳng định rằng, Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu quê hương đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 11
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết. “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sỹ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Có thể nói phải thật tinh tế và khéo léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông Đà như vậy.
Sông Đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông Đà được tác giả viết “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ với vài chi tiết phác họa con sông Đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất vừa vụt tắt điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.
Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuyết bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của những ai vô tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.
Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như đang đứng trước sông Đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Một cách so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn vượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn dồn dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách…”. Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền bất cứ lúc nào có thể. Con sông chính là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.
Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùa khói mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa và thật trữ tình, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu canh hến của sông Gâm sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Những từ ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng chừng chỉ có giận dỗi và hung dữ.
Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Thật là một vẻ đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.
Qua đôi mắt người lái đò, hay là đôi mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dòng cảm xúc thật lạ kì, thần tiên và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp không phải nơi nào cũng có được. Và sông Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng.
Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” lại ám ảnh người đọc cho đến sau này. Một vẻ đẹp hùng vĩ, hung dữ của thiên nhiên đan xen sự thơ mộng, nhẹ nhàng như chốn bồng lai. Đó chính là sự thành công của Nguyễn Tuân.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 12
Nguyễn Tuân là một nhà văn với lối viết truyện rất độc đáo và uyên bác, là một nhà văn rất tài hoa của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông, được lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân tới miền Tây Bắc của Tổ quốc, khi mà sông Đà chuẩn bị trở thành “dòng sông ánh sáng”. Hình tượng con sông Đà qua con mắt nhìn của nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp trữ tình mà còn mang tính cách đầy hung bạo, dữ dội vô cùng.
Sông Đà là dòng sông nằm ở phía Tây bắc, nơi mà mọi con sông đổ về phía Đông còn riêng sông Đà lại đổ ngược lên hướng Bắc:
“Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”
Nó chảy xuyên suốt những cánh rừng lớn, giữa những dãy núi cao vút, vậy nên, sông Đà mang trong mình sự hung bạo, dữ dội với những thác ghềnh, xoáy hút kinh người. Nó giống như một thực thể sống với những tính cách và tâm trạng riêng của mình.
Tính cách hung bạo của dòng Đà giang đầu tiên phải kể tới là nơi vách đá bờ sông dựng vách thành. Đây là nơi mà dòng chảy của Đà giang tách đôi dãy núi mở đường tiêng. Vậy nên, hai bên dòng sông là hai vách núi đã dựng đứng, đẹp hùng vĩ nhưng cũng hiểm trở vô cùng. Nhà văn đã so sánh vách đá chẹt dòng sông như cái một “yết hầu” làm cho chúng ta liên tưởng mà thấy được độ hẹp cũng như sự dữ dội hiểm trở của khúc sông Đà nơi ấy. Mặt sông hẹp đã khiến “đúng giờ ngọ mới có mặt trời”, tức là đúng giữa trưa, khi mặt trời đứng bóng mới có thể thấy được mặt trời ở nơi đây.
Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn dùng hình ảnh “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” để miêu tả độ hẹp đầy nguy hiểm của dòng Đà Giang. Tuy thế nhưng điều đó lại khiến cho Đà giang có một vẻ đẹp kì vĩ vô cùng. Nguyễn Tuân đã sử dụng một sự liên tưởng rất độc đáo để miêu tả về độ nguy hiểm của dòng sông Đà, đó là “ngồi trong khoang đò mà qua chỗ ấy” giống như “đứng trong một cái ngõ hẻm” mà ngóng vọng “lên một khung cửa sổ nào đó vừa tắt phụt đèn điện”. Sông Đà khi ấy vừa mang cái bóng tối thăm thẳm lại vừa thấy sâu hun hút, cao vời vợi, khiến con người không khỏi cảm thấy rợn ngợp “mùa hè mà cũng thấy lạnh”.
Thế nhưng, sông Đà đâu chỉ có một khúc hẹp nguy hiểm nhường ấy, sự hung bạo còn đến ở nơi mặt ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi mặt sông đột ngột nâng cao lên mặt nước khiến cho mục nước tại nơi đó cạn hơn so với những chỗ khác. Và con sông Đà thì có vô số ghềnh đá như vậy. Thế nên “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Một câu văn chứa đầy giá trị tạo hình và nghệ thuật miêu tả! Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh một sông Đà đẹp hùng vĩ mà cũng hoang vu, dữ dội, hung bạo vô cùng. Một khúc sông mà chỉ có ba thế lực “đá, sóng, gió” ngự trị, gầm ghè, so kè với nhau. Điệp từ “xô” trong câu văn cũng khắc hoạ một sự hung bạo, ầm ào của những sóng, những đá, những gió nơi mặt ghềnh này. Gió ở nơi đây cũng không còn là thế lực vô hình, bơi nó “cuồn cuộn từng luồng”, và còn “gùn ghè” đầy đe doạ nữa.
Trôi tiếp trên dòng sông Đà, người ta vẫn thấy được sự hung bạo trong tính cách của nó khi bắt gặp cái hút xoáy ở quãng Tà Mường. Đây là nơi mà người ta có thể chứng kiến được sự hung bạo đến khủng khiếp của một cái hút xoáy giống như “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Cái hút xoáy vừa to vừa sâu, thậm chí còn “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”. Sự nhân hoá tài hoa của Nguyễn Tuân khiến cho cái hút xoáy ở Tà Mường như một con thuỷ quái khổng lồ từ thời xa xưa. Và thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn tô đậm tính cách hung bạo của Đà giang của nghệ thuật cường điệu. Những bè gỗ rừng trôi trên mặt sông “nghênh ngang” “đi qua” cái hút xoáy đó liền bị “lôi tuột xuống” với một sức mạnh to lớn và khủng khiếp vô cùng. Con thuyền thì nhỏ bé, chỉ biết men qua, thế nhưng cũng ngay lập tức bị “trồng cây chuối ngược”, biến mất dưới lòng sông, bị đánh cho tả tơi, khi nổi lên thì chỉ thấy tan tác. Cái hút xoáy hung bạo là thế nhưng lúc xuân về lại mang một vẻ đẹp vô ngần. Nó khiến cho người nghệ sĩ quay phim không thể chối từ, bất chấp cả sự nguy hiểm đến tính mạng.
Thế nhưng nơi phô bày tất cả sự hung bạo của sông Đà phải nói tới thác đá của sông Đà. Đó là nơi phô diễn một vẻ đẹp kì vĩ mà cũng không kém phần dữ dội.Sông Đà với 73 con thác lớn nhỏ nhưng Nguyễn Tuân chỉ chọn một dòng thác để miêu tả. Bằng kiến thức uyên bác, Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh của thác đá sông Đà đầy ấn tượng.
Nguyễn Tuân đã miêu tả hình ảnh của thác đá từ xa tới gần, từ âm thanh tới hình ảnh “còn xa lắm mới đến cái thác dưới” nhưng âm thành tiếng nước va vào đã đã khiến người ta phải rợn người. Nó “réo gần mãi lại réo to mãi lên” như tiếng người trong cơn giận dữ”giọng gằn và chế nhạo”. Tới gần thì âm thanh đó biến thành tiếng “rống”, tiếng gầm thét của hàng ngàn con trâu mộng đang trong cơn tuyệt vọng giữa rừng lửa và đàn trâu “da cháy bùng bùng”. Tiếng trâu đau đớn rống lên trong tuyệt vọng, tiếng lửa cháy ào ào với sức mạnh man dại nhất chính là thứ âm thanh mà thác đá của sông Đà đang vang lên. Có thể thấy, sự dữ dội và hung bạo của dòng sông Đà quả thực vô cùng khủng khiếp.
Thác đá sông Đà hiện lên trước mắt du khách là một vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ với “sóng bọt đã trắng xóa cả chân trời đá”. Cả một khúc sông mênh mông , rộng lớn mà chỉ có hai thế lực ngự trị là sóng thác và đá thác. Tất cả đang gầm thét, tung bọt trắng xóa đất trời. Với con mắt của một nhà quân sự, Nguyễn Tuân như thấy sông Đà đang “dàn bày thạch trận trên sông”. Mỗi viên đá trên sông trở thành một lính đá, tướng đá “mặt máy ngỗ ngược”, “bệ vệ oai phong lẫm liệt”. Không chỉ vậy, đá trên sông Đà dường như nắm được cả binh pháp, chúng dựng lên trận địa đá “làm ke chìm, pháo đài nổi” vô cùng nguy hiểm với la liệt những cửa tử cửa sinh. Đá trên sông Đà với tâm thế của “thứ kẻ thù số một của con người” nên chúng đã nham hiểm mà bố trí những cửa sinh cửa tử lắt léo. Vòng vây thứ nhất với “bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm ở tả ngạn sông”, vòng hai thì cửa sinh lại lệch sang bờ “hữu ngạn”. Vòng thứ ba thì hiểm nguy hơn, cửa sinh năm ở “giữa những luồng nước chết”. Chúng còn đánh lừa con thuyền bằng cách tạo ra một của đá “trông như là sơ hở” để con thuyền đi vào rồi mới đánh úp nó.
Bằng con mắt của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên một thác đá sông Đà sống động như những sinh vật có tâm địa nham hiểm, luôn rình rập con người. Tính cách của chúng hung bạo và dữ dội nhất cả dòng sông. Dòng thác sông Đà thì như một con quái vật khổng lồ mà người lái đò buộc phải vật lộn với sự hung bạo của nó. Những con sóng như ” quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền” hay “bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò” để đánh “hồi hùng, đòn tỉa, đòn âm”. Nguyễn Tuân đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá và dày đặc những thuật ngữ võ thuật kết hợp với nghệ thuật miêu tả, kể chuyện đặc sắc đã đem đến cho người đọc cảm nhận về thế giới thiên nhiên đầy hung bạo của con sông Đà.
Con sông Đà là “khởi nguồn của ánh sáng”, mang những vẻ đẹp dịu dàng, êm ả, thế nhưng, cũng có lúc nó trở mình với tính cách hung bạo và dữ dội khủng khiếp vô cùng. Qua từng dòng chữ của mình, Nguyễn Tuân đã tái hiện một sông Đà với tính cách hung bạo thế nhưng lại vô cùng kì vĩ, một vẻ đẹp mà hiếm dòng sông nào ở Việt Nam có thể sánh bằng.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 13
Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác, thấm đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng Giang” của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những người lao động bình thường mà ông luôn gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, tập tuỳ bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi bật một thiên nhiên đẹp đẽ
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động: thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của con Sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim là lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh Sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành chỉ khi nào đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách, hẹp đến mức quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lôi liên tưởng bất ngờ – thiên nhiên hoang sơ: với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác mà còn kết hợp sử dụng cả giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ, táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trờ, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phôi hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng một ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, em cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Dà nào tóm được qua đấy. Ở đây, một phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bằng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống xông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ặc ặc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”. Ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý… ở khuỳnh sông dưới.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mảng, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng, ở những nơi này, Sông Đà được mô tả như có cả một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo, khi thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lứa, đang phá luống rừng lứa, rừng lứa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, tăng thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục nơi đây để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả để dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng.
Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của Sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đây chính là tiềm năng to lớn của Đà giang được con người chinh phục. Đây là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nói tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của Sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 14
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã là đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ông không thích những gì tầm thường. Con sông Đà đáp ứng được hai xúc cảm của Nguyễn Tuân vì con sông Đà mang trong mình hai tính cách trái ngược nhưng thống nhất với nhau. Ở phần thượng lưu, con sông vô cùng hung bạo, dữ dội.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
(Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sông Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ lưu, lòng sông như được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm, hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà lại hiện lên vô cùng lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây Bắc.
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững, đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua quãng sông hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như ta đang đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn.
Cũng như đá bờ sông, thì“quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng ấy”. Bằng kết cấu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không có từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ thuật nhân hóa, con sông như một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy mới thấy hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa danh với đặc điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Loóng. Đọc tên địa danh mà phải nén hơi, uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá, với ghềnh thác của sông Đà.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng kêu như thế nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như cái giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những cánh quạ đàn; rồi âm thanh: những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, cuối cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc.
Cho cảm giác thật đến từng mi-li-mét nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp. Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà và trên trang văn của Nguyễn.
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy, nó va đập mạnh vào những cây tre, cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đò. Nó biết: oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế – kẻ thù số một của con người.
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Trận chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ dàng.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.
Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.
Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người Lái Đò Sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn cảnh. Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.”
Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả.
Ở đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300 động từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của đá, của sóng và của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Đó là đoạn Tà Mường Vát ở phía dưới sông La: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn nhìn thấy sự hung bạo ở mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn còn cái ngấn nước ở cổng châu Quỳnh Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác hươu, xác nai bằng gỗ Chò Vảy, Chò Hoa trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Nguyễn Tuân ví lúc này dòng sông Đà chẳng khác nào “kẻ thù số một” của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, tâm địa độc ác đến tột cùng.
Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi qua.
Nếu “sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người dân Huế thì con sông Đà lại là biểu tượng, lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân –một phong cách rất “ngông”.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 15
“Người lái đò sông Đà” – một thiên tùy bút của Nguyễn Tuân viết về sông Đà và người lao động bình dị mang trong mình “chất vàng mười”, ta nhận ra Nguyễn Tuân không chỉ muốn xê dịch để khuây khỏa cảm giác “vắng quê hương” mà đã có khao khát được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. Nguyễn Tuân đã bằng tình yêu và sự tài hoa của mình không chỉ phát hiện ra tính chất hung bạo của dòng sông khi ở thượng nguồn mà còn làm nổi bật tài trí, sức mạnh của người lái đò.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân nói nhiều đến sự “hung bạo” ở thượng nguồn con sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ. Tuy nhiên ông vẫn làm cho chúng ta nhận thấy một điều rằng: bên trong sự hung bạo ấy là vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Sông Đà dữ dội và hung bạo trước hết ở cảnh hai bên bờ có những “vách đá dựng đứng” làm cho lòng sông hẹp hẳn đi, khoảng cách giữa hai bờ bị thu nhỏ lại và lòng sông chỗ ấy phải lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời, hẳn là một nơi thiếu ánh sáng. Đi đò qua quãng ấy đang là mùa hè cũng cảm thấy lạnh cho thấy nơi ấy thiếu cả hơi ấm, lòng sông chỗ ấy như chảy trong hang đá. Sông Đà hung bạo còn ở cảnh mặt ghềnh Hát Loóng “Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Mặt ghềnh được tạo bởi đá ngầm suốt chiều dài hàng cây số, nước – đá – sóng – gió cứ xô lẫn nhau. Nhà văn sử dụng câu văn có cấu trúc trùng điệp để mô tả cảnh mặt ghềnh với dòng nước dữ tợn xô vào đá ầm ào suốt đêm ngày. Hình ảnh “cái hút nước” đã tô đậm tính hung bạo của con sông, bằng cách miêu tả sự nguy hiểm của hút nước sông Đà ở cả bề mặt và bề sâu. Bề mặt hút nước sông Đà nhà văn đã dùng những hình ảnh so sánh, ví “cái hút nước” như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu và “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Với những hình ảnh so sánh đó ta hình dung bề mặt hút nước rất rộng, lưu lượng nước và sức hút là rất lớn, bất cứ con thuyền nào vô ý nghênh ngang qua đó không biết lướt qua cho nhanh thì sẽ bị cái hút nước lôi tuột xuống và làm cho tan xác.
Ở bề sâu, tác giả sử dụng kiến thức ở lĩnh vực điện ảnh, nhà văn mượn cảm giác của một nhà quay phim táo tợn vì muốn truyền cảm giác mạnh cho người xem nên đã dũng cảm cầm máy quay ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền, cả người, cả máy xuống đáy cái hút nước sông Đà, rồi từ đáy cái hút nước nhà quay phim mới lia ngược cái ống kính lên để thu hình. Lúc này chiếc thuyền bị hút nước làm cho xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, nhà quay phim đã truyền cảm giác mạnh ấy cho người xem khiến người xem ngỡ rằng chính bản thân mình đang ở đáy hút nước sông Đà, đang bị cuốn vào vòng xoáy tít của dòng nước mà hoảng sợ tới mức chỉ còn biết giữ chặt lấy mép ghế mà phó mặc cho số phận mình cho dòng nước xoáy. Để tô đậm biểu hiện hung bạo của sông Đà ở tiếng thác nước, nhà văn đã dùng cả cách nói nhân hóa và cách nói so sánh. Câu văn nhân hóa “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Ở đây nhà văn đã gắn cho sông Đà những trạng thái bất thường, “oán trách” là sự hờn giận, trách cứ đầy ai oán, “van xin” là thái độ năn nỉ, cầu xin một cách tha thiết như kẻ có lỗi, “khiêu khích” và “chế nhạo” lại là sự thách thức đầy nhạo báng. Những trạng thái rất thất thường hay chính là tô đậm những diễn biến khó lường của thiên nhiên bí ẩn. Nhà văn so sánh tiếng thác như “tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nhà văn muốn mượn tính chất của một mớ âm thanh hỗn độn để miêu tả độ mạnh của tiếng thác nước sông Đà, âm thanh ấy như tiếng gầm thét của tự nhiên hoang dại. Như vậy qua câu văn nhân hóa và câu văn so sánh, nhà văn muốn tô đậm hình ảnh một con sông không chỉ có tâm trạng mà còn có cả tính cách dữ dằn, ở đó tiềm ẩn những diễn biến khó lường của thiên nhiên hoang dã. Tiêu biểu nhất cho tính hung bạo của sông đà chính là dàn thạch trận trên sông. Ở đây nhà văn kết hợp giữa những câu văn nhân hóa với những kiến thức quân sự, thể thao để làm rõ âm mưu, tâm địa của con sông khi nó chủ động bày binh bố trận để tiêu diệt con người. Nguyễn Tuân cho rằng, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, “mai phục” là chủ động ẩn nấp để đón đánh đối phương và mỗi khi thoáng nhìn thấy đối thủ, đá trên sông Đà đã nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, tô đậm tính hiếu chiến của sông Đà. Ngoài ra giàn thạch trận trên sông, mỗi dàn lại có nhiệm vụ khác nhau: hàng tiền vệ có nhiệm vụ canh cửa giả là sơ hở để dụ dỗ đối phương, hàng trung vệ có nhiệm vụ đánh khuýp quật vu hồi – nghĩa là đánh bất thần trở lại khiến đối phương không kịp trở tay, tuyến trong cùng sông Đà giao nhiệm vụ cho boong – ke chìm và pháo đài đá nổ phải tấn công tới tấp đối phương và tiêu diệt triệt để. Ta thấy sông Đà chủ động bày binh bố trận rất kĩ càng, có âm mưu tiêu diệt đối phương bằng một chiến lược, chiến thuật cụ thể. Con sông Đà không chỉ có tính cách, tâm trạng mà còn có âm mưu và tâm địa xấu xa, nó trở thành một loài thủy quái và là kẻ thù số một của con người.
Có thể nói, hình tượng sông Đà nói chung và tính hung bạo của con sông ở thượng nguồn nói riêng đã bộc lộ vẻ đẹp, “cá tính” của dòng sông Đà và sự tài hoa, uyên bác, sử dụng nhiều kiến thức của nhà văn Nguyễn Tuân. Qua hình tượng con sông Đà, ta cảm nhận được niềm tin yêu, gắn bó với cuộc sống của tác giả cùng tình yêu quê hương đất nước bằng việc ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc.
*****
Trên đây là bài mẫu Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ lớp 12 (9 Mẫu)
- Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” lớp 12 (10 Mẫu)
- Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? lớp 12 (12 Mẫu)
- Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên lớp 12 (7 Mẫu)
- Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận, theo chủ đề: một tác phẩm văn học mới ra đời và đáng được nhiều người quan tâm bàn luận lớp 12
- Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác nhau lớp 12 (3 Mẫu)