Mời các em theo dõi nội dung bài học về Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Lượm – Thông tin chi tiết về bài thơ Lượm do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt và hoàn thành tốt bài tập của mình.
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Lượm
Lượm được nhà thơ Tố Hữu viết năm 1949 – trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và in trong tập Việt Bắc.
Vào tháng 12 năm 1946 đã nổ ra trận chiến giữa quân ta và giặc Pháp tại Huế. Đến tháng 2 năm 1947, mặt trận tại Huế bị tan vỡ, quân ta di chuyển lên chiến khu và đổi sang lối đánh du kích. Lúc đó, nhà thơ Tố Hữu từ Hà Nội trở về Huế để phục vụ kháng chiến. Tình cờ trên đường đi, nhà thơ được gặp Lượm – một cậu bé liên lạc nhỏ tuổi, nhanh nhẹn, thông minh, trong sáng. Ít lâu sau, nhà thơ nghe tin Lượm đã anh dũng hi sinh trên đường đi đưa thư. Vô cùng xúc động trước sự hi sinh của em, nhà thơ Tố Hữu đã viết nên bài thơ Lượm.
Bạn đang xem: Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Lượm – Thông tin chi tiết về bài thơ Lượm
Bài thơ Lượm
Ngày Huế đổ máu,
Chú Hà Nội về,
Tình cờ chú cháu,
Gặp nhau Hàng Bè.
Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh,
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…
– “Cháu đi liên lạc,
Vui lắm chú à.
Ở đồn Mang Cá,
Thích hơn ở nhà!”
Cháu cười híp mí,
Má đỏ bồ quân:
– “Thôi, chào đồng chí!”
Cháu đi xa dần…
Cháu đi đường cháu,
Chú lên đường ra,
Ðến nay tháng sáu,
Chợt nghe tin nhà.
Ra thế,
Lượm ơi!
Một hôm nào đó,
Như bao hôm nào,
Chú đồng chí nhỏ,
Bỏ thư vào bao,
Vụt qua mặt trận,
Ðạn bay vèo vèo,
Thư đề “Thượng khẩn”,
Sợ chi hiểm nghèo!
Ðường quê vắng vẻ,
Lúa trổ đòng đòng,
Ca-lô chú bé,
Nhấp nhô trên đồng…
Bỗng lòe chớp đỏ,
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ,
Một dòng máu tươi!
Cháu nằm trên lúa,
Tay nắm chặt bông,
Lúa thơm mùi sữa,
Hồn bay giữa đồng.
Lượm ơi, còn không?
Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…
Các thông tin chi tiết về bài thơ Lượm
- Thể loại: Thơ 4 chữ (ngắt nhịp 2/2)
- Phương thức biểu đạt: PTBĐ tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm
- Ngôi kể: Ngôi thứ 3
- Bố cục bài thơ
– Gồm 3 phần:
STT | Giới hạn | Nội dung |
Phần 1 | Từ đầu → Cháu đi xa dần | Cuộc gặp gỡ tình cờ của hai chú cháu |
Phần 2 | “Cháu đi đường cháu” → “Hồn bay giữa đồng” | Sự hi sinh anh dũng của Lượm |
Phần 3 | Phần còn lại | Hình ảnh Lượm vẫn còn sống mãi |
- Giá trị nội dung bài thơ Lượm
Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm. Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người.
- Giá trị nghệ thuật bài thơ Lượm
– Thể thơ bốn chữ
– Sử dụng từ láy có giá trị gợi hình và giàu âm điệu
– Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
– Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt: miêu tả, tự sự, biểu cảm.
Phân tích bài thơ Lượm
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu
– Giới thiệu về bài thơ “Lượm” (hoàn cảnh sáng tác, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)
2. Thân bài
a. Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai chú cháu
– Hoàn cảnh gặp gỡ: ngày Huế đổ máu ở Hàng Bè – sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ (Huế ở đây chính là chỉ những con người gắn bó với mảnh đất Huế như 1 phần máu thịt, người dân Huế chính là 1 phần của Huế, vì vậy khi chiến tranh nổ ra, những người con xứ Huế đã ngã xuống ấy cũng chính là 1 phần cơ thể của Huế đang đổ máu)
– Hình ảnh Lượm trong lần gặp gỡ đầu tiên:
- Hình dáng: bé loắt choắt, má đỏ bồ quân
- Trang phục: cái xắc xinh xinh, ca lô đội lệch
- Cử chỉ: thoăn thoắt, nghênh nghênh, huýt sáo vang, nhảy trên đường vàng… → nhanh nhẹn, hồn nhiên, đáng yêu, yêu đời
- Lời nói: tự nhiên, chân thật (Cháu đi liên lạc…Thích hơn ở nhà)
- Xưng hô: cháu – chú – đồng chí → nét tinh nghịch và nghiêm túc trong công việc
→ Đoạn thơ sử dụng nhiều từ láy (loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh) cùng hình ảnh so sánh (như con chim chích) đã giúp khắc họa hình ảnh một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, nhanh nhẹn và hồn nhiên, yêu đời, yêu công việc
b. Sự hy sinh anh dũng của Lượm trên đường làm nhiệm vụ
– Hoàn cảnh:
“Đạn bay vèo vèo”
→ Tình thế vô cùng khó khăn, nguy hiểm
– Hình ảnh của Lượm:
“Vụt qua mặt trận
…
Sợ chi hiểm nghèo”
→ Hình ảnh cậu bé dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái làm nhiệm vụ, không sợ khó khăn, nguy hiểm.
– Tư thế của Lượm lúc hi sinh:
“Một dòng máu tươi
…
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
→ Dù hồn đã lìa khỏi xác nhưng vẫn hòa quyện vào đồng lúa quê hương – hình ảnh miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn
→ Qua đó thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết của cậu bé – cậu đã hi sinh tính mạng mình để góp phần sức lực vào sự nghiệp bảo vệ độc lập đất nước.
→ Hình ảnh “lúa thơm mùi sữa” – chính chỉ đến cậu bé Lượm – cũng còn rất nhỏ, chưa kịp trưởng thành, chưa kịp lớn lên đã phải ra đi vĩnh viễn.
→ Từ đó, thể hiện lòng xót thương vô bờ của tác giả dành cho em:
“Ra thế
Lượm ơi…
…
Lượm ơi, còn không”
→ Câu hỏi tu từ đã thể hiện sự ngỡ ngàng, giật mình của nhà thơ – dường như ông không thể tin được là em nay đã ra đi, quá xót xa, đau đớn, thương tiếc đến mức không nói thành lời.
→ Nhà thơ luôn sử dụng những hình ảnh nói giảm, nói tránh để không nói trực tiếp ra một sự thật đau lòng là Lượm đã hi sinh, nhằm giảm bớt sự đau xót của mình và mọi người.
c. Hình ảnh Lượm sống mãi cùng đất nước
– Hai khổ thơ miêu tả hình ảnh chú bé đưa thư nhí nhảnh, tinh nghịch ở đầu bài thơ được lặp lại một lần nữa.
→ Việc lặp lại hình ảnh như vậy thể hiện sự tồn tại mãi mãi của Lượm trong lòng mọi người, em sẽ còn mãi với đất nước, với những người yêu quý em.
3. Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
- Nội dung: Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm. Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người
- Nghệ thuật: thể thơ bốn chữ, kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, sử dụng từ láy,…
– Cảm nhận của em về Lượm: cảm phục, quý mến,…
Tóm tắt bài thơ Lượm
Trong không khí tang thương và chết chóc của những ngày đổ máu tại Huế, một người chú tình cờ gặp một cháu bé đáng yêu và lạc quan. Hình ảnh của chú bé này, cùng những cử chỉ và lời nói của anh chú tạo nên một bức tranh sâu sắc về một đứa trẻ trong những ngày đầu kháng chiến chống lại thực dân Pháp. Chú bé được gọi là Lượm, và anh chú nhớ Lượm là một đứa trẻ vô cùng thân thiện và đáng yêu. Với đôi mắt tinh nghịch và nụ cười lạc quan, Lượm là một nguồn động viên và niềm hy vọng trong những thời điểm khó khăn. Dù trải qua những thăng trầm của chiến tranh, chú bé này vẫn giữ vững niềm tin và sự lạc quan trong tâm hồn nhỏ bé của mình. Tuy nhiên, sau đó, anh chú của Lượm nhận được tin tức không may. Lượm đã hy sinh trong một trong những trận đánh ác liệt. Chú bé đã không còn ở bên họ nữa, và hình ảnh của cậu ấy ngày càng hiện hữu trong ký ức của anh chú.
Nhưng điều đặc biệt về Lượm là tính kiên nhẫn và tinh thần hy sinh của cậu bé. Trong những ngày đầu kháng chiến, công việc hàng ngày của Lượm là chuyển những bức thư quan trọng trên chiến tuyến nguy hiểm. Dù có nguy cơ mất mạng, Lượm luôn thực hiện nhiệm vụ mình với sự bình tĩnh và dũng cảm. Trận cuối cùng của Lượm xảy ra trên cánh đồng lúa thơm mùi sữa, nơi mà bàn tay bé nhỏ của cậu vẫn nắm chặt những bông lúa. Hình ảnh này là một biểu tượng cho sự hy sinh của những người lính nhỏ tuổi trong cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lược và áp bức. Như vậy, câu chuyện về Lượm và anh chú của cậu là một câu chuyện về tình thân, tình yêu quê hương, và lòng hy sinh không giới hạn của những người lính nhỏ tuổi trong cuộc kháng chiến chống lại địch thù. Bằng cách tạo ra một hình ảnh sống động của chú bé và sự đoàn kết trong cuộc chiến đấu, câu chuyện này thể hiện tinh thần và niềm hy vọng của con người trong những thời kỳ khó khăn nhất.
Đôi nét về tác giả Tố Hữu
– Tên khai sinh: Nguyễn Kim Thành
– Quê quán: làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế
– Xuất thân:
- Cha là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ.
- Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con.
→ Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ cho Tố Hữu
– Bút danh: theo lời Tố Hữu tự giải thích thì năm 1938 ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh “Tố Hữu” (Tố Hữu có nghĩa là sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người). Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là “người bạn trong trắng”, khác với tên do cụ đồ đặt ở chữ “hữu”.
– Cuộc đời:
- Ông tham gia hoạt động cách mạng vô cùng mạnh mẽ (từ những năm 1938)
- Sau cách mạng, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước
- Sau năm 1986, ông bị mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ nên bị miễn nhiệm các chức vụ về quản lý, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các chức danh lãnh đạo về văn học nghệ thuật
→ Là nhà cách mạng, nhà thơ lớn của Việt Nam
– Sự nghiệp sáng tác:
- Sáng tác từ rất sớm (từ những năm tháng còn thiếu niên)
- Chủ yếu sáng tác với thể loại thơ và cũng rất thành công ở mảng này
- Đánh giá thơ Tố Hữu: thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh
- Tác phẩm tiêu biểu: Từ ấy, Việt Bắc, Hoan hô chiến sĩ điện biên, Khi con tu hú, Ta với ta, Bà má Hậu Giang…
– Đường cách mạng, đường thơ
Tố Hữu là một trong những lá cờ đấu của nền văn nghệ Cách mạng Việt Nam.
Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật chặng đường cách mạng đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ.
Các chặng đường thơ:
- Từ ấy (1937 – 1946): chặng đường đầu tiên của thơ Tố Hữu, đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo ngọn cờ cách mạng và gồm ba phần Máu lửa – Xiềng xích – Giải phóng.
- Việt Bắc (1947 – 1954): là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến.
- Gió lộng (1955 – 1961): dạt dào những nguồn cảm hứng lớn lao.
- Ra trận (1962 – 1971); Máu và hoa (1972 – 1977): am vang khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui chiến thắng.
- Một tiếng đờn (1978 -1992), Ta với ta (1992 – 1999): hai tập thơ đánh dấu chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu, dòng chảy sôi động của cuộc sống thường nhật với niềm vui, nỗi buồn, được mất, sướng khổ…
– Giải thưởng: ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật năm 1996.
***
Trên đây là nội dung bài học Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Lượm – Thông tin chi tiết về bài thơ Lượm do thầy cô trường THCS Bình Chánh biên soạn và tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em hiểu rõ nội dung bài học và từ đó hoàn thành tốt bài tập của mình. Đồng thời luôn đạt điểm cao trong các bài thi bài kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tập thật tốt.
Đăng bởi THCS Bình Chánh trong chuyên mục Học tập
- Tưởng tượng em ở trong phòng khách của một tàu ngầm và tàu đang lặn xuống đáy biển, dưới mặt nước năm mươi mét. Hãy ghi lại những hình dung của em về cảnh vật trong không gian đó (5 mẫu)
- Có ý kiến cho rằng việc nuôi chó mèo trong nhà không những không có tác dụng gì mà còn rất mất vệ sinh. Em có tán thành suy nghĩ này không? Hãy nêu ý kiến của em và nêu ra những lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ ý kiến ấy (10 mẫu)
- Giới thiệu một nhân vật có tấm lòng nhân hậu trong các văn bản truyện đã học ở sách Ngữ văn 6, tập 2 và nêu lí do em thích nhân vật này (8 mẫu)
- Vì sao cuối học kì 1, lớp em được tuyên dương và khen thưởng là lớp đứng đầu khối 6?
- Viết một đoạn văn ngắn khoảng 4-5 dòng nói về cảm xúc của em khi xem một buổi biểu diễn văn nghệ hoặc một cuộc thi thể thao (24 mẫu)
- Viết đoạn văn (khoảng 4-6 dòng) tóm tắt nội dung truyện Nắng trưa bồi hồi lớp 6 (20 mẫu)